Saturday, June 3, 2017

VÕ PHƯƠC HIẾU-HIẾU ĐỆ * NGÀN SAO LẤP LÁNH



                   Võ Phước Hiếu
         (Viết chung với  Hiếu Đệ)




 NGÀN SAO LẤP LÁNH

               (Tập truyện)








                     Hương Cau, 2008.



(Mọi trích dẫn, dịch thuật và xử dụng trong sanh hoạt cộng đồng
đều được tự do với điều kiện xin ghi rõ xuất xứ).

Thể theo yêu cầu của một số lớn độc giả trọng tuổi, thị giác suy kém, chúng tôi xin được trình bày phóng thoáng với kiểu chữ lớn hơn thường lệ để dễ đọc. Dù số trang có tăng lên nhưng giá sách vẫn không thay đổi. Hương Cau kính tường.

Bìa của Họa sĩ Nguyễn Thảo
 (Florida – Hoa Kỳ)
Trình bày: Anh Vũ.

       Mục Lục

                        **
Hiếu Đệ:
         
  1. Vườn Nhãn Bác Sĩ Nguyễn Hữu Trí
  2. Họa Sĩ Điêu Khắc Gia Phạm Thế Trung
  3. Tiếng Súng Đêm Giao Thừa
  4. Câu Chuyện Bé Ký & Hồ Thành Đức
  5. Hà Mộng Hải Người Họa Sĩ Điên
  6. Hoa Thược Dược
  7. Cô Hồn Tháng Bảy

Võ Phước Hiếu:

  1. Nỗi Buồn Hoài Niệm
  2. Miếng Thương Miếng Nhớ


                                        **

                                                                 Vườn Nhãn
                                                   Bác Sĩ Nguyễn Hữu Trí
            Tôi quen thân với bác sĩ Nguyễn Hữu Trí từ ngày chúng tôi còn mặc đồ lính. Năm 1962 tôi được bổ nhiệm về Phòng Báo Chí Cục Tâm Lý Chiến chăm sóc mấy tờ báo Quân Đội cùng với các nhà văn Mặc Thu và Thanh Nam. Lúc đó, bác sĩ Trí trông coi Phòng khám bệnh của Tiểu Đoàn 50 Cục Tâm Lý Chiến và Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung ương. Thời gian này bác sĩ Trí vừa mới ra trường. Bác còn rất trẻ, khoản chừng trên dưới ba mươi tuổi. Quân đội Pháp đã rút về nước. Bác sĩ người Pháp hầu như cũng không còn làm việc ở Việt Nam. Tình trạng khan hiếm bác sĩ trong nước rất gay go.
Tính từ thời người Pháp thành lập Viện Đại Học đến nay, các bác sĩ chuyên khoa trong nước không quá ba trăm người để phục vụ cho đồng bào toàn quốc. Cũng như anh em trường Mỹ Thuật chúng tôi vừa tốt nghiệp ở Sài Gònvào  năm 1956, số họa sĩ chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Bác Trí thường nói với tôi:
- Hiếu Đệ à! Chúng ta còn phải làm việc nhiều hơn nữa. Không lẽ tụi mình phải mặc đồ lính và bị kẹt mãi cả đời trong trại như thế này sao?                                           
Tình hình trong nước mỗi lúc một khó khăn. Cộng sản miền Bắc đánh phá khắp nơi. Phật giáo xuống đường chống lại vụ đàn áp tôn giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm. Qua đến năm sau, quân Mỹ nhảy vào Miền Nam. Chánh phủ Diệm bị quân đội lật đổ. Anh em Nhu Diệm bị giết hại. Bọn binh tôm tướng cá bên quân đội nhảy lên nắm chính quyền. Chúng tôi nhân cơ hội này chạy về phía dân sự, cởi bỏ đồ lính trả lại cho quân đội. Bác sĩ Nguyễn Hữu Trí đắc cử Hội Đồng tỉnh Gia Định. Tôi qua Phủ Thống Nhất nơi đây gặp đám bạn cũ là luật sư Nguyễn Hải Tấn và Phan Tùng Mai. Tôi xin  làm chân Công Cán Ủy Viên Văn Hóa Chính Trị. Rồi từ đó, tôi mới xin về trường Mỹ Thuật trở lại.
Theo chỗ tôi biết thì bác sĩ Nguyễn Hữu Trí sinh ở bên Tàu. Bác về nước lúc lên năm tuổi và lớn lên ở làng Bát Tràng miền Bắc. Ông thân sinh của bác sĩ Trí mang họ Mạc. Lẽ ra bác sĩ Trí là Mạc Hữu Trí nhưng lớn lên gia đình đổi là Nguyẽn Hữu Trí để lên Hà Nội thi vào trường Đại Học. Nguyên trọn cuộc đời bác sống trong hoàn cảnh chiến tranh của đất nước nên bác hằng mơ ước làm sao xây dựng lại thành một nước Việt Nam thanh bình, thoát khỏi sự chi phối của ngoại bang. Bác thực sự là một người yêu nước, yêu dân tộc.                            
Vì ta không lý tưởng
Để lòng ta vấn vương
Quanh quẩn bên yêu đương
Cho thân ta phờ phạc
Cho đời ta tan tác
Hãy tìm ra lối thoát
Cho đời ta sáng hơn
Hãy yêu lấy giang sơn
Cho tình ta rộng lớn
Không ngại nắng hay sương
Quên mình ta sung sướng
Nhân loại là tình thương.
(1958)
Bài thơ này bác làm từ ngày mới ra trường đại học năm 1958. Những năm còn ngồi ghế nhà trường, bác rất say mê chính trị. Bác là người đầu tiên thành lập Tổng Hội Chuyên Việt Nam đánh  thức tuồi trẻ Việt Nam thời đó như tinh thần bài thơ được phổ nhạc thành bài hát kêu gọi tuổi trẻ Việt Nam ở các trường đại học trong nước:
Chuyên viên Việt Nam vùng lên!
Bồi đắp non sông huy hoàng
Không phân giai cấp, không gieo hận thù
Anh em quyết chuyên một nghề
Tự mình ta sống chẳng nhờ tay ai
Dân ta tự lập
Anh em ơi! Hãy đứng lên
Muôn người như một, hãy sát cánh bên nhau
Ta cười tin tưởng ngày mai huy hoàng
Hiên ngang hãy sống, hãy làm
Ngửng mặt lên. Người dân Việt
Hiên ngang quyết tâm xây dựng
Một thế giới vui tươi hòa bình!
Mang thiên hạ ra khỏi lầm than điêu tàn
Dám nói dám làm
Đã nói phải làm
Anh em ơi! Hãy đứng lên!
Anh em ơi! Hãy đứng lên!
Hiên ngang như người
Ngày mai cách mạng lên rổi
Ngày mai chuyển hướng nơi nơi vui mừng
Không ngừng tiến lên, không ngừng tiến lên
Anh em ơi! Anh em ơi!
Không ngừng tiến lên!
(1995) 
Những năm làm Chủ tịch Hội Đồng Tỉnh Gia Định, bác sĩ Trí đã xây dựng được các lớp Bách Khoa Bình Dân dạy các ngành khoa học kỹ thuật, các lớp hướng nghiệp, mở các quán cơm xã hội cho người nghèo. Bác Trí mơ ước làm sao mỗi người dân Việt Nam có một nghề chuyên môn trong tay để đất nước mình thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bác là con người khoa học luôn luôn hướng về cái mới, cải thiện lấy nhân nghĩa để cất cánh bay cao và tiến xa hơn.
Những ngày mang gia đình di tản sang quê hương mới, đặt chân đến Michigan giữa những mùa tuyết lạnh rất khó khăn. Bác đã tranh đấu để đứng vững và vươn lên để xây dựng cho con cái nên người. Phải nói là buổi đầu có sự tiếp tay của người vợ thật rất lớn. Một bà mẹ Việt Nam đã tạo nên một thế hệ bác sĩ thứ hai nối tiếp truyền thống gia đình và sống theo nề nếp của người cha để đi lên bằng chính tài năng thật sự của mình nhằm xây dựng sự giàu mạnh cho gia đình và cho đất nước sau này. Sau hơn ba mươi năm loạn lạc, trái đất vẫn tròn, tôi gặp lại bác sĩ Nguyễn Hữu Trí ở vùng Ngũ Đại Hồ Michigan này. Bác sĩ Trí đã nhiều lần tổ chức hội thảo chính trị mở rộng khối đoàn kết người Việt Nam tự do.
Sau thập niên 80, khối Cộng sản Bắc Âu và Liên bang Sô Viết đã sụp đổ. Bức tường Bá Linh chia cắt nước Đức cũng không còn. Tại Đại hội Y Dược Việt Nam tổ chức ở Ba Lê, Pháp, bác sĩ Trí đã đọc một bài tham luận về sức mạnh dân chủ và tiên đoán khối Cộng sản Việt Nam sẽ bị cuốn trôi theo làn sóng dân chủ của thế giới không tránh khỏi. Bác sĩ Nguyễn Hữu Trí là người đầu tiên đứng ra thành lập Ban Chấp hành Người Việt tại thành phố Grand Rapide và miền Tây Michigan. Trong những nhiệm kỳ đầu, bác sĩ Nguyễn Hữu Trí được cử làm Chủ tịch và người viết làm Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký. Bác Trí mơ ước cộng đồng người Việt hải ngoại là hậu cứ của những cuộc cách mạng dân chủ trong nước.
Trong đêm tối đã có mặt trời
Trên đất Mỹ đã có chúng tôi
Dù đang sinh sống nổi trôi
Quyết đòi công lý không ngơi
Đồng bào ơi!
Bao năm lam lũ nhọc nhằn
Đói không cơm, rét không áo, đau không thuốc
Khó khăn lâu rồi!
Đứng lên thôi! Đứng lên thôi!
Đồng bào ơi! Đứng lên thôi!
Quyết đòi công lý không ngơi
Dưới ánh mặt trời, soi sáng khắp nơi.
(1995)
Ngày nay theo trật tự toàn cầu hóa, Cộng sản Việt Nam đã gia nhập vào thương mãi thế giới W.T.O. Qua những cuộc nổi dậy của đồng bào trong nước, từ đồng bằng đến cao nguyên, lực lượng dân chủ đã vùng dậy kết nạp thành phần trẻ trong nước. Người dân không còn sợ bạo lực của đảng nữa. Trái lại, đảng đang khiếp sợ trở lại nhân dân. Bác sĩ Nguyễn Hữu Trí tiên đoán một ngày không xa Cộng sản Việt Nam sẽ bị sụp đổ bởi hằng loạt sóng thần trong nước do nhân dân vùng dậy:
Toàn dân bừng tỉnh dậy
Cách mạng như sóng thần
Dâng lên từ lòng dân  
Tràn ngập khắp nơi nơi
Quét sạch loài cỏ dại
Chẳng ngần ngại xót xa
Xây dựng lại cơ đồ
Ông cha đáng mặt người.
(1995)
Người Việt nước ngoài chúng ta không có lãnh thổ nhưng tất cả cùng một lập trường quốc gia. Chúng ta có chung một ngọn cờ vàng đã được các tiểu bang của nước Mỹ công nhận. Bác sĩ Trí gọi đó là một quốc gia Viêu Việt. Chúng ta tranh đấu ở đây có nghĩa là tranh đấu cho tám mươi triệu đồng bào trong nước. Chúng ta vì Đại Nghĩa Dân Tộc chứ không đòi hỏi một quyền lợi nhỏ nhoi nào.
Ai đã tu thân? Ai đã tề gia?
Hãy đứng lên cùng ta lập quốc
Quốc gia Siêu Việt.
Con đường Đại Nghĩa
Giúp nhân loại vui sống tự do ấm no hòa bình
Một đời cho nhân loại thân thương
Cho Việt Nam phú cường.
(03.1996)
Cuộc tranh đấu dân chủ trong nước không phải là cuộc tranh đấu của một người. Cho dầu bác sĩ Trí đã nằm xuống nhưng chúng ta vẫn còn hàng vạn người trẻ đang đi tới. Thế hệ lão niên không còn nữa thì thế hệ tuổi trẻ Việt Nam tiến lên. Trong cuộc chiến đấu ở Iraq vào những năm trước, trong đạo quân chiến thắng đánh vào chế độ độc tài ở Baghdad có một số thanh niên là con cháu của anh em cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa. Họ mang trong người truyền thống của cha anh. Chúng ta hy vọng lứa tuổi này sẽ góp bàn tay của mình trong việc gây dựng lại một nước Việt Nam giàu đẹp và dân chủ phú cường trong tương lai.
Kèn Đại Nghĩa đã thổi vang vang
Anh em ơi! Chúng ta cùng nhau lên đàng
Làm trai quyết chí hiên ngang
Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên
Dân ta cực khổ triền miên
Nào ai thấy cảnh thấn tiên bao giờ?
Việt Nam! Việt Nam ơi!
Ta yêu đất mẹ tuyệt vời
Ai về ta nhắn mấy lời thân thương
Quê hương! Quê hương ơi!
Có ngày ta trở lại
Tương lai rất gần.
(1996)
Thụy Vi, một thi sĩ của thế hệ đi sau nhưng cũng hưởng ứng tinh thần vì Đại Nghĩa của bác sỉ Nguyễn Hữu Trí:
Cũng muốn thắp đèn trong đêm quá tối
Cười thật tươi trong đời sống ly hương
Dựng lại niềm tin giữa cơn bối rối
Trong tình thương nở rộ khắp mười phương

Cũng muốn phá rừng xới vun đất mới
Gieo giống ươm mầm lên mảnh vườn hoang
Nhựa sống đầy như nụ non mới mọc
Đồng lúa yêu thương nặng trĩu hạt vàng.

Cũng muốn làm chim bay vào nắng sớm
Hành trình xa không mỏi cánh phiêu du
Thu ngắn đường dài bằng đôi chân nhỏ
Sống thênh thang cho bõ kiếp ngục tù.

Cũng muốn hát hò cho người tiếng khóc
Phấn đấu thật nhiều trong kiếp ly hương
Điểm phấn tô hồng cho đời rạng rỡ
Đại Nghĩa mang đến hạnh phúc tình thương.

Cũng muốn xóa đi bao đời nô lệ
Hái nụ xuân hồng ướp thắm hương hoa
Quê hương ta có lắm điều cơ cực
Cuộc sống ưu tư trong chuỗi ngày dài.

Cũng muốn xóa đi bao điều phiền muộn
Bất công, đọa đày, ngu dốt, xấu xa
Tranh sống từng giờ phồn vinh giả tạo
Nước mắt tuôn dòng, lòng vạn xót xa.

Ước mơ dân ta đồng tâm hiệp lực
Cho Việt Nam thật hạnh phúc bình yên
Cho Việt Nam không bao giờ nô lệ
Cho Việt Nam thoát ách triền miên.

Quyết tâm – Ta phải thành Nhân
Quyết tâm – Ta phải thành Nhân
Tạo hạnh phúc cho nước nhà vĩnh cửu
Mầm non gieo trên thửa đất điêu tàn.
(Thụy Vi kính tặng bác sĩ và bà Nguyễn Hữu Trí).
Cuộc tranh đấu vì Đại Nghĩa, vì lá cờ vàng, mặc dầu chúng ta đang ở nước ngoài vẫn gay go lắm, chứ không phải bình thường. Không tránh khỏi bị người Việt với nhau trong cộng đồng chụp mũ. Bác sĩ Trí không tránh khỏi bị chụp mũ là Cộng sản, là nằm vùng, là thân Cộng. Tờ báo Người Việt Michigan bị đánh phá không cho lấy quảng cáo nữa. Các chợ, các nhà hàng người Việt nào phát hành tờ báo sẽ bị hăm dọa tẩy chay. Tờ báo phải dẹp tiệm thôi. Bác sĩ Trí cũng hay than phiền là khoản tiền bảo hiểm mỗi năm một lên nhất là mỗi khi làm bác sĩ mà vấp phải những vụ kiện tụng. Mỗi vụ kiện như vậy không phải một năm là xong, có khi còn kéo dài đến ba bốn năm, sống lo lắng đến phải đau tim. Bác là bác sĩ sản khoa, giải quyết những ca sinh đẻ cũng hồi hộp lắm.
Hơn nữa tiểu bang Michigan vào mùa tuyết lạnh, mặt trời bị mây mờ che phủ. Cây cối trơ cành. Không có ánh sáng mặt trời, tim bác không được khỏe. Bác dời về thị trấn Naple, tiểu bang Florida để dưỡng bệnh và nghỉ hưu. Nơi đây khí hậu ấm áp như ở Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương Việt Nam. Năm 1997 thị trấn Naple chỉ toàn là rừng, dân cư thưa thớt như nông thôn Việt Nam. Buổi sáng thức dậy nghe tiếng gà gáy, tiếng chim hót líu lo. Cuộc sống ở đây như một ẩn sĩ, không còn ai tranh chấp hơn thua với mình nữa. Khung cảnh rất thanh bình. Chỉ có hai mùa mưa nắng. Có điều hơi xa thủ đô Orlando của tiểu bang Florida, lái xe lên phố phải mất bốn tiếng đồng hồ. Bác sĩ Trí xây ngôi nhà ngói đỏ và bắt đầu vui thú điền viên, xin nhận nơi này làm quê hương. Bác nói làm vườn chẳng phải mua bảo hiểm nữa vì chẳng có cây cỏ nào nó kiện mình hết, khỏe re.
Bác cũng rủ tôi đi làm vườn với bác. Vì đất rừng ở đây rất rẽ chỉ có ngàn đồng một mẫu tây. Tôi nghĩ mình nay cũng có tuổi rồi đâu cần làm anh chàng tarzan ở trong rừng nữa, sống với con cháu được ngày nào hay ngày đó chẳng vui hơn sao? Đám con bác Trí xây cho bác cái nhà thật đẹp, có hồ tắm, có hòn giả sơn, có dòng suối và chiếc cầu bắt ngang.
Trong vườn ngồi ngắm cỏ hoa
Dưới nước cá lội trên cành chim ca
Ngoài kia vẳng tự đàng xa
Nghe tiếng suối đổ reo hòa với thông
Trời xanh mây trắng vẫn hồng
Làm ta lại chạnh đau lòng xa quê
Xa quê mong có ngày về
Mơ sao “Đại Nghĩa Việt Siêu” mau thành
Tuổi ta nay đã sáu tư
Mong con cháu tự theo đường ta đi
Can đảm, yêu thương, đoàn kết
Trai tài, gái sắc, thông minh, hiền hòa
Thế là sống trọn đời ta
Đi từ trái đất tiến vào thiên thai
Chẳng cần ganh tị cùng ai
Chỉ cầu nhân loại vui tươi thái bình.
(1998)
Khu vườn của bác rộng khoản năm mẫu tây. Bác trồng được hơn một ngàn cây nhãn và một số cây ăn trái. Công lao động ở đây thật rẽ, khoản hai ba đồng một giờ. Mình đến chợ người thuê người Cuba hay người Mễ về làm, chiều chở họ về trả lại chợ người. Quanh năm bác trồng rau loại ngắn hạng như rau muống, ngò gai, húng quế, bầu bí. Có nhà thầu đến thu gom cứ mỗi tuần lễ đôi lần. Bác Trí mơ ước nơi đây sẽ là một làng Việt Nam lấy tên là Hùng Vương xã. Nơi đây sẽ trở thành một làng xã như ở Đài Loan. Con người ở Đài Loan họ cũng căm thù cộng sản ở Hoa Lục. Nhưng họ chỉ lo làm ăn. Họ chỉ xây dựng thành một quê hương giàu đẹp làm cho Trung cộng phải lẹt đẹt theo sau đó là điều chắc chắn.
Nguyễn Gia Trang. Làng Việt Nam
Mang tên “Hùng Vương xã”
Tinh thần Hưng Đạo Vương
Đại nghĩa thắng hung tàn
Trí nhân thay cuồng bạo
Mang dòng giống Việt
Sáng ngời năm châu
Dù đang sinh sống nơi đâu
Về đây góp mặt
Xứng danh: con Rồng cháu Tiên
Xây nhà ngói đỏ. Với vườn cây xanh
Sống trong thanh bình. Con cháu noi gương
Tiến lên!
Trong một thế giới. Vui tươi hài hòa
Florida!
Nơi ta lập nghiệp lâu dài ai ơi.
(12.1998)
Tính đến ngày Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2003 cũng đã có hơn hai mươi gia đình người Việt Nam về đây lập nghiệp. Lúc này thị trấn Naple không còn là cánh rừng như hồi bác sĩ Trí mới đến nữa. Đất rừng ở đây người ta không còn bán cho mình với giá một hai ngàn US đô la một mẫu mà đã được nhân lên đến ba mươi ngàn đồng. Thành phố trở thành một nơi nghỉ mát rất đẹp, đã có shoping mall rất tối tân, xa lộ sáu lanes rộng lớn, phi trường mở rộng. Vườn nhãn của bác sĩ Trí xanh mướt trái nhiều, cành quằng xuống đất. Thu hoạch hằng ba bốn trăm ngàn đồng mỗi năm. Bác thường khoe với tôi vườn nhãn của bác rất đẹp như con gái mười tám. Mỗi mùa xuân, mỗi cây nhãn cho bác hơn cả trăm pounds trái nhãn.
Đây mảnh đất hoang vu đầy cỏ
Biến nó thành một chỗ vui chơi
Từ ngàn xưa mảnh đất không người
Nay dân Việt cùng nhau đoàn tụ
Mảnh đất ấy nằm vùng tráng lệ
Chờ bàn tay bồi đắp dân ta
Buổi ban đầu tuy bước không xa
Đặt căn bản cũng là trọng hệ
Dân tộc ta lưu vong bốn bể
Gặp lại đây trên đất hữu tình
Mảnh đất này sẽ có cây xanh
Có trái thắm và bông hồng rực rở
Đất tồn tại với không gian rộng mở
Chỉ tình mình vọng lại quê hương
Đất với người vương vấn tình thương
Hồn dân tộc ấm lòng thế hệ.
(K.T.S. Nguyễn Đình Thi Sarasota - Đầu Xuân 2000)
Tôi biết bác ở một mình trong rừng cũng buồn lắm nên bác thường rủ tôi xuống ở chơi với bác. Nhất là những mùa đông ở trên Michigan chỗ tôi ở mây mù và tuyết lạnh. Bác kêu tôi đi trốn tuyết ở nhà bác một đôi tháng, anh em rủ nhau phơi nắng, tắm biển đến khi Michigan trời hết tuyết rồi hãy về. Có hôm tôi đi chơi ở nhà bác Trí gặp lúc bác đi khám đầu ở nhà thương For Meiyer. Bác bảo tôi mang theo quyển tiểu thuyết ngồi đọc chờ bác đi khám. Khi ra về, bác nói mấy scane khám trong đầu bác thấy có bướu não. Họ bảo tuần sau đi mổ. Tôi lý luận với bác:
- Nếu như ngày xưa chưa có cái máy đo đó thì họ đâu có biết là mình có bướu não. Mình cũng sống được từ năm năm đến bảy năm nữa, có chết cũng chẳng sao. Bây giờ mình thử phớt lờ đi cũng được chứ gì.
Bác Trí cự nự:
- Ông là nghệ sĩ nói sao cũng được. Chứ tôi làm khoa học, thấy bệnh thì phải chữa, phải sống chết vì khoa học, phớt lờ đâu được.
Hôm đó nhân mùa Giỗ Tổ Hùng Vương có giáo sư Nguyễn Văn Canh xuống thăm vườn nhãn của bác sĩ Trí. Tối hôm đó có một buổi họp bạn thân mật có một số anh em trẻ tham dự gồm kiến trúc sư và địa ốc cùng các ngành xây dựng. Họ phác họa chương trình phát triển mở rộng thị trấn du lịch và thương mãi của người Việt Nam ở Naple. Các chuyên viên trẻ dĩ nhiên họ làm ăn mạnh bạo hơn mấy cụ già. Họ có thể vay bạc triệu từ các ngân hàng để xây dựng thành phố. Nhưng dù sao bác sĩ Nguyễn Hữu Trí vẫn là người mở đường đi trước. Qua ngày sau, chúng tôi kéo nhau về Orlando thì nghe tin bác Trí đi giải phẩu bướu não. Bác đi luôn trong ca mổ.  Bác vẫn lạc quan như những phi hành gia trong chiếc phi thuyền Chalenger khi về đến gần trái đất.
Hôm nay làng Hùng Vương lớn mạnh thành một đô thị. Vườn nhãn vẫn đơm bông kết trái, chim vẫn hót, hoa vẫn nở nhưng bác sĩ Trí không còn nữa. Bà vợ của bác sĩ Trí từ nay không dám sống đơn chiếc một mình ở trong rừng. Bà bán vườn nhãn trở về ở với con cháu trên tiểu bang Michigan.

                                                                                                                       Hiếu Đệ


                                                                              **

                                                          Họa Sĩ, Điêu khắc gia
                                               Phạm Thế Trung
                         
            Ngày Phạm Thế Trung vào Đại học Mỹ Thuật cũng là ngày tôi mang khăn gói đi vào trại tập trung cải tạo. Lúc bấy giờ các ngành văn học nghệ thuật được nhà nước nâng lên hàng "tiếng nói của Đảng". Phó tiến sĩ Lê Phước Sanh ở Liên Xô về, được cử làm Giám đốc Trường Đại Học Mỹ Thuật, chỉ huy một đám họa sĩ và điêu khắc gia từ ở chiến khu trở về.
            Đám bạn bè của tôi như Trần Vạn Lộc, Huỳnh Phương Đông, Cổ Tấn Long Châu, nhất là Lê Vinh, Nguyễn Thái Bình làm việc ở Phòng Quản Lý Mỹ Thuật. Họ đều lên án Hiếu Đệ là "đại họa nô" của Việt Nam Cộng Hòa, một Đại úy Cục Tâm Lý Chiến nên họ ưu ái đánh giấy giới thiệu để tôi đi vào trại tập trung cải tạo sớm cho khuất mắt. Coi vậy dầu cho mình có đi cải tạo mút mùa nếu không kiệt sức chết ở trong rừng thì cũng vẫn có ngày về lại được thành phố. Trừ khi chết ở trong rừng mới hết về!  Ngày tôi xuất trại cải tạo, phòng An ninh Chính trị ở đường Nguyễn Trãi có kêu tôi lên trình diện. Họ bảo tôi rằng sau khi được cải tạo rồi thì không được làm nghề cũ nữa. Như người nghiện ma túy đã được cai thuốc phiện rồi thì không được hút nữa mà phải làm một người dân lương thiện, phải lao động sản xuất xây dựng xã hội chủ nghĩa!
            Chuyện này cũng dễ thôi! Tôi thuê một chiếc xích lô đạp lòng vòng trong phố, thong thả đi uống cà phê và đọc sách báo, gác cẳng nằm ngủ dưới bóng cây bên vỉa hè. Còn gì vui sướng cho bằng! Nhưng có điều mình cũng còn nhớ mùi sơn cọ. Nhớ màu sắc lung linh. Nhớ cái không khí làm nghệ thuật ở Sài Gòn ngày xưa, nên thỉnh thoảng tôi có tắp vào hội quán của Hội Mỹ Thuật thành phố. Nơi đây có cà phê buổi sáng, bia hơi, rượu đế buổi chiều, có triển lãm tranh và nhạc sập sình. Văn nghệ sĩ đủ loại già trẻ, đám cũ đám mới gặp gỡ xi lăng xi lô. Đôi khi tôi gặp lại cả Trịnh Công Sơn, Phạm Trọng Cầu ôm đờn nghêu ngao với mấy em bé. Đám nghệ sĩ già như Văn Cao, Diệp Minh Châu cũng thường ghé lại đây.
Hơn nữa ở đây tôi còn gặp lại đám học trò cũ ngày tôi dạy ở Trường Mỹ Thuật Huế và Trường Vẽ Gia Định. Chúng nó có đứa chưa ra trường nhưng cũng được làm hội viên Hội Mỹ Thuật. Có thể nhà trường cố làm như vậy để học viên làm quen với sinh hoạt văn hóa nghệ thuật của xứ xã hội chủ nghĩa. Do đó, tôi gặp Phạm Thế Trung. Bây giờ nó làm đệ tử của Lê Phước Sanh ở chuyên khoa điêu khắc. Nó thấy tôi sáng xỉn chiều say, nó bảo:
            - Ông thầy điệu này hư rồi. Đã đạp xích lô mà còn say sưa nữa thì còn làm gì cho tương lai.
            Tôi chỉnh nó ngay:
            - Tương lai của Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là do các đoàn viên, đảng viên, hội viên... chứ cải tạo viên như ông thầy chỉ có rong chơi ca múa chờ bảo lãnh sang định cư ở nước Mỹ thôi.
            Nó hỏi tôi:
            - Ông thầy có sáng tác gì nữa không?
            Tôi tức cười nói:
- Ai cho? Sơn cọ, khung vải là tư liệu sản xuất, tất cả do nhà nước quản lý. Mình, phó thường dân, ai cho mình được cái quyền ca ngợi đảng. Vẽ không khéo họ bảo mình châm biếm là đi tù! Đạp xích lô yên phận rồi thôi, không được đèo bồng. Thôi đừng có hỏi dông dài. Thầy trò mình gặp nhau chỉ có uống rượu thôi. Mình chỉ được quyền nói chuyện chung quanh ly rượu là được rồi!
            Ngày xưa, sau vụ tổng công kích năm Mậu Thân, nhờ có sắc luật tổng động viên nên tôi được biệt phái về Trường Vẽ. Học sinh chúng nó rất thích cái tính của tôi rất là lính, ngang tàng hơn các ông giáo sư khác. Ngày đó, Viện Văn Hóa Pháp có giúp cho trường hai ông giáo sư trẻ. Họ là thứ họa sĩ mới ra trường Mỹ Thuật Paris. Được dịp trong lúc tình hình Việt Nam hỗn loạn ở khắp nơi, thành phố rơi vào cảnh trụy lạc yêu cuồng sống vội, mãi dâm, xì ke ma túy đầy dẫy, hai ông Tây con này bị lũ trẻ ở trường rủ ren đến hư thân mất nết, nghiện xì ke, nằm ngủ lang bang trong Xóm Đình sau Trường Vẽ. Tôi bàn với họa sĩ Đỗ Đình Hiệp, Giám đốc trường trả mấy giáo sư nước ngoài lại cho Trung Tâm Văn Hóa Pháp. Mình không nên làm hư hại thanh niên của người ta. Ông Hiệp rất là hiền lành, giao đứt công việc này cho tôi bằng câu:
            - Ờ, Hiếu Đệ cứ thảo văn thư đi, rồi đưa tôi ký cho.
            Sau khi mấy họa sĩ về nước, ông Rémaud Giám đốc Trung Tâm Văn Hóa Pháp đến cám ơn tôi rất nhiều. Về lại Trường Vẽ, tôi khởi sự làm tranh trở lại. Đưa học trò đi vẽ ở ngoại cảnh. Bài của học viên làm chưa xong thì ông thầy đã có được mấy bức tranh đẹp. Đến đỗi Chú Ba Lượng, Giám thị của trường còn ngạc nhiên hỏi:
            - Ông Đệ đâu phải là học trò mà ông vẽ lu bù vậy?
            Học viên thấy tôi chẳng những giảng bài và phê bình bài mà còn vẽ ra được bằng tác phẩm nên rất thích. Họ cảm thấy như được tiếp xúc với một chế độ học xưởng, cả thầy và trò cùng làm tác phẩm rất thoải mái. Nhờ thế khoảng cách giữa thầy và trò rất thân mật như trong một mái ấm gia đình. Do vậy, khi tôi mới vừa định cư ở Mỹ, Phạm Thế Trung nghe tin, lái chiếc xe Van từ Toronto chở vợ con chạy qua thăm tôi. Hai thầy trò chúng tôi có hơn mười năm mới gặp lại nhau. Chúng tôi tưởng đâu vẫn muôn đời nghìn trùng xa cách. Trung cho biết nó vượt biên qua Canada từ năm 1982. Lúc ấy, nó chưa tốt nghiệp Đại học Mỹ Thuật. Mùa hè năm đó, trường cử nó đi xâm nhập thực tế ở quê hương Đồng Khởi (tức là tỉnh Bến Tre) để lấy tư liệu làm tác phẩm thi ra trường. Trong chuyến đi Mõ Cày và Bình Đại, nhân cơ hội đó nó vượt biên trót lọt. Trung cho biết vợ chồng nó làm ăn rất khá. Nó có một cửa tiệm trang trí nội thất. Vợ Trung là Phan Ni Phấn có tiệm may thời trang và một căn nhà rất đẹp, tất cả ở trên đường Dundas, trung tâm thành phố Toronto. Cha mẹ vợ là người Hoa, vừa mới được bảo lãnh qua Canada hơn năm năm nay, trước là chủ tiệm cầm đồ Phước Lợi ở trước chợ Gia Định. Ông cụ là Hiệu trưởng trường Viết Thành dạy tiếng Trung Hoa và tiếng Việt ở sau chợ Bà Chiểu. Thằng Hiếu, con trai của Trung lúc đó được mười tuổi.
            Trung có nói chuyện với tôi về cuộc thi tác phẩm điêu khắc do Bộ Văn Hóa của Canada tổ chức, có giải thưởng 5.000 đồng. Bức nào được giải sẽ được chọn phóng lớn làm tượng đài dựng ở trung tâm thành phố. Đa số những tác phẩm hôm nay hay dùng ngôn ngữ nghệ thuật mới, "Arts Modernes", hướng theo cái nhìn của đô thị có xu hướng nặng về kiến trúc. Đề tài ngã về trừu tượng. Nước Canada rất tôn trọng màu sắc đa văn hóa (Multiculture). Hơn nữa, hiện nay Việt Nam chúng ta là dân tộc sau cùng đến định cư. - phố Toronto có tượng Gandhi của Ấn Độ, tượng Tôn Dật Tiên và tượng Khổng Phu Tử của Trung Hoa, tượng thi sĩ Alexandre Puskin của Nga, tượng đài kỷ niệm Cuộc Nổi Dậy ở Ba Lan năm 1956 v.v... Tôi thảo luận với Trung về vấn đề thuyền nhân Việt Nam. Hơn một thập niên qua, làn sóng di tản của ngươi Việt Nam, cả hàng triệu người vượt biển, khiến cho cả thế giới bàng hoàng xúc động. Cao Ủy Liên Hiệp Quốc phải gọi tiếp cứu. Tất cả các nước vùng Đông Nam Á nơi nào cũng có thành lập các trại tị nạn.
Trong lịch sử Việt Nam đã trải qua một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, nhưng chưa lần nào dân ta phải bỏ nước ra đi đông đảo như thế. Điều này đủ chứng tỏ là chế độ độc tài của Cộng sản tàn ác hơn ngàn lần bọn Tàu, Tây thuở trước. Chính Phạm Thế Trung cũng là người vượt biên, lấy sự chết chốc để đổi lấy tự do! Tại sao Trung không nói lên nỗi nguy hiểm và thống khổ của thuyền nhân Việt Nam. Chúng ta nên làm một tượng đài để nói lên một giai đoạn lịch sử đau thương và khao khát tự do của dân tộc mình! Thầy trò chúng tôi thảo luận từ đêm đến sáng về một pho tượng với đề tài "Vượt Thoát Đi Tìm Tự Do" (Escaped for Freedom). Một bà mẹ Việt Nam bế con vượt đại dương hiểm trở để đi tìm một tương lai cho đứa bé! Có thể sau hai mươi năm, đứa bé đang đứng dưới chân pho tượng sẽ là một kỹ sư, một chuyên gia sáng chói trong đội ngũ khoa học kỹ thuật ở nước ngoài, lúc đó nó nghĩ về bà mẹ mình ngày xưa, bây giờ không còn nữa. Có thể cậu sẽ đặt dưới chân pho tượng này một vòng hoa. Văn hóa dân tộc là như thế đó. Tôi viết cho Trung hơn hai mươi bài đăng ở các báo để yểm trợ cho pho tượng đi vào giải thưởng. Nhớ lại phong trào hội họa Lập Thể của Picasso buổi đầu bị người thưởng ngoạn tẩy chay, liệng đá vô phòng triển lãm. Thi sĩ Apolinaire phải viết hơn hai chục bài ca ngợi cho lối vẽ này. Vấn đề quảng cáo cũng rất quan trọng. Nó là sợi dây liên kết giữa tác giả, tác phẩm và người thưởng ngoạn.
            Trong Trường Mỹ Thuật, người ta cũng thành lập thêm ngành chuyên khoa này để cho mấy học viên không có năng khiếu, không vẽ được ra tranh. Người ta gọi chuyên khoa này là ban chuyên tu lý luận. Bởi một đứa nói ngang, ba làng cãi không lại là như thế! Một số nghệ sĩ Việt Nam tốt nghiệp ở nước ngoài trong nhóm Tiên Rồng cũng có gởi tác phẩm tham dự nhưng không được ban giám khảo lưu ý. Họ diễn tả đề tài bà tiên lấy con rồng đã rườm rà và không hợp lý. Có người diễn tả quả trứng của bà Âu Cơ to bằng cái nhà nở ra trăm người con, làm chẳng có ai hiểu nổi. Đã đành đó là một khối tròn nhưng không thể nào đẹp bằng hình dáng người phụ nữ được Henri More diễn tả thành những khối Donut theo xu hướng trừu tượng trong biểu tưởng mới. Chẳng bao lâu, Trung chạy qua Mỹ cho tôi hay pho tượng của nó được trúng giải. Chính phủ Canada bằng lòng cho dựng tượng đài này ở góc phố Tàu thành phố Ottawa. Người ta có thói quen gọi là Phố Tàu (Chinatown) chứ thật ra là Phố Việt (Vietnamtown). Thầy trò tôi phấn khởi kéo nhau lên xem địa điểm để phác họa tượng đài nằm giữa ngã tư đường Somerset và Preston. Chúng tôi chạy về họp các hội đoàn thuộc cộng đồng Việt Nam để tổ chức xin quyên góp một số tiền. Lúc đầu chúng tôi có làm một thông cáo kêu gọi lòng hảo tâm của đồng bào đã từng vượt biên và sinh sống tại Canada, xin mỗi người cho một đồng. Hy vọng sẽ được vài trăm ngàn. Vì dựng một tượng đài để giữa phố như vậy đòi hỏi phải tốn kém bằng cất một ngôi nhà, chưa kể vườn hoa và ánh sáng. Cuộc lạc quyên kéo dài thu góp cũng chẳng được bao nhiêu. Cộng đồng người Việt ở Toronto phải tổ chức những bữa cơm gây quỹ. Những bữa cơm gây quỹ như thế chỉ kiếm lời được chừng ba bốn ngàn. Cộng sản nghĩ rằng chúng tôi đẽo cày giữa chợ, chẳng bao giờ xong!
            Hơn nữa, Phạm Thế Trung là học trò ruột của phó tiến sĩ Lê Phước Sanh. Nó chưa tốt nghiệp Mỹ Thuật thì "võ công" của nó được bao nhiêu mà làm tượng đài. Ở Việt Nam, người ta chú trọng đến vấn đề tuyên truyền nên họ chỉ làm tượng bằng xi măng thôi. Ngân khoản của họ chỉ dựng được tượng xi măng là hết sức rồi! Tôi nhớ ngày xưa khi tôi còn là Trung úy, Hội Đồng Tướng Lãnh Bộ Tổng Tham Mưu muốn tổ chức ngày Văn Hóa Quân Đội để kỷ niệm ngày 19 tháng 6, Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lên nắm vai trò bảo vệ đất nước. Việc này để chứng tỏ họ không phải là binh tôm tướng cá, chỉ chuyên môn đánh đấm, thi hành trước khiếu nại sau. Một ngày mà tất cả mọi ngành văn hóa nghệ thuật trong nước được thể hiện rõ nét đề cao vai trò quân đội, có trao giải thưởng văn chương, mỹ thuật, âm nhạc, điện ảnh, nhiếp ảnh... đủ thứ. Họ muốn dựng hai mươi tượng đài khắp các công trường ngả tư, ngả sáu trong thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định. Trong lúc đó ngân khoản để dựng tượng chỉ còn lại có hai trăm ngàn đồng. Họ hỏi tôi có làm được không? Lúc đó vào khoảng năm 1965, tình hình trong nước đang sôi động, thanh niên xuống đường khắp nơi. Phật giáo, Công giáo chống đối nhau. Đoàn thể này chống đoàn thể kia. Cảnh sát dã chiến phải điều động suốt ngày. Trong nội các, tướng lãnh cũng thanh trừng lẫn nhau tơi bời, chẳng phe nào chịu thần phục phe nào.
            Tôi trả lời Bộ Tổng Tham Mưu là tôi sẽ làm được thôi với điều kiện tất cả các tượng đài đó phải không được đẹp. Lúc đó, người làm điêu khắc chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Nguyễn Văn Thế dựng tượng Hai Bà Trưng ở Bến Bạch Đằng. Lê Ngọc Huệ dựng Thánh Đường La Vang ở Quảng Trị bị lên án là gia đình Nhu Diệm. Họ bỏ về Pháp cả rồi... Tôi chỉ dùng các nhà điêu khắc bất đắc dĩ, toàn là thợ hồ, thợ mộc ở thành phố. Chính Nguyễn Văn Thu được tiếng là điêu khắc gia nhưng Thu cùng học với tôi một lớp trong chuyên khoa sơn dầu thôi. Vấn đề tượng học, khi quần chúng đã tin tưởng rồi thì nó sẽ là một pho tượng rất có giá trị. Do đó, người ta có thể chỉ cục đá nói là pho tượng Phật cũng được. Hay nhìn khối đá, họ bảo là tượng Hòn Vọng Phu. Còn nếu quần chúng không thích nữa thì họ hạ bệ thần tượng quẳng vào hố rác. Chuyện đó dễ thôi. Tôi có thể dùng ngân khoản hai trăm ngàn đồng phân phối cho các binh chủng, mỗi ngành mười ngàn, họ sẽ dựng tượng thánh tổ của binh chủng họ. Để vinh danh màu cờ sắc áo của họ, họ có thể bỏ ra một ít tiền túi đóng góp thêm. Điểm thứ nhất, mình tạo được an ninh ở công trường đường phố để thanh niên khỏi xuống đường. Điểm thứ hai, mình đề cao được vai trò của quân đội đảm nhiệm công cuộc bảo vệ đất nước. Mà chỉ có hai trăm ngàn đồng thôi, quá rẻ! Đã rẻ như vậy mà cứ đòi đẹp và giá trị thì đâu có được! Quý vị tướng tá nghe luận điệu của tôi, họ chịu lắm:
            - Ờ! Chú làm sao thì làm.
            Như vậy, buổi sáng Ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1965, hơn hai chục tác phẩm điêu khắc của các tượng đài được khánh thành rất trọng tnể. Phạm Thế Trung nghe ông thầy Hiếu Đệ kể chuyện làm tượng đài ở Việt Nam, cười khoái chí. Tôi trấn an nó:
- Đừng có lo pho tượng Bà Mẹ Việt Nam không hoàn thành được. Chi bằng mình hãy bỏ tiền túi và công sức ra dứt điểm thành một tác phẩm đẹp cái đã! Trước nhất phải bỏ năm trăm ra mướn một ngôi nhà để làm xưởng, năm trăm nữa kéo vật liệu và tiêu xài. Còn phải bỏ thêm năm trăm nữa để thuê người đứng làm mẫu. Mình phải kết thúc chỉ trong đôi tháng để tránh phải tiêu xài nhiều.
            Chúng tôi quyết định hoàn thành tượng đài và lễ khánh thành sẽ lấy mốc là ngày 30 tháng tư năm 1995, kỷ niệm chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam, một trận tuyến lớn và dài nhất của cuộc chiến tranh lạnh và cũng là ngày đánh dấu năm mươi năm kết thúc Đệ Nhị Thế Chiến. Làn sóng vượt biển của thuyền nhân Việt Nam cũng ghê rợn và khủng khiếp giống như lò ngục Holocaust của Phát xít Đức Quốc Xã năm mươi năm về trước. Tôi hình dung ngày đó sẽ có một cuộc diễu hành vĩ đại. Nhiều ngàn người Việt lưu vong từ các nơi trên khắp nẻo đường đất nước đổ về, đi theo sau dàn quân  nhạc có cờ quạt bay rợp trời. Đông đủ mặt các vị đại diện chính quyền nước Mỹ và Canada cũng đến làm lễ khánh thành và đặt vòng hoa dưới chân tượng đài. Trong mùa tuyết lạnh năm đó, chúng tôi hoàn thành pho tượng một cách rất vất vả. Pho tượng cao hơn hai mét nên đòi hỏi sức lao động rất nhiều. Bên cạnh chúng tôi còn có cả một Ủy ban Xây dựng Đài Kỷ Niệm, gồm có ông Vũ Xuân An và ông Lê Duy Cẩn đồng chủ tịch lo vấn đề đối ngoại. Chúng tôi còn rủ một số anh em ở California qua. Trước đó là điêu khắc gia ở Việt Nam sang yểm trợ công việc đúc khuôn. Tháng 11 năm 1994, pho tượng xi măng được hoàn thành. Chúng tôi lấy bảo hiểm và chở lên Québec giao cho lò đúc của Mỹ. Hợp đồng đến giữa tháng 4 năm 1995 là đúc xong thành pho tượng đồng với số tiền là 70 ngàn. Bây giờ chúng tôi đã có pho tượng đàng hoàng nên dùng giấy nợ của lò đúc đi lạc quyên cũng dễ hơn. Ông chủ siêu thị Tân Á cho 5.000 đồng. Ông ta nói đùa:
            - Đó thấy chưa! Tân Á này không bao giờ cho một đồng đâu!
            Mấy ông chủ siêu thị và mấy cơ sở thương mại khác lên tiếng:
            - Tân Á này coi vậy mà lối hén. Hắn ta là Hoa Kiều trước đây ra đi chính thức, chớ có phải là dân vượt biên hoặc đi chui đâu mà cũng chơi trội!
            Đám này lại tức khí cho nhiều hơn ông Tân Á khiến mấy bà giám đốc Thẩm Mỹ Viện lại chạy đua góp nhiều hơn nữa. Giới phụ nữ trong cộng đồng người Việt Toronto còn giành công tác đi vận động lạc quyên. Chẳng mấy chốc, số tiền quyên góp vượt khỏi 70 ngàn lúc nào không hay. Khi tôi viết bài này thì câu chuyện xây dựng Tượng Đài Thuyền Nhân Việt Nam ở thủ đô Ottawa đã trải qua hơn năm năm rồi. Cộng đồng người Việt ở Canada đang chuẩn bị làm lễ kỷ niệm ngày đầu tiên dựng tượng đài Người Mẹ Việt Nam vào ngày 30 tháng tư năm 2000. Bà con sẽ tổ chức buổi diễu hành của cộng đồng Người Việt tị nạn từ các nơi tập hợp về cùng đoàn quân nhạc, cùng đại diện các hội đoàn và đoàn thể trên thế giới về làm lễ bên pho tượng Bà Mẹ Thuyền Nhân Việt Nam ở thủ đô Ottawa. Năm năm rồi Bà Mẹ vẫn đứng trong năm mùa sương tuyết mong đợi đàn con trở về giải phóng quê hương và xóa bỏ chủ nghĩa Cộng sản độc tài.

                                                                                **
            Năm năm trôi qua... Câu chuyện không êm xuôi như dòng sông đang chảy. Phạm Thế Trung là người biết lo lắng cho vợ con. Tất cả mọi thứ nó đều mang về xây dựng cho mái ấm gia đình đến nỗi nhạc sĩ Mai Đằng còn nói:
- Anh Đệ à! Hình như Trung không phải là đàn ông như tụi mình. Anh Nguyễn Tăng Chương trông coi tờ báo Sóng vốn là thầy dạy học của Trung ở trường Pétrus Ký không nhìn Trung nữa vì nó là em út của Nguyễn Hữu Nghĩa báo Làng Văn! Báo Làng Văn thù nghịch với báo Sóng. Sở dĩ báo Sóng chết ngủm cũng bởi báo Làng Văn...
Tôi có tới nhà anh Nguyễn Tăng Chương chơi mấy bữa. Anh ta bày bát Trung quá cỡ. Tôi có lời bênh vực Trung: "Thôi anh à! Anh đừng chấp nê trẻ nhỏ!". Anh ấy cự nự: "Trẻ nhỏ cái cóc khô gì, nó năm nay gần năm mươi tuổi đầu rồi chớ phải ít chi!". Thường thì mấy ông già hơi gàn. Chị Chương có nói anh ta khó tánh mà chị khuyên hoài chẳng được đến đỗi báo Sóng mỗi tháng chị phải bù vào trong đó hơn năm trăm đồng. Chị bảo anh nghỉ làm báo nhưng anh vẫn không chịu. Tôi nói chúng ta phải nhìn nhận những người làm báo hôm nay ở hải ngoại, tất cả là những anh hùng và mình phải có bổn phận giúp đỡ anh em đó mới đúng nghĩa. Hôm tờ báo Lửa Việt đóng cửa giải nghệ, Trung nói với tôi:
            - Nhóm Hải Triều là Việt cộng.
            Nó còn bảo Nghĩa nói với nó như thế mà. Tôi cự nự với Trung:
- Vậy chớ chú mầy là đệ tử của Phó tiến sĩ Lê Phước Sanh chuyên môn đắp tượng ông Hồ, sao người ta chẳng nói Trung là Việt cộng đi cho được việc! Ông thầy cũng sợ người ta chụp mũ, không lẽ phải đội nón sắt cả đời sao?
            Mùa hè năm 1996, thầy trò chúng tôi đi xuống Washington D.C. Như mọi lần thì vợ con Trung cùng đi theo. Nhưng năm nay thì lại khác. Tôi đoán biết chuyện nhà của Trung đang đến hồi cơm không lành canh không ngọt. Hỏi ra mới biết vợ nó đang gây chuyện. Phụ nữ vào lứa tuổi bốn mươi trở lên, cơ thể có khi suy yếu. Họ cảm thấy có thấp khớp hoặc đau lưng nhức mỏi. Có người bạn gái tới tiệm may áo, mách cho ý kiến, khuyên cô nàng đến bác sĩ nọ để tập Therapy. Cô ta khai là trước kia học Đại Học Khoa Học, nay có hiệu may thời trang. Anh bác sĩ Mỹ này bảo rằng cô nàng trẻ đẹp như thế, làm nghề may không tốt, ngồi khom lưng mỏi cổ như thế xương sống sẽ đóng vôi. Cô trước kia học khoa học, nay có thể tiếp tục học lên y khoa, nữa sau ra làm bác sĩ. Để có điều kiện đi học tiếp, cô có thể làm phụ tá cho anh ta. Cô nàng là người Việt có thể giúp anh ta thông ngôn cho các bệnh nhân Việt Nam đến chữa bệnh, mai sau sẽ có kinh nghiệm để mở phòng mạch làm ăn một mình. Anh ta bắt đầu hẹn cô nàng đi thực tập nơi một bệnh nhân ở Mississauga. Anh ta hẹn ngày mai gặp lại ở bến xe điện hầm đường Dundas West.
            Bữa nọ, Trung gặp bà xã đang đứng lớ ngớ ở bến xe điện hầm. Trung cập xe vào hỏi đôi điều, nhằm lúc anh chàng bác sĩ Mỹ nọ cũng vừa đến. Trung lôi vợ bỏ lên xe. Anh chàng Mỹ sấn tới gây gổ. Trung đấm cho hắn ta vài quả khiến hắn ta phải mời cảnh sát đến can thiệp. Nội vụ đưa đến thưa kiện. Anh chàng bác sĩ Mỹ cho rằng Trung làm nhục đàn bà ở ngoài đường. Từ đó khiến hai người không ngó mặt nhau. Tôi khôi hài an ủi:
            - Tại chú mày không biết vuốt ve con mèo. Cho dầu biết lỗi bây giờ mới vuốt thì mọi việc đã quá muộn rồi. Con mèo bỏ chạy qua nhà hàng xóm thì không thể nào bắt về được.
            Hơn nữa, về sau này khi bà xã của Trung về sống trong gia đình, một bầy em vợ và cha mẹ vợ xúm lại vẽ đường cho hươu chạy. Do vấn đề này có liên quan đến ba ngôi nhà trên đường phố Dundas. Có hôm Trung dẫn vợ con đi xem chiếu bóng đến mười giờ tối chưa về. Ông già vợ gọi điện thoại qua không thấy ai bắt phôn. Ông gọi qua kêu cứu ở Sở Cảnh Sát. Trong lúc Trung đang ngủ, cảnh sát  phá cửa xong vào, thấy thân chủ bình thân như vại chẳng xảy ra việc gì. Họ bèn bỏ ra về và còn bảo là "ông già vợ của chú mày kêu cứu!". Trung giận quá lớn tiếng bảo "ông già này điên!". Có thế mà cũng trở thành trận giặc. Vợ Trung quát tháo:
            - Ở với anh cả chục năm, tại sao bây giờ anh lại chửi cha tôi!
            Qua đến ngày mai, Trung lái xe đi làm. Chiều lại trở về, thấy vợ con biến mất. Có người đến đưa vợ con Trung vào Center of Abuse. Nơi đây họ cách ly, không cho người nhà gặp mặt. Người ta nói trung tâm này có cả chục ông luật sư thất nghiệp thường xuyên nằm phục trong đó kiếm ăn! Chờ cho có người nào rơi vào là họ xúm nhau bày vẽ đủ thứ để làm ăn. Có thể trong giai đoạn đầu, họ giúp đỡ, đến khi kiện tụng xong lấy lại được tài sản, họ mới tính tiền hồ sơ giấy tờ sau. Khách hàng bu lại hiệu may lấy lại vải vóc và tiền cộc. Người ta quát tháo chửi ầm cả lên. Vợ Trung đang làm ăn khá giả, thợ may làm việc cũng đến ba bốn người. Khi không bây giờ lại đi xin tiền xã hội. Trung có phôn qua cho tôi hay tình trạng của nó bi đát, bây giờ chỉ còn có nước tự tử! Tôi nói ở đầu dây điện thoại:
            - Nam nhi đại trượng phu, sao chú mầy nói gì kỳ vậy? Trung không nhớ lại năm 1982 khi Trung vừa lội lên đảo Bi-Đông cũng chỉ một thân, chẳng có đồng xu dính túi, chẳng có nhà cửa vợ con, thì bây giờ cũng vậy thôi. Mình khởi sự làm lại thôi chớ có gì đâu mà thất chí dữ vậy? Cuộc thành bại chỉ là sự thường tình. Có điều ta còn lại một tài sản lớn ở trên cõi đời này. Trong lịch sử mỹ thuật, từ Michel Angelo đến Rodin, chẳng có người nghệ sĩ nào có một mái ấm đàng hoàng. Tất cả toàn là những mối tình bị gẫy đổ. Trong hai vấn đề gia đình và sự nghiệp, họ chỉ thành công có một thôi. Đó là sự nghiệp của nhà làm nghệ thuật.
            Có một hôm, Trung đang làm trang trí cho một ngôi nhà nọ, tình cờ gặp lại hai đứa con của mình chạy đến chơi với lũ bạn ở trong nhà này. Thằng Hiếu, đứa lớn nay được mười bốn tuổi, cao lớn như người Mỹ. Đứa em là Hải, năm nay cũng lên sáu tuổi. Chúng nó gặp được cha mừng vô cùng. Trung ôm con vào lòng vuốt ve, hỏi thăm chuyện nhà. Hai đứa trẻ cho biết người đàn ông ngày đầu tiên chở mẹ con chúng nó vào Center of Abuse là chú Cường. Tên này làm cảnh sát ở Toronto và thường lui tới làm bạn với Trung. Hai người cũng tỏ ra rất thân tình. Cường thường hay về Việt Nam. Anh ta có một  cửa hàng trò chơi điện tử khoảng hơn hai mươi cái máy Game đủ loại để giải trí cho các cậu ấm con nhà giàu ở Sài Gòn.
            Trong chiến dịch giao lưu văn hóa của Việt cộng, chúng có cử bác sĩ Dương Đình Hùng và một nhóm họa sĩ sang trưng bày tác phẩm ở Toronto với chủ đề lấy tên là "Những Mảnh Vụn Của Đời Sống " (The Fragment of Life) về những người lính tan xác ở Đắc Tô, Đắc Sút, Pleime, Hạ Lào... Họ bảo là những hình ảnh mà đám nghệ sĩ của đảng bắt gặp trên những nẻo đường của đất nước. Phòng trưng bày là một căn phố khá lớn ở góc đường St. Claire và Robina, cờ quạt đang treo sẵn, có sự bảo trợ của những giới chức cảnh sát, ông Joseph và Davis Hứa. Những người này thuộc sở Department of Police Toronto. Tôi và Phạm Thế Trung đi uống cà phê ngang qua trụ sở Hội Người Việt có ghé thăm anh Nguyễn Duy Tuệ thì gặp một buổi họp quyết định về cuộc trưng bày triển lãm này. Sẵn dịp họ hỏi ý kiến tôi về giao lưu văn hóa. Tôi bảo văn hóa không cần có sự giao lưu vì nó vốn đã có sẵn từ muôn đời. Coi được thì dùng, không được thì bỏ a-lê-hấp. Thế là xong chuyện. Joseph có lẽ là ông cò cảnh sát, phân trần xin bỏ vấn đề chính trị ra khỏi tác phẩm mỹ thuật và kêu gọi ban chấp hành cộng đồng người Việt duyệt xét mấy thùng tranh đang để ở văn phòng Công ty Blaha. Tôi vẫn giữ một lập trường, nói:
            - Chúng tôi không chấp nhận trưng bày thì duyệt mấy thùng tranh làm gì?
            Rồi quay sang ông Joseph:
            - Xin lỗi, vấn đề truy lùng tội phạm thì tôi xin thua ông, chứ vấn đề xác định giá trị tác phẩm nó là sở trường của tôi. Tôi đã hơn chục năm làm giáo sư ở Trường Mỹ Thuật rồi mà!
            Anh chàng bảo trợ cho cuộc triển lãm "Những Mảnh Vụn Của Đời Sống" bị thua cuộc, thất vọng bỏ ra về. Có lẽ nó kể lại cho đám họa sĩ Việt cộng nghe về tên Hiếu Đệ. Cho nên đầu năm 1997 có đến ba tờ báo của Cộng sản ở Việt Nam xúm chửi tên Hiếu Đệ và tên Phạm Thế Trung. Tờ Thanh Niên, bài "Tổ quốc nhìn từ xa". Tờ Tuổi Trẻ, bài "Nỗi buồn của người Việt". Tờ Công An, bài "Chuyện văn hóa nghệ thuật ở nước ngoài".  Nhưng mà không sao. Mình đi cải tạo cả chục năm không chết, không lẽ bị báo Việt cộng chửi mà ta lại chết sao!

                                                                           **
            Phía bên vợ của Phạm Thế Trung thắng kiện. Họ lấy được ba cái nhà, bán tất. Còn Trung chỉ thắng có một điểm là không phải trả tiền trợ cấp hàng tháng. Ông Tòa nói Trung là nghệ sĩ, nhà cửa của nó bị lấy hết, bây giờ chỉ còn hai bàn tay trắng, còn bắt nó góp tiền trợ cấp hàng tháng cái gì nữa! Đàn bà con gái khi thương thương vội, khi lìa lìa xa. Chẳng những như vậy, họ còn đạp cho chết nữa là khác! Bây giờ, Trung cảm thấy như được trở lại cái thời độc thân vui tính, thuở hái hoa bắt bướm, không còn bị ràng buộc bởi gia đình vợ và con. Nó bảo người nghệ sĩ sống được qua những giây phút khó khăn này mình nên cám ơn Thượng Đế mới phải. Bây giờ nó mới thấy được tình yêu. Yêu nghệ thuật và yêu cái đẹp của thiên nhiên! Trung bắt đầu làm thơ đến đầy hết mấy quyển tập. Nó giữ tôi ở lại với nó cả tuần để nghe nó đọc thơ:
                        Chỉ Có Một Người
            Phương Bắc cách xa phương Nam bao nhiêu?
            Bình minh kia đi qua để lại một buổi chiều
            Trời cao đất thấp xa vời vợi
            Thế gian này ta chỉ có một người yêu.
                        Thương
            Thương em chép lại bài thơ
            Canh thâu thức giấc hững hờ gọi tên
            Thương em thương quá là thương
            Thương hình bóng cũ con đường em đi
            Mai kia dầu có chia ly
            Tên em vẫn gọi thầm thì giữa đêm.
                        Chờ nhau
            Để nụ cười dâng lên khóe mắt
            Cho gió tung, tóc phủ bờ vai
            Tình yêu còn đó.... những đêm dài
            Nhớ thương ngút ngàn... mây theo gió
            Nhìn lên trời thấy một vì sao...
            Bây giờ Trung ở một căn trại trống trơn như ngôi giáo đường, không có bếp, livingroom, diningroom... Chỉ có tượng và cái sofa để nằm. Ngày xưa, nhà thơ Hồ Dzếnh bảo rằng: "Tình chỉ đẹp khi hãy còn dang dở!" -  mà có dang dở, mới có phiêu lưu, mới có những mối tình khác bắt đầu chớm nở tốt đẹp hơn! Năm vừa qua, nhân dịp xuân Bính Tuất 2006, tôi đi dự tiệc cưới nơi gia đình người sui gia. Người con trai của gia đình này về Việt Nam cưới vợ đem qua Mỹ. Nay ra mắt bà con họ hàng ở San José, California. Trong lúc rảnh rổi, tôi dạo qua chợ Tết Vietnamese Center. Tôi có gặp cô Vũ Thị Ngà, cô giáo của Phạm Thế Trung lúc Trung học ở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn. Chúng tôi thăm hỏi nhau một hồi rồi mới nói chuyện đến Phạm Thế Trung. Cô Ngà hỏi :
- Anh biết gì không anh Đệ? Phạm Thế Trung nó có vợ rồi. Anh biết vợ nó là ai không?       
Tôi bảo rằng lâu nay tôi chẳng biết gì về Trung hết. Cô Ngà phân trần:
- Trung nó bậy ghê đó anh à! Nó lấy Giang vợ của họa sĩ Nghiêu Đề, bạn của anh Đệ đó. Hôm bữa Nghiêu Đề mất, nó có xuống California dự đám tang. Xong rồi ít ngày sau, nó đem Giang về Toronto luôn.
Tôi cười một hồi rồi nói với cô Ngà:
- Tôi xin hoan nghinh hai đứa nó luôn. Ít nữa họ cũng tự cứu chữa cho mình cái bịnh lonely. Một người mất vợ và một người vừa mới mất chồng.
Cô Ngà không đồng ý:
- Theo tôi, tối thiểu nó cũng phải để cho Giang mãn tang chồng ba năm rồi mới cưới hỏi đàng hoàng để Giang bước thêm bước nữa chứ!
Tôi trả lời:
- Đó là suy nghĩ theo thế hệ của chị, chứ bây giờ tụi mình sống ở Mỹ lâu năm rồi. Chị không biết con người lưu lạc ở nước ngoài, quê hương và người thân thuộc bị mất cả. Nay lại thêm mất vợ mất chồng nữa, chị có biết nó đau khổ đến mức nào không? Phải để cho người ta bớt khổ chứ!
Tôi nhớ tôi có gặp họa sĩ Nghiêu Đề lần sau cùng ở Toronto, Canada năm 1996. Con gái lớn của Nghiêu Đề được trúng Giải Văn Chương hay nhất toàn nước Mỹ. Cô con gái được thưởng đi du lịch ở Nhật Bản, còn cha mẹ được đi chơi ở Canada. Hôm đó, chúng tôi gặp nhau ở nhà thi sĩ Phan Ni Tấn. Chúng tôi cùng nghe Tấn đọc thơ và kéo đi chơi thác Niagara. Nghiêu Đề cho biết hai cô con gái của anh năm sau sẽ vào đại học và được học bổng tốt vì các cháu chẳng những học giỏi còn có nhiều năng khiếu. Qua ngày sau Nghiêu Đề từ giã chúng tôi để sang phi trường Bufalo về thành phố New York. Tôi thấy Nghiêu Đề có vẽ yếu ớt vì bệnh gan hay tái phát trở đi trở lại. Chính vì ốm yếu bệnh hoạn nên trong thời gian Tổng động viên toàn quốc, anh được miễn dịch vì lý do sức khỏe. Từ ngày tôi đứng ra sáng lập Hội Họa Sĩ Trẻ đến nay, anh em hội viên trẻ đã ra đi hơn phân nữa. Bây giờ đến lượt Nghiêu Đề và Mai Chững. Tôi đoán chừng như Phạm Thế Trung và cô Giang vợ của Nghiêu Đề đã yêu nhau từ nhiều năm rồi. Nay họ mới có dịp gần nhau đó thôi.

 Hiếu Đệ


                                                                 **

                               Tiếng Súng Đêm Giao Thừa

            Phía xã hội chủ nghĩa họ dồn ép con người vào đời sống của một trại lính. Con người phải thoát ly gia đình, không có quyền vương vấn thê nhi. Yêu thương chỉ là cái trò tiểu tư sản cần phải xóa bỏ. Nhà thơ Hoàng Cầm thương người vợ nghèo vẫn bị phê phán:
            Tôi có người vợ nghèo
            Đời vất vả gieo neo
            Lần hồi rau cháo dăm phiên chợ
            Ngực lép thân gầy áo tả tơi
            Đêm ba mươi gió thổi tôi bỗng nhớ con tôi
            Khóc thét lặng từng hồi
            Mẹ thời nước mắt nhiều hơn sữa...
Nhà thơ Hữu Loan khóc người vợ trẻ mất ở hậu phương:
            Sao không chết người trai ngoài khói lửa
            Mà chết người gái nhỏ miền xuôi
            Tôi về không gặp nàng
            Mẹ tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
            Chiếc bình hoa ngày cưới
            Nay thành bình hương tàn lạnh vây quanh...
            Trong lần phỏng vấn Nhà thơ Hữu Loan do đài BBC Luân Đôn, anh ta chưởi rủa:
            - Thuở nay vợ tôi chết, tôi làm thơ khóc vợ mà nó cũng cấm nữa. Ai có chịu nổi không? Khẩu hiệu của đảng là chỉ có chiến đấu và sản xuất để xây dựng xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Nhưng muôn đời đâu thấy đất nước giàu tí nào, có giàu chăng chỉ là mấy tên tham nhũng thôi.
            Ngày đầu Cộng sản tấn chiếm Miền Nam, các loại nhạc vàng, nhạc tiền chiến bị cấm hát. Các tụ điểm văn hóa chỉ cho hát các loại nhạc tuyên truyền của họ thôi. Như "Vùng lên nhân dân anh hùng" ca ngợi người du kích Đồng Khởi, "Dáng đứng Bến Tre" v.v... Đến 1985, chủ nghĩa Cộng sản ở Liên Xô và Bắc Âu bị suy yếu. Tổng Bí Thư Gorbachev kêu gọi Glasnost mở cửa, phải làm ăn với các nước tư bản. Phải đổi mới hơn là chết. Bãi bỏ chế độ bao cấp, cho phép buôn bán tự do. Ở Việt Nam, sau Đại hội đảng lần thứ VI, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cũng hô hào cởi trói cho người dân, cho phép nói thẳng nói thật. Quả bóng bị căng phồng quá lớn nay phải cho xã xú báp hoặc xì hơi bớt kẻo nó có thể nổ tung. Ngồi ở Câu Lạc Bộ Văn Hóa, tôi nghe bọn văn nghệ sĩ trong đảng chưởi toáng lên:
            - Bộ đảng xem bọn trí thức Bắc Hà này là trâu bò hay sao mà muốn trói hay muốn thả gì cũng được. Nay còn dạy chúng nó phải biết tự cởi trói cho mình. Người Việt Nam chúng ta đã trải qua thời đồ đá, đồ đồng. Nay chúng ta đang sống dưới thời đại đồ đểu sao?
             Đúng là tới lúc họ được khuyến khích chưởi đảng. Coi như chưởi được hồi nào hay hồi nấy. Vì  chúng biết trước thế nào rồi cũng bị trói gô lại thôi. Nhà văn Nguyễn Minh Châu viết bài kêu gọi hãy trả lại độc lập trong việc sáng tạo văn học nghệ thuật và chấm dứt vai trò minh họa cho các nghị quyết của đảng. Nhưng đó chỉ là một loạt bài cuối cùng ông viết trước ngày đi nằm nhà thương vì bịnh ung thư phổi. Nhà văn Nguyễn Tuân hôm mừng lễ thượng thọ 80 tuổi có tiết lộ rằng:
            - Sở dĩ ông sống tới ngày nay là cũng nhờ ông biết sợ đảng.
            Trong một buổi thuyết trình về đổi mới văn học nghệ thuật tại Hội quán Thành Phố, nhà văn Bảo Định Giang cho biết văn học của đảng Cộng sản ngày nay đã mất chất lửa. Nó yếu hẳn, ai cũng thấy rõ, không còn vùng lên, không còn sức đấu tranh như ngày trước. Ngọn lửa đó bây giờ coi như bị trao về cho bọn chống đối lại đảng. Vì bây giờ chúng ta không còn kêu gọi ai vùng lên nữa, nhỡ nó vùng lên giải phóng Tập Hai thì nguy hại cả đám sao? Từ những câu ca dao trong dân gian:
            Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu Công Lý
            Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do.
            Những câu bôi lọ châm biếm chiến thắng Điện Biên Phủ và đại tướng Võ Nguyên Giáp như:
            Ngày xưa đại tướng cầm quân
            Bây giờ đại tướng cầm quần chị em.
            Khôi hài đen và những câu thơ truyền khẩu trong dân chúng đã toát lên một sức chiến đấu thấy rõ. Trong khi đó, thi ca và âm nhạc của anh em hội viên văn học nghệ thuật lại hướng về yêu đương lãng mạn. Những khúc hát của Trịnh Công Sơn:
            Bao nhiêu năm rồi người vẫn ra đi
            Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
            Đi đâu loanh quanh cũng vòng nhật nguyệt
            Chỉ thấy trăm năm một cõi đi về.
            Trần Long Ẩn ngôi sao của trào lưu nhạc trẻ lại còn bi quan hơn cả Trịnh Công Sơn:
            Anh đi qua nhà em, không còn em ở đó
            Bâng khuâng chiều ba mươi
            Tối đen như màn trời
            Đi qua mùa lá rơi, ngỡ mùa thu đã tới
            Còn vượt đèo băng sông, giữa vòm trời mênh mông...
            Anh đã mất em rồi... Có thể em đã đi vùng kinh tế mới, hay có thể em đã vượt biên. Em hiện là thuyền nhân ở trại Palawan, trại Sikiew hay Hồng Kông cũng không chừng... Đối với chủ nghĩa Cộng sản, tình yêu và tôn giáo bị xóa bỏ. Dưới chính thể này chỉ có "lao động là vinh quang, lang thang là chết đói". Thành phần thanh niên không thoát ly gia đình vào đội ngủ thanh niên là những phần tử lưng chừng bị đánh giá thấp. Về phía văn nghệ sĩ của chế độ ưu việt "bách chiến bách thắng" nay nhận diện mình đang bị trói chẳng bao giờ được giải thoát. Việc cởi trói hay đổi mới sau Đại hội đảng lần thứ VI cũng chỉ là một thứ lạt mềm buộc chặt. Ai cũng tưởng sau thời gian hy sinh cho cuộc chiến tranh Việt Nam để hôm nay được sống trong thanh bình dễ thở, nào ngờ đâu đất nước lại gánh thêm một cuộc chiến khác càng khốc liệt hơn. Hằng ngàn thanh niên đã ngã xuống trên chiến trường Campuchia, hằng vạn trai trẻ lại khăn gói lên đường. Việt cộng gọi là đi làm nghĩa vụ quốc tế. Chiến tranh dai dẳng suốt nửa thế kỷ nay rồi. Người dân không một ai còn muốn nghe những tiếng gọi bước vào lò lửa sát sinh nữa. Nơi các tụ điểm văn nghệ quận huyện và thành phố, thanh niên chỉ thích nghe các loại nhạc êm dịu, nhạc tiền chiến, nhạc vàng. Những khúc nhạc đương thời "Người nữ tự vệ Sài Gòn", "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây", "Dáng đứng Bến Tre", từ bộ đội đến công an họ bịt tai không còn muốn nghe nữa. Người xướng ngôn viên chỉ mới giới thiệu tên bài thôi, khác giả la ó huýt sáo kêu dẹp ngay. Họ đành phải hát nhạc tiền chiên của thời bình. Những nhạc sĩ đảng viên cũng khởi sự sáng tác những tình khúc mới, ca ngợi tình yêu lứa đôi.
            Ngày mới ra trại trở về thành phố, tôi được nghe văng vẳng trên các làn sóng đài phát thanh Sài Gòn bản nhạc "Người Lính Trẻ" của nhạc sĩ Xuân Hồng:
            Đường phố ơi hãy lặng yên
            Chim ơi đừng bay nhé
            Và hoa ơi hãy tỏa hương
            Và cây ơi hãy rung thật khẽ
            Cho đôi bạn trẻ đón xuân về.

            Khi mặt trận bình yên
            Anh lính về thăm xóm
            Cô gái vừa tan ca
            Họ gặp nhau, cùng chờ nhau
            Cùng khát khao hạnh phúc.

            Khi tạm biệt người yêu
            Anh lính về biên giới
            Cô gái vào ca ba
            Họ tạm chia tay, cùng chờ nhau
            Cùng khát khao hạnh phúc.

            Ôi hạnh phúc không chỉ có cơm ăn và áo đẹp
            Và mùa xuân đâu chỉ có hoa thơm và nắng hồng
            Tạm biệt rồi
            Môi vẫn đọng lại những nụ hôn.
            Trong năm đó, người ca sĩ nổi tiếng với ca khúc này là nữ ca sĩ Ngọc Anh, tiếng hát trẻ vừa đoạt huy chương vàng Thành phố Hồ Chí Minh. Cô là một tài năng mới với giọng oanh vàng, lấn át cả đám ca sĩ đàn chị trong thời đại đổi mới của niên khóa 1986-1987. Với vẻ đẹp của một cô gái lai Mỹ như Quang Dũng diễn tả trong bài thơ "Đôi mắt người Sơn Tây". Cuộc đời của nàng cũng truân chuyên đau khổ vô cùng đúng như câu thơ của cụ Nguyễn Du "hồng nhan bạc phận". Trong cuộc đổi đời, mẹ nàng bị mang tiếng là người có con lai phải bị đi vùng kinh tế mới. Học hành của con cái bị gián đoạn. Qua thời gian làm ăn thất bại ở trong rừng, gia đình nàng lại trở về xóm cũ ở quận Phú Nhuận. Nàng có người yêu là Sinh, một thanh niên cùng xóm và cùng lớp những năm trước. Hai người yêu nhau từ lâu. Gia đình Sinh cũng thuộc thành phần chính trị hạng C. Sinh đánh đàn guitare và tập cho nàng học hát từ lúc còn trên ghế nhà trường. Cuộc đời trôi nổi làm khả năng âm nhạc và ngón đờn của Sinh thêm dày dạn và điêu luyện hẳn. Hiện nay Sinh đang giữ guitare của Ban Văn hóa Thông tin Quận Mười ở đường Trần Quốc Toản. Cũng nhờ tiếng đàn của Sinh thường xuyên tập luyện nên tiếng hát của Ngọc Anh vượt hằn từ phường, xã, huyện lên đến cấp thành phố và cả nước. Nhưng đến khi nàng trở thành ca sĩ nổi danh thì cuộc đời lại đổi khác.
            Mẹ nàng đứng ra lo cho tương lai của nàng. Bà sắp xếp cho Ngọc Anh gặp gỡ anh chàng Đại úy Dũng, thuyền trưởng chiếc tàu viễn dương số 7 ở bến Bạch Đằng. Vào thời điểm này chỉ có những chiếc tàu viễn dương mới có khả năng đi buôn lậu hàng nước ngoài và đưa người trốn ra nước ngoài để chui vào các trại tỵ nạn ở khắp các vùng Đông Nam Á. Dĩ nhiên họ chém với một giá rất cao. Anh chàng Dũng xây cho mẹ Ngọc Anh một căn phố lầu thật đẹp ở Ngã Ba Ông Tạ, Phú Nhuận và bảo đảm đời sống của bà bằng giao cho bà ta đi thu gom tiền đô la quanh phố để Dũng đi buôn. Dĩ nhiên, ai cũng biết Đại úy Dũng thuộc giòng giỏi con ông cháu cha, tức thứ cán bộ hạng gộc. Đám này đang nằm ngay trong Trung ương đảng. Tình yêu của anh chàng nhạc sĩ nghèo như bị đánh bật ra ngoài bởi uy quyền và thế lực của đồng tiền. Đó là điều chắc chắn. Ở ngoài mồm người ta hô hào đấu tranh giai cấp đâu chẳng thấy chỉ thấy mình càng nghèo thì lại càng bị giai cấp và quyền lực chà đạp, khinh rẻ. Bà Sáu, mẹ của Ngọc Anh có thái độ cấm chỉ không muốn cho Sinh gặp nàng. Bà cũng ngỏ ý thuê một tay đàn guitare khác đến tập cho nàng hát các bài mới. Trong khi đó Ngọc Anh là một ngôi sao đang lên. Nàng đang được những ca sĩ đàn chị trong thành phố và các nhà tai mắt lãnh đạo các ngành văn hóa thông tin để ý chiều chuộng. Bọn đảng viên còn tính chuyện đẩy anh chàng Sinh này đi thật xa, đến chiến trường Campuchia hay Lạng Sơn cho êm chuyện.
            Con người Cộng sản họ hiểu sai, họ thường bảo tình yêu là cái trò tư sản. Cũng như tôn giáo là một thư á phiện để giai cấp thống trị và phong kiến trói buộc con người. Nhưng bây giờ họ lại trở thành một bọn thống trị mới, một thứ tư sản đỏ đang cướp đoạt hạnh phúc và đức tin con người bằng uy quyền và bạo lực. Albert Camus trong quyển "L'Homme Révolté" có nói:
            - Con người vô sản đứng lên làm tương lai của mình bằng bạo lực để sau cùng họ chết dở sống dở bởi chính quyền bạo lực của chính họ.
            Như vậy bắt buộc họ phải nổi loạn một lần nữa. Đó là luật đương nhiên. Cũng vì thế câu chuyện sẽ đến... phải đến. Đêm giao thừa 1987, giữa lúc thành phố Sài Gòn đang đón xuân. Hoa đèn sáng rực. Người ta đi lại tấp nập. Vào lúc không giờ, Sinh xuất hiện trong nhà Ngọc Anh. Chàng đi thẳng lên lầu với khẩu AK 47. Giữa lúc cả nhà Bà Sáu đang có đủ mặt để đón giao thừa. Đại úy Dũng cùng đám cán bộ và đám ca sĩ đang nâng ly rượu mừng. Sinh xuất hiện trước cửa phòng. Chàng lấy chiếc khăn trắng chít lên đầu để tang cho cha mẹ rồi đưa súng ra hỏi tội đám người. Xong chàng lia một băng AK. Tiếng súng lẫn vào tiếng pháo mừng đêm giao thừa của thành phố. Trong cảnh mờ mịt của khói súng, Sinh quay súng bắn vào người tự tử. Theo bài tường thuật của báo Sài Gòn Giải Phóng thì đám cán bộ Thông tin Văn hóa Quận Mười đang bảo vệ an ninh cho nhà hát thành phố đường Trần Quốc Toản. Sau cử nhậu mừng xuân chiều ba mươi Tết, tất cả ai về nhà nấy. Chỉ còn lại ông Ba Già ở lại phụ trách vọng gác phía trước cổng. Sinh đến tử tế nói với ông Ba để cho anh gác thế cho ông để ông được về nhà thắp hương rước ông bà. Ông Ba uống từ chiều đến giờ cũng bừng bừng cơn say, nghe Sinh nói phải quấy, ông ta rất cảm động lại còn khen anh chàng này sao tử tế quá. Ông bèn giao vọng gác cho anh để đi về. Không dè Sinh xách khẩu AK đi thẳng đến nhà Ngọc Anh chấm dứt cuộc tình ngang trái vào lúc đêm Giao Thừa.
            Từ đêm Xuân năm đó, tôi không còn nghe đài phát thanh Sài Gòn hát bài "Người Lính Trẻ" nữa và người ca sĩ nổi tiếng trong bài hát cũng không còn:
            Khi tạm biệt người yêu
            Anh lính về biên giới
            Cô gái vào ca ba
            Họ tạm chia tay cùng chờ nhau
            Cùng khát khao hạnh phúc.
            Ôi, hạnh phúc đôi bạn trẻ
            Tuy đơn sơ nhưng nóng bỏng
            Mùa Xuân đâu chỉ có hoa thơm và nắng đẹp
            Tạm biệt nhau rồi còn đọng lại những nụ hôn.
            Tình yêu như bừng sống trong tiếng pháo Giao Thừa. Tình yêu đã về lại trong thành phố thân yêu nay bị mang tên mồ ma Hồ Chí Minh. Tình yêu nổ vang như xác pháo vang lên trong trái tim của người tuổi trẻ. Bắt đầu năm đó nhà nước không còn cho tiếng pháo nổ trong đêm Giao Thừa nữa... Đã nhiều năm qua, người dân thành phố bị bóp nghẹt bởi chế độ quản lý hộ khẩu, khốn đốn vì chén cơm manh áo. Ngày nay người dân nhận diện ra hạnh phúc con người không phải chỉ bằng cơm ăn áo mặc. Mùa Xuân không phải chỉ có hoa thơm và nắng đẹp mà còn có những ý tưởng cao quý hơn. Trong đó có cả tình yêu và đức tin tôn giáo. Con người sống và hít thở bằng không khí tự do dân chủ. Mặc dầu kẻ thống trị có nhân danh chủ nghĩa nào đi nữa cũng phải tôn trọng những quyền tối thiểu của con người. Không ai được quyền xâm phạm quyền tự do tư tưởng và tự do tín ngưởng. Những ý niệm về dân chủ và nhân quyền này đã có từ bao nhiêu thế kỷ.
            Mấy ngày Tết chúng tôi có dịp theo gia đình đi lễ chùa Xá Lợi, phía sau trường Nữ Trung học Gia Long. Thấy tang lễ của Sinh được tổ chức ở nhà quàng phía sau chùa. Tôi gặp đám anh em ký giả làm báo hồi chế độ cũ hỏi ra mới biết Hà Đức Sinh người nhạc sĩ đánh đàn guitare dạy hát cho ca sĩ Ngọc Anh là con trai của anh Hà ĐứcMinh, Chủ bút kiêm Chủ nhiệm tờ báo Bông Lúa, tờ báo của đảng Cần Lao Nhân Vị dưới thời Đệ nhứt Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Anh Hà Đức Minh là người đốt đuốc trong những buổi lễ tuyên thệ của các đảng viên trong đảng. Anh tự hào tên anh là đích thực còn Hồ Chí Minh là tên giả, trên giấy tờ là của một người khác. Họ Hà lớn hơn Hồ, chí lớn hơn, đức anh cũng là một lãnh tụ rất quan trọng. Cho nên anh không công nhận việc làm nông nổi của Sinh. Anh cho đó là tầm bậy vì một đứa con gái lai không ra gì của gia đình một me Mỹ mà hy sinh như thế. Anh không công nhận Sinh là con nữa. Anh  không cho đem xác con về với gia đình và người mẹ đem linh cửu của Sinh quàng ở phía sau chùa Xá Lợi để bà con đến phúng điều. Chúng tôi nghĩ cũng có một phần là gia đình sợ liên lụy đến cha mẹ nên anh mới làm như thế thôi. Sự hy sinh của Sinh là một nổi loạn tranh đấu cho quyền làm người được sống và được tự do yêu đương, tự do tín ngưởng, tự do học hành như đã ấn định trong Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1988 mà Việt cộng đã ký kết và công nhận mà không thi hành đứng đắn. Gia đình họ Hà cũng có nhiều tay làm lớn cả bên này và bên kia chiến tuyến nên tang lễ của Sinh mới được tổ chức êm đẹp như vậy chứ không phải như đối với anh em cải tạo bọn chúng tôi đâu.           
                                   
                                                                                                                Hiếu Đệ

                                                              **
                             Câu Chuyện Bé Ký
                & Hồ Thành Đức        
             
            Sở Thú sau vụ Tổng công kích Mậu Thân của Việt Cộng trở nên vắng khách. Những giới quân sự trên Bộ Tổng Tham Mưu đánh giá Sở Thú là một khu rừng rất quan trọng nằm giữa Thành phố Sài Gòn. Việt Cộng có thể từ khu Rừng Sát lẻn vào bằng ngõ Thị Nghè, độn nhập vào Sở Thú làm bàn đạp tấn công những cơ sở đầu não của chính phủ như Dinh Độc Lập, Dinh Thống Nhứt và Tòa Đại Sứ Mỹ mà quân đội không thể trở tay kịp. Do vậy, họ giao cho Cục Tâm Lý Chiến đóng quân bên trong Sở Thú, không cho dân chúng vào đây nữa nhằm kiểm soát an ninh khu vực này. Phòng Báo Chí chúng tôi được chia ra thành trung đội ứng chiến để giữ an ninh Sở Thú trong thời chiến. Tuy vậy trong Sở Thú vẫn còn những cơ sở của nhà nước đang làm việc trong ấy. Nhân viên công chức còn cả trăm người. Như ở đầu ngõ có trường Viễn Đông Bác Cổ và Viện Bảo Tàng Lịch Sử. Bên trong Sở Thú có chi đội Thú Y để chăn nuôi thú. Sở Trồng Trỉa và Chi đội Cảnh Sát vẫn làm việc như thường lệ.
Tôi thường đi vào Sở Thú rủ mấy người bạn họa sĩ đi uống cà phê vì trước đây tôi có quen với họa sĩ Trần Văn Thọ và Trần Đắc. Các anh ấy là họa sĩ tự do, không có tốt nghiệp trường Mỹ Thuật. Nơi đây thường chia bè chia phái nên các anh rất thích tôi. Các anh là nhân viên của trường Viễn Đông Bác Cổ kể cả anh Sáu Ớt làm Giám đốc Sở Trồng Trỉa. Mỗi lần tôi nhận lãnh nhiệm vụ thiết kế những khu vườn nơi tư thất của các tướng lãnh thì anh Sáu Ớt đảm nhiệm việc thực hiện một số cây trồng. Do sự làm ăn với nhau nên bọn tôi rất thân tình như anh em ruột thịt.  Nhà của anh Sáu Ớt ở ngay trong khuôn viên Sở Thú, quay mặt về phía Cục Tâm Lý Chiến. Tôi thường ghé qua chơi bên anh ấy mỗi ngày.
Trải qua một thời gian dài trong quân ngũ, tôi được trở về đời sống dân sự. Tôi không còn mắc võng nằm trong Sở Thú và uống cà phê với bạn bè trong ấy nữa. Tôi trở về cuộc đời công chức sáng xách ô đi chiều xách ô về, giảng dạy ở trường Mỹ Thuật Sài Gòn và trường Mỹ Thuật Huế. Mãi đến lúc tôi bị tập trung cải tạo cho đến khi được thả về, anh em cũng không hề hay biết. Đến khi tôi đi lang bang ở Sở Thông Tin Văn Hóa quận Phú Nhuận, tôi mới gặp lại anh họa sĩ Trần Đắc. Anh đương kẽ panneaux ở đây. Tôi lọ mọ đến hỏi thăm tình hình thì anh cho biết:
- Anh em họa sĩ tụi mình mà không có công ăn việc làm thì bị xóa hộ khẩu và đuổi đi kinh tế mới.
Anh mới xin vào đây kẽ bản hiệu thông tin tuyên truyền để được ở lại Sài Gòn. Anh còn bảo nếu tôi bằng lòng kiếm việc ở đây, anh sẽ xin anh Tư Bình cho tôi làm việc ở đây luôn. Anh Tư Bình ô kê cho tôi làm việc ở quận với vai trò tô nền kẽ chữ làm khẩu hiệu và mở lớp dạy vẽ ban đêm cho trẻ em nào thích Hội Họa. Anh Trần Đắc còn nháy mắt với tôi :
- Thì bây giờ mình cứ dạy lớp vỡ lòng. Vài ba năm sau chúng nó lên lớp chuyên nghiệp và có nghề cao hơn thì chỉ có anh mới có đủ khả năng và đủ kiến thức chuyên môn. Dĩ nhiên anh em sẽ giao lại cho anh thôi.
             Tôi chấp nhận theo anh Trần Đắc vào văn phòng gặp anh Tư Bình, Trưởng ban Thông Tin Văn Hóa quận Phú Nhuận để ký đơn nhận việc. Thì cũng ngay buổi đó, Tổng bí thư Lê Duẩn đi từ phi trường Tân Sơn Nhứt vào Sài Gòn ngang qua quận Phú Nhuận. Ông ta dừng lại vì thấy có mấy tấm panneaux vẽ cổ động khuyến khích dân Sài Gòn đi về vùng kinh tế mới. Trong tranh có vẽ hình một em bé khăn quàng đỏ ôm quả bí. Để vẽ rõ quả bí, họa sĩ lại vẽ thành ba sọc màu đỏ. Ông ta dừng lại bắt lỗi nói :
- Đã giải phóng mấy năm nay rồi mà ngày nay còn vẽ cờ ba sọc đỏ! Vậy là ý gì?
Lại một bức khác vẽ hình Hồ Chí Minh nhìn vào bản đồ miền Nam nói: «Miền Nam trong trái tim ta». Họa sĩ lại vẽ mặt Hồ Chí Minh được chia ra từng mảnh theo phái lập thể Picasso. Ông ta hỏi tại sao vẽ chân dung Bác Hồ kính yêu giống như mặt quỷ. Vậy là bôi bác lãnh tụ sao? Có thế mà ngài bí thư kêu Tư Bình lên rầy rà thiếu điều lột chức anh ta. Anh Trần Đắc nói với tôi:
- May là anh em mình chỉ khiên bản hiệu và bôi nền, chứ vẽ nhăn vẽ cụi là đi tù cả đám rồi. Tuyên truyền cũng khó khăn lắm chứ chẳng phải chuyện dỡn chơi đâu. Làm thông tin văn hóa là họ chỉ để cho bọn mình hụ hợ thôi, chứ vị trí của bọn mình được bao nhiêu kí lô mà thủ vai chính.
             Không được bao lâu, lớp Hội Họa của anh em chúng tôi được học viên ghi danh rất đông. Lý do vì nhà nước tuyển sinh, bày ra rất nhiều nguyên tắc rất khó khăn, phải đứng trên lập trường giai cấp. Thành phần hồ sơ chính trị hạng C như nhân viên công chức và con cháu của sĩ quan ngụy thì không được thi vào trường Mỹ Thuật. Nơi đây họ đào luyện một cán bộ tuyên truyền chứ không phải là một anh nghệ sĩ chỉ lo phụng sự nghệ thuật. Vì thế, thanh niên ghi danh lớp Hội Họa ban tối của chúng tôi rất đông. Do đó, chúng tôi mới quyết định làm giấy tờ xin tổ chức thêm lớp ban ngày và qui tụ thêm giáo viên và người  giảng huấn. Chúng tôi thuê địa điểm của nhà quảng cáo Kim Tiền nơi dốc cầu Phú Nhuận, mời thêm họa sĩ Vi Vi (Võ Hùng Kiệt) và họa sĩ Phi Long về hợp tác.
Anh Tư Bình còn phát triển Nhà Văn Hóa ở đầu đường Trương Tấn Bửu. Anh ta tổ chức những buổi nói chuyện về văn học nghệ thuật như thi sĩ Chế Lan Viên nói về «Thi ca cách mạng», Bảo Định Giang nói về «Lửa trong thi ca mới», Diệp Minh Châu nói về  «Hồ Chí Minh những ngày ở chiến khu Việt Bắc» và những đêm ca nhạc của những ca sĩ vừa được huy chương vàng của Thành phố thuở đó. Những ngày cuối tuần, thứ bảy và chúa nhựt, anh em họa sĩ thường tổ chức lớp vẽ ở trên phố lầu của nhà tôi. Các anh có nhờ cô Phương, bạn cùng lớp với họa sĩ Nguyễn Minh Tâm và Thanh Trúc đến ngồi mẫu để luyện tranh sơn dầu. Có khi cũng có thuê người mẫu khỏa thân của trường Mỹ Thuật. Trong số anh em họa sĩ vẽ tranh chỉ có anh Trần Đắc là giàu nhứt vì anh có người con trai vừa vượt biên đến được Mỹ, tháng nào cũng gởi cho một thùng đồ. Vì vậy, anh dành trả tiền cô ngồi mẫu cho anh em.
Anh Trần Đắc rất vui tính. Những khi vẽ tranh, anh thường hay kể chuyện vui. Anh em cứ bảo anh Trần Đắc là bố nuôi của nữ họa sĩ Bé Ký. Anh ta xác nhận là có vì đầu đuôi câu chuyện như sau. Năm 1954, Hội nghị Genève kết thúc; đất nước ta bị phân chia hai miền. Chính phủ Ngô Đình Diệm đưa hàng triệu người Bắc di cư vào Nam. Năm đó, Bé Ký khoảng mười hai tuổi. Chị ta là đứa bé bán đậu lạt rang. Bữa đó, Bé Ký thấy người ta đứng lố nhố rất đông trên boong của chiếc tàu Hải Dương. Bé liền xuống tàu để bán với hy vọng là mình sẽ bán hết mớ lạt rang đó. Nào dè đâu trong lúc mải mê bán hàng, chiếc tàu  nhổ neo rời bến hồi nào chẳng hay biết. Bé Ký đứng trên boong tàu khóc bù lu bù loa. Anh Trần Đắc thấy bé khóc tội nghiệp. Anh đến gần an ủi. Anh bảo bé đừng có khóc nữa! Anh hứa sẽ đem bé về dưỡng nuôi như con mình và sẽ cho bé ăn học đàng hoàng. Anh trở thành bố nuôi của bé.
Từ dạo đó, bé theo anh Trần Đắc về đến điểm định cư. Tuổi của bé cũng lở cở để vào trường học nên anh để bé ở nhà làm những công việc vặc vạnh. Như giúp anh để bồi tranh, tô đồ những hình mẫu do anh vẽ và học chút đỉnh cơ bản hội họa. Thật ra anh Trần Đắc thuộc loại họa sĩ dân gian chứ không có tốt nghiệp cơ bản ở một trường sở nào cả. Anh chỉ học ở cụ Nam Sơn và họa sĩ Mạnh Quỳnh rồi cũng bỏ nửa chừng. Anh Trần Đắc chuyên vẽ tranh lụa như anh họa sĩ Trần Văn Thọ. Có điều anh Trần Đắc chuyên vẽ những tranh đông người như hội làng, hội xuân và cảnh đi chùa. Người Pháp mang tinh thần thuộc địa và văn hóa cổ Việt Nam. Họ rất thích tranh của Trần Đắc. Còn đám người theo văn hóa mới, họ không thích mấy.
Tôi nghe người ta đồn đãi về chuyện xích mích giữa Bé Ký và gia đình Trần Đắc. Tôi đoán chừng ra  người con nuôi nào lại chẳng phàn nàn gia đình cha mẹ nuôi mình và ngã theo thiên hạ ở ngoài đường. Mặc dầu cha mẹ nuôi có đối xử tốt cách mấy cũng phải bị mang tiếng là khó khăn và hẹp hòi với con cái. Tôi biết tánh tình anh Trấn Đắc. Anh ta hiền như bụt mà bị mang tiếng là đánh đập Bé Ký khiến cô ta phải ra đi với hai bàn tay trắng. Bây giờ, anh Trần Đắc không còn nữa, nghe đâu anh ta mất bên Mỹ năm 1997.
Thử hỏi Bé Ký làm sao đền đáp được công ơn dưỡng nuôi của cha nuôi của mình được. Hơn nữa anh Trần Đắc đã dạy dỗ cô ta đã trở thành một nữ học sĩ có danh hôm nay. Dựa vào tiếng đồn của thiên hạ làm cho anh Trần Đắc mang tai tiếng xử tệ với Bé Ký khiến cô ta bỏ nhà ra đi, trở thành một đứa trẻ không nhà trong lúc đất nước đang chiến tranh. Trong hoàn cảnh đó, Bé Ký xin được sự giúp đỡ của các hội từ thiện như Hội Cha Mẹ Nuôi Quốc Tế, Hội Trẻ Em Mồ Côi, Enfants S.O.S. Trong số các trẻ em được giúp đỡ chỉ có mỗi mình Bé Ký là họa sĩ có tiếng tăm nên cô ta rất được nâng đỡ. Những phòng trưng bày ở thành phố Sài Gòn cũng sẵn sàng ưu tiên cho Bé Ký trình bày. Các nhà bình luận hội họa lại chịu khó viết bài nâng đỡ và ủng hộ Bé Ký. Họ còn bốc thơm Bé Ký là một thiên tài khiến cô ta trở nên khá giả hơn các họa sĩ tốt nghiệp của trường Cao Đẵng Mỹ Thuật Sài Gòn. Người ta chẳng bao giờ biết được họa sĩ Trần Đắc là cha nuôi của Bé Ký mà họ chỉ biết Bé Ký thôi.
Năm 1965, tôi và Đại úy Ngy Cao Nguyên đứng ra thành lập Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam, qui tụ một số anh em trên dưới ba mươi tuổi. Dựa vào chính quyền Quân Đội lúc đó, chúng tôi được cấp cho chúng tôi miếng đất ở đường Lê Thánh Tôn trước kia nhà nước bảo hộ Pháp dùng để xây khám lớn. Đại tá Lưu Kim Cương ở Tân Sơn Nhứt cho một số nhà tiền chế làm trại của quân đội Mỹ. Chúng tôi cử Hồ Thành Đức vào tháo gỡ đem về xây cất thành trụ sở và phòng triển lãm của Hội Họa Sĩ Trẻ. Theo chỗ chúng tôi được biết Hồ Thành Đức là chồng của Bé Ký. Chính nhờ cái tài tháo vác của Đức, chúng tôi cử anh ta làm Tổng thư ký của Hội. Đức sinh trưởng ở Đà Nẵng. Trước đó anh ta là học trò của tôi ở trường Mỹ Thuật Huế dưới thời họa sĩ Mai Lan Phương thay thế Tôn Thất Đào làm giám đốc. Bữa đó, tôi và giáo sư Trần Kim Hùng vào trường thấy lố nhố trước cổng trường rất nhiều sinh viên đang đánh đấm túi bụi một sinh viên khác. Chúng tôi đoán chắc người bị đánh chẳng ai xa lạ hơn là một bạn học cùng lớp với họ. Tôi bàn tính với Trần Kim Hùng:
            - Sinh viên không được đánh đập tơi bời một bạn học như vậy dù anh ta có vi phạm trầm trọng nội qui của trường. Chuyện đâu còn có đó. Đừng làm mất nhân phẩm của người ta như thế. Nếu là sinh viên của trường thì mình sẽ đưa ra hội đồng kỷ luật vào cuối tuần. Còn nếu là người ngoài thì mình hãy giao cho cảnh sát để họ giải quyết.
Tôi với Trần Kim Hùng nhìn kỹ lại thì ra người bị đánh lại là Hồ Thành Đức. Bọn tôi đưa Đức vào văn phòng. Tôi bàn với Đức:
- Dầu sao câu chuyện cũng đã dĩ lỡ như vậy rồi. Nội qui của trường là nội qui mà ai cũng phải tuyệt đối tôn trọng. Bây giờ mình nên tìm cách giải quyết thôi.                         
Tôi bàn cho Đức một lối thoát. Đức cứ làm đơn rút hồ sơ vì lý do gia cảnh xin nghỉ học để khi nào yên ổn, Đức xin đút đơn đi học lại cũng chẳng muộn. Chứ bây giờ để đưa ra hội đồng kỷ luật cho họ xử thì tương lai sẽ nát hết. Đức nghe tôi vẽ đường cho hươu chạy rất có lý. Ngày mai anh ta đến xin rút hồ sơ nghỉ học luôn. Tôi còn vận động với hai anh Mai Lan Phương và Lê Ngọc Huệ, đám họa sĩ ra dạy học ở Huế:
- Chúng mình ra dạy ở Huế dầu sao cũng tha phương cầu thực, giống như các sinh viên từ Sài Gòn ra học ở trường Huế. Chúng ta nên xử đẹp với sinh viên và giúp đỡ họ, hơn là xử theo kỷ luật để ngày mai thầy trò còn gặp nhau trên con đường làm việc cho nghệ thuật.
Về sau, khi làm ăn khấm khá, Đức đưa đơn vào trường Mỹ Thuật Sài Gòn. Lúc đó dưới thời thầy Lê Yên làm giám đốc để xin học lại và thi lấy bằng tốt nghiệp. Lúc này cũng dưới trào Quân Đội, trường Đại Học Mỹ Thuật được nâng lên bảy tám năm để thanh niên được rộng rãi trốn nghĩa vụ. Chế độ giảng dạy trở nên bê bối. Thành phần con ông cháu cha có tiền được mua lấy mảnh bằng và kéo dài năm học. Họ gọi là mấy ông tiến sĩ Mỹ Thuật. Sinh viên đa phần lại xuống đường bỏ học. Tình hình chiến tranh ngày một lên cao mãi đến khi Việt Cộng tấn chiếm Miền Nam.
Anh em Hội Họa Sĩ Trẻ thường nói chơi với Hồ Thành Đức là phải để cho anh ta xí gạt mình một không (1/0), anh ta mới vui. Chứ mình bắt lỗi hay cự lại thì anh ta hay buồn. Cho nên Bé Ký thường phàn nàn là anh chồng hay xí gạt chị. Anh ta bảo với chị, anh ta là họa sĩ tốt nghiệp trường Mỹ Thuật ra. Đến chừng ở với nhau đến hai ba mặt con rồi Bé Ký mới biết ra là mình bị gạt nên chị ta buồn khiến cho Hồ Thành Đức phải lục đục đi học lại. Giữa năm đó tuổi anh ta đã già hơn hết trong lớp. Anh em họa sĩ cùng lứa gọi anh ta là Ông Bé Ký vì nữ họa sĩ Bé Ký có tên tuổi và tài hoa hơn chồng. Dĩ nhiên là Bé Ký thực sự có tên tuổi hơn chồng mình. Anh em bảo là đỉa đeo chân hạc là vậy.
Ngày tôi đi học cải tạo về lại Sài Gòn, tôi thường ghé lại nhà của Bé Ký và Hồ Thành Đức ở ngõ hẻm đường Đinh Tiên Hoàng. Lúc này anh ta làm ăn khấm khá. Việt kiều về nước thường hỏi mua tranh của Bé Ký nên cô nàng cặm cụi vẽ suốt ngày. Còn anh chồng thì sáng sáng ngồi ở quán cà phê với bạn bè.  Nhưng anh ta có rất nhiều mánh lới và biết phát huy làm ăn. Anh tổ chức một xưởng sơn mài và đưa anh em bạn học về làm sơn mài lên một số tranh của Bé Ký. Dĩ nhiên là tranh sơn mài bán được cao giá hơn tranh vẽ trên lụa.
Nghe đâu những năm này Bé Ký có tiền, cô nàng về lại Hải Dương thăm quê cũ tìm lại quê hương của mình và xây sửa lại nhà từ đường của dòng họ. Cũng nghe đâu ông cụ thân sinh ra Bé Ký mất trong trận Điện Biên Phủ, mấy người em của Bé Ký được làm việc nơi văn phòng Trung ương Đảng ở đường Hồng Thập Tự. Tôi có hỏi lại Hồ Thành Đức về tin này thì anh ta bảo là họ làm ban dịch vụ ở văn phòng, có lẽ là họ coi sóc vệ sinh quét dọn, pha trà, mở máy lạnh, mở đèn... chứ đâu phải là ông tai to mặt lớn gì đâu. Bé Ký phải cung cấp tiền bạc cho họ xài mới đủ.
Đến ngày gia đình tôi đi Mỹ theo diện H.O. tôi lại gặp gia đình Bé Ký và Hồ Thành Đức cùng ở một trại với tôi ở Phi Luật Tân. Cô ta ở Vùng 5 còn tôi ở Vùng 10 trại Bataan. Bé Ký được sự bảo trợ của Hội Cha Mẹ Nuôi Quốc Tế vì Bé Ký là người con có tên tuổi của Hội trước đây. Nhờ đó nên Hồ Thành Đức làm hồ sơ xin Hội bảo trợ để được đi nước ngoài. Như vậy là một sự may mắn lớn đấy chứ. Nhưng Bé Ký lại không chịu. Cô nàng lại thường gây lộn quá cỡ. Cô ta phàn nàn với tôi :
- Anh Đệ biết không? Anh Đức ảnh hại tôi đến tan nhà hại cửa. Tôi bán tranh đến ngày nay cả triệu bạc, nhà cửa đang ở đàng hoàng lại phải bỏ đi không biết chỗ ăn chỗ ở như thế nào. Bây giờ phải học tiếng Anh nữa, chẳng biết ngày mai sẽ ra sao? Anh thấy ảnh hại tôi ghê chưa? Có thể vì ảnh muốn đi theo con Hạnh, cô dược sĩ thường đến mua tranh của anh.
             Tôi an ủi :
- Đi nước ngoài thì mọi sự sẽ êm đẹp trở lại. Bé Ký đừng lo.
Bé Ký lại không có vốn sinh ngữ nên cô ta học tiếng Anh mãi cũng không vô. Xưa nay, cô ta không bao giờ đến trường nên cô ta không quen đi học. Càng không đi học được, Bé Ký càng căm giận anh chồng.  Đức tìm cách mang tranh Bé Ký đi trưng bày ở nhiều thành phố chung quanh Manila. Anh ta hy vọng Bé Ký bán được nhiều tranh thì cô ta phải vẽ thêm những bức khác để trưng bày. Tranh của Bé Ký chỉ có vẽ đi vẽ lại những cảnh sinh hoạt ở ngoài chợ thành ra Bé Ký cũng vẽ nhanh thôi.
Tôi thường đến chợ Vùng 5 và ghé nhà Bé Ký và Hồ Thành Đức. Đức thường giữ tôi lại nhậu vài chai San Magné với anh rồi hãy về nhà. Có tôi ngồi trong nhà thì cuộc tranh cãi của hai vợ chồng Bé Ký trở nên giảm thiểu và có khi dứt ngang. Vì thế Đức hay rủ ren tôi:
- Cuối tuần này anh Đệ ghé nhà em, rượu chè để em hoàn toàn lo liệu. Anh cứ lên nhà em là vui rồi.
Có hôm tôi lên nhà Bé Ký thấy chị ta đang trang bị mái tóc quăn. Hồ Thành Đức nháy với tôi:
- Mấy ngày nay chị ta ghen tương dữ quá. Chị ta ghen với cô Hạnh, dược sĩ. Bây giờ lại tính chạy đua về nhan sắc nữa. Chị ta bảo chuyến đi Mỹ của gia đình em là đi theo cô Hạnh. Cô khách hàng thường đến mua tranh nhà em. Nay Hạnh được chồng bảo lãnh đi Mỹ để đoàn tụ. Người ta về với chồng mà mình làm sao đi theo được mà nghi ngờ.
Đức nói tiếp:
            - Cho dầu Bé Ký có trang bị nhan sắc bao nhiêu cô cũng là phụ nữ bốn năm con rồi, làm sao bằng được người ta còn con gái mới lấy chồng. Mình có đi Mỹ đây cũng vì tương lai của con cái để qua đó cho chúng nó học hành chứ còn mình bề nào cũng lớn tuổi cả rồi. Chỉ có người hẹp hòi mới đi ghen tương tầm bậy. Ai nấy qua Mỹ lại chẳng đi bằng hai bàn tay trắng rồi họ cũng làm nên tất cả, chứ có ai đem theo được tài sản đâu mà tiếc của đời. Ngày mình rời Việt Nam, nhà nước buộc mình thanh toán tài sản, sang nhượng nhà phố, chỉ được ra đi với hai bàn tay trắng thì còn tiếc của cái nỗi gì mà gây sự.
             Những ngày sống ở trại Phi Luật Tân là vùng núi lửa và bão lớn. Có ngày trời mù mịt, toàn là tro than của núi lửa che lấp ánh sáng mặt trời đến cả chục ngày. Bão tố làm sập nhà và cây cối ngã ngang, ngăn cả lối đi. Chúng tôi rất đỗi hoang mang lo sợ. May sao, bất ngờ chúng tôi được lên danh sách đi định cư. Chúng tôi được di chuyển ra trại transit ở Manila và chuẩn bị lên đường sang nước thứ ba.
Ngẩm lại cho cùng Bé Ký dù sao cũng là một người con gái lớn lên giữa thời buổi chiến tranh Việt Nam. Một cuộc chiến khắc nghiệt nhất trong lịch sử. Thân phận của Bé Ký đã từng là một trẻ mồ côi không nơi nương tựa. May sao rơi nhằm gia đình anh họa sĩ Trần Đắc. Anh làm cha đỡ đầu nuôi dạy Bé Ký thành một nữ họa sĩ có tài và tên tuổi một thời. Người cha nuôi nào lại chẳng bị tai tiếng khe khắc là độc ác. Nhưng anh Trần Đắc vẫn coi thường dư luận để nuôi dạy Bé Ký đến ngày hôm nay.
Người xem tranh không đòi hỏi nhiều ở Bé Ký. Miễn sao cô ta chỉ dừng lại ở giai đoạn vài nét ký nguệch ngoạt bằng bút nho là đủ rồi. Cô  không cần phải có bút pháp, phong cách, bố cục cầu kỳ như những họa sĩ tốt nghiệp ở trường Mỹ Thuật. Kể ra Bé Ký cũng được thành công lớn, không như những người phụ nữ khác trong chiến cuộc Việt Nam. Không như Lệ Lý Harshif trong truyện Trời Và Đất phải bị rơi vào thân phận một nạn nhân, phải bị dập liễu vùi hoa bởi cuộc chiến tranh tàn khóc.

                                                                                                                       Hiếu Đệ


                                                                             **

                                                        Hà Mộng Hải
                                                        Người Họa Sĩ Điên

            Ngày mới định cư ở Mỹ, tôi nghe một số bạn bè nói ở thành phố Montréal, Canada có một anh chàng họa sĩ điên. Tôi nghĩ, ở xứ kỹ nghệ hóa, sống trong các thành phố lớn, làm họa sĩ cũng đủ nghèo rồi, lại còn thêm cái nạn điên khùng nữa thì làm sao sống nổi. Tôi hỏi thăm hắn có điên như họa sĩ Van Gogh một trăm năm về trước hay không ? Có người nói là còn hơn thế nữa. Van Gogh cả đời  không bán được một tấm tranh, đói quá nên anh ta tự tử chết. Còn tên này vẽ tranh lu bù nhưng chẳng cần cho ai xem. Có người đến mua tranh, hắn còn vác cây rượt đuổi. Còn đối với bạn bè, hắn đóng cửa không tiếp xúc với ai hết. Đến điện thoại, hắn ta cũng cắt nữa. Thôi vậy là hết thuốc chữa rồi còn gì.
            Lúc đó vào năm 1991, đầu tháng tư vừa dứt tuyết, còn lạnh. Sinh hoạt văn học nghệ thuật  trong cộng đồng người Việt tỵ nạn cũng bắt đầu tưng bừng trở lại. Tôi đi chơi dưới phố Boston, Massachusetts đến nhà anh Trần Như Tráng và chị Thủy. Được biết ở Montréal, anh em có khai mạc một cuộc triển lãm hội họa do một nhóm họa sĩ gồm có bảy tám tác giả trẻ. Anh Tráng còn nhờ tôi viết một bài giới thiệu cho họ chạy trên tờ Thế Kỷ 21 số Đặc Biệt Mùa Hè. Chúng tôi phóng xe lên Montréal đến ở nhà họa sĩ Nguyễn Quốc Tuấn và có mặt trong lễ khai mạc triển lãm tranh của sáu họa sĩ trẻ. Nội dung lấy tên Art Việt 91 tổ chức tại Complexe Guy Favreau, hôm 8 tháng 3 tức là Ngày Phụ Nữ Quốc Tế và cũng là ngày lễ Hai Bà Trưng của Việt Nam. Sáu họa sĩ trưng bày tranh hôm đó toàn là những họa sĩ trẻ. Có người xuất thân trường Mỹ Thuật Quebec và Ba Lê. Riêng Hà Mộng Hải và Nguyễn Quốc Tuấn tốt nghiệp ở Sài Gòn. Trong nhóm này có một nữ họa sĩ là bà Nguyễn Lệ Hà.
Trong số khách tham dự ngày lễ khai mạc, tôi được dịp gặp thi sĩ Dương Tử, thiếu tá Nguyễn Văn Đệ, tác giả tập thơ «Người Tù Cải Tạo» vừa mới phát hành năm rồi, anh Nguyễn Văn Toán, kỹ sư cầu đường. Anh Toán có bộ sưu tập rất giá trị gồm đủ mọi tác giả có tên tuổi, trong đó có Nguyễn Gia Trí, Hoàng Lập Ngôn, Nguyễn Văn Anh, Tôn Thất Vân, Nguyễn Siên… Lần này anh Toán cũng chọn được rất nhiều tranh đẹp của anh em họa sĩ trẻ. Tôi có viết đôi dòng về cảm nghĩ của mình. Thật ra triển lãm Hội Họa lần này là để trình làng về sự hồi sinh và phát triển nghệ thuật của anh em nghệ sĩ trẻ trong cộng đồng người Việt tỵ nạn trước bằng hữu và người thưởng ngoạn. Việc này chứng tỏ là anh em còn hiện hữu và còn cầm cọ trở lại, còn dấn thân sáng tác.
Người Việt ở Montréal chịu ảnh hưởng lối sống văn hóa Pháp, rất yêu chuộng nghệ thuật, nhưng khách mua tranh thì ít lắm. Tôi đến thành phố này nhằm lúc kinh tế ở đây đang suy thoái, tình trạng thất nghiệp lên đến 10,70%, một số xí nghiệp đang phá sản. Trong khi đó lại có nhiều anh em đang xâm mình cắm cổ lo vẽ tranh, rõ cũng gan cùng mình. Sống ở Sài Gòn làm hội họa đã khó khăn rồi. Qua đến đây, chân ướt chân ráo chưa mấy ổn định, lại gặp toàn những khó khăn mới. Phải nói vẽ tranh là một điều đáng khích lệ, nhịn đói đẹp thật mới đáng kể hơn nữa. Tôi xin biểu dương các nghệ sĩ chịu nghèo chịu đói hôm nay ở thành phố Montréal này.
            Hà Mộng Hải và Nguyễn Quốc Tuấn cũng mới định cư ở Canada  từ năm 1984. Cũng nhờ sự  gặp gỡ trong ngày lễ khai mạc phòng tranh, tôi được biết anh chàng họa sĩ điên ở phố Montréal này chính là đứa em kết nghĩa với tôi. Hai đứa biết nhau từ ngày ở tù cải tạo về. Nó là họa sĩ Hà Mộng Hải nổi tiếng là Hải Lùn. Hải tốt nghiệp Trường Mỹ Thuật năm 1968, học khóa 6 Thủ Đức. Anh xung vào Biệt Kích nhảy toán thuộc Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu, dưới trướng của đại tá Hồ Tiêu. Nhờ tài liều mạng trong những trận đánh nhau chí tử và nhảy xuống từ trong lòng địch, nó được đặc cách gắn lon từ mặt trận nhiều lần. Hải Lùn thuộc thành phần tuổi trẻ tài cao, phải đi học tập mút mùa, vì nó mang lon trung tá. Hải tưởng rằng mình liều mạng đánh nhau cho mau chết, nhè đâu lại mau lên lon mới khổ cái mớ đời. Khi Hải được ra tù thì vợ hắn đã có chồng khác. Khổ nỗi người chồng mới của vợ anh ta là tài xế xe jeep của Hải ngày xưa. Tên này bậy một điều là nó nói với lũ em vợ:
- Bây giờ đổi đời rồi, ông Hải cũng như tôi thôi. Hơn nữa, ông ta còn đang mang tấm thân tù tội, còn tệ hơn một người thường dân nữa. Như vậy, tôi đang ở vị trí cao hơn ông ấy. Tôi lấy vợ của xếp tôi là tôi thương ổng, giúp vợ ông ấy có một đời sống tốt đẹp, hơn là xách giỏ đi nuôi tù  mãi tận trại Thanh Cẩm, trại Vĩnh Phú cũng hết đời cô ta .
            Có điều tên tài xế này nhằm to. Con người cho dù ở tù đến mút mùa cũng có ngày về. Ngày được ra trại, Hải lò dò xuống tới Bắc Mỹ Tho, nơi quán cà phê của vợ chồng tên hạ sĩ tài xế, chửi cho nó một trận. Anh nói:
- Để trở thành một người đàng hoàng, người ta phải biết đạo lý. Con chó còn biết chủ nhà; chủ nó có khốn khó đui mù, nó cũng vẫn dắt chủ đi xin ăn, không bao giờ nó phản lại. Tại sao con người lại nói đổi đời rồi đi làm sâu bọ bẩn thỉu!
            Hải không đòi vợ lại, nhưng anh bắt tên hạ sĩ nọ hứa trước mặt anh là từ nay về sau, nó phải bảo đảm đời sống cho cô Thúy, vợ anh. Hải tha cho nó cái tội bất nghĩa, dám hủy hoại cái thai nhi mà vợ anh đã mang bầu với anh cả bốn tháng. Nó là đứa con của anh, theo lời mấy cô em vợ Hải thuật lại. Chuyện đời đâu đã hết. Lúc trở về, ra đến bến xe Cầu Bắc, Hải bị một toán công an đến ách lại. Hỏi ra thì anh không có giấy đi đường. Trong túi chỉ duy nhất có tấm giấy ra trại của trại tù Vĩnh Phú ở ngoài miền Bắc. Họ chụp mũ là anh đi tìm đường vượt biên trái phép. Họ còng anh lại  và giải về Trại Chấp Pháp của Ty Công An tỉnh Bến Tre. Anh bị tra hỏi đủ điều và cuối cùng phải ở tù thêm cả một năm. Ngày được thả tù, buổi chiều hôm đó, Hải vác hành lý đi ngang qua sân banh gặp tên Ba Chiến, Giám đốc Ty Công An đang đánh banh với một lũ cán bộ. Tên Ba Chiến hỏi:
- Cái gì đó, anh Hải ?
Hải gải tai, nói:
          - Báo cáo anh Ba, thằng em này buồn quá muốn thưa với anh một chuyện. Hôm công an tỉnh bắt, trong mình tôi chỉ có tấm giấy ra trại do Ban Quản Lý trại tù Vĩnh Phú cấp, có tham chiếu án lệnh của Nha Quân Pháp, Bộ Quốc Phòng. Tất cả mọi thứ công văn đều có ghi số và ngày, kể cả người ký tên. Tờ giấy kia không được các anh trả lại, nay chỉ có mỗi tờ lệnh thả tù của anh Ba, ký không có số công văn, không tham chiếu án lệnh của Tòa Án, làm sao tôi về địa phương xin tạm trú được. Hơn nữa, lệnh thả tù lại do anh Ba viết tay nguệch ngoạc mấy chữ, không biết rồi đây có được hay không ?    
Tên Ba Chiến đứng giữa sân ra điều giận dữ:
- Mầy là thằng tù, tao là thượng cấp. Nay đã thả tù rồi, sao lại không chịu về, còn đứng đây lải nhải làm khó tao nữa sao? Tao nhốt đầu mầy lại thêm một năm nữa bây giờ. Cút đi!
Hải thấy không thể nói chuyện với tụi ngu dốt và hung bạo được nữa. Anh đành quay lưng bỏ đi luôn. Anh nghĩ rằng đây chỉ là sự trả thù của tên tài xế ở Bến Bắc. Một xã hội hỗn tạp, thú dữ lên làm người đang cướp đoạt sự sống của người dân. 
Cha của Hải là cụ Hà Huy Liêm đã có thời làm Tổng Trưởng Giáo Dục dưới trào Ngô Đình Diệm. Cụ Hà Huy Liêm và cụ Ngô Đình Nhu, hai người cùng một tuổi và cùng học Ecole de Chartre ở Pháp. Cụ Nhu tốt nghiệp ngành Quản Thủ Thư Viện. Cụ Hà Huy Liêm thuộc ngành Khảo Cổ. Cụ là Ủy viên của Viện Cổ Tích Thế Giới. Dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, cụ làm Giám đốc Viện Khảo Cổ và Viện Bảo Tàng ở Sở Thú. Cụ đã được Khối Văn Hóa UNESCO bảo trợ cho Viện Bảo Tàng và sửa lại toàn bộ Museum ở Sở Thú Sài Gòn. Công trình này chưa kịp hoàn chỉnh thì Việt Cộng ập vào tấn chiếm Sài Gòn. Cụ Hà Huy Liêm và toàn bộ gia đình được Viện Cổ Tích Thế Giới can thiệp với chính phủ Hà Nội để đi ra nước ngoài và định cư ở Canada. Cụ mới mất năm 1996, hưởng thọ hơn 85 tuổi.
Trong lúc cả nhà được ra đi, riêng trung tá họa sĩ Hà Mộng Hải còn kẹt lại trong trại cải tạo, mãi tới năm 1983 Hải mới được thả về. Đã thế, anh còn xuống tỉnh Bến Tre ở tù thêm một năm nữa. Sau cùng, Hải xin vào làm việc ở Viện Bảo Tàng thành phố. Bọn Việt Cộng muốn giữ Hải làm ở đây để móc nối trở lại với cụ Hà Huy Liêm, nhờ cụ xin cho họ được tiếp tục sự yểm trợ của Sở Văn Hóa UNESCO để xây dựng tiếp công trình đang bỏ dở. Trong thời gian làm việc ở Viện Bảo Tàng, Hải Lùn phải lòng một người đẹp bán cà phê nơi Câu Lạc Bộ giải khát trong Viện. Nàng tên Quỳnh Như, có người cha trước kia làm cảnh sát cũng đi học tập cải tạo mới về. Hai người chưa thề non hẹn biển với nhau thì Hải Lùn vượt biên. Nhưng chuyến đi bị thất bại, thuyền bị trôi giạt vào bờ, nhiều người chết vì bị đói khát. Riêng Hải Lùn được đem vào cứu cấp nơi một bệnh viện ở vùng duyên hải.
Trong lúc gần chết, thoát nhiên bừng tỉnh dậy, Hải thấy Quỳnh Như ngồi kế bên. Cô nàng lặn lội không biết bao nhiêu là đò giang để tìm đến được gặp chàng. Hải thấy trên thế gian này, Quỳnh Như hiện ra như một chiếc phao trên đại dương mênh mông. Nàng là sự sống của Hải. Hình như ơn trên đã xui Quỳnh Như đến với chàng. Ngày ra khỏi bệnh viện, họ hứa hẹn với nhau sẽ làm lễ cưới. Xưa cụ Hà Huy Liêm ra đi nước ngoài có để lại cho Hải một ngôi biệt thự gồm hai căn hộ và một khu vườn ở Gò Vấp. Tất cả những bất động sản trên đều bị bọn chính quyền địa phương lấn chiếm. Họ quyết định đuổi anh đi kinh tế mới.
Những ngày đi lang thang trong thành phố, Hải gặp người yêu cũ. Cô ta là dân biểu Kiều Mộng Thu. Bọn này ngày xưa cùng với Ngô Công Đức, Nguyễn Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận kéo nhau làm thành lực lượng đối lập chống lại chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Đến thời xã hội chủ nghĩa, bọn cộng sản có ý mị dân, công nhận bọn Ngô Công Đức là phe ta và cho tờ Tin Sáng ra hằng ngày trở lại. Kiều Mộng Thu một lần nữa được đắc cử là đại biểu quốc hội của Việt Cộng, đứng ra tuyên bố ba hoa chích chòe ủng hộ bọn cộng sản Hà Nội. Cô nàng nghĩ tình cũ nghĩa xưa với Hà Mộng Hải từ thuở còn học trò. Kiều Mộng Thu chạy lên làm nũng với tên trùm cộng sản Mai Chí Thọ xin nó khiển trách bọn chính quyền địa phương quận Gò Vấp, khiến bọn này nuốt không trôi bèn trả lại ngôi nhà và cho phép Hải được ở lại thành phố để làm giấy tờ ra đi nước ngoài theo diện gia đình bảo lãnh.
Trong thời gian này, xưởng sơn mài của tôi đang làm ăn phất lên như diều. Chúng tôi sản xuất tranh cho Sở Ngoại Thương, mỗi tháng thu nhập hàng chục lạng vàng. Chiều nào tôi cũng gặp Hải Lùn, Tâm Râu, Nguyễn Khắc Vinh và một đám họa sĩ ở quán nhậu. Riêng Hải Lùn, anh ta cũng vừa nhận được sự tài trợ của gia đình từ Canada gởi về rất đều. Anh ta quyết định làm đám cưới với Quỳnh Như, cô hàng cà phê ở câu lạc bộ của Viện Bảo Tàng thành phố. Bọn tôi đứng ra làm người lớn phía bên họ nhà trai. Thật ra gia đình nhà trai chỉ toàn là mấy anh chàng cải tạo thôi. Sau lễ cưới, Quỳnh Như sống bên chồng rất hạnh phúc.
Hải có đến xưởng vẽ của tôi để tập sự làm sơn mài. Ở giai đoạn này chưa có chế độ làm ăn cá thể, tất cả phải bị tập trung vào hợp tác xã hay những tổ hợp sản xuất có sự kiểm soát của chánh quyền địa phương. Hiến pháp của cộng sản chỉ cho phép những ông giáo kèm trẻ trong gia đình, người văn nghệ sĩ sáng tác, người thợ săn và người câu cá ven sông được làm ăn một mình, còn bao nhiêu nghề khác tất cả phải tập trung vào tập thể hết. Riêng người thợ thủ công ở gia đình được làm việc từ ba người trở lại, còn qua khỏi cấp số này thì phải khai báo hay xin phép nhà nước. Do đó, xưởng vẽ của tôi cũng không được làm việc quá ba người. Nên tôi cử Bé Thành, đứa con trai của tôi đến Hà Mộng Hải để giúp anh ta về kỹ thuật làm sơn mài, những công việc làm vóc, đánh sơn và hom bó lót, mài tranh và đánh bóng. Còn bọn tôi cuối tuần kéo nhau đến uống rượu ở nhà Hải.
Trong lúc này, Quỳnh Như đang mang thai đứa con đầu lòng cho Hải. Bọn tôi tuy không còn là lính nhưng anh em sống với nhau vẫn giữ tinh thần đồng đội như những ngày chung sống với nhau trong trại cải tạo. Người này lâm vào cảnh khó khăn thì người kia giúp đỡ, chia xẻ nỗi khổ với nhau trong tình bạn bè. Tôi còn nhớ bữa đó Bé Thành chạy về báo với tôi:
- Ba ơi, Ba! Sao nhà chú Hải lại có cái quan tài, đèn đuốc sáng choang. Hình như nhà chú có người chết. Đâu, Ba chạy lên đó xem.                                          
Tôi vội vã cùng với Bé Thành phóng xe nhanh lên nhà Hải, được biết Quỳnh Như, vợ Hải đã chết. Cô ta đi sanh ở nhà thương Từ Dũ bị nhiễm trùng máu, sốt cao quá chưa tới ba ngày đã ngã ra chết.
Hà Mộng Hải có kể lại anh ta có đứa bạn cùng học ở trại cải tạo là bác sĩ Phạm Ngọc Lân. Anh này chuyên ngành sản khoa. Lân vừa là cháu của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, bác sĩ riêng của Hồ Chí Minh. Chị của Lân có chồng là Sáu Quang, phụ tá cho Mười Phi, Giám đốc Sở Ngoại Thương thành phố. Nên khi cải tạo về, Lân được tuyển vào làm bác sĩ trong bệnh viện Từ Dũ. Mấy tháng trước Hải và Lân gặp nhau, Lân có căn dặn Hải là khi chị Quỳnh Như sanh thì đưa vào bệnh viện Từ Dũ, Lân hứa là anh sẽ đặc biệt săn sóc cho chị, mẹ tròn con vuông. Anh còn bảo Hải đừng có ngại chi cả.
Chính lúc Quỳnh Như chuyển bụng, đích thân bác sĩ Lân đứng ra đỡ đẻ cho chị. Có điều anh ta vừa quay lưng đi thì đám y tá và bác sĩ đảng viên xúm lại đặt vòng xoán để phát động chiến dịch kế hoạch hóa. Không ngờ khi người phụ nữ vừa mới sanh, cổ và thân tử cung chưa được bóp lại làm lạc mất chiếc vòng xoán khiến Quỳnh Như bị nhiễm trùng máu, lên cơn sốt và chết sau đó. Quỳnh Như là cô gái mười chín tuổi, mới sanh lần đầu, đã bị họ thí nghiệm như một con chuột, chết tức tửi. Bác sĩ Phạm Ngọc Lân tức đến xanh mặt. Anh cởi chiếc áo trực vất vào mặt tên bác sĩ giám đốc, chửi thẳng một câu, chẳng thà anh về đạp xích lô chớ quyết không hợp tác với bọn đỉnh cao trí tuệ này nữa. Riêng bọn tôi kêu Hải đem em bé về, nhứt định không để cho họ nuôi trong lồng kính của nhà thương nữa.Tôi nói:
- Dù sao anh cũng đã trải qua sáu đứa con rồi. Chuyện nuôi em bé cũng dễ thôi, để anh lo cho. Hơn nữa có cả Lân phụ giúp chẳng có sao đâu. Hải cứ yên chí đi. Chuyện lo tã lo sữa cho em bé còn dễ hơn vẽ tranh nhiều.
Chỉ tội cho Hải một điều là sau khi chôn cất vợ xong, căn nhà không có bóng đàn bà, trẻ con thì khóc đòi sữa, không gian thấy nó trống trải đến buồn không thể tả. Đám cải tạo phải thay phiên đến ngủ cho có bạn với Hải. Cũng như trong chuyện thần tiên, không có nàng Bạch Tuyết thì bảy chú Lùn phải làm hết mọi việc, rồi đâu cũng vào đó thôi. Về sau Phạm Ngọc Lân làm bác sĩ nhà thương Sùng Chính ở Chợ Lớn. Trong vai vế, bác sĩ Lân là người em trong gia đình tôi. Ngày xưa xã Thô bắn chết xã Dụ là ông nội tôi. Xã Thô nhảy ra làm Thiên Địa Hội chống lại chánh phủ Pháp. Lúc đó, hai người là xã trưởng làng Thiền Đức và làng Đức Nghĩa tức là thị xã Phan Thiết bây giờ. Bà nội tôi về lại xóm Ngã Hai Mương Mán làm ruộng, gởi hai đứa con cho gia đình ông Phạm Ngọc Bích để làm con nuôi.
Gia đình họ Phạm được tiếng là giàu nhất ở Phan Thiết. Giới bình dân có câu là: «Nhứt Bính, nhì Xì». Phạm Ngọc Bích giàu về nhà đất và ngân hàng. Nguyễn Văn Xì giàu bằng ruộng cò bay thẳng cánh. Cha tôi có bổn phận chăm sóc mấy cậu ấm của gia đình họ Phạm đi học ở trường Chasseloup Laubat Sài Gòn. Nhờ đó mấy cậu ấm học đến đâu thì cha tôi được học đến đó. Đến khi các cậu ấm đi Tây thì cha tôi trở về Phan Thiết làm thầy giáo. Ông được nổi tiếng là ông Giáo Chí. Tôi gọi những người bên gia đình họ Phạm bằng chú là như thế. Do đó, bác sĩ Lân là vai em của tôi. Lân rất thích tranh của Hiếu Đệ. Ngày đi cải tạo ở rừng Phước Long Bù Gia Mập, tôi với Lân ở cùng một trung đoàn. Chỉ có khác biệt tiểu đoàn thôi mà người ở núi kia, kẻ ở đồi nọ. Chừng nào ghé quán bà Sáu Đập uống cà phê ăn hủ tiếu may ra hai anh em mới gặp nhau.
Tôi còn nhớ bữa Lân được thả về nhằm lúc tôi đi lao động, hai đứa gặp nhau ở Ngã Tư Đồng Bang. Lân trút giỏ xách cho tôi mớ quần áo cũ và chăn màn. Tất cả thuốc sốt rét và trụ sinh Lân gói lại kỹ lưỡng để lại cho tôi dùng. Anh chỉ còn giữ lại quyển Bách Khoa về Bệnh Lý từ lâu anh vẫn gối đầu nằm và coi đó là bạn. Tôi nói:
- Từ điển bách khoa cứ ba năm thì người ta phát hành một bộ mới, bề nào quyển đó cũng quê rồi, bỏ đi.
Nhưng anh đáp:
- Nước mình đang trên đà đi xuống thời đồ đá, có quyển này cũng đủ là cha đời thiên hạ rồi!  Anh không thấy trong trại mình, bịnh gì họ cũng trị bằng cỏ hôi và xuyên tâm liên đó sao? 
Lân thuộc diện gia đình cách mạng nên được về trước tôi hơn một năm. Dáng dấp anh là người khắc khổ, nhỏ con và hơi gầy. Hôm đó, anh có bàn tính với tôi việc ra đi bằng diện con lai. Anh có săn sóc cho gia đình của một tên cán bộ thành ủy. Trong một ca mổ thập tử nhất sanh, anh cứu được mẹ con nó mẹ tròn con vuông. Tên cán bộ coi anh như là cha đỡ đầu cho đứa con trai duy nhứt của nó. Nó có ý muốn đền ơn đáp nghĩa với anh bằng cách khuyên Lân đi mua một đứa con lai để nó tìm cách ghép vào hộ khẩu của gia đình anh và chuyển hồ sơ xin đi nước ngoài. Nhưng vào năm 1985, vấn đề ra đi bằng diện con lai bị gián đoạn, cuộc thương lượng giữa Mỹ và Cộng sản Việt Nam về chương trình MIA, POW bị bế tắc nên gia đình Lân vượt biên bằng đường bộ. Anh bị bắn chết ở biên giới Thái Lan, vợ con không đem xác của anh về lại Sài Gòn được. Khổ nỗi Lan, vợ của Lân làm dâu bên chồng là một gia đình quý tộc đỏ. Ai cũng là anh hùng chiến sĩ cả, nào là Phạm Ngọc Thảo, Phạm Ngọc Thạch. Anh thứ hai của Lân là Phạm Ngọc Nam năm 1950 là Trưởng ban Tuyên truyền Xung phong tỉnh Bình Thuận bị quân Pháp bắn chết ở Ba Hòn Bảy Miễu tỉnh Bình Thuận. Các chị ở cả Hà Nội mới về, họ xúm nhau đay nghiến nàng dâu đến chịu không nỗi.
Năm 1989 trong lúc tôi ở trại PRPC của Phi Luật Tân nghe được tin Lan, vợ của bác sĩ Lân đã chết trên biển trong một chuyến vượt biên. Nàng bị đuối sức, hai đứa con thì được cứu sống hiện đang ở trại Vùng 5 bên cạnh dãy nhà của chúng tôi. Đúng như bài thơ của Thanh Nam đã viết :

Thấy rơi nước mắt khi tàn mộng

Nghĩ đắc vô cùng giá tự do !
Hai người con của Phạm Ngọc Lân nay đã tốt nghiệp đại học, làm việc ở gần tiểu bang Washington DC. Các cháu hiện đang sống rất xứng đáng trước sự hy sinh của cha mẹ. Mang thân phận gà trống nuôi con, tôi thấy Hà Mộng Hải sáng tác tranh buồn lắm. Anh vẽ toàn là cảnh khổ đau chết chóc. Đám bạn bè bu lại uống rượu phê phán, bảo là Hải nó vẽ con ma vú dài ở khám Chí Hòa, kiểu mấy bài báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà hồi 1965. Bức người con gái  xanh xao đứng nhặt lá vàng trông rất ma quái thấy rõ. Hải bảo là nó hóa thân theo kiểu Đinh Cường. Mấy đứa bạn cười lăn ra. Có đứa cho rằng Hải vẽ tranh để chữa bệnh, căn bệnh tâm thần ở trong nó. Mấy con mụ bán cá ở chợ Cầu Ông Lãnh gọi là bệnh mắc nàng dưới, tức là mấy con ma ở dưới âm phủ trong đó có con ma vú dài. Thằng Tâm Râu lại nói:
- Thôi mầy ơi! Bức tranh là một đại hội của màu sắc chứ không phải là đại hội của mấy con ma vú dài, dở bỏ mẹ. Thôi bỏ đi tám.
Hồi xưa Picasso đi đưa đám tang một thằng bạn tự tử vì tình, trở về nhà ông ta vẽ toàn cảnh nghĩa trang và những người khổ đau đang ôm mặt khóc suốt cả một giai đoạn màu lam. Anh ta không cất đầu lên nổi vì ám ảnh cũng như Hải Lùn bây giờ. Cuối cùng, Picasso cũng phải đập phá hết cả mới tìm được lối ra bằng xu hướng cách mạng hội họa Lập Thể. Nguyễn Du có câu:
Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
Qua cầu để thấy và hiểu biết chứ qua cầu mãi thì bỏ bu người ta còn gì. Vỏ xe đạp chỉ có một khúc thôi, chơi mà đứt hoài chỉ có nước đem vứt mua vỏ khác. Ai lại đoạn trường mãi coi sao được. Chơi như vậy chơi với ai! Anh em đùa quá cỡ làm Hải Lùn nó cười như con cọp mếu. Tâm Râu phản đối:
- Hải Lùn nó cười theo kiểu con hổ trong hiệu bia BGI là không được! Chúng ta phải đòi nó cười kiểu Phở Đầu Bò hay con bò cái hiệu Phó Mát mới được.
Đám bạn bè cải tạo lúc nào anh em cũng hồn nhiên tự tại, chuyện đời tới đâu hay tới đó. Nhờ vậy, có đứa đi tù cả hơn chục năm vẫn còn sống nhăn. Trong khi đó cũng có người về đến địa phương, thần kinh bị căng thẳng trước hoàn cảnh cuộc đời, buồn tình đến tự tử. Họ rất đau khổ - chứng tỏ tự do nằm ở trong tâm con người mạnh hơn ở ngoài.
Những năm cải tạo ở trại Vĩnh Phú, bọn cải tạo có đưa Hải Lùn đi lao động ở Sở Trà. Có lúc Hải Lùn được chọn làm việc ở Phòng kế toán. Nhờ trong thời chiến, có bận anh được làm sĩ quan tiếp liệu ở Quân Đoàn nên việc làm sổ sách chi thu anh ta rất rành rẽ. Dĩ nhiên anh hơn cả đám cán bộ ở dưới chân núi khiến bọn thư ký của Sở Trà tôn anh làm bậc thầy. Nhờ đó, Hải Lùn lọt vào mắt xanh của một nàng thư ký trẻ đẹp. Cô ta tên Kiều Loan. Cha nàng là người Đức, mẹ nàng dân xứ Nghệ, quê hương của «Hồ chủ tịch». Xưa cha nàng là lính Lê Dương của Pháp bị bắt làm tù binh. Ông này lấy vợ Việt Nam nên ở lại làm công nhân Sở Trà chứ không chịu về nước. Kiều Loan có nét rất đẹp, mắt xanh, tóc vàng. Hải dạy cho cô nàng về quản lý kế toán và điều hành xí nghiệp nên chẳng mấy chốc, cô ta được thay đổi cấp bực. Việc nâng cấp số lương của cô cũng nhờ Hải Lùn. Bởi lý do kỷ luật của trại tù rất khắc khe nên hai người chỉ lấy mắt nhìn nhau, bố bảo chẳng bên nào dám hó hé đến chuyện thề non hẹn biển cả. Mối tình của hai người trẻ tuổi vẫn mơ màng như sương khói quanh núi đồi Vĩnh Phú.
Mãi tới ngày lãnh giấy ra trại, giã từ rừng núi, mang hành lý cá nhân ra về, anh ta cũng chẳng dám đến Sở Trà để từ giã người đẹp một lời. Thế mà trải qua đến gần một năm sau ngày vợ Hải chết, Kiều Loan lại tìm được tin tức của Hải Lùn. Nàng đến trước căn nhà đơn chiếc của hai cha con Hải. Nàng đã tìm đủ mọi cách để hỏi dò tin tức về Hải cả mấy năm, nay mới tìm ra được. Kiều Loan đốt hương khấn bàn thờ của vợ Hải Lùn. Nàng xin làm người vợ để thay thế cho Quỳnh Như và coi em bé Thùy Linh là con của mình. Trước một người đẹp như thế làm cho Hải Lùn rất khó xử. Nàng xin ở lại với Hải sống cho trọn những kỷ niệm của những ngày ở Rừng Trà Vĩnh Phú.
Tình yêu của Kiều Loan như một trái chín trên cây vừa hái xuống, nhất là nàng cũng mới lần đầu tiên vào đến thành phố Sài Gòn. Lúc này cũng nhằm lúc Hải Lùn vừa bán được căn nhà. Anh gạ tên cán bộ hạng gộc từ Hà Nội vào để nó tự lo làm giấy tờ nhà đất. Hải lấy tiền chạy giấy tờ chiếu khán xuất ngoại. Giữa Kiều Loan và Hà Mộng Hải, mỗi người như đang sống cho những giấc mơ của mình. Từ núi đồi Vĩnh Phú, nàng đã mơ nằm gối đầu trên tay Hải Lùn. Nàng đã mơ cùng chàng đi giữa phố Nguyễn Huệ và Mini Rex dưới ánh đèn đêm, trong tiếng nhạc ở sàn nhảy. Hai người cùng bé Thùy Linh rong chơi khắp Vũng Tàu, Đà Lạt, Nha Trang. Còn Hải, chàng sẽ đi một vòng khắp Việt Nam để mai đây sống ở nước ngoài chưa chắc gì mình được có dịp về thăm quê hương đất nước của mình. Lãng mạn nhất khi nghe cô gái tóc bạch kim nói thì thào bên tai Hải:
- Hạnh phúc của em là được sống bên người yêu lý tưởng của mình, cho dầu em chỉ sống có một ngày hay một đêm thôi cũng còn được. Không cần biết về sau trên cõi đời này, chúng mình có còn gặp nhau nữa hay không. Những kỷ niệm của cuộc tình này sẽ ôm ấp trong tim mình mãi. Tình yêu lý tưởng như những chiếc bong  bóng bằng bọt sà phòng dễ vỡ. Cái đẹp lý tưởng nó cũng giống như cái đẹp không tưởng, có khi mình chỉ gặp nhau có một lần thôi. Ngày mai này em trở về núi rừng Vĩnh Phú. Anh sống trên một đô thị ở nước ngoài, chúng ta chỉ còn tìm nhau trong những giấc mơ thôi.
Giấc mơ nào rồi cũng tan mất, mỗi người hướng về một nẻo đường. Hải Lùn bán được căn nhà rồi lại lo giấy tờ ra đi. Cô gái tóc bạch kim, sau một tháng rong chơi với người yêu rồi nàng lại trở về Vĩnh Phú sống với đám công nhân ở Rừng Trà. Hải bàn giao ngôi nhà rồi bế con qua xóm Hòa Hưng ở trọ nhà của Hiệp. Anh chàng Hiệp là một võ sĩ, trước kia cùng đi biệt kích với Hải Lùn, sau đổi về làm bảo vệ yếu nhân Tổng Thống Phủ. Hôm hai vợ chồng Nguyễn Văn Thiệu ra đi, họ tính kéo theo Hiệp, nhưng anh bận bịu mẹ già con dại nên xin ở lại. Bà Thiệu có bỏ lại cho anh một nghìn đô la gọi là chút quà tình nghĩa. Từ khi Hiệp đi cải tạo ở Vĩnh Phú, nghìn đô la đó nay chỉ còn lại cái sạp bán cơm tấm trong nhà lồng chợ Hòa Hưng để sống lam lũ qua ngày. Hải ở nhà Hiệp chừng vài ba tháng. Anh lo cho Hiệp đi vượt biên được trót lọt. Trong khi đó giấy chiếu khán xuất ngoại của Hải vẫn chưa làm xong.
Sau khi nghe tin Hiệp được sang Hoa Kỳ định cư, cha con Hải Lùn bồng bế nhau qua nương tựa ở chùa Phổ Hiền bên Khánh Hội. Trong thời gian ở chùa, anh ta phụ trách giúp ông sư hoàn thành pho tượng Thích Ca ngồi ở chánh điện cũng rất đẹp. Hải Lùn nói rằng chính nhờ tôn tượng Đức Thích Ca Mâu Ni gia hộ hai cha con anh đi ra nước ngoài một cách tốt đẹp. Ở Việt Nam dưới chế độ cộng sản, đắp tượng Phật là cả một vấn đề rất nguy hiểm. Tôi còn nhớ trong những năm này, họa sĩ Mai Lân nhà vẽ Thế Hệ ở đường Trương Minh Giản có đắp một pho tượng Thích Ca để ở chánh điện một ngôi chùa ở Bàn Cờ. Anh bị đi tù vì họ điều tra số tiền từ bên ngoài gởi về để đúc tượng Phật. Họ nêu lý do tại sao không trình báo cho nhà nước quản lý.
Họa sĩ Trương Đình Vĩnh Lân xuất gia ở chùa Trúc Lâm thọ giáo ông thầy Đồng Bổn, chùa ở xóm chợ Cây Quéo bên cạnh nhà của điêu khắc gia Nguyễn Văn Thu. Nghe đâu pho tượng Quan Âm Quá Hải được các nơi gởi đơn đặt hàng lên đến năm trăm bức. Chuyện trên do Hội Phật Giáo Yêu Nước báo cáo lên Ủy ban Nhân dân thành phố. Họ ập vào chùa Trúc Lâm bắt anh Lân đi tù và tịch thu toàn bộ tài sản của xưởng điêu khắc. Họ bảo là họa sĩ Lân diễn tả Quan Âm đang đạp lên đầu Hồ Chí Minh. Ở tù vài năm, tánh tình Lân như bị mất bình thường. Hiện nay nhà điêu khắc Trương Đình Vĩnh Lân đang định cư ở Vancouver.
Đến khi tôi gặp Hải ở Montréal thì bé Thùy Linh đã lên mười tuổi rồi. Số tranh của Hà Mộng Hải trưng bày trong lần này màu sắc có phần tươi đẹp hơn. Hải đưa tôi về căn hộ của anh ở đường La Jeunesse. Anh còn bảo:
- Anh Đệ, anh phải ở với em một tháng rồi em sẽ lấy vé máy bay cho anh về.
Bé Thùy Linh gọi tôi bằng bố Hiếu Đệ. Đến năm sau, tôi đi dự khóa tu của thầy N.H. ở làng Cây Phong. Tiết trời vào mùa Halloween bắt đầu trở lạnh lắm. Tôi xuống núi trở về nhà Hà Mộng Hải đi phố với hai cha con Thùy Linh mà vui hơn. Bọn tôi kéo tới thăm anh Đinh Văn Khai, thăm ông cụ Hà Huy Liêm, bố của Hải. Tôi được dự đám cưới của cô em gái Út của Hải, lấy chồng người Pháp. Bé Thùy Linh còn khoe với bố Hiếu Đệ trong giờ học Bilingual Vietnamese Literature, nó được xếp hạng nhất. Cô giáo chọn bài luận văn của nó đọc lên cho cả lớp cùng nghe. Tôi có lấy cái bài luận văn này của nó, viết thêm cái chapeau gởi cho anh Đoàn Minh Hóa chạy trên báo Đi Tới để Thùy Linh mừng. Và đưa nó xuống phố mua tặng nó chiếc đồng hồ đeo tay trị giá năm mươi đồng làm phần thưởng. Thùy Linh reo mừng nhảy tung tăng như một con chim nhỏ.
Bây giờ Hải mới kể cho tôi nghe chuyện tại sao người ta gọi anh là người họa sĩ điên. Những năm đầu khi bế con rời bỏ quê hương  đất nước ra đi đến thành phố tuyết lạnh này, sao thấy buồn vô hạn. Nếu cứ ngồi nhà nhìn ra bốn bề tuyết giăng trắng xóa lại càng buồn hơn nữa. Anh ta dẫn xác đến Man Power đút đơn xin việc làm có thể còn đỡ buồn hơn. Người ta tiến dẫn Hải đến làm ở một Factory chuyên đóng bàn, ghế, tủ. Trong giờ đi làm, anh đem gởi bé Thùy Linh ở nhà bà nội của bé, nhờ mấy cô trông nom giùm cháu, đến chiều tan sở anh đi rước bé về. Lúc đó, bé vừa được tám tháng. Ở phố này, Hải Lùn gặp lại một số bạn của thuở còn đi lính, đứa thì quen biết từ trại cải tạo, đứa thì biết nhau từ thuở học trò. Cứ mỗi chiều tan sở là họ xáp lại với nhau uống rượu, chén anh chén tôi đến say mèm cả đám. Bé Thùy Linh thì còn bú chai sữa, nằm ở ghế bên ngủ.
Thường thường khi tan chầu nhậu thì mạnh ai nấy ra về. Anh bế con xuống bến xe hầm Station  Métro  đi  từ  phố Côte des Neiges về đến xóm La Jeunesse, rồi cõng em bé lội bộ về tới nhà. Xui cho anh, khuya hôm đó nhằm một cơn bão tuyết, gió thổi mạnh và lạnh như cắt da. Hải không dám bế con ra khỏi xe hầm. Chiếc xe chạy mãi cho đến mười hai giờ khuya qua mấy trạm quen thuộc. Đêm về khuya, xe cũng chẳng còn khách. Người kiểm soát vé đến đánh thức Hải dậy, họ bảo là xe đã hết giờ rồi, anh thức dậy đi về nhà. Hải cho biết anh có con nhỏ không thể đi về trong cơn bảo tưyết được. Anh chỉ bé Thùy Linh đang còn mới biết đi lững chững và nhờ họ gọi emergency xin cảnh sát đưa về giùm. Ở nước văn minh người ta rất quý trọng trẻ em và phụ nữ nên trong phút chốc, xe cảnh sát kéo đến rất nghiêm trọng. Họ đem đủ đồ ấm và máy sưởi để đắp ấm cho bé Thùy Linh và hộ tống hai cha con Hà Mộng Hải về đến nhà.
Anh chàng Hải này từ Việt Nam mới qua tưởng đâu như vậy là sung sướng hết cỡ. Mình đi uống rượu có được lính hộ tống đưa về thì còn gì bằng. Lần sau, anh ta tiếp tục kêu lính đưa về. Nhưng xui cho Hải, lần sau này đám cảnh sát  không chịu dễ dàng như vậy nữa. Họ chụp hình cả hai cha con Hải, sau đó họ làm giấy warning cảnh cáo: «Nếu Hải tái phạm lần nữa, họ sẽ tách rời cháu bé ra khỏi cha nó, đưa vào Center Abuse, tìm người bảo trợ để nuôi em bé. Còn bố nó, chiều nào cũng say xỉn thì phải đi ở tù, chứ không được giỡn mặt với nhà nước Canada nữa!».
Chính vì cảnh sát cảnh cáo rồi nên Hải không dám kêu họ đưa về nữa. Bữa nọ, trời khuya bão tuyết càng lớn, gió thổi mạnh như gào thét. Trong cơn say xỉn, Hải cõng con chạy ra khỏi xe điện hầm về đến trước cổng nhà, anh đuối sức bước lên tam cấp, trợt ngã đầu đập vào ngạch cửa, quỵ xuống bất tỉnh trước cửa. Máu trên đầu chảy lênh láng. Bé Thùy Linh khóc thét lên, ôm lấy đầu bố, tay chân bê bết những máu. Tiếng em bé khóc làm Hải tỉnh dậy, nhìn thấy hai bàn tay bé đầy máu. Anh ta không biết mình đã bất tỉnh bao lâu rồi. Hải bế em bé vào pha nước nóng rửa tay chân, mặt mũi và thay đồ ấm cho bé. Anh pha sữa và dỗ cho bé ngủ. Xong rồi, Hải mới băng bó vết thương trên đầu. Anh ngồi một mình trong phòng khách, gục đầu suy nghĩ. Hải tự nhận thấy anh có lỗi với con mình. Anh có lỗi với vong linh của Quỳnh Như là mẹ của nó. Anh không làm tròn bổn phận của người cha, một người chồng. Tại sao anh lại tệ bạc như thế. Anh đốt lên trên bàn thờ của vợ một nén hương tạ lỗi trước vong linh của nàng. Anh hứa sẽ làm lại cuộc đời của mình và nuôi dạy bé Thùy Linh nên người. Bắt đầu từ đó, mỗi chiều đi làm về, anh không trở lại gặp bạn bè nơi quán nhậu nữa. Đám bạn nhậu kéo đến đứng la trước nhà khiến anh phải trốn họ. Hải cắt dây điện thoại và giây chuông ở trước cửa.
Khi giã từ bạn nhậu rồi, anh phải làm gì để lấp lỗ trống khoảng thời gian này. Hải bắt đầu nghĩ đến việc sáng tác tranh trở lại. Từ khi anh dứt khoát với bàn rượu, số tiền đi nhậu vẫn nằm nguyên trong ngăn kéo. Hải dùng khoản tiền này xuống phố mua sắm sơn cọ và bố vẽ để khởi sự làm tranh. Hải nhớ lại những ngày anh sống với ông sư ở chùa Phổ Hiền bên Khánh Hội. Trong lúc hai người đang lên pho tượng Thích Ca, ông sư có nói:
- Trong các pháp môn tu học khó nhất là tu chỉ (…), có nghĩa là dừng lại (stopping) như người ta đang nghiện thuốc lá, đang nghiện rượu mà dứt khoát bỏ được là cả một vấn đề, phải kiên trì lắm mới được. Bởi vì con người còn phải nô lệ tế bào, bởi trái tim, bởi tình cảm. Phải đạt được sự dừng lại, mình mới nhận định và thấy được sự sai trái. Người ta gọi định có nghĩa là thấy (seeing). Chỉđịnh nó tác động với nhau cũng như âm dương trong Kinh Dịch. Chứ mình đương say mèm thì còn thấy cóc khô gì. Sự sai trái cứ tiếp tục nhân lên thành tội lỗi. Ma quỷ hiện ở trong con người chứ không phải ở bên ngoài. Đàn áp được chính mình tức là trấn áp được ma quỷ và tội lỗi. Còn chịu thua để cho sự đam mê và dục vọng cứ lấn lướt, mình chỉ còn có nước bị đẩy lùi xuống vực thẳm hố sâu. Phải đứng lên để mà đi chứ.
Hải nói:
- Thằng em của anh Đệ nó bị mất hết tất cả. Mái ấm gia đình cũng mất, vợ chết, quê hương đất nước cũng rời bỏ. Bây giờ chỉ còn mấy thằng bạn bên bàn rượu, em cũng bỏ luôn! Giữa đại dương mênh mông, em chỉ còn bám được chiếc phao mong manh này là bé Thùy Linh, coi nó như một lẽ sống. Còn nữa chứ, còn một lẽ sống rất đẹp là nghệ thuật, là thế giới màu sắc. Em vẽ cho nó quên đời.
Hồi đó ông sư cũng có nói:
- Vẽ đi chú Hải à ! Vẽ tranh là thiền đó. Thế giới của tranh cũng mầu nhiệm như thế giới của thiền quán (vipasana).
Hải nói tiếp:
- Mình đi làm cả tám tiếng trong ngày, có khi vì nhu cầu của sở, mình còn phải làm việc phụ trội để trang trải các thứ bill, không lẽ còn mấy tấm tranh mình cũng đem đi trình làng và buôn bán nó nữa sao? Do đó, lũ bạn nhậu lại nhà xin coi tranh, xin mua tranh, em vác cây em đuổi là như thế. Bọn nó giận quá, chạy ra đường nói ầm cả lên là thằng Hải Lùn nó điên rồi. Để như thế mà còn có lợi cho mình hơn, thằng em của anh nó cũng chẳng cần đính chánh. Mấy thằng bạn nhậu còn chửi em, nói là thằng Hải nó lối, nội cái tên của nó, thấy cũng đã khùng rồi đừng nói gì khác. Hà Mộng Hải sống mà mơ thành biển thì sức mấy, cả trăm con sông cũng chỉ đổ ra biển thôi. Cũng anh Hà Minh Đức, ảnh đòi làm bố của tên Hồ Chí Minh. Ảnh nói Hồ là cái vũng nước. Đức lớn hơn Đạo, to gấp vạn lần cái chí của con người. Ở Trung Quốc có sự khai quật mới đây ở một ngôi cổ mộ, người ta tìm được cuốn Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Trong hàng nghìn câu kinh, phần nói về Đức cũng đứng trước phần Đạo. Nhưng có điều đến ngày hôm nay, anh Hà Minh Đức, chủ nhiệm tờ Bông Lúa của ông Ngô Đình Nhu sao thấy ảnh nghèo khổ đến tội nghiệp.
Mấy năm sau này tôi cũng có đến thăm Hải. Anh đã dời đi một địa chỉ khác, khá khang trang hơn. Hải nói với tôi, nay bé Thùy Linh nó đã thành thiếu nữ mười sáu tuổi còn gì. Bé lại giống mẹ nó như hai giọt nước. Bạn trai của bé tới nhà nườm nượp khiến anh vác cây đuổi tụi nó chạy bắt mệt.  Tôi cười quá cỡ nói:
- Thôi, đuổi tụi nó mần chi, hồi nhỏ tụi mình cũng vậy đó chứ gì! 
Hải còn kể chuyện anh họa sĩ Phạm Tăng từ Paris qua thăm ông cụ. Hồi xưa họ có thâm tình với nhau. Hơn nữa, ông cụ của Hải là ông thầy của Phạm Tăng. Anh có đến xưởng vẽ của Hải, thấy hai cha con Hải sinh sống, họa sĩ Phạm Tăng cảm động ôm Hải khóc. Anh kể chuyện hồi trước ở Hà Nội, Phạm Tăng có một người yêu, cô ta rất đẹp. Mối tình của anh và cô nàng bị gia đình cấm cản làm đỗ vỡ. Cô nàng tự tử chết. Anh khóc trước ngôi mộ người yêu trước khi rời Hà Nội để di cư vào Nam. Lúc này anh vẽ biếm họa cho tờ nhật báo Tự Do của Phạm Việt Tuyền. Sau đó, anh được học bổng đi học bên Pháp. Anh có yêu một cô nàng làm người mẫu cho anh. Gia đình cô ta rất khá giả, cha cô có nhà in, làm các ấn bản cho những tác phẩm nghệ thuật. Ông ta là người Đức. Cô nàng sinh cho anh một cháu gái. Về sau, cô ta bị bịnh mất trí phải đi điều trị ở một bệnh viện tâm thần và mất ở nhà thương. Đứa con gái mất mẹ được anh đưa vào viện nuôi trẻ của mấy dì phước. Đến khi khôn lớn, nó không còn nhìn nhận anh là cha của nó. Đời anh coi như bị mất đi hết tất cả. Kể cả đứa con gái có mái tóc bạch kim rất đẹp. Hà Mộng Hải tuy vậy vẫn còn hạnh phúc hơn anh. Anh ngồi trong xưởng vẽ của Hải, lòng quặn đau, tưởng nhớ đến vợ con của mình.
Nhà văn Honoré de Balzac có viết quyển tiểu thuyết nhan đề Bức Tranh (Le Tableau) nói về một anh chàng họa sĩ đam mê làm nghệ thuật quên cả vợ con, suốt đời chỉ nghĩ đến tác phẩm. Hôm nọ, đứa con của anh đang hấp hối. Người vợ ra phòng vẽ gọi anh vào lo cho đứa bé. Anh họa sĩ này tỉnh queo, lại còn mang sơn cọ vào giường vẽ cái chết của đứa con. Sau khi chôn cất đứa con  xong rồi, vợ anh bỏ đi lấy chồng khác để anh họa sĩ nọ côi cút một mình. Lúc anh ta già gần chết, có người đến bên giường cho anh hay là bức tranh Sự Chết (La Mort) được giải thưởng số một về nghệ thuật. Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật quyết định thỉnh vào Museum. Anh nằm rơi nước mắt, hồi tưởng lại bức tranh, chỉ có tấm tranh thôi, còn tất cả những gì gần gũi nhất đối với anh đều bị xóa mờ trong dĩ vãng. Ôi tấm tranh, tấm tranh để làm gì mà anh phải khổ đau như thế.
Anh Phạm Tăng nhìn thấy hai cha con Hà Mộng Hải là cả một niềm hạnh phúc, thứ hạnh phúc mà cuộc đời của anh hằng mơ ước mà không bao giờ tìm được. Anh biết rằng ngày mai nó sẽ khác đi, khi bé Thùy Linh bước vào ngưỡng cửa đại học, nó sẽ ở trong Dome tách rời khỏi bố nó. Nó sẽ có bạn bè là những roommate của nó. Nó sẽ có bạn trai, có thể là một international student. Thùy Linh sẽ theo người yêu đi đến một nước nào ở Âu Châu. Nó sẽ rời xa bố trong khi Hải Lùn đang ở vào tuổi xế chiều và anh chỉ còn ngồi lại trong xưởng vẽ một mình với những tấm tranh.
Tôi thấy Thùy Linh cũng sợ mất anh, cũng như anh đang sợ mất nó. Có bữa tôi và Hà Mộng Hải đang ngồi nói chuyện dong dài, bé Thùy Linh mở to đôi mắt đứng trước mặt bố nó, nói:
- À ! Mấy ông già này kể chuyện tình yêu đó phải không? Bà nào đó vậy? Giấu tui hén!
Hải cười ruồi:
- Đừng có nghĩ tầm bậy! Bố đang kể chuyện má mầy đó!
Thùy Linh quay sang bố nói:
- Ờ! Kể chuyện má tôi ngày xưa thì được, chứ nói chuyện tới cô nào thì bố chết với tui đó nghen!
Hai bố con nó cùng nhau cười, rất dễ thương.

                                                             Hiếu Đệ

                                                          **
                                                  Hoa Thược Dược

            Trong cuộc sống, nhiều khi ta cứ  tưởng là ta đang trong hiện hữu, nhưng quả thực ta chưa hề được tiếp xúc với ta. Bởi vì tâm ta cứ rong ruổi chạy đuổi theo ảo ảnh của quá khứ, của hiện tại và tương lai. Chưa bao giờ chúng ta được ngừng nghỉ.
            Chỉ có một phương pháp duy nhất để tiếp xúc với sự sống đích thực là bằng cách trở về với giây phút hiện tại. Và lúc đó, ta mới có cơ hội tìm lại được ta.
            Trong sự trở về nầy, ta thoát ly được sự hơn thua mất còn. Ta có thể bình yên nhìn được cánh hoa đang nở, những đọt lá xanh tươi trên cành, nụ cười ngây thơ của em bé, nền trời xanh có áng mây vừa bay qua. Tất cả chính là những sự mầu nhiệm của cuộc sống mà chúng ta đã từng đánh mất nó.
            Cuộc đời là phù du giả tạm, giống như một cánh cửa của địa ngục hay thiên đường đang mở đóng ở trước mắt. Nó lôi cuốn con người vào vòng huyển hóa đó. Nếu có người ý thức được điều đó thì khi nhìn lại lòng mình, chỉ có giờ phút hiện tại mới là hạnh phúc đích thực.
            Trong thiền học có câu chuyện như sau:
Một hôm, trong pháp đàn tại Pháp Hội Linh Sơn, có sự tham dự của 1250 vị tỳ kheo, đại đức, tăng ni và chư thiện nam tín nữ. Lúc đó, Đức Phật cầm một Hoa Sen đưa lên và hoàn toàn yên lặng. Ngài không nói gì cả. Tất cả các đệ tử phải ngạc nhiên suy nghĩ. Họ không hiểu Đức Phật làm như thế là có ý gì. Trong chúng hội, lúc bấy giờ có ngài Ma Ha Ca Diếp nở một nụ cười.
Đức Phật bảo:
- Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, Pháp Môn Mầu Nhiệm chẳng lập văn tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay giao phó cho ngươi. Ngươi phải khéo giữ gìn Chánh Pháp này, truyền trao mãi đừng dứt, đến sau nầy truyền lại cho A Nan.
Đức Phật đến trước tháp Đa Tử gọi Ma Ha Ca Diếp rồi nói kệ truyền Pháp:
Pháp bổn Pháp vô Pháp
Vô Pháp Pháp diệt Pháp
Kim phó vô Pháp thời
Pháp Pháp hà tằng Pháp
Dịch là:
Pháp gốc Pháp không Pháp
Pháp không Pháp cũng Pháp
Nay khi trao không Pháp
Mỗi Pháp đâu từng Pháp.
Câu chuyện đó cho đến nay vẫn còn là đề tài để cho mọi người, mọi giới thảo luận. Và có không được bao nhiêu người đã hiểu ý nghĩa của câu chuyện “Niêm Hoa Vi Tiếu”.
Từ ý nghĩa câu chuyện đó và để đóng góp một vài ý nghĩ cho hành giã tu tập, chúng tôi thử đưa ra một vấn đề đơn giản để tìm hiểu ý nghĩa và bổ túc cho sự tu tập hiện tại.
Như có một người nào đó dâng lên một đóa hoa. Họ muốn trình bày ra trước mặt quý vị, mục đích là họ muốn quý vị nhìn thấy cái hoa đó. Nếu quý vị bận vào những suy nghĩ khác, dĩ nhiên quý vị sẽ không thấy cái hoa ấy. Chỉ trừ khi quý vị không bận rộn, tâm hồn thanh thản không vướng bận thì quý vị sẽ bắt gặp và thưởng thức vẻ đẹp cái hoa ấy một cách trọn vrẹn.
Như vậy cái hoa đó vừa đến và mọi người có khả năng tiếp xúc với nó trong sự chú ý đồng nhất thì những nét đẹp đã đến với họ rất sâu sắt. Và họ thưởng thức cái đẹp thuần khiết của hoa.
Một ví dụ khác:
Có một em bé đang cười một nụ cười hồn nhiên với quý vị. Quý vị sẽ không thực sự thấy nó khi đang suy nghĩ về quá khứ hoặc tương lai hay đang lo lắng một vấn đề khác trong hiện tại. Quý vị sẽ không thưởng thức được nụ cười hồn nhiên của nó và sẽ đánh mất nó. Như vậy quý vị sẽ không thấy được em bé đó thật sự có trước mặt.
Qua hai thí dụ trên, chúng ta thấy vấn đề của sự sống, khi chúng ta không hoàn toàn trở về với mình, sống thật sự trong cuộc sống hiện tại thì chúng ta sẽ mất hết tất cả. Do đó, kỷ thuật trở về với chính mình là một giải pháp mầu nhiệm, như một phép lạ làm cho cái hoa, em bé và mọi  sự vật hiện thành sự thật.
Đến đây chúng tôi xin trình bày một bài thơ của thi sĩ Quách Thoại. Anh mất ở Sài Gòn vào năm 1956, lúc đó tác giả mới hai mươi tám tuổi, tính đến nay cũng đã hơn ba mươi năm. Bạn bè tìm lại thấy anh có rất nhiều bài thơ hay.
Một trong những bài thơ đó là bài Hoa Thược Dược:
Đứng yên ngoài hàng dậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Tôi lặng lẽ cúi đầu...
Mặc dầu bài thơ ngắn gọn, ít chữ nhưng ý thơ rất xúc tích. Mỗi chữ đều tượng thanh tượng hình làm cho người đọc dễ dàng hình dung được cái bối cảnh của Hoa. Điều đó chứng tỏ tác giả bị thu hút bởi cái Hoa Thược Dược khi đi ngang qua hàng dậu. Anh ta dừng lại và cảm hứng viết lên bài thơ trong lúc anh chàng rất thanh tịnh và sống trọn vẹn với cái Hoa đó.
Quách Thoại chết lúc còn trẻ. Anh sống rất đam mê và cuồng nghiệt. Không biết anh đã có dịp đọc hoặc nghe Hoa Nghiêm Kinh hay Diệu Pháp Liên Hoa Kinh hay chưa mà tư tưởng của anh giống như người tỉnh thức như thế.
Khi tôi đọc bài thơ này, tôi thấy huyền bí lạ lùng vì tự nó toát ra một cái đạo. Đó là cái đạo của sự tỉnh thức và cái nhìn thật sâu thẳm mà một người thường tình không bao giờ có.
Ngài Huyền Quang đời nhà Trần có nói:
“Thế nhân khai thị túy man man”
Có nghĩa là:
«Người đời mắt mở nhưng vẫn say nồng».
Ở đây, người nghệ sĩ mà linh hồn thơ lại giống như một nhà tu nên nhà văn André Malraux thường nói: «L’Artiste est un Chrétien» là như vậy.
Người thi sĩ có cái nhìn khác biệt với mọi người, khi họ nhìn mọi sự vật bằng trực giác. Họ dùng cái trực giác thanh tịnh của mình để xúc chạm đến nét đẹp thiên nhiên, hòa mình với vũ trụ. Lúc đó họ tìm thấy sự giải phóng toàn diện trong lúc họ tuyệt đối sống với chính mình trong giây phút hiện tại.
Quả thật, giây phút hiện tại là giây phút mầu nhiệm tuyệt vời, nếu chúng ta biết quý mến nó. Như chúng ta biết, nhờ có hiện tại mà chúng ta có thể suy đoán được quá khứ ta đã tu tập, hoặc đã tạo ra phước, nghiệp báo gì, và ta cũng có thể suy đoán vào kiếp tương lai ta sẽ làm gì.
Nhất cử nhất động đều căn cứ vào sự kiện hiện tại trong đời nầy và hiện tại của từng mỗi niệm, mỗi sát na.  Chính trong những giây phút hiện tại ta mới kiểm soát và sống thật với lòng mình.
Như Đức Phật lúc đưa bông sen trước pháp hội, chỉ có ngài Ca Diếp lãnh hội được ý của Phật. Đây không phải là các vị Tỳ Kheo, La Hán v.v… không có giác tánh, hoặc không sống trong giây phút hiện tại. Các vị khác cũng có, tuy nhiên có thể là có phản ứng chậm, hoặc chưa đạt tới mức độ thượng thừa như ngài Ca Diếp.
Cũng như Hoa Thược Dược nở bên hàng dậu. Trong lúc đã có rất nhiều người đi ngang qua, nhưng không có một người nào làm thơ ca ngợi và nghe được tiếng hát của Hoa Thược Dược. Không có người làm thơ về Hoa và diễn tả tiếng  hát của Hoa Thược Dược không có nghĩa là không có người biết thưởng thức cái đẹp của Hoa. Có thể có nhưng những người không phải là Thi Sĩ thì không đủ văn chương để diễn tả cho dù họ có cái nhìn thanh tịnh.
Quách Thoại vừa là Thi Sĩ, vừa có tài nghệ thưởng thức với cái nhìn nhất quán thanh tịnh. Do đó, anh đã viết thành thơ.
Từ sự việc nầy, tôi dám nói Hoa Thược Dược nở bên hàng dậu giống như cành sen Đức Phật đưa ra trước đại chúng trong pháp hội. Hàng dậu nơi Hoa Thược Dược đứng là Linh Sơn thánh địa và Quách Thoại là ngài Ca Diếp.
Và tôi muốn nói:
Hoa Thược Dược nở bên hàng dậu là sự hiện diện của Bồ Tát đạo, là con đường trở về nội tâm. Hàng dậu nơi Hoa Thược Dược đứng đó là căn bản của sự phát sinh ra Bồ Tát đạo và Quách Thoại là người có khả năng trực giác tiếp thu đường về với Bồ Tát đạo.
Tôi có ý nghĩ như thế vì theo trong kinh nói:
Giảng giải một câu kinh, đưa mọi người tiếp xúc lạc thú bằng nghệ thuật trong việc tu tâm dưỡng tánh để tìm lại cái chân như thanh tịnh của thuở ban đầu, đó là một lạc thú cao cả, là một hành động của Bồ Tát mà kinh Kim Cang gọi là hành động Bát Nhã.
Cành Hoa Sen không những nở trong pháp hội Linh Sơn mà nó còn nở trong lòng ngài Ca Diếp, đệ tử của Phật. Cái Hoa Thược không những nở bên hàng dậu mà nó còn nở trong tâm hồn Thi Sĩ Quách Thoại.
Hoa Vô Ưu, Hoa Đạo Pháp không những đã nở cách đây mấy ngàn năm về trước tại Ấn Độ và cả trên quê hương Việt Nam vào các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần mà còn nở mãi mãi trong lòng các người con Phật có tâm hồn yêu đạo mến đời.

                                                           Hiếu Đệ

                                                                  **

                                              Cô Hồn Tháng Bảy
            Hồi năm 1945, thi sĩ Nguyễn Bính vào Sài Gòn. Anh nghĩ không bao giờ còn trở lại  Hà Nội được nữa vì trong trí anh ta chỉ có vỏn vẹn vài chục đồng thôi. Cho nên anh nghĩ mình như một Kinh Kha sang Tần:
Người sang bên ấy sao mà lạnh
Ngõ trúc ta về lạnh mấy mươi.
Đến khi sống ở Sài Gòn lục tỉnh thì chẳng mấy ai biết anh chàng ta là Nguyễn Bính. Nên anh ta than thở:
Hỡi ơi Nhiếp Chính mà bâm mặt
Thiên hạ ai người khóc nhận thây.
Trong truyện Tàu thì chỉ có Hồ Thị là người đứng ra hy sinh nhận thây của Nhiếp Chính. Duy nhứt chỉ người ấy thôi. Vả chăng văn chương thời loạn lạc là như thế. Thật là đáng trách. Có ai chịu đọc sách báo đâu! Cũng như bây giờ thôi, họ còn phải để thời giờ đi làm over-time nữa. Cho nên:
Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng cười.
Trong bài Hành Phương Nam của Nguyễn Bính cũng như Tản Đà vẫn hay nói: «Văn chương hạ giới rẻ như bèo». Còn cụ Tiên Điền Nguyễn Du lúc làm quan thì chẳng nói làm gì. Tới lúc viết truyện Kiều thì trút hết tâm sự của mình vào áng văn kiệt tác đó mà cụ vẫn còn nói:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Cụ nghĩ rằng ba trăm năm sau cũng chẳng có ma nào hiểu tới mình. Các văn nghệ sĩ đều là như vậy. Họ kết thân với nhau thành một bộ tộc, cùng sống lang bạt giang hồ. Chưa tới lúc chết mà Sao Trên Rừng đã trối lại với con cháu:
Con ơi nhớ lấy lời nầy
Đời cha mạnh giỏi cũng nhờ rong chơi.
Tôi nghĩ rằng mình cũng là thành viên trong bộ tộc đó nên đồng ý với nhà thơ Vũ Hoàng Chương là:
Lũ chúng ta một đàn dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh.
Tôi cũng mang cái tật rong chơi quên lối về như thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Mà nhà thơ nầy thường tiếp lũ bạn tre trẻ chúng tôi trên chiếc chiếu hoa, với ngọn đèn dầu lạc. Đến lúc cháy túi không có tiền xài nên nhà thơ rên lên:
Em ơi lửa tắt bình khô cạn
Đời vắng em rồi say với ai?
Những năm đầu của cuộc chiến thì thân phận của giới thanh niên lao đao lận đận, trai làm lính, gái làm điếm:
Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hết
Một ván cờ thua ngã bóng chiều
Ai khóc đời ai trên bấc lụi
Đây mùa thu sớm lửa dần thiêu.
Nhưng dấn thân vào cuộc chiến thì nhà thơ là một chiến sĩ rất dũng cảm. Nhà thơ đã đem thân mạng và sự sống của mình tham dự vào cuộc đấu tranh bất bạo động để tranh thủ hòa bình và chống độc tài từ năm 1963 cho đến 1977. Anh đã từng bị tù tội nhiều lần trong thời gian đó. Trong bài Bút Nở Hoa Đàm, anh viết:
Ai sẽ là người trong tương lai
Một sớm một chiều
Vươn tay hái cành hoa thương yêu
Làm bút viết.
Chính nhà thơ Vũ Hoàng Chương là người đã hái được cành hoa Từ Bi đó chứ còn ai nữa. Đó là một hành động Bồ Tát và công đức vô hạn. Đến khi chánh quyền Việt cộng phóng thích anh về thì anh chỉ sống với vợ con duy nhứt có một ngày rồi mất. Được tin nầy, thiền sư N.H. rất thương cảm viết nên bài thơ. Ông ta dùng toàn những chữ rất quen thuộc của nhà thơ. Các bạn đọc nào thường đọc thơ của Vũ Hoàng Chương thì sẽ cảm thấy ngay.             Đó là bài «Đuốc Thơ Còn Cháy Trên Trang Sử Người»: 
                        Đêm nay dù đã về ngôi
Hồn thơ vẫn thấy luân hồi thế gian
Bút hoa ngàn kiếp không tàn
Đuốc thơ còn cháy trên trang sử người
Có không mù mịt biển khơi
Nẻo về đã rạng chân trời thênh thang
Tỉnh say vẫn một cung đàn
Lửa anh hào đốt cháy tan đêm sầu
Thơ lên bay vút bồ câu
Triều âm chấn động phương nào chẳng nghe
Giấc mơ Hồ Điệp đi về
Biển Đông sóng vỗ, kình nghê vẫn còn.
            Tôi còn nhớ những năm tôi mặc đồ lính, thi sĩ thường hay đến nhà tôi chơi. Trong những dịp đó, anh hay trách tôi:
            - Này, nhà chú mầy coi đông con cái như thế nầy mà không có đến một cái bàn thờ tổ tiên ông bà. Cái đó bậy lắm đó nghen!
            Tôi quay sang hỏi anh:
            - Làm sao tụi tôi thiết kế cái bàn thờ đó?
            Anh đáp:
            - Đâu, đưa giấy bút đây, tớ viết cho mấy chữ là xong ngay. Cho ta biết đủ họ cha họ mẹ và họ bên vợ coi.
            Thi sĩ có lối thủ bút rất ngọt, rồng bay phượng múa, chỉ có vài phút là xong ngay. Anh đưa lên ngắm nghía một hồn rồi nói:
- Này nhé! Đi làm cái khung rồi để lên bàn thờ mà thắp hương với người ta. Ta báo cho biết là bắt đầu từ bây giờ, gia đình chú mầy sẽ khác hẳn đó, sẽ làm ăn phát tài lên.
Tôi bèn đáp:
            - Anh nói cho tôi vững bụng; vậy chứ mặc đồ lính rồi mà còn đòi phát tài cái gì nữa?
            - Ấy! Chú mầy không tin thì thôi, đó là tao chúc chú mầy mà! (Hề... hề...). Mấy đứa bụi đời ngủ ở lề đường mà tụi nó còn có cái bàn thờ ông bà, còn mình có nhà cửa đàng hoàng mà chẳng biết cái gì cả. Cái đó phải tội với tổ tiên đó nghe chưa?
- Đâu cái bàn thờ ông bà của dân bụi đời ra sao anh?
            - Thì đấy, nó xâm hàng chữ trên cái khuỷu tay đó: “thương quê hương nhớ mẹ hiền”. Bởi vì bọn họ không bao giờ có nhà để trở về. Nhưng họ vẫn nhớ về huyết thống tổ tiên. Như vậy hàng chữ đó là cái bàn thờ ông bà của họ đó chứ còn gì nữa. Cái bàn thờ nầy đến chết họ vẫn còn mang theo đó chú mầy ơi!
            Cũng nhờ thi sĩ họ Vũ mà tôi mới có cái bàn thờ ông bà tổ tiên. Đến nay sống ở nước ngoài, lũ con tôi chúng nó vẫn mang theo cái bài vị của bàn thờ ông bà qua đây, mặc dầu cái nền màu đỏ của tờ giấy đó đã trắng bệch ra rồi. Sau nầy còn tiến bộ hơn là trên cao còn có bàn thờ Phật nữa.
            Người Việt Nam chúng ta lúc nào cũng có cái bàn thờ ông bà ở trong mỗi gia đình. Đến ngày rằm tháng bảy, họ thường hay chưng dọn hoa quả, trà nước để cúng kính ông bà. Họ cho đó là một ngày rất hạnh phúc vì họ nghĩ rằng ông bà nay về đoàn tụ với họ, vui vẻ trong ngày lễ Trung Nguyên đó. Ông bà cũng chứng minh sự hưng thịnh của gia đình họ ngày hôm nay. Cũng trong dịp nầy, họ còn nghĩ đến cô hồn tháng bảy. Đó là những con ma đói, không nhà cửa để trở về. Họ thiết lập một cái bàn thờ nữa để ở trước nhà, bày ra nhiều thứ thức ăn thức uống để cúng cô hồn. Người ta thường gọi là Cúng Thí Thực. Họ nghĩ là những con ma đói thiếu tình thương của gia đình thân thuộc, đói cả sự hiểu biết và đức tin. Tội nghiệp cho những ma đói nầy cả đời cho đến khi nhắm mắt chẳng nhận được một thứ tình thương nào cả.
            Theo trong kinh Phật thì nói thứ ma nầy có cái bụng rất lớn nhưng cái cổ họng lại nhỏ xíu thôi nên chúng khó bề mà tiếp nhận được thực phẩm, nước uống do tình thương của muôn người cung cấp cho nó. Bởi vì loại ma nầy đầu óc hạn hẹp lắm. Sở dĩ cái cổ họng nhỏ xíu lại là vì tánh hoài nghi, hay ngờ vực hết mọi người, chẳng tin vào ai cả. Thế cho nên xã hội chúng ta hằng ngày sản xuất ra hằng nghìn con ma đói nầy. Nhất là cái xã hội kỹ nghệ hóa và cá nhân chủ nghĩa như bây giờ.
Chúng ta chịu khó nhìn sâu một chút sẽ thấy và hiểu được nó ngay. Biết vậy, chúng ta không nên oán trách nó mà phải thương xót nó nữa là khác. Bởi vì nó cũng bị kẹt không thể thoát ra được, đành chịu chết dí ra như thân xác con chuột con sóc đang nằm trên xa lộ. Trong lễ cúng thí thực cho cô hồn, người ta có đọc một bài chú. Người ta nói là để cho cái cổ họng của cô hồn được mở toát ra mà tiếp nhận thực phẩm và tình thương. Và cũng để giải phóng cho nó được hiểu biết nhẹ nhàng mà trở về với gia đình và xã hội.
            Có những thanh niên thanh nữ tự vỗ ngực lớn tiếng nói với gia đình rằng mình không phải là người Việt Nam. Có những người còn chưởi thẳng vào cha mẹ là loại cổ lổ xỉ (old fashion). Có những em bé làm giao liên cho đường giây ma túy, phát tài rồi không chịu đi học nữa, thoát ly gia đình luôn. Những gia đình người Á Đông lên tiếng báo động tình trạng làm mình mất con. Họ nói thà trở lại sống ở các nước nghèo nhược tiểu mà giữ được con cái. Truyền thống văn hóa có cơ nguy bị cắt đứt.
            Sở dĩ chúng ta có được một đời sống an lành và hạnh phúc là do chúng ta có gia đình, có xã hội, có cộng đồng. Chúng ta có dòng máu và tinh thần của tổ tiên ông bà. Chúng ta là những đứa con hiếu thảo của cha mẹ nên chúng ta hiểu biết được tổ tiên ông bà. Còn ngược lại, chúng ta không tìm thấy sự bình yên. Chúng ta không tìm thấy sự tin tưởng trong chúng ta. Như vậy là chúng ta thành cô hồn, thành những con ma đói. Đói cả truyền thống văn hóa, đói cả sự tin cậy vào cuộc đời. Những con ma đói, những cô hồn còn có được tháng bảy để trở về. Còn chúng ta, có khi bị đi đứt luôn.
            Tại sao chúng ta nhớ cứ mỗi rằm tháng bảy làm lễ cúng cô hồn? Tại sao chúng ta lại không mở rộng trái tim mình, hiểu và thương đến những người tuổi trẻ thiếu tình thương và thiếu cả nơi nương tựa.

                                                               Hiếu Đệ

                         **

                                                   Nỗi Buồn Hoài Niệm
               Tôi vào năm thứ nhất trường Trung học Trương Vĩnh Ký thường gọi là trường Pétrus Ký, niên khóa đầu tiên khi trường được quân đội viễn chinh Pháp sang tái chiếm Đông Dương sau thế chiến thứ hai, giao hoàn lại chánh quyền Việt Nam. Đó là năm 1947 sau một thời gian trường ăn nhờ ở đậu nơi nhiều cơ sở giáo dục khác như trường Sư Phạm ở cạnh Sở Thú, trường Nữ Trung học Gia Long, chủng viện Mossard, trường Marie Curie…
Chính nơi trường Marie Curie nguy nga đồ sộ nầy, thấp thoáng đó đây nhiều khuôn mặt tây đầm oai vệ với quần áo thẳng thớm phẳng phiu, thằng nhỏ nhà quê là tôi chưa hoàn hồn khi đang ngơ ngác, chới với giữa đô thành tráng lệ, lại ngỡ ngàng âu lo lúc dự thi tuyển vào trường Pétrus Ký. Và cũng trong năm 1947 đó, trường mở lại chế độ nội trú sau nhiều năm gián đoạn vì thời cuộc và chiến tranh.
            Một may mắn khác là tôi thuộc thành phần học sinh nội trú này. Chẳng qua nhờ ăn "dưa leo chấm nước cá kèo" nên theo chân "mấy anh học trò nghèo học buộc xi ê". Nhờ ông trời thương vì với lớp nghèo như tôi thi tuyển vào trường Pétrus Ký lúc bấy giờ mà trợt một keo thì cuộc đời kể như đi đứt. Nói theo ngôn ngữ dân gian chân quê của bà con tôi là kể như tôi sụm bà chè luôn. Lý do là tôi đâu còn cơ hội nào nữa để được dự thi lần thứ hai.
Chế độ tuyển chọn thời thực dân thịnh trị vô cùng khắc khe nghiệt ngã. Bao nhiêu nam nữ hiếu học cầu tiến thời đó đã mất hết tuổi thanh xuân mộng mơ của mình và đành chấp nhận định mệnh phải bỏ dở dang việc học hành để tiến thân khi dứt cấp sơ học.
Thực tình cũng nhờ tôi tốt số do nhờ ơn trên và hồng phúc dòng tộc hay sao mà tôi lại đậu có hạng trong kỳ thi tuyển khó khăn đó. Và tôi đương nhiên được ban giám đốc nhà trường chọn vào chế độ nội trú. Một thành quả tôi không hề dám ước mơ nhưng đã là sự thật. Một nỗi mừng không bút mực nào tả được đối với tôi lúc bấy giờ. Không như ở mẫu quốc này hiện nay, gia đình nào không có thu nhập cao, con cái đều được cấp học bổng do chánh sách nâng đỡ và khuyến khích học hành của chánh quyền. Cho dù kết quả của chúng nơi trường ốc có đạt như ý muốn hay không.
            Mấy năm ở nội trú, tôi giữ rất nhiều kỷ niệm, những kỷ niệm đầu đời này khó quên, không sao kể xiết. Chính nơi đây, tôi đã gặp "anh hùng tứ xứ", từ cuối mũi quê hương Bạc Liêu, Cà Mau quanh năm rì rào sóng vỗ đến Tây Ninh ngất nghểu Núi Bà huyền thoại, Biên Hòa bắp ngon bưởi ngọt... từ vùng biển mặn Gò Công, Mỹ Tho đến Hà Tiên với Đông Hồ ấn nguyệt, Thạch Động thôn vân v.v... trong Hà Tiên thập cảnh, Châu Đốc những ngày Vía Bà "ngựa xe như nước, áo quần như nêm"... Toàn là những tay hiếu học say mê cầu tiến.
Trường bãi bỏ hẳn chế độ nội trú khoảng năm 1951 sau đám tang Trần Văn Ơn được tổ chức trong khuôn viên nhà trường với thành phần nồng cốt là học sinh nội trú. Đây là một trong những đám tang lịch sử trọng thể hiếm có sau đám tang vĩ đại của chí sĩ Phan Châu Trinh thuở trước. Từ năm đó trở về sau, trường chỉ nhận duy nhứt học sinh ngoại trú mà thôi.
            Gần năm mươi năm tuần tự tiếp nối, kẻ mất người còn, trải qua lắm biến cố biển dâu, đất nước đổi đời. Bao nhiêu bè bạn bằng hữu ngày xưa, nay dở sống dở chết nơi "xứ tù chung thân" Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bao nhiêu tri âm tri kỷ lưu đày nơi xứ lạ, ngậm đắng nuốt cay khắp năm châu, canh cánh trong lòng nỗi hờn ly hương mãi mãi quặn xoáy không nguôi. Tuy nhiên dù hoàn cảnh có oái oăm nghiệt ngã đến thế nào nhưng trong tâm tư tình cảm của chúng tôi vẫn in sâu, đậm nét câu đối chữ Hán do giáo sư Ưng Thiều viết và được khắc trên hai cột trụ đứng hoành tráng ở cổng chánh của trường:
            «Khổng Mạnh Cương Thường Tu Khắc Cốt
            Tây Âu Khoa Học Yếu Minh Tâm».
            Lật bật chúng tôi đã trang bị đầy đủ rương hòm để vào nhập học năm thứ nhứt, khởi sự cuộc sống tập đoàn với những sinh hoạt râm rấp theo một nội qui chặt chẽ. Chương trình học giao tiếp giữa hai bậc tiểu học và trung học nhằm giúp đám học sinh "ra ràng" còn non chèo chúng tôi làm quen với nề nếp, phương pháp và nhịp độ sinh hoạt mới của trường ốc. Do vậy, chưa có những gò bó, bức bách khắc khe như mấy năm sau này khi phải chuẩn bị trần thân khổ ải, thi cử trầy vi tróc vảy do chính sách giáo dục của thực dân Pháp.
Họ chủ trương hạn chế nhân tài bản địa vì sợ nguy cơ tiếp xúc nền tảng văn chương văn hóa phóng khoán cùng những tư tưởng tiến bộ về bình đẳng, bác ái và tự do, dân chủ Tây Phương. Nhưng trong thực tế, họ đành chấp nhận thất bại chua cay. Dù họ có trăm mưu ngàn kế dùng những thủ đoạn và biện pháp độc tài độc đoán thất nhân tâm cách nào đi nữa vẫn không sao thoát  khỏi nấm mồ ô nhục, nấm mồ phũ phàng chôn chính chế độ của họ sau thế chiến thứ hai.
            Chúng tôi học tà tà. Hằng ngày, đa số chúng tôi mặc bộ đồ bà ba trắng phao được ủi xếp nếp. Giống như dáng vóc các anh công tử bột miệt vườn, chúng tôi đều mang guốc dông nhẹ hêu, lũ năm lũ ba kéo lẹp xẹp đến lớp học, qua dãy hành lang vừa dài hun húc, vừa khoản khoát, lúc nào cũng sạch sẽ lộng gió. Vài đứa thuộc hàng giàu có, con cái các địa chủ lục tỉnh khét tiếng, mang guốc lồng mức rắng chắc, nặng ì, mỗi bước đi nện mạnh xuống sàn gạch nghe lốp cốp lốp cốp như tiếng ngựa phi nơi đại đạo.
            Bài vỡ đã ít. Tuy vậy, sáng nào chúng tôi cũng có lệ "ngồi ê tuýt" ôn lại bài học trong ngày hay chuẩn bị chu đáo sách vỡ hoặc dụng cụ cần thiết... trước khi đến lớp. Ngán nhứt là lúc "ngồi ê tuýt" bắt buộc vào  buổi tối. Thì giờ quá dư giả, thừa mứa. Không biết phải làm gì. Chập chập chúng tôi cứ nhìn đồng hồ tay, thấy kim đồng hồ dường như ngừng chạy hẳn.
            Thật chán phèo! Những lúc ấy, tôi thường hay nhớ lại những ngày tháng dài mài đủng quần ở ghế nhà trường tiểu học tại quận nhà. Nơi đây có quá nhiều thoải mái, tự do nên trong lòng tôi thoáng dậy vu vơ bao nhiêu tiếc nuối ngậm ngùi, phảng  phất  rất  nhiều  khuôn  mặt bạn bè nối khố nay đã chia tay tản lạc, thằng góc biển, đứa chơn trời mù tăm.
Giờ đây, có đứa học hành xuôi chèo mát mái, đổ đạt thành danh thành tài. Chúng ăn nên làm ra, cuộc đời lên hương như diều gặp những ngày lộng gió, lúc nào cũng ăn trên ngồi trước. Thật tâm mừng cho chúng nó. Và chúng tôi cũng tự hào và hãnh diện chung cho tăm tiếng của nhà trường mẹ nữa.
Nhưng đại đa số còn lại, ngày ngày tất bật bon chen kiếm sống, chắt chiu từng đồng xu cắt bạc mà vẫn chưa yên thân yên phận. Nơi đây, tôi xin được chia xẻ nỗi niềm với những đồng môn bất hạnh này. Từng đứa từng tên cứ mãi ẩn hiện vấn vương trong tôi những lúc bâng quơ ngoái nhìn về dĩ vãng. Mới hay những hình ảnh mất đi bao giờ cũng dễ nhớ và đòng đọng dài lâu trong mỗi con người chúng ta.
Nghĩ đến ngày may mắn gặp lại đám trời đánh, tinh nghịch khuấy phá thuở thiếu thời này thật vô cùng mong manh mà nghe xao xuyến, buồn vô hạn. Đôi khi bên tai tôi lại văng vẳng lời của thầy tôi nơi trường tiểu học, dong dài về huyền sử của dân tộc, về định mệnh của người Việt nam qua truyện kể Âu Cơ và Lạc Long Quân.
Hai ông bà đã chia tay nhau, mỗi người dẫn dắt năm mươi con theo hai ngả khác nhau. Hai ngả cách ngăn diệu vợi: rừng núi chập chùng và biển cả thẳm sâu. Những lúc đó, tôi trầm ngâm lặng thinh như cúi đầu chấp nhận định mệnh của chính mình!?
            Ngồi không khơi khơi nơi phòng «ê tuýt», chúng tôi đâm ra buồn ngủ. Lại không được quyền ngủ. Chỉ còn nước tự cứu rổi lấy mình là ngủ gà ngủ gật một vài thoáng ngắn ngũi chờ tiếng chuông reo giải thoát cuối giờ. Vì đây là giờ học bắt buộc mà!
            Các thầy giám thị rất dễ thương. Thầy Nguyễn Văn Tình, thầy Thân, thầy Xáng, thầy Trương Minh Ứng, thầy Hồ Văn Trị, thầy Nguyễn Gia Tốn, "papa" Lê Văn Khiêm v.v... thỉnh thoảng hò hét cầm chừng để áp đặt trật tự phòng ốc. Hoặc phân xử những vụ kiện cáo lặt vặt không đâu đâu giữa chúng tôi.
Những lúc này được nghe hai bên nguyên cáo và bị cáo cãi qua cãi lại theo kiểu móc họng, giành phần thắng về mình. Thêm mấy đứa nhân chứng lứng khứng, làm nhưn làm nhụy, nhập nhầy lải nhải trước sau bất nhứt, không ra hồn. Rồi những lời phán quyết hàng hai, huề cả làng, làm đẹp lòng tất cả của các thầy là dịp cứu tinh qua giờ giấc.
Có đêm, ông Motais de Narbonne, Tổng Giám thị người Pháp cuối cùng của trường, bách bộ hóng mát xa xa bên ngoài phòng học để nhắc nhở sự hiện diện dù chiếu lệ của ông. Lúc ấy, ông đã lụm khụm, đi đứng chậm chạp khó khăn, thêm móm xọm, sắp về hưu.
            Càng về khuya càng buồn ngủ hơn. Hai mí mắt mỏng tanh, nhẹ bong cứ kéo xụp xuống nặng nề, dù chúng tôi cố nhướng cách mấy cũng không sao hé mắt được. Thỉnh thoảng, các thầy gõ thước cốp cốp rồi gọi từng tên cảnh cáo, nhắc nhở phải học bài làm bài hoặc khuyên đọc sách trao dồi kiến thức.
Lớp học lại trở nên im thin thít. Từng chập từng chập, chúng tôi nghe mấy con tắc kè sống lâu năm, to thân lớn xác, thường thập thò ở cửa chánh hướng vào "đọt toa", kêu lên những tiếng nặng nề ngắt khoảng, trầm buồn khôn tả. Những lúc ấy, tôi cảm thấy trong lòng mình dấy lên nỗi nhớ nhà nhớ quê, nhớ mái chùa xưa cong cong rong rêu, nhớ vòm me cổ thụ xum xuê, nhớ đình nhớ miễu um tùm rập rạp… Những nơi tôi từng nghe phát ra lạnh lùng tiếng những con tắc kè thân quen hằng đêm.
            Ngồi học nhưng chúng tôi canh giờ. Tai lắng nghe bác lao công giè thân quen xách thùng nước trà Huế nóng đổ vào hũ da bò lớn kê bên ngoài, phía sau lớp. Thế là chúng tôi nối đuôi nhau, hết đứa này đến đứa khác, xin thầy giám thị trực đêm cho phép đi lấy nước uống. Nước trà nóng giúp tỉnh táo trở lại không mấy hồi như có phép tiên vậy.
Hơn nữa, ra được ngoài sân là một cơ hội ngàn vàng, trông chờ đỏ con mắt. Có gió mát trong lành thoang thoảng mơn trớn. Có sao trời lấp lánh nên thơ quyến rủ. Có trăng non lơ lửng đồng tình...
Tha hồ cho chúng tôi ở nán lại đấu chuyện tào lao, vội vàng hấp tấp. Khốn nỗi đôi lúc chúng tôi bị níu kéo nán lại. Vì có thằng dốt đặc cán mai cũng tập tành con cà con kê, dong dài vẽ viên những câu chuyện Chị Hằng Chú Cuội, dặm mắm thêm muối cho lâm ly lôi cuốn rồi cao hứng chúng nó lang bang vào cõi mơ hồ, nào chòm sao Đại Hùng Tiểu Hùng, nào sao vua Xử Nữ v.v... Làm như chúng nó sành sõi, thông hiểu rành rọt về khoa thiên văn địa lý vậy. Nhưng thực tình bây giờ nhớ lại lúc đó chúng nó xạo hết chỗ nói, nhưng xạo có căn cơ, gốc ngọn, nghe cũng bùi tai. Nhờ vậy chúng tôi vốn mù tịt nhưng được một cái là tỉnh táo trở lại.
            Một số bạn khác lén trốn ở các dãy bàn chót để đánh cờ tướng, cờ chó, cờ ăn ừ chờ giờ. Việc này không thoát được đôi mắt rất tinh của các thầy. Nhưng các thầy cũng thương tình thông cảm, giả điếc giả mù làm ngơ. Miễn sao chúng tôi giữ yên lặng để đứa nào muốn học hành có đầy đủ
điều kiện tối thiểu, sẽ không phàn nàn hay khiếu nại gởi thưa.
            Nay các thầy chắc đã nằm xuống thảnh thơi toại nguyện nơi lòng đất mẹ ấm tình ruột thịt, tâm thần thanh thản vì đã làm tròn trách nhiệm một kiếp người. Vì lúc ấy các thầy cũng đã trọng tuổi, trừ thầy Nguyễn Gia Tốn hãy còn trẻ măng, chỉ lớn hơn chúng tôi chắc chưa tròn một kỷ.
Sau này, đến 30/04/1975, chúng tôi vẫn thường gặp thầy trên "chiếc xe mẫu" bốn bánh, do chính thầy vẽ kiểu và thực hiện, có lấp máy nổ. Thầy làm phương tiện di chuyển trong thành phố, trông không giống ai nhưng lúc nào cũng lôi kéo người tò mò, quến kẻ hiếu kỳ. Kể ra thầy rất có khiếu sáng chế, tiếc thay "sanh lầm thế kỷ" nên không gặp thời để cải tiến thêm và thương mãi hóa sáng kiến của mình. Các thầy không còn nữa nhưng hình ảnh các thầy vẫn đậm nét và sống mãi trong lòng tôi.
            Nhưng kỷ niệm có ảnh hưởng lớn đối với tôi có lẽ là phong trào đọc tiểu thuyết ở nội trú. Gia đình tôi ở xa thành phố, không phải cuối tuần nào hay ngày lễ nào cũng về thăm nhà được. Tài chánh có giới hạn, chỉ dành cho những chi tiêu tối cần cho việc học hành thi cử. Phương tiện di chuyển thời ấy hãy còn nhiêu khê, phôi thai và quá đắt.
            Vẫn những chiếc xe điện cũ kỹ nối liền Sài Gòn Chợ Lớn theo đại lộ Galliéni sau này là Trần Hưng Đạo và đường Marins tức Thủy Binh hay Đồng Khánh ở Chợ Lớn... Chúng vẫn giữ một nhịp độ bất di bất dịch từ năm này sang tháng nọ, cứ cà rịt cà tang với những tiếng chuông báo động
leng keng leng keng, đêm đêm nẹt điện xèn xẹt sáng ngời, chớp tắt không nguôi.
            Vẫn những chuyến xe lửa Mỹ Tho Sài Gòn đen ngòm, nặng nề, chạy bằng củi thay vì than đá do thời buổi nhiễu nhương khan hiếm nguyên liệu. Lắm khi lên dốc cầu Phú Lâm, chúng phải phải thụt tới thụt lui đôi lần ba lượt để lấy trớn từ xa. Có khi mãi tận Mũi Tàu, An Dưỡng Địa An Lạc, tức khoảng xa cảng Miền Tây bây giờ. Những lúc đó, lũ nhỏ chúng tôi tha hồ đánh đeo theo các toa xe, mặc tình đùa giỡn nói cười thỏa thích.
Thêm vào đó, còn cảnh tượng khách đi xe đông như kiến, bám đeo đầy các cửa lên xuống, cả trên mui xe rất nguy hiểm. Bỗng nhiên tôi lại nhớ hình ảnh bác gác cổng già nơi ga xe lửa Phú Lâm hấp tấp thổi mấy hơi còi dài để báo động trước khi bác cẩn thận kéo hai cổng tre sơn trắng đỏ đều khoản, xuống nhằm chận xe cộ và bộ hành qua lại.
            Vẫn những chiếc xe thổ mộ lụp cụp leng keng, leng keng lụp cụp với mấy con ngựa có tuổi ốm nhôm, chạy đi chạy về không biết bao nhiêu lượt trong ngày. Chung qui các chuyến xe đã làm nên một thời đó đều bắt đầu và được đợi chờ ở hai bến ga xe lửa Sài Gòn và Chợ Lớn Mới, Chợ Lớn Cũ. Mấy chú ngựa uể oải lúc cuối đời này, phóng uế bừa bãi, rải rác ngay giữa lòng đường. Dù vậy, bà con vẫn quen mắt từ bao đời rồi nên chẳng có một phản ứng nào cả.
            Vả lại, mỗi lần về thăm nhà do phương tiện di chuyển vốn trắc trở đã đành mà còn tốn kém lắm đối với hạng học sinh có tiêu chuẩn "dưa leo, cá kèo". Tiền cha mẹ cho bỏ túi mang theo không đáng giá là bao nhưng là cả một hy sinh lớn lao của một đời người.
Chồng làm quần quật trên đồng không mông quạnh, quanh năm thách thức gió mưa sương nắng. Vợ thì lam lũ ngày nắng ngày mưa, đội trên đầu hay gánh gồng oằn vai băng qua những cây cầu khỉ khập khểnh hay đường làng quanh co trơn ướt, nào là rau khoai, cây trái vườn nhà đem bán ở chợ xa.
Chúng tôi thường ở lại trường vào mỗi cuối tuần. Cả một vài tháng hay gặp lễ lớn mới có hy vọng về thăm nhà. Số học sinh nội trú bất hạnh này tương đối không đông mấy vì có những bạn may mắn tốt số hơn, nhờ kiếp trước khéo tu, lánh dữ làm lành sao đó nên bây giờ được bà con quen biết ở thành phố hay những vùng phụ cận bảo lãnh đi phép ngày thứ bảy hay chủ nhật. Sáng chúng đi trọn ngày, tối về trường trước giờ đóng cửa "đọt toa".
            Thời gian rổi rảnh của chúng tôi trong hai ngày cuối tuần dài thăm thẳm, buồn thúi ruột thúi gan. Bạn bè ở lại trường thường quá ít nên quang cảnh thêm trống vắng hắt hiu. Tuy trời nắng tốt với màu xanh rộn rả thắm tươi mà sao cảnh vật đối với chúng tôi trông quá nhạt nhòa thểu não. Mới hay "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!" (Nguyễn Du).
Chép bài hộ các anh lớn, vốn tiện tặn từng giờ từng phút mài miệt chuẩn bị ngày đêm để thi "bắc on", "bắc đơ" riết cũng chán. Chúng tôi cứ lần lữa hứa cuội, cười trừ, khất tiều khất quảng kéo dài mãi khiến các anh tới lui thúc hối như đi đòi nợ ngày nợ tháng không bằng. Đôi khi các anh buông những lời chê trách cho rằng chúng tôi làm ăn chậm lụt như lục bình trôi, còn hơn ba ba lội biển.
            Chúng tôi chỉ có cách đọc sách để tiêu khiển. Thường là tiểu thuyết Pháp hoặc Việt mới giết hết thì giờ. Dọc sách ở nội trú là một cái thú tuyệt vời. Nhứt là vào khoảng mười giờ ruỡi mười một giờ, chúng tôi vừa đọc sách vừa run đùi nhâm nhi loại cơm cháy chảo đụn. Các chú các bác phụ trách ẩm thực sâm soi vàng hườm, dòn rụm, còn tráng lên một lớp mỡ thịt heo kho tàu óng ánh, thêm lởm chởm hành hương xắt nhỏ, thơm ngon lạ lùng.
Sau này, rời trường lưu lạc khắp nẻo đường quê hương, lăn lóc bập bũm trong những hoàn cảnh trái ngược nhau, rồi đến hôm nay ly hương bất đắc dĩ, lặn hụp nơi xứ lạ quê người từ mấy mươi năm qua, tôi vẫn còn tiêng tiếc cái thuở “vàng son” của một đời người này. Vì chẳng cách nào tôi tìm lại được hương vị qua ư đặc thù xa xưa ấy nữa.
            Sách Pháp không ngoài những tác giả chúng tôi mua ở nhà sách Khai Trí hoặc Văn Đàn ở Chợ Cũ Sài Gòn những khi đi phép hiếm hoi cuối tuần. Đại khái như các tác giả Alphonse Daudet, George Sand, René Chateaubriand, Alexandre Dumas, Victor Hugo, Hector Malot, Pierre Loti và... giáo sư Phạm Duy Khiêm với tác phẩm "Les Contes en Terre Sereine" mà các thầy dạy Pháp văn như thầy Phan Quốc Quân, thầy Lê Văn Phước, thầy Hồ Văn Kỳ Trân, thầy Nguyễn Văn Thơ, thầy Huỳnh Văn Hai, thầy Lê Chí Thiệp v.v... thường khuyến khích khuyên bảo chúng tôi cố tìm đọc.
            Riêng tiểu thuyết Việt thì nhiều, nhiều lắm. Thị trường chữ nghĩa tiếng Mẹ đang phát triển mạnh mẽ và tràn ngập lúc bây giờ. Hầu như hằng tuần nào cũng đều có những tựa sách mới với kỹ thuật in ấn trình bày ngày càng cải tiến hấp dẫn. Dù sao, sách Việt cũng dễ đọc, dễ hiểu, không phải lôi thôi tra cứu tự điển, mất thì giờ và mất cả hứng thú.
Chúng tôi dành dụm, chầm khíu đồng lặn đồng mọc, hạn chế tối đa chi xài lặt vặt không cần thiết  để    tiền mua sách. Mua được cuốn nào là
chúng tôi trao đổi, chuyền tay nhau đọc. Đôi khi còn tranh giành đọc trước đọc sau như tôm tươi không bằng.
            Lúc này, “toàn dân nghe chăng sơn hà nguy biến” nên phong trào yêu nước bừng lên mãnh liệt, sục sôi khắp mọi nơi. Các tầng lớp công dân trẻ già trai gái hạ quyết tâm hy sinh, chung một lòng kháng chiến chống Pháp xâm lăng sau thế chiến thứ hai. Từ thành phố chí đến thôn làng hẻo lánh đều vang dội những bước quân hành. Những bản hùng ca đánh động lương tâm của Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ thời cách mạng tháng Tám vẫn còn âm hưởng quẩn quanh đâu đây.
Chiều chiều, ở những giờ giải trí, các anh lớn tụ tập hòa đàn những bản Thanh Niên Hành Khúc, Việt Nam Mến Yêu, Lên Đường, An Phú Đông... lôi cuốn, quến lũ chúng tôi bu quanh rất đông đảo. Rồi động lòng sanh hứng, chúng tôi cùng nhảy vào tham gia nhưng chỉ biết vỗ ghế đập
bàn ầm ầm theo nhịp hát hồn nhiên muốn vỡ cả lồng ngực.
            Thời đó, ở Sài Gòn, hầu hết báo chí thống nhứt hằng ngày đồng thanh lên tiếng tỏ rõ lập trường dứt khoát chống lại nhựt báo phân ly Phục Hưng của nhà báo Hiền Sĩ, người chủ trương đòi Nam Kỳ tự trị theo đúng sách lược của thực dân. Và cây bút móc lò nổi tiếng lúc bấy giờ ký dưới bút hiệu Nam Quốc Cang, tức ký giả Nguyễn Văn Sinh, trong mục "Trớ Trêu", ví von đã kích không nương tay những tên thực dân giàu sụ. Bọn này cố bám níu quyền lợi mong manh còn sót lại. Đặc biệt là nhóm "Tam B" chọc trời khuấy nước: Béziat, Bazé và Bonvicini.
Trong khi đó, các văn nghệ sĩ ở thành hầu hết đều hướng nhìn về phía chiến khu hoặc có thiện cảm với kháng chiến. Những đề tài sáng tác của họ xoáy quanh giai đoạn lịch sử ấy nhằm khích động bấu nhiệt huyết tuổi trẻ và lương tri độc giả, thúc giục họ đứng lên "chống xâm lăng", đấu tranh giành độc lập, tự do, dân chủ cho nước nhà. Về sau nhà phê bình văn học Nguyễn Văn Sâm gọi giai đoạn này là "Phong trào Văn chương Kháng chiến Nam Bộ".
            Nhiều tựa tiểu thuyết đến nay vẫn in dấu sâu đậm trong trí nhớ tôi như Người Yêu Nước của Thẩm Thệ Hà, Nửa Bồ Xương Khô của Vũ Anh Khanh, Trên Đường Nhiệm Vụ, Những Tia Nắng Mới của Đặng Thị Thanh Phương, Kòn Trô, Sương Gió Biên Thùy của Lý Văn Sâm, Manh Áo Ngự Hàn, Người Chiến Binh Bạt Mệnh của Nguyễn Đạt Thịnh, Tình và Nghĩa Vụ, Lá Cờ Hồng Thập của Nhất Tâm, Bên Mồ, Hận Người Tử Sĩ của Hoàng Kim...
Ngao Châu dịch Đường Lên Cõi Bắc trong khi ký giả nhà văn Việt Quang đi xa hơn với Xin Đắp Mặt Tôi Mảnh Lụa Hồng. Lụa hồng ở đây có ý nghĩa gì? Chẳng qua là lá cờ đỏ của Cộng sản được tác giả tô vẽ phai nhạt bớt để qua mặt kiểm duyệt lúc bấy giờ.
            Chưa kể những tác giả khác như Trần Thanh Mại (Ngô Vương Quyền), Dương Tử Giang (Duyên hay Nợ), Sơn Khanh (tức cựu Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc trong chánh phủ Nguyễn Cao Kỳ), Liên Chớp, Bùi Nam Tử, Võ Hòa Khanh, Tô Nguyệt Đình... Tôi nghĩ rằng một số anh em chúng tôi đã thực sự chịu ảnh hưởng của những tiểu thuyết đấu tranh này, hầu hết do nhà xuất bản Tân Việt in ấn và phát hành rộng rãi ở thành phố.
            Vì chịu một phần ảnh hưởng ấy nên một số không nhỏ thanh niên nặng lòng yêu nước đã từ bỏ thành phố hoa lệ đi vào chiến khu với ước mơ trong sáng đem đến chiến thắng vinh quang nhanh chóng cho dân tộc, cho tổ quốc. Nhưng thảm thương thay, đa phần đều vỡ mộng, không tìm được lối thoát.
Một số nhắm mắt buông xuôi theo định mệnh để bảo toàn mạng sống rồi từng bước bị lôi cuốn vào guồng máy hận thù chém giết, đấu tranh giai cấp của cộng sản để thân bại danh liệt về sau. Một số khác kiên cường bất khuất với tâm niệm hướng thượng, vì quê hương dân tộc, vì tổ quốc trên hết nên bị Việt minh Cộng sản thanh toán, bức tử giữa lúc tuổi thanh xuân tràn đầy nhựa sống yêu đời.
Trường hợp nhà văn tên tuổi Vũ Anh Khanh là một điển hình đến nay vẫn chưa phai nhòa trong ký ức tập thể của toàn dân Miền Nam. Anh đã vượt tuyến và bị bộ đội biên phòng bắn chết nơi sông Bến Hải, xác bị bọn chúng dập vùi đâu đó bên bờ sông?
Duy chỉ một số may mắn hơn, vượt thoát được gọng kềm quá ư khắc nghiệt và tàn nhẫn của cộng sản. Họ bất chấp hiểm nguy, quyết tâm trở về vùng đất tự do và bị chúng với ác tâm cố hữu gán cho hai chữ Việt gian nhục nhã chỉ vì không chấp nhận chủ trương và đường lối độc tài đảng trị của chúng.
            Khoảng năm 1958/59, tôi có giữ một chức vụ nho nhỏ trong guồng máy chánh quyền Đệ Nhứt Cộng Hòa và có cơ hội hướng dẫn một phái đoàn nhân viên đi khảo sát Côn Đảo. Tôi lưu lại đây tròn một tháng vì thời bấy giờ mỗi tháng chỉ có một chuyến tàu duy nhứt xuất phát từ Bến Bạch Đằng để tiếp tế cho đảo. Lúc này Thiếu tá Bạch Văn Bốn làm tỉnh trưởng Côn Sơn.
            Tôi được dịp thăm viếng hầu như tất cả các trại giam, cả khám biệt lập mà một thời báo chí thiên tả trong nước cũng như giới truyền thông quốc tế ác ý đồng thanh gọi là “chuồng cọp” với những mô tả thiếu khách quan. Tôi cũng có thăm khám tử hình và nơi đây tôi có gặp nhà văn nhà chánh trị Hồ Hữu Tường, ký giả Văn Lang Trần Văn Ân, chủ nhân sáng lập báo Đời Mới nổi tiếng một thời, rồi những đàn em của tướng lưu vong Bình Xuyên Lê Văn Viễn như Tư Cốc, Tiểu Lý Quảng, Chín F.M v.v...
            Một nỗi buồn dấy lên trong tôi lúc đó khi trông thấy một số khuôn mặt bạn bè chung lớp hoặc biết mặt biết tên trong những năm chung sống vui vẻ dưới mái trường Pétrus Ký đang trong vòng lao lý nơi các trại giam khổ sai, ngày ngày đi đốn củi hoặc lao động nặng. Tôi suy nghĩ có thể một số nào đó vẫn còn trung thành với giấc mơ không tưởng của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Nhưng tuyệt đại đa số khó mà chọn lựa một lối thoát thân do sự kềm kẹp rúng ép của các chi bộ đảng nhà tù. 
            Thuở đó, chánh sách của chánh quyền Miền Nam là mở rộng vòng tay đón nhận những người phía bên kia thành tâm trở về với chính nghĩa quốc gia. Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn có tổ chức một khu riêng biệt cho những người hồi tâm hối cải này. Họ được tự do thoải mái, sống chung đụng nhau và nơi khu này tôi còn nhớ có cả quán xá bán đầy đủ cà phê, hủ tiếu, thuốc lá cùng những dụng cụ cần thiết v.v...
Có nhiều người ngày ngày được cho ra sinh hoạt ngoài phạm vi của khu và chỉ trở lại đây để ngủ đêm. Cho nên anh em tù nhân gọi khu này là “thiên đường” để đối lại với các trại khổ sai hay cấm cố là “địa ngục”. Chính nơi “địa ngục” này, biết bao thanh niên trong đó có không ít bè bạn đồng song của tôi đã vĩnh viễn từ giã cõi đời, mang xuống tuyền đài giấc mơ dang dở.
            Trong giai đoạn đó, tôi có cơ may và cũng chắc do định mệnh sắp sẵng là rất say mê đọc các tác phẩm bất hủ về nông thôn đồng ruộng quê mùa của nhà văn đặc sệt Miền Nam, Phi Vân. Có lẽ do gốc gác tôi chân quê, sinh trưởng và lớn lên trên thửa ruộng vồng khoai, sông nước bát ngát, quanh năm bà con tôi cày sâu cuốc bẩm, gắn bó với lũy tre xóm làng nên dễ cảm thông và cảm nhận chăng?
            Tác phẩm của Phi Vân không lớn lao đồ sộ, không như đối với các tiểu thuyết gia dấn thân đương thời. Ông chỉ trình làng suốt cuộc đời khá dài cầm bút của ông, dăm ba cuốn nhưng với ngần đó cũng đủ để tên tuổi ông sáng chói trên văn đàn bấy giờ.
Những cuốn Đồng Quê (Phóng sự), Tình Quê (Truyện dài), Cô Gái Quê (Truyện ngắn), Dân Quê (Truyện dài), trước đây tôi đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần. Và lần nào cũng đầy hứng khởi say mê. Và càng say mê hứng khởi hơn từ những ngày sống ly hương, xa quê hương cội nguồn.
Tôi say mê thích thú đọc Phi Vân ở những giờ "ê tuýt" ban đêm đã đành mà ngay ở giờ giấc được tự do giải trí nữa. Đôi khi tôi quên lững tiếng chuông reo báo hiệu chuẩn bị đi ăn cơm chiều. Hoặc lúc lên "đọt toa", khi bốn bề đã yên lặng, tôi vẫn liên tục lén đọc nốt chương sách lở dở dưới ánh đèn xanh xao, mờ mờ ảo ảo, vừa đủ để phân biệt từng chữ một.
            Phi Vân đã gợi trong lòng tôi cảnh đồng quê tươi đẹp rất đặc thù của Miền Nam thuở thanh bình xa xưa, thời "tiền cách mạng", qua những tập hợp phóng sự sống động trong Đồng Quê. Có thể nói trong các tác phẩm của ông, tôi tâm đắc nhất quyển này.
Tác giả đã dùng ngòi bút tài tình linh hoạt, quyến rủ lôi cuốn tôi qua những sinh hoạt quen thuộc của đời sống hằng ngày nơi thôn dã, chất chứa tình tự và tình yêu. Bao nhiêu phong tục tập quán, lề lối hành xử tình nghĩa cân phân giữa nhau, bao nhiêu tín ngưỡng hun hút một thời đã được ông mô tả nổi bậc qua hình ảnh chân quê rất dễ thương của những thầy pháp, thầy bùa, của các đám hỏi, lễ cưới...
Rồi nào là câu hát huê tình trên sông rạch rẻ nhánh chia dòng, điệu hò đối đáp bắt trả quyện nhau tuyệt vời qua khúc quanh thời đại mang đầy tính chất thơ mộng lãng mạn như ca tài tử với giọng ngân nga não nuột theo tiếng đờn ai oán réo rắc... Đến những hiện tượng đặc biệt của thời đại ông nay không còn nghe nhắc nhở nữa để nhạt nhòa trong dĩ vãng như trộm cướp trên sông rạch, như bối có tổ chức v.v...
            Bàng bạc qua những dòng chữ, những trang giấy vừa mới rọc cạnh lướt dưới mắt hằng đêm trước khi ngủ, tôi hân hoan bắt gặp những bong hình ngày xưa, những sinh hoạt năm cũ. Tôi nghe tâm hồn lâng lâng xao xuyến, rộn rả ngập tràn một tình cảm luyến lưu trên nền xanh tinh anh dịu dàng, mênh mong bất tận của quê hương mình. Một quê hương ngàn đời tươi đẹp. Một quê hương muôn thuở diễm tuyệt mà tôi vừa đành lòng rời bỏ trong tiếc nuối nhớ thương, khi phải dặt chân đến ngôi trường Pétrus Ký, tiếng tăm vào bậc nhứt Miền Nam.
Đối với tôi, qua tác phẩm Đồng Quê, Phi Vân quả đã thành công vẽ lên một cách truyền thần bức tranh xã hội đất Nam Kỳ Lục Tỉnh trước biến cố lịch sử 1945: mùa thu sơn hà nguy biến. Một bức họa đầy màu sắc thắm tươi với những đường nét điêu luyện độc đáo ấy từ lâu đã tan biến trong hun húc của dĩ vãng.
            Nhưng điều quan trọng hơn hết đối với cá nhân tôi là Phi Vân đã gieo trong tôi những khúc chiết thắm thiết, những kỳ bí thôi thúc, những âm vang ngân nga của tình yêu quê hương chơn chất, đậm đà bất diệt. Vì lẽ đó, tôi xin đặc biệt có đôi  dòng hoài niệm mà cũng để tạ ơn người cho trọn tình và phải đạo của một độc giả trung thành và của một bạn vong niên sau này.
            Vốn là người rặc nòi Miền Nam, sanh quán ở cuối mũi quê hương, vùng Bặc Liêu/Cà Mau, thừa hưởng một truyền thống xuề xòa dễ dãi, cởi mở thứ tha, sống dung dị giản đơn, quý khách, chuộng bạn bè, quấn quít cột chặt vào đồng ruộng đất nước Miền Nam nên khi phải chỉ trích đả phá một số hủ tục nào đó, Phi Vân đắn đo nâng niu ngòi bút. Ông cân phân từng chữ từng câu, bài xích rất nhẹ nhàng, vừa chọn lựa đủ lời đủ ý, không dư không thiếu, vừa cợt đùa dí dỏm dễ thương.
Chính cái tính xây dựng, chung sống hài hòa giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên vạn vật, chính cái ý hướng trong sáng gieo rắt niềm vui thanh thản nơi những người chung quanh, khiến ông tin tưởng ở việc tốt điều lành trong tình yêu, trong việc xử thế có ta có người, biết mình biết người, có trước có sau. Do vậy, ông chọn dứt khoát một thái độ đứng đắn xuất phát từ tình yêu thương chân thật, mộc mạc tinh tuyền của người dân tiêu biểu vùng quê nghèo Miền Nam.
Ông có một vốn sống quá phong phú vì trong thời thanh xuân bay nhảy, tiếu ngạo giang hồ, đã từng lăn lóc nhiều ngõ ngách xóm thôn nơi vùng sông nước bạt ngàn của đất Nam Kỳ Lục Tỉnh, nhứt là ở vùng cuối mũi quê hương, nơi chôn nhau cắt rún của ông. Từ đó, những kỷ niệm sống động được lắng đọng, chắt chiu trong sâu thẳm của trí nhớ để được ông sàng lọc, chọn lựa kỹ lưỡng, đúc kết thành những cốt truyện quyến rủ lôi cuốn.
            Ngay trong các tác phẩm kế tiếp như Tình Quê, Dân Quê sáng tác trong thời kỳ kháng chiến với nhu cầu tâm lý bức bách đánh động lương tâm và lương tri con người, vực dậy lòng yêu nước của mọi công dân có trách nhiệm, ông đắn đo đề cập những tình tiết, trạng huống mới cho phù hợp với trào lưu sôi động lúc bấy giờ nhưng vẫn trung thành với những réo gọi, câu thúc nội tâm của thuở ban đầu. Ông vẫn lấy bối cảnh thôn quê hữu tình của Miền Nam làm khung để những trạng huống tình tiết ấy được triển khai và diễn tiến chan chứa tình người.
Tôi có cảm tưởng như ông có sẵn trong huyết quản mình duyên tình thắm thiết với đất đai làng xóm, với bản quán xã thôn, với hương đồng vị đất thoang thoảng không ngưng trên quê hương ông. Tôi cũng có cảm tưởng như ông có nợ nần níu kéo trói buột, keo sơn gắn bó với thôn xa xóm gần, với ruộng rẫy kinh mương, với những người khuất mày khuất mặt mà vong linh lãng đãng quanh quẩn đó đây. Cái duyên tình và nợ nần đó đã được ông thăng hoa trong các tác phẩm bất hủ của ông vậy.
Khác với một số lớn cây viết đồng thời với ông trong thời kỳ dầu sôi lửa bỏng sau bao nhiêu thập niên dài bị đô hộ vừa tiếp cận cao trào quật khởi đấu tranh, đường lối sáng tác của ông không  vượt ngoài những nét sâu đậm của cá tính Miền Nam. Những cá tính truyền thống nơi thôn quê căn đày kiếp đọa nhưng chân chất thật thà, thực tế như củ khoai hòn đất, như con cá con cua, không vọng tưởng mơ mơ hồ hồ xa vời, không mù quáng quá khích nông nổi.
            Tôi vẫn tin rằng trong ý hướng, ông đả kích để xây dựng. Ông chỉ trích để hợp tác. Ông đề xuất góp ý để cuộc sống chung thêm hài hòa dễ chịu hơn.
Nếu như ông có đặt thành vấn đề về "sự chuyển mình" của nông dân trong thời kỳ bị điền chủ phú hào và giới chức quyền địa phương toa rập cậy thế, đàn áp bóc lột, bức bách những người thế cô ngắn cổ, ông cũng cố gắng bóp méo thành tròn, giảm thiểu những gốc cạnh dị biệt. Ông nuôi dưỡng ý hướng xóa lấp bớt lằn ranh ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo, giảm thiểu cái hố phân chia giữa chức dịch hội tề và người dân bình thường.
Tôi không biết mình có chủ quan trong nhận xét hay không? Nhưng công bằng mà nói, ông lấy sự rộng lượng bao dung, hỉ xả thứ tha làm khuôn vàng thước ngọc nhằm tạo cảm thông hiểu biết giữa nhau. Ông đề xướng cổ võ sự đoàn kết cần thiết trong tinh thần trong sáng có trách nhiệm, có tình thương, rốt ráo trong hai chữ "tình người".
            Cái hay và cái nét đặc thù của Phi Vân theo tôi là ở chỗ đó.
            Ở chỗ tiếp nối truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc Việt Nam, lấy tình nghĩa thủy chung, lấy cảm thông nhân hậu xóa bỏ tranh chấp hận thù giai cấp.
            Ở chỗ ông không chủ trương cuồng tính loại trừ hoặc tận diệt một ai hay một giai từng nào trong xã hội trên cái chéo quê hương thơ mộng mỹ miều của ông. Nơi này tình nghĩa bà con, lâng bang lối xóm cột chặt vào nhau như cá với nước, không thể tách rời được. Cũng tại nơi này, ông ao ước mỗi người trên mảnh đất chung đụng hiền hòa ấy đều có một chỗ đứng trang trọng, xứng đáng. Mỗi người có bổn phận đồng hành, vui vẻ góp bàn tay cần cù lam lũ để tích cực đem mồ hôi công sức xây dựng hạnh phúc của tập thể, của cộng đồng.
           Ở chỗ ông không thiển cận, không câu nệ, không hề hẹp hòi đào sâu thêm hố chia rẻ giữa nhau, làm suy yếu tiềm năng sản xuất, phục vụ cộng đồng, phục vụ nhân sinh. Ông tránh làm vấy bẩn màu xanh tươi thắm và dịu dàng của quê hương ông.
Nếu ông có đề cập đến "sự trổi dậy" tất nhiên của từng lớp người kham khổ bất hạnh, suốt đời bám đất bám làng, sống dung dị với chéo mạ vuông vườn để lập nghiệp tiến thân, nếu ông có đề cập đến những xung đột giữa chủ và tá điền nhưng vẫn không đến nổi quyết liệt phải loại trừ, khống chế, tận diệt nhau. Vì lẽ đó, sau ngày cộng sản hiếu chiến miền Bắc đã cưỡng chiếm hoàn toàn Miền Nam bằng súng đạn hận thù, chúng đã không nương tay, từng phát biểu rất  nghiêm khắc khi phê bình những tác phẩm một thời vang danh của Phi Vân.
Bọn “đỉnh cao trí tuệ” có “ba tăng” của đảng cho rằng tác giả Phi Vân đề cập "sự trổi dậy" đó của nông dân trong Liên Minh Công Nông, từng bị bốc lột tận xương tủy một cách đột phá, bọc phát. Việc mà cộng sản, vốn có manh tâm và ý đồ cướp công cướp của của người khác, không thể nào và không bao giờ chấp nhận và tha thứ được.
Vì tác giả không hề nói đến hoặc cố tình phủ nhận vai trò lãnh đạo "thần thánh", “bách chiến bách thắng” của Đảng Lao Động, thối thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lý do biện giải của chúng là trước đó, Đảng cộng sản đã được thành lập từ lâu (1930) và đã thực sự lãnh đạo mọi cuộc đấu tranh trên toàn quốc (sic).
Theo họ, nơi Phi Vân có sự nhân nhượng trầm trọng. Ngòi bút của Phi Vân cố tình ngừng lại ở quan điểm “tạch tạch xè” cố hữu của tuổi thanh xuân chập choạng thiếu lãnh đạo. Tác giả thiếu hẳn lập trường giai cấp dứt khoát cùng chiến đấu tính cương trì.
Và sự đấu tranh trổi dậy của nông dân đất Nam Kỳ Lục Tỉnh theo tầm nhìn của Phi Vân thiếu hẳn tính chất hận thù thâm căn cố đế, thiếu hẳn thái độ sắt máu quyết liệt như của những năm đấu tố dã man cường hào ác bá, địa chủ phú nông trong chiến dịch cải cách ruộng đất dã man, đẫm máu và nước mắt ở Miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Tức thời kỳ chuẩn bị phát động chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tôi nghĩ điều này, tác giả không bao giờ và chẳng bao giờ nghĩ đến trong quá trình xây dựng và sáng tác. Lý do nó đi ngược lại cảm thức và nguyện vọng trong sáng của dân tộc. Nó đi ngược với lương tâm và sứ mạng cao cả của người cầm bút chân chính.
            Phi Vân đã nhắc nhớ tình yêu thôn làng bất diệt để bám rễ ăn sâu vào tình cảm và tâm khảm tôi trải dài từ bao nhiêu thập niên qua. Quê hương ngàn đời dấu yêu. Quê hương bao dung chan chứa tình người. Quê hương trường tồn. Quê hương trên hết.
            Một tình cờ đến với tôi. Vì tôi không hề ước mơ mà đã thành sự thật. Từ sự kính trọng và ngưỡng mộ thuở thiếu thời đối với tác giả, hai mươi mấy năm sau, tôi có dịp chủ trương một nhà
xuất bản nho nhỏ thuộc loại cò con, có tính cách thủ công gia đình, đẩy đưa tôi gặp tác giả tại tòa soạn nhật báo Cấp Tiến. Tờ báo của hai cố giáo sư khả kính Nguyễn Văn Bông và Nguyễn Ngọc Huy, cơ quan  ngôn luận chánh thức của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến. Nơi này, ông làm việc phụ trách trang nhứt.
Trong giới truyền thông báo chí chuyên nghiệp ở Miền Nam tự do, ông được đồng nghiệp đánh giá là một trong hàng ký giả cao thủ thuộc lớp đàn anh già giặn kinh nghiệm. Ông có tài chọn tin và "đi tít" đập mạnh ngay vào nhãn quan của độc giả. Họ so sánh ông ngang hàng với những bậc làm báo vang danh đã làm nên một thời như: Nguyễn Kỳ Nam, Trần Tấn Quốc, Nguyễn Duy Hinh, Việt Quang, Nguyễn Kiên Giang... nếu chỉ kể những người cầm bút gốc gác Miền Nam như ông.
            Nhật báo Cấp Tiến vốn thối thân của nhật báo Bình Minh của ông bầu vui tánh Võ Văn Ứng, bút hiệu Võ Bình Sơn, chủ nhân nhà hàng Nam Đô ở gốc đường Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Thái Học. Các bạn ghiền bóng tròn trước năm 1975 không thể nào quên được hình ảnh bệ vệ của vị Chủ Tịch Tổng Cuộc Bóng Tròn Nam Việt quý mến và hào sãng ấy trên khán đài danh dự, mỗi khi có những cuộc tranh tài quan trọng hay quốc tế ở sân cỏ Vườn Ông Thượng hay Vận động trường Cộng Hòa sau này.
Không dè lần gặp gỡ tình cờ đó lại là khởi điểm cho một đoạn đường dài hợp tác giữa hai anh em chúng tôi. Chính tôi đã mấy lần trang trọng in lại quyển Đồng Quê, một tác phẩm đạt nhiều cảm tình và thương mến của độc giả trong nước trước ngày Miền Nam bị bức tử. Vì sách được liên tiếp tái bản trước sau hơn mười lần nếu tôi không lầm.
Mấy năm trước đây, tôi có thấy tái bản ở Hoa Kỳ, bày bán khắp nơi ở hải ngoại. Và gần đây, do sự đòi hỏi và khát khao chánh đáng của độc giả trong nước luôn luôn hướng về căn cơ cội nguồn, cộng sản phải cho tái bản qua khuôn khổ bỏ túi.
            Từ dạo đó, giữa tôi và Phi Vân có mối giao tình đậm đà kéo dài đến khi tôi vượt biên ngày 5 tháng 6 năm 1979. Và anh cũng đã từ trần vào những năm sôi động đó trong hoàn cảnh cực kỳ bi ai trầm thống.
Thuở ấy, cái thuở “ngăn sông cách chợ”, “thắt lưng buột bụng” đến xác xơ rã rời thể xác lẫn tinh thần, người dân bị khống chế trong những biện pháp hận thù giai cấp, nào là chiến dịch đánh tư sản mại bản, cải tạo công thương nghiệp, văn hóa đồi trụy, truy quét đưa đi kinh tế mới v.v... mọi di chuyển xê dịch đêm ngày bị kiểm soát, phép tắc khắc nghiệt đến nghẹt thở. Tôi được bạn bè cho biết khá muộn màng anh đi thăm người con vốn là sĩ quan chế độ cũ bị Việt cộng tập trung cải tạo. Vì chứng kiến tận mắt, thấy con mình tiều tụy đói trơ xương nơi trại tù man rợ chưa từng thấy trong lịch sử dựng nước và giữ nước, anh quá đỗi xúc động chán chường và qua đời không lâu sau đó.
Tôi đoán biết có lẽ do hậu quả nguy hại của chứng áp huyết cao mà anh đã mắc phải từ lâu lắm rồi. Vì trong đôi lần gặp gỡ nhau, anh có tâm tình với tôi: nhiều khi áp huyết lên quá cao, gia đình phải buột tay buột chân anh vào thành giường để anh nằm yên bất động. Tôi không dám tìm hiểu thêm lý do gì hay nguyên nhân nào đưa đến sự ra đi vĩnh viễn của anh để thêm ngậm ngùi đau đớn trong lòng. Dẫu sao, sự mất mát đáng tiếc này đã là sự thực rồi.
Hơn nữa, cũng vì lúc ấy tôi không còn tinh thần nào để tiếp thu và phán đoán những lời đồn đãi ấy. Tôi chỉ tha thiết mong muốn sau này bạn bè thân cận đã từng chứng kiến hay thân nhân anh sẽ làm sáng tỏ thêm. Nhưng tôi thiết nghĩ cho dù có làm sáng tỏ hay không, sự ra đi của anh trong thời điểm thương đau tột cùng ấy vẫn là một mất mát lớn lao không xóa lấp được của nền văn chương học thuật và của báo chí truyền thông Miền Nam. Do ở tuổi anh, anh vẫn còn thừa công sức và nhứt là tâm trí minh mẩn để dùng ngòi viết trân quý của mình tiếp tục phục vụ đồng bào, phục vụ nhân sinh.
Làm sao tôi quên được hình ảnh người anh lớn dễ thương dễ mến ấy. Làm sao những kỷ niệm giữa anh và tôi lại có thể nhạt nhòa nhanh chóng trong tâm khảm tôi được?
Sau ngày quốc nạn tháng Tư Đen, anh vẫn trung thành khắn khít với chiếc vespa ọp ẹp màu xanh dương nhạt để làm phương tiện di chuyển đó đây trong thành phố thay tên đổi đời, đã bắt đầu có những triệu chứng nghiệt ngã, trả thù tập thể. Anh thường hay đến thăm chúng tôi tâm tình về những đổi thay của trò đời đen bạc.
Mỗi lần đến nhà tôi, anh có thói quen hỏi vợ chồng tôi:
- Sao chị?
- Sao anh?
            Chỉ đôi lời ngắn gọn rồi anh giữ im lặng một hồi lâu. Nhưng tôi nhìn nụ cười chua chát nơi gương mặt uể oải bơ phờ, không còn sức sống thuở nào, đoán biết không sai niềm thất vọng chua cay nơi anh, qua cuộc đổi đời tai hại quá trầm trọng này và nhứt là qua sự lo âu sâu lắng của cuộc sống tương lai.
Trong câu chuyện giữa nhau, thỉnh thoảng anh buông ra những tiếng thở dài cay đắng, những nức nở hoàn toàn bế tắc. Trái với những lần gặp gỡ trước thảm họa tháng Tư, những câu chuyện về văn chương chữ nghĩa, về thông tin báo chí, những toan tính về in ấn xuất bản, rồi những quan hệ giữa bạn bè kẻ mất người còn, không bao giờ được anh có can đảm đề cập đến nữa. Trong âm thầm mãi mãi gậm nhấm đay nghiếm và trong niềm đau uất hận riêng rẻ của mỗi người, chúng tôi mặc nhiên ý thức rằng cái quyền tự do sinh sống cho đáng mặt người, cái quyền tự do hội họp, tự do ngôn luận, tự do phát biểu, tự do báo chí... những thứ tự do trân quý ấy đã bị bọn độc tài độc đoán tước đoạt trong thể chế lãnh đạo xích hóa tư tưởng phục vụ chế độ.
Vô hình trung, chúng tôi xem như bị bắt buộc tự mình làm lễ an táng không kèn không trống nhằm tiễn đưa để chôn vùi từ đây tất cả các thứ tự do mà mình đã được thừa hưởng trong thể chế Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi xem như đã vĩnh viễn tiễn đưa nó dưới nấm mồ của độc quyền độc tôn xã hội chủ nghĩa.
Lúc này quán cơm bình dân thường được đồng bào gọi là quán cơm xã hội của vợ chồng anh ở đường Triệu Đà trong Chợ Lớn đã bị "dẹp tiệm" từ lâu. Quán cơm này do anh lập ra và giao cho chị hoàn toàn trông nom từ những năm tháng trước 1975. Mục đích duy nhất nhằm giúp giới nghèo khó ở Đô Thành, đa số là những phu xe xích lô, xe ba bánh cùng nhân công các hảng xưởng lân cận và ngay cả sinh viên lận đận có bữa cơm trưa và chiều với giá phải chăng, vừa với túi tiền  của  họ.  Bây  giờ tìm đâu mỗi ngày mấy bao
chỉ xanh gạo khi chánh sách “ngăn sông cách chợ” của cộng sản được ban hành và được kiểm tra chặt chẽ ngặc nghèo.
Anh quá đổi thất vọng. Nhưng sự thất vọng của anh được nhân lên gấp bội khi anh cộng thêm cái quyền cầm bút chuyên nghiệp bị tước đoạt, bị cấm đoán trong khi anh hoài công xuôi ngược giữa lòng thành phố đổi họ thay tên, mong tìm một phương kế sinh nhai trong tiếng thở dài. Lúc này quả thật đời sống của anh vất vả lắm. Chứng bệnh áp huyết cao không được theo dỏi thuốc men thường xuyên và đầy đủ do phần tài chánh eo hẹp đã đành mà còn vì loại thuốc này đắc giá lại khan hiếm dần.
          Một nỗi buồn nằng nặng ám ảnh tôi luôn. Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 làm tiêu tan bao   Nhiêu chương trình dự định mà chúng tôi ấp ủ cưu mang từ nhiều tháng trước và đang trên đà hoàn tất. Đó là bộ "Phi Vân Toàn Tập" gồm những tác phẩm chính vừa kể trên như Đồng Quê, Dân Quê, Tình Quê, Cô Gái Quê cùng một số bài viết chọn lọc như truyện ngắn, tùy bút, tạp ký, chuyện vừa v.v... mà ít người biết đến do tác giả ký dưới nhiều bút hiệu khác nhau.
            Tôi đã chuẩn bị chu đáo xong một bản tiểu sử của anh Phi Vân khá đầy đủ và chính xác. Bản tiểu sử này đã được chính anh thận trọng duyệt kỹ lưỡng, thêm thắt bổ sung với những chi tiết về thân thế cũng như về sự nghiệp mà đến nay xem như chưa hề được công bố. Thêm vào đó còn có hình ảnh cá nhân qua nhiều thời kỳ và những ảnh lưu niệm gia đình phong phú. Nhưng tất cả đều bị thiêu hủy cùng chung số phận với nhiều bản thảo giá trị của các tác giả khác trong những chiến dịch đánh tư sản mại bản, kiểm kê tài sản và "chống văn hóa đồi trụy" dồn dập của cộng sản nơi thành Hồ.
Những bản thảo văn thơ và nghiên cứu giá trị của cụ Thuần Phong, của giáo sư Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc Huy, của nhà biên khảo sử học Nguyễn Văn Xuân, của các cụ Vương Hồng Sển, thi sĩ Quách Tấn xứ Trầm Hương, sử gia kiêm giáo sư thỉnh giảng ban Sử thuộc Đại học Văn Khoa Sài Gòn, cụ Lê Thọ Xuân qua tác phẩm đồ sộ về địa danh Miền Nam, nhà văn Nguyễn Hiến Lê, học giả Bùi Đức Tịnh, giáo sư Nguyễn Văn Hầu của Viện Đại Học Hòa Hảo... đều chung số phận bị thiêu hủy phũ phàng trong cơn lốc của ngọn lửa bạo tàn hận thù giai cấp.
            Tôi quên ghi chú thêm là anh Phi Vân còn là tác giả quyển "Nhà Quê Trong Khói Lửa" viết trong khi anh tham gia kháng chiến những năm đầu thời Nam Bộ chống xâm lăng. Theo anh kể thì quyển này đã được giải thưởng văn học ở chiến khu do ông Hoàng Xuân Nhị làm Chủ tịch Ban Chấm giải. Tuy nhiên từ dạo ấy đến nay, hơn nửa thế kỷ qua, tôi chưa từng thấy phổ biến tập sách này, ngay cả tựa sách, cho dù sau ngày Miền Nam bị cưỡng chiếm.
Anh còn cho biết thêm anh cũng là tác giả hai tiểu thuyết dài đã được đăng hằng ngày trên các nhật báo ở Sài Gòn thuở anh vừa bước chân chập chững vào chốn văn chương báo chí. Nhưng  anh cố công tìm kiếm mãi, chẳng bao giờ được mãn nguyện. Hoặc giả anh không toại nguyện lắm về những tiểu thuyết này so với các tập truyện đã được trình làng chăng?
            Anh tên thật là Lâm Thế Nhơn, sanh năm 1917 tại Cà Mau thuộc tỉnh An Xuyên trong một gia đình trung lưu. Là nhà văn nhà báo chuyên nghiệp, anh cộng tác với nhiều tạp chí văn học và nhứt là nhựt báo quan trọng như Tiếng Chuông, Dân Chúng, Tiếng Dân, Thủ Đô Thời Báo, Bình Minh, Cấp Tiến... Anh mất tại Sài Gòn vào ngày 11 tháng 1 năm 1977 theo tài liệu của nhà biên khảo Nguyễn Thiên Thụ trong Văn Học Sử Việt Nam -  Văn Học Hiện Đại, tập IV do Gia Hội xuất bản ở Canada năm 2006.
Có một sự trùng hợp lý thú về danh tánh giữa anh với một nhà văn nổi tiếng khác là Đoàn Thế Nhơn. Nhà văn này hiện định cư ở Mỹ. Anh Đoàn Thế Nhơn chẳng ai khác hơn là nhà văn lớn Võ Phiến, một cây đại thụ trong chốn văn chương chữ nghĩa trong nước trước đây và ở hải ngoại sau này.
Một sự ngẩu nhiên là hai nhà văn tên tuổi cùng tên thật là Thế Nhơn. Một người là Lâm Thế Nhơn lấy bút hiệu là Phi Vân tức "Mây Bay", đã ra đi về cõi vĩnh hằng. Một người là Đoàn Thế Nhơn với bút hiệu Võ Phiến, đảo ngược lại là "Viễn Phố" báo trước một giai đoạn lưu đày xa xôi cuối đời! Giống như trường hợp của lãnh tụ Bình Xuyên Lê Văn Viễn, vì mang tên Viễn nên bỏ thây nơi đất lạ quê người.
            Nhớ Phi Vân, nếu tôi thiếu sót không nói thêm Phi Vân không phải là lý thuyết gia chỉ lối dẫn đường hay một nhà văn dấn thân xu thời thế. Anh không phải là một cây viết bị ràng buộc trong khuôn khổ gò bó theo một mẫu mực qui định. Anh không sáng tác theo đơn đặt hàng dưới sự chỉ
đạo như những tác giả dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tác giả Đồng Quê, Dân Quê... không có tham vọng dẫn dắt dư luận thế hệ mình phải làm gì và xã hội thời mình hướng về đâu theo một chủ thuyết cố đỉnh nào đó. Nếu anh có xu hướng cổ vũ một tập thể nhỏ bé nơi thôn làng quê mùa hẻo lánh trổi dậy chống lại những bất công áp bức đương nhiên phải có, dù ở bất cứ xã hội nào hay thời đại nào, tôi nghĩ đó chỉ là một phản ứng của lương tâm, một khắc khoải trong thời điểm nhất định mà thôi.
Vì anh không thể dửng dưng trước nghịch cảnh bất công. Vì anh không thể dưng dửng trước những thay đổi trong nước, đặc biệt là ở nông thôn xa xôi mà sức mạnh đồng tiền và quyền thế lấn át tất cả.
Anh chỉ là một họa sĩ phác vẽ bức tranh quê để qua màu sắc thắm tươi độc đáo, đường nét đậm đà quyến rủ, người xem có một ý niệm khá chính xác về xã hội thời đó. Anh cố gắng ghi lại một cách trung thực để lưu hậu thế khung cảnh quê hương nay không còn nữa, những tình tiết trạng huống về phong tục tập quán, về mê tín dị đoan, về hội hè đình đám, những cái đó qua ngôn ngữ đặc thù địa phương đất Nam Kỳ Lục Tỉnh đã mất húc trong dĩ vãng.
Đúng như anh viết trong lời tác giả tập sách Đồng Quê:
            “Hình ảnh những nhân vật trong chuyện - những người đã cùng tôi sống chung – ngày nay đã mờ trong ký ức
“Kể lại một quãng đời phải chăng là sống lại với ngày qua? Có lẽ thế. Nhưng tôi muốn xa hơn: vẽ một bức tranh phong tục và tập quán.
“Thật là quá cao vọng !»
            Nhưng tất cả những cái không còn đó, những cái mất mát đó phối hợp nhuần nhuyễn với nhau tạo nên kho tàng văn chương Nam Kỳ Lục Tình vô giá. Nó giúp rất nhiều cho những nhà nghiên cứu về nhân chủng học và xã hội học Việt Nam về sau.
Nhắc nhớ, thăng hoa hồn đất, hồn người lãng đãng trong hồn thiêng sông núi, khơi dậy thời quá khứ xa xôi với ước mơ tìm về cảnh địa, thổ địa, tìm về sinh hoạt truyền thống dằng dặt ẩn hiện bao nhiêu phong tục tập quán xưa, tôi nghĩ Phi Vân không hề thụ động. Anh không ngừng lại ở hiện tại.
Trái lại, tác giả tích cực hướng ngòi bút mình thực sự trở về với căn cơ, gốc tích, cội nguồn. Tôi có thể nói một cách trang trọng là Phi Vân quả đã đóng góp và đã thành công làm sáng danh vùng đất chôn nhau cắt rún của anh. Anh đã tích cực giúp khám phá trở lại nhân diện và giá trị đích thực của nó, bàng bạc trong tinh anh tú chất của dòng giống Rồng Tiên muôn đời muôn thuở vậy.
            Nền văn hóa nông thôn đồng ruộng bề ngoài tưởng như thô sơ tầm thường, không tinh không nhả. Nhưng những nhà quan sát nghiêm túc trên thế giới chú tâm nghiên cứu và phát hiện nhiều khía cạnh đa dạng, vừa sắc sảo tinh tuyền, vừa uyển khúc thâm sâu.
Những thánh truyện, truyện thần tiên, truyện hoang đường, truyền kỳ, chuyện đời xưa, chuyện giải buồn, chuyện châm biếm, những chuyện kể dân gian nói chung, gói ghém, hàm chứa những phong tục tập quán, những suy nghĩ, những ước vọng thiết tha của một nhóm người vào một thời điểm nhứt định nào đó v.v... Tất cả kết hợp nhau nhằm bảo tồn và phát huy ngày thêm phong phú ký ức và kỷ niệm tập thể của một vùng đất.
            Trong chiều hướng đó, Phi Vân đến rất gần với nhận xét của thi sĩ Patrice de la Tour du Pin của Pháp. Ông sinh ở thủ đô Paris năm 1911, được giới văn gia thi sĩ biết tới qua bài thơ "Les Enfants de Septembre" ấn hành năm 1931 lúc vừa mới hai mươi mốt tuổi. Hai năm sau, ông in thi tập "La Quête de Joie" và sau thế chiến thứ hai, ông lại in tiếp tác phẩm "Une Somme De Poésie" (1946).
Chính trong bài "Dẫn Nhập" thi tập sau cùng này, ông có viết:
            "Tous les pays qui n'ont pas de légende
            "Seront condamnés à mourrir...".
            Do ám ảnh này, nhiều nhà văn trên khắp thế giới đã suy tư gắn bó, cột chặt sự nghiệp văn chương của mình vào ký ức tập thể đó. Những trường hợp điển hình không sao kể xiết và được giới hậu sanh nhắc nhớ luôn.
Miền Nam, sau lớp các nhà văn một thời chói sáng trên văn đàn như cụ Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn Trung), nhà văn nhà báo Phi Vân Lâm Thế Nhơn, nhà chơi đồ cổ Vương Hồng Sển, nhà biên khảo đất Nam Kỳ Nguyễn Văn Hầu v.v... phải kể đến Sơn Nam Nguyễn Minh Tây, người đã có công đưa sông nước đồng quê Miền Nam lên đỉnh cao của nghệ thuật qua các tác phẩm nổi danh như Hương Rừng Cà Mau, Vọc Nước Giỡn Trăng, Tìm Hiểu Đất Hậu Giang, Văn Minh Miệt Vườn... và gần đây Một Mảnh Tình Riêng, đầy màu sắc địa phương, đặc thù về cảnh thổ và tình người.
            Ngay ở Âu Mỹ và ngay ở thời đại tân tiến hiện tại, không thiếu gì tác giả đã giành cả một đời để ghi lại những gì đã mất nơi quê hương họ. Và đây chính là những công trình thầm lặng đóng góp vào bước tiến vững vàng trong sáng của mỗi quốc gia và của cả nhân loại.

                                                     **
           
Những giòng hoài niệm nào đều cũng như nhau, phảng phất chất chứa một nỗi buồn riêng. Đôi khi chỉ mình ta cảm nhận.
          Nỗi buồn tưởng tiếc những người đã để lại nơi lòng mình bao nhiêu nghĩa tình, trong từng nỗi buồn vui do cuộc sống vô tình đẩy đưa tới tấp đến chóng mặt.
Nỗi buồn hồi nhớ để cố gắng vẽ lại trung thực chân dung những người đã trực tiếp tham gia đóng góp, chia xẻ với mình những thôi thúc cô đơn chán chường, những thăng trầm vinh nhục đã qua, hòa lẫn với nỗi trầm thống tận cùng và niềm hãnh diện tự hào chung của dân tộc.
Nỗi buồn bùi ngùi đứng trước thực tế phũ phàng của ngày hôm qua và của hiện tại, những khuôn mặt thân thương hay quen biết ít nhiều đã đi qua đời mình, kẻ trước người sau đều từ giã cuộc đời, từ giã cuộc chơi nhân thế để miên viễn đi vào vùng thiên thu siêu thoát. Như những tuyến
sông lạch nước rải rác khắp đó đây đến những khúc quanh rẽ nhánh chia dòng bớt đi lưu lượng nguồn nước.
            Tuổi trẻ của tôi mới đó với khung cảnh đầm ấm của ngôi trường Pétrus Ký nguy nga tráng lệ bậc nhứt Miền Nam, nơi có những dãy lầu nội trú hai tầng kiên cố thách thức gió sương, với những thầy cô hy sinh tận tụy, một lòng một dạ chăm lo dìu dắt thế hệ mới tấn lên của chúng tôi… những khung cảnh đầm ấm đó không mấy chốc bay vèo theo năm tháng.
Nay tóc muối tiêu, tuổi xế chiều, chân mỏi gối dùng, trong thầm lặng ngoái nhìn lại những chặn đường đã qua mà nghe lòng thêm xao xuyến nghẹn ngào. Lòng càng dằng dặt bao đắng cay tủi nhục liên tiếp bủa vây từng bước trong kiếp sống lưu vong.
            Nếu trong đời, nhiều lúc đối diện với chính mình, tôi từng cám ơn Cha tôi đã ban cho tôi mảnh hình hài không thô không lịch nhưng tràn đầy sức sống và âm thầm mặc nhiên đã mớm thêm cho tôi ý nghĩa cuộc sống để hăm hở hy vọng chào đón tương lai.
Nếu tôi đã từng hoen tròng lặng lẽ cám ơn Mẹ tôi đã khổ cực cưu mang ban cho tôi hơi thở đầu đời và tiếp tục hy sinh, chắt chiu săn sóc, dưỡng nuôi tôi qua dòng sữa thương yêu trắng ngần, tinh tuyền thanh khiết.
Thì hôm nay, một mình lặng lẽ ngồi đối diện với chính mình dưới ngọn đèn bàn giấy không được sáng tỏ, tâm thần lắng đọng trong vắng vẻ quạnh hiu, tôi cũng xin cám ơn Trường xưa Thầy cũ, cám ơn bạn bè trang lức thuở tuổi hồn nhiên mộng mơ. Những tâm hồn trong trắng, cửa lòng luôn rộng mở này, đã tuần tự mang đến tôi bao nguồn vui tuổi trẻ, rộn rả tiếng cười yêu đời, từ ấy mãi đến bây giờ.
            Tôi cũng xin cám ơn các văn nhân thi sĩ đã có dịp góp mặt trong cuộc sống và cuộc đời tôi để qua lời văn tim óc, qua ngôn ngữ của thi ca, qua lời hay ý đẹp đã vĩnh viễn cột chặt tâm hồn tôi vào dải đất Quê Hương mến yêu và duy nhứt này của tôi.
            Tôi cũng xin đặc biệt cám ơn anh Phi Vân, người trước tiên giúp tôi thấm thía nét đẹp tuyệt vời của bản quán xóm làng, của nông thôn đồng ruộng, thơm nồng mùi rơm hương rạ. Anh cũng giúp tôi được dịp thấm đẫm tình cảm tinh ròng đối với nơi chôn nhau cắt rún cố thổ. Nơi mà mỗi con người tôi gặp gỡ lan man đâu đó trên bờ ao kinh rạch, bên liếp mía vồng khoai luống mì, ven đường mòn quanh co uốn éo tận chân trời xa thẳm... cứ  vừa là lạ nhưng lại vừa quen quen. Tựa hồ như tôi đã năm lần bảy lượt đối diện chuyện trò, tựa hồ như tôi đã bao phen tâm tình thân mật trước đây lâu rồi.
            Tôi lại trở về lặng lẽ, nhớ quê hương, lòng ray rứt trong cái khoảng trống không hiện tại của cuộc đời lưu lạc. Nhưng cũng may, niềm đau ray rứt ấy đôi khi mang đến tôi một chút an ủi vỗ về, thoáng ẩn thoáng hiện, đã có ma lực xoa dịu phần nào tâm tư tình cảm tôi.
Mới hay sự gắn bó với làng quê thôn xóm, bà con láng giềng, tha thiết với mỗi bến sông vàm nước, eo vịnh kinh mương, mỗi ánh nắng sớm chói chang lung linh huyền diệu, mỗi ngọn gió chiều hiu hiu se lạnh, từ chiếc lá khô úa vàng nằm im thin thít trên mặt nước ao bèo đến con cá lìm kìm thon thon nhỏ nhắn se sẽ ve vẫy đuôi làm chao động ngọn cỏ non, từ cây xoài cà lăm tróc gốc oằn nhánh say trái chua lè đến ngôi nhà từ đường xưa với nhiều thế hệ tiếp nối dóc tâm xây dựng, bất chợt tôi mang máng nhớ, tôi mang máng thấy đâu đây... phảng phất hồn đất, hồn người hòa cùng nhịp điệu của muôn tiếng reo vui của thiên nhiên, của lịch sử. Thật là linh diệu biết dường nào!
            Nơi đây tôi xin ghi lại những vần thơ tôi viết cách đây hơn mười lăm năm nhưng nay trong hoàn cảnh hoài niệm nhớ nhung vẫn thấy thích hợp để tạm nói lên phần nào một chút ngậm ngùi thổn thức, một chút sắt son gắn bó đối với đất nước quê hương nơi xứ lạ quê người.

                    Lòng Vẫn Vương Mang

            Không Xuân trang điểm xác pháo hồng,
            Không mai vàng thắm trải non sông,
            Không câu đối đỏ rồng phượng múa
            Lòng vẫn vương mang nỗi nhớ nhung.

            Không cau thiu ngủ cạnh sân đình
            Không ngọn mưa rào đất nước xinh,
            Không tiếng bịp kêu bờ bến vắng,
            Lòng vẫn vương mang một khối tình.

            Không cánh cò xa điểm trắng cành,
            Không hàng dừa lửa ngắm sông xanh,
            Không bóng thuyền câu soi trăng bạc
            Lòng vẫn vương mang giấc mộng lành.

            Không ga hoang vắng rít tàu chiều,
            Không khói hoàng hôn mái tranh xiêu,
            Không người viễn khách ôm trăng hận,
            Lòng vẫn vương mang kiếp hẩm hiu.

            Không áo thướt tha ngọn gió đùa,
            Không cầu lắt lẻo bắt mương xưa,
            Không bến quạnh hiu đò lỡ chuyến,
            Lòng vẫn vương mang giọt lệ thừa.

            Bềnh bồng biển Thái chiếc thuyền con,
            Ly hương phiêu bạt mấy xuân tròn,
            Kinh hoàng đeo đẳng đau trang sử,
            Lòng vẫn vương mang chút sắt son.

                                                                                                                Võ Phước Hiếu


                                                                            **

                             Miếng Thương Miếng Nhớ
             
            Thằng Đực Lang mang tục danh Cò Lửa từ ngày chập chững vào đời, biết ngắm nhìn cảnh trí thôn làng chôn nhau cắt rún của nó. Tục danh nầy chẳng qua là do thân hình thon thon như tre miễu, với bộ vó nó cà xóc cà xóc, đi như gà mỗ, cái đầu luôn trước cái bụng. Bộ vó đó đã là đề tài chế rểu trêu chọc của đám bạn bè trang lứa và ngay cả các bậc đàn anh trong những buổi họp mặt cưới hỏi, đình đám.
Mặc dù vậy, nó nổi tiếng lực điền lớn gộc, "lăn chai bạt mạng" nhứt xóm. Tánh nó kỳ cục hết cỡ, rất vui tánh, liếng thoán hơn người. Không bao giờ chúng tôi thấy nó buồn, làm như ở trên cõi đời nhiễu nhương lắm chuyện nầy chỉ có toàn chuyện vui thôi đối với nó.
Nó tốt bụng, con người rộng rãi xẻ chia. Cây trái vườn nhà, cả những trái cơm nguội nó hái đâu đó ở mương ranh đình miễu, loại trái nho nhỏ màu tim tím hồng hồng, vị ngọt khá đậm đà, mỗi khi chúng tôi gặp nó, chưa kịp để chúng tôi quanh co, mại hơi nói gièm, nó đã nhanh nhẹn dúi ngay vào lòng bàn tay anh em chúng tôi mỗi đứa nhúm mớ rồi. Nó còn bảo chúng tôi ăn thử xem, ngon ngọt lắm.
Nhưng nó lại có biệt tài khó sánh bì. Nó biết làm đủ thứ việc trong nhà ngoài ngõ, những việc coi như làm chơi khơi khơi như lục bình trôi mà thực tế lại ăn thiệt.
            Nó xử dụng mấy loại bẫy chim, tự tay nó học lóm lởm bởm ở các bực đàn anh hay mấy cụ trưởng thượng vào tuổi ướm rụng nhàn rỗi, rồi chế biến làm lấy, rất điêu luyện. Do vậy, nó thường hãnh diện với mọi người xem như ngón nghề giải trí ruột của nó, khó có đứa lục lăn lục lửa trang lứa bắt chước được.
Những lúc nó rỗi rãnh, bà con thấy nó thả rong dài dài theo mé sông mé rạch dầy mịt dừa nước, ô rô ắc ó, chằng chịt dây leo bìm bìm rau choại. Nó đặt rãi rác đó đây vài cái bẫy cần bật. Nó bắt ráo nạo không sót một con, nào là chim quốc, nào là cò lửa, cò trắng, cò xám, cò quắm… lạc đàn đi lang thang tìm mồi.
Chim ham ăn, thấy con mồi cá rô hay cá lòng tong nhúc nhít liên hồi làm mặt nước chao động không ngưng, bèn thọc mỏ vào mổ tỉnh bơ. Chúng trúng lẫy, bị bật mạnh thình lình như trời giáng, đất trời bất biết.
Sợi dây thòng lộng siết mạnh cổ, treo nó lủng lẳng giữa thinh không đến nghẹt thở, tắt hơi tắt tiếng. Dù cho nó có tập trung đập đôi cánh đành đạch đành đạch làm tung toé lông lá lả tả, dù cho nó có nổ lực chống đỡ đến đâu, cũng đành thúc thủ chờ chết. Những con cò ngơ ngác đi kiếm ăn cu ki ít khi thoát khỏi bàn tay sát thủ thiện nghệ của nó.
            Còn loại bẫy tre cò ke có hình tam giác, nó đã đặt nơi đâu là hình như chim chóc đều bị đập gẫy cổ chết tươi lập tức, không kịp thét la vừa khi chui đầu vào ăn mồi. Mồi thường là trái cò ke chín, màu thâm thâm đen đen mà chúng nó rất ưa thích.
            Nhưng thằng Đực Lang ưng ý nhứt là khi nó dùng bẫy kèo dù này. Vì kết quả rất nhanh, mau ăn hơn các loại bẫy khác. Một khi nó thấy chim đang sà qua sà lại đáp xuống cây nào, chỉ mấy phút sau khi đặt bẫy là con chim đó đã tuyệt mạng rồi.
Bẫy kèo dù Cò Lửa làm bằng kèo dù cũ cũng độc đáo lắm. Không biết nó tìm đâu được cây dù xập kí nình, bỏ xó từ lâu để làm hằng lố bẫy có lực đập như thiên lôi. Loại bẫy này lại dễ sử dụng.
Những cây mãn cầu ta trong vườn đang có trái chín hườm hườm quến trao trảo. Lơ là không trông coi, không bao bọc cẩn thận hay bỏ bê săn đuổi, chúng nó từng cặp lục lạo không sót một chỗ. Từ tưng bửng sáng, chúng nó đã líu lo tranh nhau tha hồ đáp xuống ăn hổn ăn hào, mổ bừa bãi phung phí.
            Đực Lang treo lòng thòng gần đấy một bẫy kèo dù. Nó chỉ cần ẩn núp lẩn quẩn đâu đó một đỗi là nghe trao trảo kêu la thất thanh. Con chim ranh mảnh phá phách vài phút trước đó thình lình bị sập bẫy, đành chịu trận, không sao thoát được. Cò Lửa chỉ kịp leo lên cây tháo bẫy lôi con chim xuống mềm nhũng.
Đó là con chim trao trảo, loại chim thường cắn phá, mổ bừa bãi những trái cây chín hay vừa hườm hườm ở vườn nhà vào lúc tờ mờ hừng đông. Do đó, mấy bà mấy ông chủ vườn rất hoan nghinh và khen nó hết lời. Hôm nào nó ham mê rong chơi xa, chim bị sập bẫy, để lâu nghẹt thở lòng thòng, chết rũ cứng đờ. Dù vậy, nó vẫn mang về nhổ lông, thui lửa rơm, tha hồ rô ti với nước dừa xiêm.
            Do đó, cái hổn danh "Cò Lửa lăn chai" của nó không đến đỗi quá đáng. Dù vậy, nó rất dễ thương và thảo ăn nhất xóm Rạch Rít của tôi. Mỗi lần gặp chúng tôi, thế nào nó cũng lôi từ trong túi áo đã tướt đường chỉ một đôi phân tây, khi thì vài trái me ngọt dôn dốt, chỉ nhìn thoáng qua cũng đủ chảy nước miếng như trường hợp đàn bà cấn thai thèm chua. Khi thì một chót khoai lang bí lùi ở bếp nấu rượu lậu nơi nhà nó, còn hăng hắt mùi hèm do đôi bàn tay xục xạo thái mái của nó đụng đâu bốc đấy.
            Tánh tình nó rất dễ dãi, cởi mở, không đố kỵ ganh tỵ. Nó thừa hưởng những đức tánh phóng túng hào hiệp, rộng vòng tay của người dân phương Nam đất mới người thưa. Nó noi theo gương ông bà cha mẹ gìn giữ truyền thống tốt đẹp, lấy bụng ở đời để phân biệt sự phải trái, điều tốt xấu, cái thiện cái ác, việc nên làm và việc phải tránh xa.
            Bản thân nó không có nhu cầu đòi hỏi gì nhiều. Cũng chẳng có ước mơ quá đáng. Nó rất bằng lòng với mấy bộ quần áo toàn vải thô, duy nhứt một màu đen mốc thếch để thay ra thay vô khi cần thiết. Cơm ngày ba bữa chắt bụng với tôm tép, cá mắm kho quẹt mặn mòi, với rau cải xanh tươi, với khoai bắp và hoa quả đủ loại trồng chung quanh nhà.
            Một ngày đối với nó rất đơn giản như hết ngày đến đêm, hết mưa đến nắng. Nó cũng chẳng có gì thắc mắc hay nôn nóng cả. Mọi việc gì cũng tuần tự đến với nó một cách thanh thản bình thường.
            Quả vậy.
            Một ngày bình thường trong số những ngày bình thường khác trong năm theo nhận xét thô thiển chơn quê của nó bắt đầu với sáng sớm mờ sương. Lúc mặt trời vứa hé mọc ở đằng Đông, phía bên kia cánh đồng xa, sẫm xanh một màu đồng nhứt với ranh giới thoai thoải được viền bởi rặng dừa nước rậm rì ngút mắt. Đám dừa nước huyền diệu và sung mãn suốt tháng quanh năm này rất quen thuộc với tầm ngắm nhìn của nó ngay từ lúc hãy còn tấm mẳm.
            Ngày làm việc của nó để giúp mẹ cha, ngoài thời gian đi học, cũng chẳng phức tạp gì. Vẫn khởi sự ở bến sông rậm rạp sau hè, vẫn bắt đầu ở những đám ruộng lấp xấp nước, lưa thưa cỏ dại đó đây nhưng nhun nhúc đĩa trâu đĩa mén đen thủi đen thui.
Chiều về vẫn vậy. Vẫn mặt trời ửng đỏ chói chang ở đằng Tây ẩn hiện từng đàn cò trắng bay nhanh về tổ, báo hiệu một ngày dài sắp tàn. Xa xa khói bếp cơm chiều uể oải, nhốm lên trên những mái lá, mái tranh nghèo đang lập loè ánh đèn dầu con cóc lù mù liêu trai.
            Quanh năm vẫn thế. Không hề thay đổi. Và nó chỉ biết có thế thôi.
            Tốt bụng, ai nhờ đến, nó tận tình giúp đỡ ngay, không cân phân so đo, không tính toán đòi hỏi "bánh sáp đi bánh qui lại". Hay "có qua có lại mới toại lòng  nhau", nghĩa trả ơn đền chi cả. Nó
hành động theo phản ứng và cảm nhận tự nhiên "thi ân bất cầu báo" của người xưa. Nó cũng rất kín đáo, không màng cho ai biết đến hành động «đạo đức» hướng thượng của mình, ngoài nụ cười hiền hòa dễ mến và sự toại nguyện trong nội tâm. Với nó, thế là quá đủ.
            Nhà nghèo.
Nơi ăn chốn ở của nó từ khi chào đời đến giờ phút này chỉ là một túp chòi lá lụp xụp. Cột tre cột tràm thô sơ với vách phên chầm khiếu toàn bằng cà tăng tre hay cà rèm lá. Mỗi đợt giông to gió lớn đầu mùa ào ạt thổi tạt qua, ngôi nhà lè tè ấy cứ lúc la lúc lắc liên hồi, giống như mấy chiếc răng cấm lung lay sắp rụng của các cụ già gần đất xa trời.
Tùy đợt gió mạnh nhẹ, nó phát ra những âm thanh khô khan lạnh lùng hay những tiếng cót két... cót két ngân nga khe khẽ nhịp nhàng. Người nghe phát ớn xương sống, nổi da gà, tưởng chừng như nó sắp sập đến nơi rồi, không cách gì cưỡng chống lại được.
            Ấy thế, bà con tôi rất ngạc nhiên thấy cái chòi lá đó vẫn hiên ngang đứng trơ trơ, vững như trồng qua bao phong ba bão táp dồn dập. Với tài sản gia đình như vậy, cuộc sống hằng ngày của nó rất gian nan trắc trở.
Nhưng không vì vậy nó mất đi nguồn hạnh phúc và niềm vui của lứa tuổi thanh xuân. Cũng như không cấm cản được nó ấp ủ trong lòng những ước mơ nồng thắm tốt đẹp nhứt. Vì nó ý thức niềm vui, hạnh phúc và ước mơ vốn dĩ quý báu và vô giá lúc chính những thứ vô hình đó nằm gọn trong tầm tay chừng mực và hiện tại của mỗi con người.
            Nó được cho đi ăn học rất ít là lẽ đương nhiên. Do hoàn cảnh nên dong dong lớn đại mà chữ i chữ u nó chưa từng biết rành rọt. Quanh năm, nó mải mê không ngừng bám sát theo phụ giúp tía nó rất sớm. Và rất đắc lực. Nó liên tục lênh đênh khắp đầu vàm cuối vịnh, dầm mưa sương gió đến khét nắng hôi trâu. Nó thách thức thời tiết khắc nghiệt trên những thửa ruộng phèn chua nằm sâu húc tận trong ruột những cánh đồng mông quạnh cùn cốc.
            Nhờ lăn lốc lặn hụp thường xuyên trong gian lao khổ cực, nó có dáng vẻ lực lưỡng cường tráng trước tuổi so với lũ chúng tôi. Đến gần nó, lúc nào chúng tôi cũng ngửi thấy hắc ra một chút mùi vị xà xịn non đọng lại trên cơ thể nó, không cách nào gội rửa cho sạch hết được. Cho dù chiều nào đúng y như chiều nấy, nó đều đùng xuống sông tắm, long mình hằng giờ trong nước mát trong xanh.
            Lũ chúng tôi rất thương mến quyến luyến nó. Vắng nó, chúng tôi cảm thấy thiếu thốn nhớ nhung. Nó lại tháo vác, biết làm và ham làm bất cứ việc gì dù khó khăn nặng nhọc đến đâu ở thôn làng  hẻo  lánh.  Bản  thân nó không hề từ nan. Có
sự hiện diện và nhúng tay tham dự của nó, sanh hoạt thường nhựt của chúng tôi đỡ buồn tẽ nhàm chán.
            Cây mưa buổi xế chiều vừa mới tạnh tức tưởi. Khác với những trận mưa đầu mùa sấm sét hầm hừ, giông gió dây dưa dai dẳng. Những lúc đó, không cách nào dám mở toạt được cái áo tơi chầm bằng lá dừa nước nặng ì i, dù chỉ trong chốc lát. Mấy con ếch ẩn núp nằm im thin thít dọc theo bờ kinh bờ rạch hay mương rãnh nhơn lúc mưa vừa mới tạnh, trời trong mát mẻ, gió phơn phớt hiu hiu, bắt đầu lên tiếng thi nhau kêu uệch uệch... uệch uệch...
Nơi nầy chưa dứt, nơi kia trổi lên đối đáp vang rân. Như chúng chưa từng không hò không hẹn nhưng cùng đồng cảm đồng tình ganh đua nhau cố làm vui thôn xóm. Hay chúng đang chào đón ngày mùa sau thời gian dài hạn hán, đất đai nức nẻ khô cằn.
            Cò Lửa đưa tay đập vào vai chúng tôi cái bộp khô hốc. Nó nhướng mắt lia lịa rồi nheo nheo cực kỳ sản khoái làm giựt giựt đôi lông mày rô đen huyền. Giờ hành động lý tưởng mà nó chờ đợi khá lâu. Tay nó chỉ về hướng những buội ô rô chơm chởm gai, chằng chịt ắc ó, bìm bìm và đủ thứ giây leo hoang dại. Nó tỏ vẻ sung sướng hơn lúc nào hết.
            Những nơi hoang địa này còn là nơi ẩn trú an toàn của nhiều loại thú rừng vô phương kể xiết. Những con chồn đèn chồn mướp ranh mảnh, đêm đêm thường lén vào chuồng bắt gà bắt vịt nhưng nhát hít. Chỉ cần một tiếng động nho nhỏ đã nhanh chân biến mất tận hang ổ gần đó.
Những con rái cá mập ú na ú núc, xê dịch khó khăn chậm lụt, vốn quen mắt với bóng dáng con người nên rất mực dạn dĩ. Chúng bất kể nguy hiểm có thể xảy đến với chúng bất cứ lúc nào. Đôi khi, chúng không ngần ngại chui tuốt vào tận chòi lá nhà nó để tìm thức ăn.
            Cò Lửa cười tình, cái miệng méo xẹo méo xếch, nói úp úp mở mở rồi ra dấu cho anh em chúng tôi giữ im lặng tuyệt đối để nó tập trung lắng tai nghe thật kỹ. Chúng tôi chẳng biết nó nói ất giáp những gì nhưng cũng nghe theo nó, một mực ngậm câm như hến. Mấy con ếch sung mãn vẫn tiếp tục kêu uệch uệch vô tư vô lự. Con ở gốc này a dua hưởng ứng, đối đáp trả lễ ngay con nọ ở gốc kia. Bỗng dưng buổi chiều hôm đó thật vui nhộn làm sao!
            Cò Lửa bắt đầu đánh dấu, định vị những chỗ ếch kêu trong trí nhớ phong phú của nó. Chỉ cần nghe tiếng ếch bổng trầm, to nhỏ, nhặc khoan hay đứt khoảng, nó biết ngay phong phóc từng con một. Nó đã có kinh nghiệm từ những năm về trước rồi.
Con nào là ếch bà dầy dạng gió sương, lắm phen từng thoát chết qua bàn tay sát thủ của con người. Con nào no mồi biếng nhát, uể oải kén ăn. Con nào còn tơ nheo nhẻo, xông xáo háo hức dễ bị mắc lừa. Con nào đói thom lom, chỉ cần nhử con mồi nhảy múa bẹo hình bẹo dạng trước miệng là hổn hào nhảy xôm tới táp phụp ngay, không chút đắn đo do dự.
            Còn đối với loại ếch bà già giặn kinh nghiệm, từng may mắn sống sót trong đường tơ kẽ tóc, lại gặp lúc trời mưa no nước, dù con mồi nhái oé mềm mại hấp dẫn được nhử đong đưa, nhảy lên nhảy xuống trước mặt nó như khêu gợi, như thách thức, vẫn không đủ ma lực quyến rủ làm xiêu lòng nó. Nó vẫn phớt lờ, lạnh như tiền, nằm im ĩm bất động, bất cần đời.
Có khi nó còn quay mặt phũ phàng tránh né con mồi béo bổ. Hay nó đổ quạu lấy hai chân trước xua đuổi, xô đẩy con mồi dị họm cứ mãi chàng ràng nhột nhạt, chọc tức trước mặt. Với loại ếch dầy dạng lâu năm này, Cò Lửa có phương chước thích nghi khá độc đáo, xem như có một không hai trong xóm.
            Đánh dấu địa điểm xong, Cò Lửa phóng nhanh, chạy u một mạch thẳng về nhà trong chớp mắt. Một đỗi sau, nó quành trở lại, mang theo đầy đủ đồ nghề nhờ kinh nghiệm cha truyền con nối mấy đời khẩn hoang lập ấp.
Những người này lúc sanh tiền đã cặm cụi sáng tạo biết bao nhiêu loại dụng cụ cần thiết trong lao động hằng ngày. Tuy thô sơ nhưng rất hữu hiệu trong nhu cầu sinh hoạt và sinh tồn nơi vùng hoang vu hẻo lánh, sình lầy nước đọng buồn tênh. Vì nơi này quanh năm ngăn cách với thế giới văn minh bên ngoài.
            Ở xóm Rạch Rít khổ hạnh của tôi, ô rô mọc đầy hai bên mương rạch, bờ kinh, bờ sông, hầu như nối tiếp nhau không dứt. Thêm vào đó còn có hằng hà sa số các loại dây leo thường gặp như dây choại, dây mây, bìm bìm... chằng chịt níu kéo, đan quyện nhau mù mịt. Nhiều buội ô rô sầm uất lớn đại, một phần nằm vắt sâu trên bờ và phần còn lại chiếm một khoảng không nhỏ nơi lòng sông rạch.      Nơi đây kiến vàng làm những ổ to bằng cái thúng, tha hồ bò tới bò lui, trèo lên tuột xuống từng đàn như đi trẫy hội.
            Ô rô lại có gai. Lá nào cũng có. Tua tủa lởm chởm. Gai tuy không cứng lắm nhưng nhọn lểu ở những lá già, đủ làm rách da xước thịt, tươm máu. Trâu bò với da dẻ dầy cui cũng tránh né, không hề dám phiêu lưu dẫm vào. Do đó, lâu ngày chày tháng, những buội ô rô nầy cứ nở nang to lớn dần thêm. Buội này nối tiếp buội kia thành từng đám rậm rạp, xanh um, kéo dài cả một đoạn sông.
            Loài ếch cũng khá khôn ngoan, nhứt là mấy con ếch bà, tu luyện lâu năm, sống nhờ nhiều mánh khoé và phản ứng tự vệ theo kinh nghiệm bẩm sinh trời phú cho. Chúng nó xây hang ổ an toàn ở sâu trong những buội ô rô thênh thang dầy mịt đó. Nhiều hang bóng nhẵn láng o, đứng bên ngoài trông hun húc, thăm thẳm ở địa thế hiểm trở hổn mang này.
            Người đi trên bờ kinh rạch với tiếng động sột soạt dù nhẹ nhàng đi nữa cũng đủ cho chúng nó đoán biết có tai biến để kịp thời đề phòng ứng phó. Chúng nó rất thính tai, cũng thuộc loại chết nhát nên nghi kỵ mọi động tịnh bất kể từ đâu đến. Bản tính trời cho nó? Khi nhận định đúng nguy hiểm sắp đến, chúng nó nhanh lẹ phóng ùm xuống nước kinh rạch dầy đặc rong bèo, bông sún, lục bình... rồi lặn sâu mất dấu để thoát nạn biệt tăm biệt tích.
            Nhờ những kinh nghiệm quý báu của ông bà cha mẹ từ mấy đời nay và được thực tập thành thạo, tôi luyện tinh vi ở những mùa mưa, nhứt là những cây mưa sớm đầu mùa, Cò Lửa rất tự tin. Trong khi đó, lũ chúng tôi chăm chú theo dõi từng cử chỉ của nó.
Nó đâu phải hạng gà mờ hay tay ngang mới lởm bởm tập tểnh bước vào nghề đâu. Nó có dại gì đi bắt ếch tàng tàng, thong dong trên bờ kinh để
ngẩn ngơ luyến tiếc sau đó khi thấy con mồi to lớn, mập mạp béo bổ vuột thoát khỏi tầm tay mình. Nó có phương cách hữu hiệu và chắc ăn lắm.
            Cái mũi chỉa bằng thép già nhọn lểu có ngạnh sáng choang bén ngót được nó tra chắc chắn vào đầu cán trúc. Cán trúc già này thon thon đã được trui lửa nên có màu vàng óng ánh, dài độ đôi ba thước tây do những buội ô rô thường sầm uất và to lớn. Ở đầu mũi chỉa nó gắn con mồi hấp dẫn. Dù no bụng, ếch cũng khó cầm lòng lâu được.
            Đối với Cò Lửa, con mồi cũng là một trong những yếu tố quyết định sự thành công. Phải là con mồi đặc biệt mới đảm bảo chắc chắn chín mươi chín phần trăm kết quả. Còn lại một phần trăm thất bại, nó đổ trút cho sự xui xẻo rủi ro, tức do cái lỗi của ông trời già oái oăm cắc cớ. Một phần trăm này vượt khỏi sự hiểu biết và tầm tay của nó.
            Con mồi ở đây không phải loại nhái bầu, nhái oé quá quen thuộc mà bà con tôi thường gặp nhan nhản ven các bờ mẫu hay ao đầm cạn nước. Mấy con ếch bà thừa mứa, dư ăn, quen hơi lờn mặt. Chúng nó hiu hiu tự đắc lên mặt làm cao, dở trò chê lên chê xuống.
            Cò Lửa bèn nhảy phóc vào rừng tràm, thọc vội vài ổ kiến vàng rồi hấp tấp lựa một nắm trứng kiến chúa. Hai tay nó vuốt lia lịa đám kiến vàng liều chết, cùng nhau đoàn kết xã thân bảo vệ tổ ấm, đeo riết theo bám vào cắn chích nó. Có con hy sinh quyết tử dù đã bị giết chết nhưng hai càn vẫn còn bám sát vào da thịt nó.
            Nó chọn những trứng kiến màu trắng đục, to lớn đẫy đà, đầy đủ hình thù chờ ngày chuyển sang màu vàng sậm chuẩn bị sinh nở. Nó đem gắn chặt một nhúm vào đầu mũi chỉa. Xong xuôi, nó hươu hươu cây chỉa vòng vòng trên không trung, tỏ ra vô cùng đắc ý, như để biểu diễn cho anh em chúng tôi xem.
Nó bảo chúng tôi đang xem lúc Quan Vân Trường vung Thanh long đao xông trận. Lúc ông quyết tử chiến giữa rừng gươm giáo trong những tuồng tích mà các gánh hát bội hay hát cải lương nghèo xơ xác, thỉnh thoảng ghé xóm tôi cống hiến bà con liên tiếp năm ba đêm thức coi trắng dờ con mắt.
            Đâu đó chuẩn bị xong, nó căn dặn chúng tôi không được đi theo sát bên nó làm khuấy động sự yên tĩnh. Phải tuyệt đối giữ im lặng. Nhứt định chúng tôi không được nói năn lải nhải hoặc cãi vã, trững giỡn om sòm khó cho nó làm ăn, thi thố tài nghệ.
            Nó từ từ lội xuống nước, lần mò ven theo mé kinh rạch rất nhẹ nhàng, đôi mắt giản nở to tròn, chăm chú dáng vào các buội ô rô. Nó đang tìm hang ổ của ếch. Lũ chúng tôi cũng thả nổi tò mò xa xa phía sau nó chờ đúng khi nào nó huýt gió, khoát tay ra dấu như lệnh truyền mới được mon men đến gần.
            Đến địa điểm đã thầm đánh dấu sẵn trong trí nhớ lúc nảy khi mưa vừa tạnh, nó chậm rãi đưa tay vẹt nhẹ những nhánh ô rô non, gai còn mềm mại, chẳng những không đâm chít mà còn dội ngược chịu thua khi va chạm vào da thịt chai lỳ của nó. Quả thật, qua lùm ô rô tua tủa de ra xa khỏi mé rạch, nó không khó khăn mấy để tìm vị thế con ếch.
            Hang láng o, tròn lẵng và kín đáo do con vật chà lết lâu ngày chày tháng. Con ếch to lớn mập lút, ngồi thừ một cục không nhúc nhít, choáng gần hết miệng hang. Hai chân trước thẳng đứng trong tư thế như muốn chồm dậy quan sát. Trong chớp mắt, nó thấy con ếch với đôi mắt giản nở tối đa, bất động, ngạc nhiên nhìn nó đăm chiêu sợ hãi.
            Cò Lửa đang lội chầm chậm ở mương, nước ngập đến cổ. Đôi khi gặp chỗ sâu hoặc lún sình, nước lé đé tới hai lỗ mũi, vừa đúng tầm để nó thở khình khịch nhè nhẹ. Con ếch đành thúc thủ. Nó tự biết con đường thoát thân duy nhứt thường ngày của nó đang bị cản trở. Vì có sự hiện diện nguy hiểm của một địch thủ mà chắc nó đã lường trước mức tai hại sắp đến. Nó chưa biết phải xử trí ra sao và đối phó cách nào nên đành khép nép, cố thu mình nhỏ lại và nép vào tận sâu trong hang. Nó không dám nhảy ùm xuống nước như thói quen.
            Bây giờ, Cò Lửa từ từ hướng cây chỉa trực chỉ hướng thẳng vào con ếch đang ngồi trong tư thế sợ hải vì bị động. Mũi chỉa có gắn trứng kiến chúa chỉ trong chốc lát đã nằm sừng sững trước miệng con ếch rồi. Ếch có vẻ dè dặt nghi kỵ nên chưa có thái độ nào.
            Cò Lửa bắt đầu xe tròn liên tục đuôi cán chỉa với đôi mắt chăm chú để giữ mấy trứng kiến chúa đong đưa nhảy múa vừa tầm miệng con ếch. Nó cẩn thận xe tới xe lui rất đều tay và nhịp nhàng. Nó đang nhử mồi để thách thức con ếch và mùi thơm thơm của trứng kiến chúa lan tỏa rất khêu gợi.
            Dù dè dặt sợ sệt đến đâu theo phản ứng nghi kỵ tự vệ trời phú cho, con ếch cũng không sao cầm lòng lâu dài được trước sức hấp dẫn, hương thơm ngào ngạt thoát ra từ những trứng kiến chúa. Loại mồi hiếm hoi có sức khêu gợi khẩu vị này mà nó ít khi bắt gặp trong suốt chuỗi dài ngày tháng sinh sôi nẩy nở và trưởng thành trước đây. Bất giác, nó nhón hai chân trước xổm dậy như ở tư thế sắp sửa tấn công. Và sau đó,  thình lình nhanh như tia sét lúc trời mưa vào xế chiều, nó táp phập con mồi gọn lỏn, ngoạm ngoạm ngon lành.
            Nảy giờ Cò Lửa lặng thinh, trì chí và hồi hộp theo dõi thái độ của con ếch. Có lúc nó như nín thở chờ đợi mau đến giây phút quyết liệt này. Nó vội vàng nhóng lên khỏi mặt nước, lấy hết sức bình sanh ấn mạnh cây chỉa vào miệng con ếch giữa tiếng kêu la thảm thiết và vùng vẫy hoài công của con vật đang trúng thương oằn oại. Bị tấn mạnh vào sâu trong hang, lại mắc phải ngạnh cây chỉa bén ngót đau điến, ếch không sao thoát thân được. Cho dù nó cố chống đỡ dảy dụa cách mấy đi nữa.
            Tiếng kêu thảm thiết của con ếch giảm dần cường độ và sau cùng con vật im re, xui xị bất lực. Cò Lửa từ từ kéo con ếch ra khỏi lùm ô rô rồi nhìn chúng tôi hiu hiu bằng lòng và tự đắc. Lũ trời đánh thánh đâm chúng tôi cũng reo cười mừng rỡ, càng thán phục nó thêm.
            Rõ là con ếch bà vàng hườm mập lút, thân mình lóm đóm những nốt đen đen to nhỏ, bụng phệ ốc ách, no tròn bình rĩnh. Chẳng mấy chốc, Cò Lửa bắt ráo nạo đám ếch kêu uệch uệch khi nảy. Và lũ chúng tôi thay phiên nhau xách xâu ếch nặng ì ì, lòng thòng, mỗi con được Cò Lửa cột chặt bằng nuộc dây lạc dừa nơi eo, con nầy nối kết với con kia.
            Có con đổ ruột lòi phèo lòi gan, mắt đứng tròng như chăm chú nhìn chúng tôi van lơn cầu khẩn một cử chỉ giải thoát cứu độ? Có con nổ mắt, con ngươi vuột tuốt đong đưa ra ngoài, nằm bất động đợi chờ bàn tay rộng lượng của con người? Có con thè lưỡi máu me đầm đìa, thòng đầu giữa hai chân trước, buông xuôi yếu ớt như thầm chấp nhận một nghịch cảnh éo le của định mệnh?
Không quen mắt, trông cảnh tượng có vẻ rùng rợn man rợ làm sao! Nhưng dù man rợ rùng rợn đến đâu cũng không sao làm tan biến được niềm vui bất tận của lũ chúng tôi vào thời điểm ấy. Bây giờ ngoái nhìn về dĩ vãng xa xôi, tôi không khỏi thấy mình sao quá tàn ác, đã nhẫn tâm hay vô tình kéo dài những đớn đau tột cùng của con vật trước khi chết!
            Xâu ếch hôm đó ngam ngám một chục đủ đầu. Buổi đi đâm ếch của Cò Lửa xem như trúng lớn. Bà Tư Ân, mẹ của Cò Lửa khi thấy con ếch vội buông lời:
- Mồ tổ ơi, con ếch sao mà lớn đại vậy? Trong đời tao chưa hề thấy!
Rồi bà tiếp:
- Bà con mình nói không sai. Ở vùng đất khỉ ho cò gáy, âm u cùn cốc này, trên cao đâu đâu cũng là trời xanh mà dưới đất lục lục thường tình là loại ếch vàng nghệ úc núc này. Gia đình mình không đông mấy, quanh năm làm việc tất bật tối mặt tối mày hằng ngày, cả nhà muốn ăn chung đông đủ một bữa cơm dầu đạm bạc đến đâu nhưng tao thấy sao mà nó khó giàn trời giàn đất. Nhưng hôm nay, tao nhứt định lớn nhỏ phải ăn chung một mâm cho vui.
 Tôi không dám nhìn cảnh chặt đầu ếch lúc bà Tư Ân làm thịt con ếch. Tôi có nghe những người lớn tuổi thường nói, trước lúc con ếch thọ hình, khi thân mình mềm nhũng nhớt lầy của nó bị kẹp cứng, hai chân trước nó vẫn cố vùng vẫy. Nó thu hết sức mọn hơi tàn còn lại để chấp dính vào nhau giống như con người chấp đôi tay van vái khẩn cầu xin được tha chết?
            Con vật trước lúc từ giã cõi đời còn biểu lộ sự ham muốn được tiếp tục kiếp sống trần gian, hà huống là con người! Đôi khi con ếch còn thốt lên mấy tiếng yếu ớt thảm thương trong tuyệt vọng. Bà Tư Ân đọc lâm râm trong miệng mấy câu ngắn ngủi, nghe tiếng được tiếng không. Nhưng đại ý không ngoài cầu nguyện cho con ếch kiếp sau nếu có đầu thai sẽ không làm thân con ếch nữa.
            Xong, bà ấn một nhát dao ngọt lịm cắt tiện đầu con ếch ra khỏi mình nó. Đôi mắt nó hãy còn mở to tròng trọc như tức tưởi, như oán hờn. Bà Tư hình như cũng rung động xao xuyến lắm.
Làm sao không xao xuyến rung động trước cảnh chết chốc chia lìa? Bà bảo phải cắt tiện nhanh như thế để sớm chấm dứt cảnh cực hình đau đớn của con vật. Chúng nó không biết nói nhưng sự đau đớn của chúng nó cũng không khác chi sự đau đớn của con người.
            Thịt con ếch Cò Lửa đâm ở bờ kinh, mương rạch, ven đìa ven ao... lúc mưa đầu mùa ăn rất ngon. Bắp đùi vàng hườm rắng chắn, săn cứng, vung tròn. Thịt thà vừa dai vừa thơm tho dịu bùi. Chỉ riêng bộ mồng tơi lớn cả một bụm tay, vàng mơ óng ánh hoặc đỏ au với lá gan to béo cũng đủ hấp lực lôi cuốn khẩu vị và đưa cay đối với bà con tôi rồi.
            Ở xứ khỉ ho cò gáy Rạch Rít nhun nhúc muỗi mồng đĩa vắt của tôi, bà con sống thanh bạch theo đúng truyền thống làng xóm quê mùa, không cầu kỳ vẻ duyên, ngay cả trong việc bếp núc nấu nướng. Quanh quẩn những món quen thuộc như ếch cà ry, ếch canh chua lá me nấu với bắp chuối hột, ếch chiên mỡ, ếch xào lăn với củ hành tây bún tàu, ếch lăn bột chiên, ếch cơm tay cầm với núm mèo tươi rói mọc xô bồ nơi các gốc so đũa mục ở đầu ngõ hay ở mấy cây đọt xộp ở cuối vườn nhà...
            Bữa ăn thịt ếch lúc nào cũng xôm tụ, tập hợp đông người. Bà con tôi vốn hảo ăn đã đành, thêm được dịp để mời mọc, gặp gỡ thù tạc nhau trong thân tình. Nhờ vậy mà quan hệ chòm xóm, bang giao lân lý ngày càng thêm thấm thiết gắng bó. Và hai chữ "bà con" hằng ngày được thốt ra từ cửa miệng mọi người mới thực sự mang một ý nghĩa đậm đà, lai láng tình thương và sự tương kính quý trọng.

                                                                              **
            Đất hoang vừa khẩn xong còn nóng hổi. Bờ mẫu, đê điều, kinh mương song hành được phóng có trật tự và theo một kế hoạch thực tiễn. Nhiều con đê đồ sộ tăm tắp thẳng băng, chạy dài ngút mắt mãi tận chân trời xa.
            Với thời gian, bà con tôi tiếp tục gia công tu bổ dần mỗi mùa lúa. Chẳng mấy chốc, khắp nơi, bờ mẫu trở nên chắt nịt. Cỏ mai chen lẫn các loại cỏ dại khác mọc bừa bãi ven bờ. Có đoạn buội rậm um tùm hổn loạn do ít người dẫm chân đến hoặc chưa bao giờ đi qua một lần trong năm. Nếu lơ là, chểnh mảng bỏ bê, những bờ mẫu ấy sẽ sạt lở, mùa màn bị ảnh hưởng trầm trọng. Thu hoạch sẽ không đảm bảo hầu trang trải mọi chi phí tốn kém cho những mùa sau.
            Ruộng mới khẩn vẫn còn nhiều chỗ hổn mang nên phức tạp lắm. Thửa này cao, thửa kia thấp, thêm những gốc cây chưa kịp đánh gốc, chơm chởm rãi rác đó đây. Đánh gốc cây là cả một công trình dài hạn và vất vả, đòi hỏi lắm công sức con người, lại phí nhiều tiền của đầu tư. Mặt nước ruộng so le cần đến sự quan tâm theo dõi hằng ngày, ngay cả về đêm để sớm có biện pháp can thiệp thích ứng.
            Người đi khẩn hoang vốn thuộc giai cấp bần cùng nghèo khổ. Tiền của, vốn liếng lận lưng, khụm nụm mang theo dự trù sinh sống làm mùa thường vừa đủ ngám để chịu đựng đôi ba năm là cùng. Đôi khi vì hoàn cảnh bất khả kháng, bắt buộc họ phải vay nợ năm nợ mùa, rồi nợ cứ gối đầu mãi trả không dứt, để có phương tiện hoàn chỉnh đất mới.
            Họ rất nôn nóng. Khi vừa tạm xong một thửa ruộng xem được được là họ bắt  đầu gieo giống, cày cấy ngay. Họ hy vọng sớm có huê lợi, dù là huê lợi tượng trưng ở những năm đầu tiên để giải quyết nợ nần réo gọi, níu kéo lắm khi thôi thúc ngặt nghèo. Loại nợ này với lãi suất thắt họng, quá cao đến chóng mặt.
Những gốc cây chơm chởm còn đó, rải rác nơi này chỗ kia nhưng chẳng cản trở chi đến việc canh tác. Khi làm cỏ dại, họ tém dẹp gom góp đem bỏ tập trung ở những gốc cây này làm thành những đống to ngùn ngụt. Chim cò có chỗ đậu nghỉ chân, đứng xa xa trông như những bức tranh thủy mạc của các họa sĩ thời danh Trung Hoa, đẹp mắt và thơ mộng.
            Bờ mẫu chung quanh những thửa ruộng mới tinh khôi này rất quan trọng đối với bà con đi khẩn hoang lập ấp. Họ rất quan tâm be đắp, theo dõi thường xuyên liên tục. Chỉnh mảng tu bổ, không sao giữ được mặt nước vừa tầm mạ non hay lúc lúa bắt bén để trưởng thành.
            Ruộng thấp ngập nước, lúa mất sức, quỵ xuống chết ngộp xác xơ vàng nghệ. Ruộng cao thiếu nước, lúa khô cằn đỏ hoe hoe, chết dần. Số còn lại lưa thưa như tóc còi trên những mái đầu người hói.
Những đêm mưa tầm tã, bà con tôi vẫn phải vác cuốc lao vào đêm đen mưa gió lạnh lẽo để tháo lỗ trổ thoát nước. Gặp những hôm trời nắng, hạn hán kéo dài, bà con phải vần công từng nhóm, luân phiên nhau tác gàu sòng gàu giai cứu lúa không kể giờ giấc.
            Nhưng ác thay, bờ mẫu dù có được chăm nom tu bổ công phu đến đâu cũng thường bị một tai họa không lường được. Đó là nạn lươn lịch đục khoét thành những lỗ mội nho nhỏ ở những nơi hẻo khuất, những nơi vắng bóng người cỏ hoang mọc sum xuê, loạn xạ um tùm. Nước cứ chảy ro re róc rách, ngày tiếp nối ngày, rất khó cho con mắt tinh vi khám phá.
            Bỗng dưng một ngày nào đó, người ta giựt mình nhìn thấy ruộng cao mất nước đáng ngại, trong khi ruộng thấp kế bên nước ngập lé đé ngọn lúa. Có nơi lúa chìm lĩm nguy hiểm dưới nước sâu, cần phải có ngay những biện pháp cứu tử khẩn cấp. Trù trừ, lúa có thể chết ngộp, mất toi một mùa.
            Khi lỗ mội được phát hiện, thoạt tiên người ta tìm phương cách xảm lại nhưng vẫn không an tâm. Phần lớn đều hoài công. Hôm sau, nước vẫn ro re chảy tiếp.
            Con lươn đang ung dung trong ngỏ ngách, hang ổ của nó ở nơi đây chắc mẻm rồi. Nó chiếm vị thế an toàn, vững như bàn thạch. Vì chẳng ai có thể động đến nó được. Đêm đêm thanh tịnh vắng vẻ, nó len lén chui ra ngoài tìm mồi phá phách, làm lở lói bờ đê thêm mãi. Một tai ách vô hình đối với nông dân.
Bà con tôi cứ chập tối cấm những cần câu dài dài chung quanh lỗ mội nhưng sáng hôm sau, cần câu thì còn nguyên vẹn đó nhưng lưỡi câu và con mồi biến đâu mất. Con lươn chắc phải to lớn và già dặn lắm. Họ bất lực, điên đầu, chưa tìm ra giải pháp.
            Đêm nào như đêm nấy. Bực dọc, bà con bèn đặt trúm với mồi ngon khêu gợi hoặc dùng chỉa nhọn xôm sâu trong lòng bờ. Họ hy vọng con lươn bị tử thương chết rũ trong đó.
            Cò Lửa để ý đến những lỗ mội, nơi có nước chảy róc rách thường xuyên nhưng rất khó xâm, khó xảm này. Nó kiên nhẫn ít đứa trang lứa bì kịp. Không hề thấy nó chùng chưn chùng lòng. Vì nó không bao giờ chịu lùi một bước trước mọi chông gai trở ngại đang gặp phải.
Cái tánh dấn thân kiên trì chiến đấu chống mọi nghịch cảnh của nó do được thừa hưởng lâu nay ở cha mẹ dòng tộc nó. Các bậc này đã móm cho nó qua thực tiển hằng ngày cải tạo đất đai, cái tinh thần và ý chí cao đẹp ấy để chiến thắng thiên nhiên, để thành công trong sinh tồn. Do vậy, với giá nào nó cũng phải vượt qua. Với giá nào nó cũng phải thanh toán cho bằng được con lươn ác ôn tai hại này.
            Bản tánh của nó là như vậy. Nó đã được trui rèn bất di bất dịch và được thể hiện rất sớm trong cuộc đời son trẻ của nó. Nó biết những gì nó phải làm. Mà đối với nó, biết là một việc tốt nhưng mạnh dạng xăn tay áo, dám đổ mồ hôi bắt tay vào để thực hiện những điều hiểu biết của mình mới quan trọng hơn.
            Nó vốn có tiếng nhiều mưu thần chước quỷ, nhại bén và hữu hiệu. Đâm con ếch đẫy đà nằm lút trong hóc các buội ô rô dầy mịt, nó đã có những phương cách ít người nghĩ tới. Với con lươn tinh ranh tác hại mùa màng này, nhứt định nó không thể tha thứ được và bỏ qua được. Nó vò đầu bức tóc, nghĩ tìm thế thần ăn thua đến cùng mới nghe.
            Nó lại đinh ninh chắc nịt rằng những con lươn có tầm phá hại nguy hiểm cở đó ắt hẳn phải là loại lươn sinh sống lâu đời, nhiều năm tu luyện sắp thành chồn cáo và rất già dặn kinh nghiệm. Không biết ai chỉ dẫn giải thích cho nó nghe chuyện con lươn một khi sống lâu năm mập ú, trở nên cụt đòn do đuôi lươn co rút ngắn hẳn, lại có thêm hai mang tai nhỏ hếu nhô ra bên ngoài... đầy đủ những điều kiện cho phép nó thoát lớp lươn để trở thành chồn cáo?
            Và không biết nó có thấy được sự thay hình đổi dạng đó lần nào chưa. Nhưng coi mòi nó rất tin ở huyền thoại biến hóa ấy lắm vì bàng dân thiên hạ truyền miệng nhau từ đời này qua đời nọ để có lần lọt vào đôi tai nó. Dù sao, nó cũng không lầm vì đã đánh giá đúng mức sự hung hăng và sức mạnh phi thường của loại lươn già dặn này để chuẩn bị đồ nghề tương ứng.
            Cò Lửa bắt đầu tốm chỉ to gấp ba bốn lần chỉ câu thông thường mà nó tìm tòi mua nơi những tiệm chạp phô khách trú ở các chợ quận hay thị trấn lớn trong vùng. Nơi đầu sợi chỉ, một lưỡi câu đã được nó o bế dũa tới dũa lui rất công phu nhiều ngày trở nên bén ngót với một ngạnh to
nhọn lểu chỉ cần xốc phớt cũng đủ làm rách da rách thịt.
            Chạng vạng tối, khi mặt trời sắp lim dim ngủ sau rặng trâm bầu hay lũy tre ranh, nó bắt đầu lò dò xuất hành. Đơn độc một mình. Thách thức đêm đen và thời tiết. Trên mình nó vỏn vẹn một chiến áo tơi chầm bằng lá dừa nước, trùm phủ từ đôi vai nở nang để chống chọi lại cái lạnh thấu xương về đêm, cái buốt giá của những ngọn gió dấy lên từ sông nước hay những trận mưa sớm kéo dài.
            Với chiếc áo tơi truyền thống, vừa dễ chầm, vừa rẽ tiền và tiện lợi này, nó ngồi co ro che thân ngược theo chiều gió, chiều mưa để một mình lắng nghe hạt mưa lốp đốp trầm buồn bên ngoài mà quên đi cái lạnh vây kín chung quanh. Ấy thế, nhiều lúc nó cứ bắt phải rung cả người cầm cập, không cách nào hóa giải được. Cả hai hàm răng nó cứ đánh bò cạp một cách máy móc. Dù sao nó cũng đã quá quen nên không đến đỗi ngạc nhiên cho lắm.
            Tuyệt nhiên, nó không cho chúng tôi đi theo vì nó nghĩ sẽ vướng bận tay chưn nó. Mà thật tình nó rất có lý. Lươn thường có vẻ lù đù chậm chạp do cái vẻ bề ngoài nhưng vốn thính tai. Nằm sâu dưới bờ mẫu, nó vẫn nghe rõ ràng tiếng chân người nện thình thịch trên mặt đất.
            Cò Lửa thủ sẵn một khúc ruột vịt già làm hai ba hôm trước mà nó căn dặn người thân trong nhà phải để cả ngày đêm dưới sức nóng và hơi sương. Ruột vịt bắt đầu trở thành sình chương mùi hôi thum thủm. Lươn vốn loài ăn tạp. Mồi trùng, mồi nhái có khi nó chê. Riêng cái mùi hôi thum thủm ruột vịt này dù có no cách mấy nó cũng không nỡ chối từ.
            Cò Lửa vẹt gai, vẹt cỏ dại cùng những chướng ngại khác rồi nằm sắp dài trên bờ mẫu. Nó thòng đầu xuống ruộng, nơi có lỗ mội. Nó từ từ đưa lưỡi câu có móc ruột vịt thum thủm vào sâu trong lỗ mội nhờ một thanh tre mảnh mai giúp đẩy nhẹ lưỡi câu. Cuối đầu sợi dây câu phía ngoài, nó cẩn thận buộc một thoải tre vừa vặn một nắm tay, dài khoảng một tất rưỡi tây. Thoải tre này dùng làm điểm tựa để nó giữ thế thăng bằng. Và cũng để nó lực lúc trì kéo đối đầu với con lươn.
            Nó giữ tư thế dị họm đó bất động và trì chí rất lâu trong đêm vắng quạnh hiu, lúc trăng khuya bị mây che khi mờ khi tỏ, mặc kệ muỗi mồng tha hồ thi đua nhau cắn chích nó. Ngón tay trỏ của nó luôn luôn để nhẹ trên sợi chỉ câu với ý đồ phát hiện sớm sự động đậy con mồi khi lươn đánh mùi chao động.
            Thình lình nó nghe con lươn đánh trốc một tiếng trong ấm khô khan, âm thanh hòa lẫn với nước ro re ở lỗ mội rất quen tai nó. Vì đây không phải là lần đầu tiên đối với nó. Trong chớp mắt, nó nhảy ùm cái sột gọn gàng xuống ruộng nước. Tay nó nắm chắc thanh tre, giặt một cái dứt khoát. Và nó nhận định con lươn chắc đã mắc câu nên nó ghì tay chịu cứng không cho thanh tre xê dịch dù một li một tí.
            Nó cảm thấy sợi chỉ câu căng thẳng đáng ngại rồi dùn dằn từng chập từng chập, do con lươn trong lỗ mội cố hết sức dẩy dụa thoát thân. Dưới ánh trăng mờ tỏ tỏ mờ, nó thấy rõ dòng nước đục ngầu cuồn cuộn tuông ra từ lỗ mội mà lòng mở cờ tưng bừng sung sướng. Con lươn đã thực sự mắc câu rồi.
            Dòng nước đục ngầu phun phún chầm chậm trong đêm vắng đó là niềm hy vọng lớn lao nhất của nó lúc ấy. Nó đang trên đà thành công. Nó đang nuôi hy vọng chiến thắng được con lươn đầy ám ảnh và tội ác này. Trong lòng, nó đinh ninh cầm chắc thế nào cũng bắt được con lươn tác hại mùa màng, làm phiền hà bà con bấy nay. Nó mừng thầm trong bụng. Mai đây và suốt chuỗi ngày sắp tới, bà con nó sẽ không còn phải bận tâm, nơm nớp lo âu đối phó con lươn phá hại trời đánh thánh đâm nầy nữa.
            Cò Lửa vẫn đứng im dưới ruộng nước. Vẫn ẩn nhẩn đợi chờ. Nó không hề nôn nóng vì nôn nóng lúc nầy ắt sẽ hư việc. Con lươn vẫn dằn co  mãi trong tuyệt vọng. Nó uốn éo níu kéo, cố dùng tối đa sức lực của nó.
            Cái tư thế chờ đợi của Cò Lửa, luôn giữ thanh tre bất động không ngoài làm giảm bớt sự căng thẳng, nhiều khi nghe bừng bực của sợi chỉ câu. Nó có học hành đến nơi đến chốn đâu để hiểu rõ sức căng tối đa của sợi chỉ. Nhưng có điều nó biết rõ ở hai đầu sợi chỉ, một bên con lươn đang vùng vẩy tháo chạy thoát thân, bên kia nếu nó cố sức kéo con lươn ra khỏi lỗ mội ngay thì nhứt định sợi chỉ sẽ đứt không chóng thì chầy. Kinh nghiệm cha ông truyền lại giúp nó có phản ứng tự nhiên đó.
            Đôi lúc, sức vùng vẫy của con lươn trong hang, uốn éo nương theo cái thế hiểm hốc của những đường cong, ngăn ngách ngoằn ngoèo của lỗ mội làm cho nó phải gồng cả hai cánh tay gân guốc lực lưỡng để giữ thanh tre không sai chạy. Lòng nó luôn hồi họp, cứ mãi phập phồng lo sợ đứt sợi chỉ câu bất tử. Nó nhăn mặt, một mình dằn co gian nan lâu lắc với con lươn trong âm thầm của đêm thanh vắng.
            Nó nhìn lên không trung trông thấy con trăng đã chênh chếch nhợt nhạt. Nó đoán biết đã khuya rồi. Mà quả thực vậy. Nó ngó xa xa chỉ thấy lờ mờ trong hơi sương mấy cây trôm già, vài cây gáo ngựa vượt khỏi hẳn những lũy tre im lìm bất động. Quan cảnh giờ đó rờn rợn lạnh tanh. Những mái lá mái tranh thôn nghèo đèn đuốc lập loè như ma trơi lúc đầu hôm giờ này đã lịm tắt từ lúc nào rồi.
            Bỗng dưng, Cò Lửa nghe tiếng vặn mình răn rắc... răn rắc khe khẽ của con lươn. Sợi chỉ câu căng thẳng thêm sau những tiếng răn rắc bẽ mình bẽ mẫy liên hồi đó. Nó đoán biết sắp đến hồi kết thúc cuộc chiến đấu ngang ngữa và dằn dai giữa nó và con lươn quái gỡ nhưng rất tự tin ở sự thắng lợi cuối cùng sẽ về phần nó.
            Quả vậy. Tai nó nghe một tiếng ọt vừa nhẹ nhàng, vừa uể oải kéo dài khô khan. Con lươn đã kiệt quệ buông xuôi. Nó không còn sức để kháng cự nữa. Cò Lửa bảo là con lươn bị giản xương sống, trở nên yếu ớt như cọng bún vừa mới ra khỏi lò.
            Sợi dây câu chùng lại mềm nhũng, lủng lẳng. Nó bắt đầu từ từ kéo cẩn thận thanh tre lên. Con lươn dịu dàng ngoan ngoản được lôi ra khỏi lỗ mội. Nó tiếp tục vùng vẫy chống cự nhẹ nhàng trong tuyệt vọng nhưng Cò Lửa nhanh nhẹn nắm đầu nắm đuôi kẹp cứng nó rồi lấy hết sức bình sinh kéo giản thẳng ra làm cho nó càng thêm kiệt quệ hơn.
            Ngày hôm sau, Cò Lửa rất hãnh diện về thành tích của nó đêm qua. Nó khoe và hướng dẫn chúng tôi đến xem con lươn sắp thành chồn cáo được nó rộng trong việm, đậy kỹ càng nhờ tấm thớt nặng ì ì làm bằng lõi me già. Nó không ngớt lời tường thuật lại cho chúng tôi nghe cuộc chiến đấu gian nan trường kỳ giữa nó và con lươn hi hữu đó.
            Nó chỉ cho chúng tôi xem cái đuôi con lươn mập lút, ngắn ngủn nhứt là hai bên đầu có hai mảnh da nhỏ nhô ra. Nó khẳn định là hai lỗ tai của con chồn sắp thành hình, đúng theo truyền thuyết lâu đời của bà con quê mùa, những bực trưởng thượng trong xóm đã nhiều lần kể cho nó nghe. Con lươn quá to lớn hơn  bắp tay tôi, ức vàng hườm tận hai bên hông, ú na ú nú, chỉ trừ sóng lưng đen mun.
            Cò Lửa thêm tự hào và hứng khởi chỉ tiếp cho chúng tôi xem chung quanh miệng con lươn lủng lẳng năm sáu lưỡi câu láng cón do nó ham mồi, cắn đứt chỉ câu trước đây mà nó không sao tự mình lột bỏ ra được. Nó đành ngậm đắng nuốt cay bất đắc dĩ phải giữ lòng thòng với nó trong cuộc sống hằng ngày ở lỗ mội như một kỷ niệm khó quên.
            Cò Lửa bật ngửa cười hăn hắc. Nó bảo với chúng tôi những lưỡi câu đó thuộc về hàng dỏm, làm sao hữu hiệu được. Những lưỡi câu rẽ tiền ấy không thể so sánh với lưỡi câu đặc biệt của nó được. Lưỡi câu này do chính tay nó gia công uốn với thép già tôi luyện đúng mức. Bằng cớ là con lươn phải chịu chết vì nó.
            Chúng tôi nhìn con lươn lăn lóc uốn éo trên nền đất, oằn oại hiền hòa. Bây giờ thất thế sa cơ, trông nó lờ đờ mềm nhũng còn hơn tàu chuối rũ bỏ bê lâu ngày ngoài vườn. Đôi mắt chúng tôi cứ tròn xoe lên nhìn con lươn mà lòng ngạc nhiên và thán phục Cò Lửa.
            Gốc vườn trầu hôm đó ồn ào không dứt tiếng nói cười tào lao của Cò Lửa trong khi tay nó nắm đầu con lươn vuột trấu. Thân hình mềm mại đen mun của con lươn không mấy chốc trở nên sạch nhớt và mơn mỡn hơn. Nó bảo không nên vuột con lươn trắng bạch, thịt ăn sẽ bở rệt không ngon. Phải để da lươn còn đen đen, giữ lại chút ít hơi hướm của nó mới đúng điệu nghệ ẩm thực và khẩu vị người thưởng thức.
            Thịt con lươn Cò Lửa vừa mới câu nầy ngon ngọt thơm phứt, hương vị dìu dịu mạ non lúa mới, phảng phất mùi hoa hoang dã. Với thịt lươn béo bổ kéo níu khẩu vị con người, lâu lâu mới có, bà con tôi thường tổ chức đánh chén linh đình. Nào lươn um sã với bạc hà rau ôm. Lươn xào lăn núm mèo bún tàu với hành tây to lớn óng vàng mua ở chợ quận. Canh chua lươn nấu với con mẽ thanh tao dịu bùi. Cháo lươn nấu với môn nước v.v...
            Nhưng hôm đó, con lươn cụt đòn vàng nghệ được bà Tư Ân lóc xương sống từ đầu đến đuôi, thịt hai bên lường tươm màu hồng thắm, tươi thật tươi. Bà Tư đã chuẩn bị sẵn một tô thịt heo bầm ướp đầy đủ gia vị thơm tho ngọt ngào. Xong bà nhồi vừa vặn trong bụng con lươn, may chỉ lại cẩn thận. Bà khoanh từng vòng tròn, đem nướng trên dĩ than bếp lửa lò im ĩm để thịt dồn có đủ thì giờ chín tận bên trong.
            Bà Tư dùng than đước, loại than mua để dành đốt bàn ủi để ủi áo quần những lúc mùa màng rổi rảnh đi xem hát bội, hát cải lương ở đình ở miễu, hoặc khi tham dự lễ Kỳ yên, ngày hội Tết hay giỗ quảy, cưới hỏi trong xóm trong làng. Lửa than nóng hực nhưng rất hậu.
            Bà Tư tránh để lửa phừng phựt, cháy hổn hào nám khét lươn nướng. Mỡ lươn quyện với mỡ thịt heo bầm nhễu xèo xèo trên lò làm khói thơm bốc lên nghi ngút. Cả mấy dãy nhà bên cạnh cũng cất tiếng khen đáo để. Họ khó cầm được thèm thuồng.
Ấy vậy, thỉnh thoảng bà Tư Ân còn ân cần trét lên mình con lươn dồi một ít mỡ nước có lấm chấm những khoanh nhỏ hành hương. Con lươn bắt đầu căn da trong bóng, vàng hườm, hăn hắc mùi thơm.

                                                                              **
            Quê hương Rạch Rít của tôi nay chỉ còn ẩn hiện trong trí tưởng. Cảnh thổ chôn nhau cắt rún của tôi đã cách ngăn diệu viễn từ hai mươi mấy năm nay. Lưu vong, tỵ nạn cộng sản, tôi giã từ một chế độ độc tài khát máu, áp bức bất công, dối gian tham nhũng nhất trên cõi trần.
Từ dạo đó đến nay, tôi chưa một lần trở lại quê cha quê mẹ quê mình, trong lòng hằn luôn ray rứt quặc thắt nhớ thương. Nơi ấy, tôi đã để lại một quãng đời son trẻ của mình với biết bao kỷ niệm  buồn vui, không bút mực nào tả xiết. Và cũng chính nơi ấy, tôi từng lang bạt thấm đẫm  hương đồng vị đất bản làng để có nhiều dịp thưởng thức và nhớ đời những thổ sản và món ăn dân gian với nhiều phương cách nấu nướng chế biến của bà con tôi, tuy nghèo tiền nghèo của nhưng lúc nào cũng tràn đầy sức sống và sáng tạo.
            Rau cỏ, cá mắm, tôm tép... Cả cua đồng, rùa, rắn, chuột, chồn cáo, ếch nhái, lươn lịch... Đặc biệt là gà vịt mà bà con tôi nhà nào cũng có năm ba bầy sởn sơ đôn đít nhau, thả chạy nhởn nhơ rạn đất, từ trong trang trại nhà ra đến tận ngoài vườn.
            Có khi không có vịt xiêm mái để ấp, bà con tôi mua trứng vịt có trống ở lối xóm đem về nhà cho gà mái ấp kèm. Đến lúc trứng nở, xuống ổ, mẹ gà túc túc không thôi, trông nom chăn vịt con trên vườn, ngoài sân. Trong khi ấy, đàn vịt con ranh mảnh, mải mê bơi lội, vô tư rong theo mương rảnh rối vô tình phiêu lưu theo dòng nước trong vắt lững lờ.
            Những khi diều hâu, bù cắt lửa xà xuống xớt gà con trên liếp, gà mẹ bất chấp hiểm nguy vỗ cánh nhảy ập tới đối phó bất kể mạng sống của mình, miễn sao bảo vệ được sự sống còn của đàn con. Gặp khi vịt con bị lươn rút giò hay vướng rong, gà mẹ vẫn không chút do dự, nhảy ào xuống nước cứu con, kêu la toát toát. Cũng may, mương ranh không sâu lại dầy đặc rong bèo, rau muống đan quyện nên gà mẹ ướt mèm, không đến đỗi chết chìm.
            Thương thay cảnh "mẹ gà con vịt chắt chiu" đậm đà lai láng biết dường nào.
            Loại gà vịt thả chạy tự do ngoài sân ngoài vườn, nơi bến sông mương rảnh lúc nước ròng, tìm ăn cào cào châu chấu, tép rong tép bò, sâu bọ, lúa thóc rơi rớt không thiếu gì. Đói nữa, chúng nó cứ tự tiện nhào vô chuồng trại, tìm nơi các mán heo ăn thế nào cũng còn sót chút cám xay, cám giả hay bã hèm rượu lậu dư thừa. Con nào con nấy trở nên mập lút, trổ mã lông lá mướt mượt, màu sắc óng ánh.
            Nhiều bà con còn cất chòi lá chòi tranh đơn sơ ở những  gò đất, vạt đất giữa đồng không mông
quạnh để thả gà thả vịt tự do sinh sôi nẩy nở. Họ không nuôi trong nhà do gà vịt chập chập lẻn vào tìm ăn làm dơ bẩn. Họ còn mất công thỉnh thoảng phải chốp tàu dừa tàu cau để sẵn đâu đó la ó hò hét, đập rầm rập rèn rẹt ở phênh vách, ở gốc cột hay nơi chân ván ngựa, chân bàn ghế để đuổi chúng ra khỏi nhà, nhứt là đám vịt con, gà giò phá phách bươi xớt như tinh.
            Dù cất chòi xa nhà, bỏ bê bù lu bà la, lâu lâu mới ra thăm một lần để rải chút ít lúa mót hay  lúa quét sân lúc giê gió mà họ còn có khi nhớ khi quên. Nhưng gà vịt không hề bị mất mát, bất quá thỉnh thoảng chỉ bị chồn tha hay diều xớt một vài con là cùng. Chúng nó lớn như thổi. Quên một thời gian, chúng đã đến lứa ăn thịt chẳng mấy chốc.
            Bà con tôi tuy quê mùa cục mịt, tuyệt nhiên không tham lam, tháy máy tài sản của cải người khác. Vì thời bấy giờ, nhà nhà đều hạnh phúc ấm no, đủ ăn đủ mặc, không phải đắn đo bươn chải nhiều. Hạnh phúc của họ nằm trong cái mình có trong tay và trước mắt. Vì bà con tôi nghĩ đơn giản rằng hạnh phúc không lúc nào được cho là đủ cả. Nếu mình cho là đủ thì đủ. Trái lại, nếu mình bảo thiếu thì lúc nào cũng vẫn thiếu.
            Nghèo khổ thiếu thốn, cứ lấy mồ hôi công sức mình tự lực cánh sinh để sống trong lương thiện. Đất đai hoang vu không thiếu gì. Chỉ cần ý chí và quyết tâm là có cơm ăn hằng bữa, áo ấm quanh năm. Châm ngôn của bà con tôi là trong hoàn cảnh nào cứ bám vườn bám đất mà sống, sẽ không sợ đói.
            Cái thuở thanh bình xa xôi đó đã mất rồi hun húc trong miền ký ức của tôi, vốn bị nhiều  thương tổn nặng nề khi tôi đã từng lăn lộn với sóng đời dồn dập từ những thập niên gần đây. Bao nhiêu kỷ niệm phai mờ. Bao nhiêu tình tiết rõ nét. Lẫn lộn chồng chất lên nhau xô bồ, không lớp lang, thiếu mạch lạc.
            Có cái nhớ cái quên. Cái quên thì nhiều. Cái nhớ lại ít.
Suốt một khoảng đời lao đao lận đận trên quê hương nhiễu nhương hằng nửa thế kỷ, nhứt là từ ngày đau buồn tháng Tư Đen cộng sản hiếu chiến Miền Bắc cưỡng chiếm quê hương tôi, biết bao sự việc đã lướt đi âm thầm khỏi trí nhớ tôi. Cũng may, trong cái nhớ ít oi còn sót lại này, nhiều hình ảnh đậm đà thấm thiết, nhiều dấu vết ngăn ngắt cứ mãi trở mình ẩn hiện, khắc sâu như nhắc nhớ tôi cả một quá khứ cội nguồn sáng rực tinh tuyền.
            Tôi đưa miếng thịt gà nấu cà ry tươm tất, đúng điệu nghệ nhà nghề sành sõi vào miệng mà nghe bều bệu nhạt nhẽo, rã rời bở rệt. Nhìn những
khúc  thịt  mềm nhũng, tươm chất mỡ lầy nhầy tái
mét, tôi cố nuốt một cách máy móc theo động tác quen thuộc hằng ngày, ăn để sống, ăn để được hiện diện, ăn để sinh tồn.
            Đó là loại gà kỹ nghệ, nuôi theo phương thức khoa học tân tiến, có chuồng trại, tường vách, sàn mái bao bọc ấm cúng, tiện nghi vệ sinh ngăn nắp. Có hệ thống điều hòa nhiệt độ, thuốc men đầy đủ, đèn đuốc sáng trưng để gà ăn uống ngày đêm liên tục.
            Chủ trại còn vỗ béo tối đa để gà chóng có cân lượng đòi hỏi, sớm bán thêm lời. Mỗi con chỉ có vừa vặn một chỗ đứng để ăn rồi nằm, nhằm tránh cử động tối đa, không cho mất năng lượng nhiệt lượng. Gà sẽ súc cân.
Thức ăn luôn luôn kề nơi miệng, tha hồ ăn no phồng bầu diều. Nước uống nhễu giọt liên tục cận kề một bên. Thêm nhiều loại kích thích tố hóa học thôi thúc sự trưởng thành nhanh chóng và thuốc trụ sinh ngăn ngừa những bịnh dịch, gà không bị toi bị gió.
            Loại gà vịt nuôi thúc để thỏa mãn nhu cầu của xã hội tiêu thụ, sống hấp tấp vội vàng, không hội đủ điều kiện hương vị hấp dẫn khẩu vị của tôi. Ngay cả loại gà đắc giá, loại gà nhà vườn nuôi theo phương pháp cổ truyền với hạt lúa mì, hạt bắp tinh anh mà đồng bào tỵ nạn ở Pháp vui miệng gọi đùa là "gà đi bộ" để tránh danh từ "gà chạy" thuở còn ở bên nhà. Loại gà đó cũng không có được những đặc điểm thơm ngọt chắt thịt. Có thể vì ham muốn thu nhiều lợi nhuận nên họ đã pha chế thêm phần nào thức ăn độn so với quảng cáo chăng?
            Mỗi lần ăn thịt gà, tôi nhớ đến con gà chạy bên nhà, con gà nuôi thả lỏng ngoài vườn tược, ngày ngày bươi xới cỏ non, cào cào châu chấu. Chiều chiều, chủ nhà rải bừa bãi ngoài sân một quảo lúa, loại lúa rơi rớt khi quét sân quét bồ những ngày phơi lúa bán lúa đã được tích trữ ở lẫm trại. Rồi họ thong dong sung sướng đứng nhìn cả bầy tranh nhau mổ, đập cánh rượt cắn đá nhau, nhảy tới nhảy lui, rững mở nô đùa trước khi lên giàn ngủ.
            Tôi nhớ đến miếng thịt gà thơm ngon ngày xưa nơi quê hương Rạch Rít của tôi. Loại thịt gà này tôi đã từng ăn không biết bao nhiêu lần nhưng vẫn không hề biết nhàm chán. Miếng thịt gà ở quê nghèo khổ hạnh nhưng rắng chắt ngọt lịm, hương vị thanh tao.
            Còn nói gì đùi ếch nhập cảng của Thái Lan hay Nam Dương, ngay cả của Trung Hoa Lục Địa, của Đài Loan... được gói ghém cẩn thận trong những bọc giấy kiếng trong, bao bì in ấn đẹp đẻ quyến rủ nhưng thú thật dai nhách, ăn xảm xảm, không mùi không vị. Con lươn nhập cảng cũng thế. Tuy được làm sẵn sạch sẽ và được trình bày với bao bì màu sắc hấp dẫn nhưng đông lạnh lâu ngày, tích trữ nhiều tháng, da dẽ thịt thà không thơm ngon lại có phần bã thịt.
            Trên chéo đất tạm dung ray rứt này, mỗi lần ăn lươn ăn ếch đổi bữa, tôi như đi tìm lại một chút hương vị đã mất từ hơn hai mươi năm nay. Tiếc thay, tôi chưa bao giờ bắt gặp lại cái hương vị mất mát đậm đà của ngày xưa ấy. Lắm khi tôi đâm ra chán chường để lịm dần trong mênh mang tưởng tiếc, hồi nhớ cái khoái cảm đã qua. Cái khoái cảm nhẹ nhàng thâm thúy ấy hãy còn đeo đẳng mãi bên tôi, đến giờ phút này và chắc hẳn đến cả cuối đời mình nữa.
            Làm sao tôi quên được thịt xâu ếch vàng mơ óng ánh mà Cò Lửa lội mương ô rô đâm đổ ruột lòi phèo lúc trời mưa vừa mới tạnh. Làm sao tôi quên được thịt con lươn mập lút cụt đòn thơm tho mà Cò Lửa đã ẩn nhẩn câu ban đêm, con lươn sắp sửa hóa chồn hóa cáo ấy miệng còn mắc lủng lẳng cả năm bảy lưỡi câu rĩ màu xám xịt.
            Miếng ăn để đời.
Miếng ăn lưu luyến.
Miếng ăn mộc mạc, không chế biến cầu kỳ. Miếng ăn đậm đà tình nghĩa chòm xóm.
            Những miếng ăn đó dù đã hun húc theo thời gian đăng đẳng cả nửa thế kỷ phế hưng thổi dạt vào quê hương trăm đắng nghìn cay của tôi, nay vẫn hiển hiện rõ nét trong trí tưởng tôi, trong sâu thẳm tâm hồn tôi.
Nó mơn trớn khêu gợi, lôi cuốn khẩu vị tôi mỗi khi nhắc nhớ với bối cảnh chôn nhau cắt rún của tôi mãi mãi không nhạt nhòa. Nó như thêu dệt vẽ vời cảnh thổ nên thơ, xóm Rạch Rít buồn hiu nơi tôi thực sự sống, thực sự trưởng thành và thực sự gắn bó trọn vẹn.
            Bây giờ, nơi chốn lưu đày tạm bợ này, qua bao nhiêu năm gần tròn một đời người, ngăn ngắt chuyện buồn vui chua xót, nơi cuộc sống nghiệt ngã rối nhùi, lắm chuyện phiền toái hằng ngày, hình ảnh con ếch bà ven rạch, cạnh bờ kinh năm xưa, con lươn sắp thành chồn thành cáo ngày nào, con gà chạy vàng mướt với đôi chân như nghệ... là cả một trời nhớ nhung vời vợi.
Tôi thấy nó đang tuần tự phục hiện rõ  nét trong tâm tư tình cảm tôi. Tuy không thứ tự lớp lang nhưng dù sao bấy nhiêu đó cũng đủ cho tôi cồn cào ray rứt về một thời của quá khứ, về tuổi trẻ bất hạnh và cả chuỗi ngày cuối đời lận đận lao đao của mình.
            Nó như vẫn còn đọng lại bền vững trong tôi luôn. Mới hay kỷ niệm thời son trẻ bao giờ cũng được khắc ghi đậm đà sâu thẳm trong ngõ ngách của miền ký ức là vậy.
            Quê hương tôi đó. Chập chờn. Lãng đãng. Bất diệt.
            Quê hương tôi đó với miếng nhớ miếng thương, miếng tình miếng nghĩa.
Miếng nhớ quê cha, quê mẹ, quê nhà, nơi ruộng đồng cò bay thẳng cánh, thổ sản hải sản dư thừa, hoa quả thơm ngon ngọt lịm, tôm cá đủ loại hằng hà sa số trên sông rạch thiên nhiên ngày mùa, kinh đào đan quyện khắp nơi. Ngần ấy đủ nuôi sống người dân và tạo cho họ một cuộc sống hạnh phúc.
Quê hương tôi đó với tình lâng bang lối xóm lúc nào cũng thể hiện tròn đầy, láng lai chân thật qua phong cách hiếu khách được thăng hoa. Không bao giờ thắc mắc lo lắng về những tốn kém hay thiệt hại vật chất.
Do vậy, miếng nhớ miếng thương non sông xứ sở giàu đẹp, hữu tình cứ mãi ngăn ngắt trong tôi.
            Ông bà xưa thường nói:
                        Chí quân tử cửu châu lập nghiệp
                        Đại trượng phu tứ hải vi gia.
            Phong cách sống của người xưa quả vời vợi trong sáng.
            Nhưng tôi vốn không phải là bực quân tử. Cũng không phải là hàng trượng phu. Tôi chỉ là kẻ phàm phu tục tử, lục lục thường tình, chân quê chí nghĩa. Tôi gắn bó với quê hương tôi cục bộ và hẹp hòi chăng?
            Bỗng dưng tôi lại bâng quơ buồn cho vận nước vẫn còn nghiêng ngữa khổ nghèo trong kiếp trầm luân miên mang do một chế độ vô thần cai trị dân bằng súng đạn và hận thù. Trong khi cả thế giới đã tiến nhanh vạn dặm theo với đà kỹ thuật tân tiến phục vụ nhân sinh, tôn trọng dân chủ nhân quyền.
            Miếng nhớ miếng thương nơi xứ sở phát triển dư thừa đã dẫn dắt tôi luôn trở về với quê cha đất tổ, cội nguồn cách ngăn diệu viễn đã đành nhưng cũng đặt tôi trước một cảnh ngộ éo le bồn chồn, một thực tế đau xót phũ phàng. Xứ sở tôi hãy còn quá nghèo khổ áp bức. Người dân mất tất cả tự do và quyền làm người. Nạn tham nhũng có hệ thống đã đẩy đất nước tôi đến cạn kiệt đói nghèo.
Chăn nuôi trì trệ. Sản xuất què quặt, không đủ cung ứng cho những nhu cầu chánh đáng hằng ngày của bà con tôi. Ngày nay họ vẫn còn bữa đói bữa no lưng lững bụng, nhứt là nơi thôn quê hẻo lánh triền miên bất hạnh như nơi thôn làng chôn nhau cắt rún của tôi!
            Bà con tôi vẫn còn mơ ước ở những bữa cơm chiều sau một ngày làm việc lao nhọc được điểm thêm một ít miếng thịt gà bắt cơm ngon miệng. Niềm mơ ước đó tưởng chừng như ở tầm tay mọi người vốn cần cù, hăng say làm việc, thách thức thời tiết gió mưa. Niềm mơ ước đó được xem như biểu tượng sự giàu sang thịnh vượng của đất nước tôi, nhưng buồn thay nó vẫn chập chờn mù mờ sau hơn hai mươi mấy năm hòa bình thống nhất đất nước.
Trong thực tế, đất nước quả tình thống nhứt từ Nam chí Bắc, từ ải Nam Quan nay đã vào tay bọn cường quyền phương Bắc cho chí đến Cà Mau cuối mũi quê hương nhưng vẫn không bao giờ và chẳng bao giờ thống nhứt được trên phương diện tâm tư tình cảm và ý hướng xây dựng một nước Việt Nam dân chủ hòa bình, tự do và hạnh phúc. Chỉ vì do chánh sách bạo tàn, độc tài độc đảng xã hội chũ nghĩa. 
            Hai mươi mấy năm hơn trong cay đắng tủi hờn, dây dưa lặn hụp dưới chế độ nghiệt ngã xã hội chủ nghĩa.
Hai mươi mấy năm hơn đã đưa bà con tôi xuống hố thẳm xô bồ của bần cùng và đất nước tôi đi vào ngỏ cụt nghèo đói ngột ngạt, mất hẳn tự do.
Một thảm họa trong lịch sử dựng nước và giữ nước chưa từng thấy bao giờ.
            Tôi thẫn thờ hồi nhớ con ếch bà đổ ruột lòi gan, con lươn miệng đầy móc câu rĩ xám, con gà chạy xởn xơ mổ lúa đổ trong sân lúa, ngoài vườn. Tôi nhớ xóm Rạch Rít.
Tôi nhớ quê hương tôi. Quê hương ngăn cách bàng bạc qua những hình ảnh khắc sâu tuyệt vời đó.
            Những hình ảnh này đã có một ma lực lôi cuốn, vỗ về và an ủi tôi hơn lúc nào hết. Hình ảnh một mất mát lớn lao trong đời, một tiếc nuối lai láng không nguôi.
Nhưng chính đó cũng là một sức mạnh Phù Đổng chấp đôi cánh giang rộng giúp tôi nhận rõ và hành động theo hướng đi của con người Việt Nam tỵ nạn cộng sản, có nhiệt tâm và có trách nhiệm.

                                                    Võ Phước Hiếu

No comments: