Thursday, June 1, 2017

TRẦN ĐĨNH * ĐÈN CÙ TẬP II -2

Lần vào Sài Gòn nhân 49 ngày bố mất, qua Vấn tôi quen Ung Văn Khiêm. Anh có sức hút đặc biệt. Điển hình Nam Bộ, ngay thẳng, cởi mở, bình dân và trí thức. Tiếng Pháp giọng đặc Pháp. Anh là một trong mấy người Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội đầu tiên của Nam bộ. Rất thân thiết với anh, Mỹ Điền cho tôi hay đầu năm 1930 Ung Văn Khiêm đã đi Macao để dự hội nghị thống nhất đảng như Lê Duẩn nhưng rồi lỡ. Tôi bảo Mỹ Điền rằng tuyên truyền 30 năm thành lập đảng trên báo Nhân Dân, tôi đã gặp và hỏi kỹ Trịnh Đình Cửu và Trần Văn Cung nhưng không thấy hai người này nói đến Khiêm. Mỹ Điền nói vì đường xá cách trở, Khiêm đi bị muộn và hơn nữa người ta không mấy khoái anh xuất thân địa chủ An Giang.
Khiêm và tôi đã chuyện hàng buổi. Anh bật mí những chuyện có thể gọi là tày đình. Theo anh, nạn nhân đầu tiên, numéro un, của vụ xét lại ở ta là Cụ Hồ. Kìa, Cụ không biểu quyết thì ngay sau Nghị quyết 9 Bộ chính trị thông báo từ nay vì sức khoẻ, Bác không sinh hoạt Bộ chính trị nữa, biết hông? Hay chuyện có lần ông Cụ gặp chuyện rắc rối ở khách sạn bên Nam Tư, bộ trưởng ngoại giao là anh phải ở lại thêm nửa tháng để giải quyết cho im ắng rồi sau về nước một mình. Hay chuyện Cụ đưa Khiêm bản Tuyên bố chung với Novotny chủ tịch Tiệp do Khiêm thảo mà chính tay Cụ đã viết thêm bằng mực đỏ vào đó những câu mang tinh thần hoà bình của Tuyên bố của hội nghị 82 đảng, những câu rồi bị lên án và phế bỏ.
- Nghĩa là Cụ không tán thành theo Mao phát động chiến tranh, tôi hỏi. Hay là Cụ ném hoả mù giấu ý đồ đánh Mỹ? Nếu ném hoả mù thì sao Duẩn lại chơi Cụ? Nếu ném hoả mù thì sao ở Hội nghị Trung ương lần 9 Cụ lại không biểu quyết?
Trên chóp bu đảng ông chẳng bà chuộc ầm ầm mà dân mù tịt! Lãnh đạo thế này thì sướng thật, tôi nghĩ thầm.
Năm ấy bầu bạn vào Sài Gòn đông. Lê Liêm, Đào Phan, Lê Trọng Nghĩa, Chu Đình Xương, Kiến Giang. Đào Phan và tôi cứ cách nhật lại thượng năm tầng lầu lên toạ đàm với Lê Liêm đang ở nhà Công, con trai, gần bùng binh Dân Chủ. Ung Văn Khiêm thường đi xuống các tỉnh xem tình hình. Thành uỷ Sài Gòn cho anh một chiếc xe La Dalat và cấp xăng dầu đầy đủ.
Vừa hết chiến tranh, Nguyễn Văn Linh đã kéo ngay Khiêm về Sài Gòn. “Chờ cái gì mà chờ, xong nhiệm vụ thì về chớ! Ô hay, lại còn hỏi về thế nào? Về với tôi, Linh nói. Ra máy bay ngay bây giờ. Kìa, khổ, lại còn nói chưa thu dọn đồ đạc. Vất lại hết. Không lấy cái gi ở ngoài này cả. Vào khắc có tất…”
Rõ là Linh biệt nhãn với Khiêm. Nhưng Mỹ Điền lại nói chính Võ Văn Kiệt mời về, tri ân Khiêm dìu dắt ngày trước. Và điều này trong một thời gian đã làm tôi nhìn không đúng bản chất chính trị của Linh.
Ờ Sài Gòn, Lê Liêm nhiều lúc đã tỏ ra yếu. Một lần anh và tôi đạp xe đi lòng vòng cả sáng, anh hất đầu chỉ một cái hẻm quãng giữa Võ Di Nguy và Cầu Kiệu, Phú Nhuận. Chúng tôi rẽ vào. Và lạc mãi trong cái mê cung những ngõ hẻm chỉ vừa lọt một xe đạp mà hàng quán vui tíu tít trong không khí sặc mùi cổng rãnh lành lạnh tanh tanh và trẻ con hàng đàn. Ra khỏi đó, mặt anh tái mét, hai môi trắng bệch. Đứng trước một vi la đầy hoa giấy thử hồi lâu mới bình thường lại.
Một hôm, tôi và Đinh Văn Đảng đến anh. Người trực cổng chung cư Nam Kỳ Khởi Nghĩa gần bùng binh Dân Chủ nói ngay: Bác ấy đi cấp cứu rồi.
Tôi lập tức đến Vấn rồi hai chúng tôi đến báo Ung Vãn Khiêm. Rồi xuống bệnh viện Thống Nhất. Co thắt động mạch não. Không nghiêm trọng. Lê Liêm vẫn tươi tỉnh.
Sáng sau, Ung Văn Khiêm đến nhà kéo tôi đi thăm. Chiếc La Dalat trắng bé xíu, ghế giả mây đan đu đưa như võng.
Xe chạy, Khiêm nói anh vừa nhận được giấy của Ban tổ chức trung ương mời đi Đức nghỉ. Năm ngoái đã mời đi Liên Xô nhưng anh từ chối. Năm nay lại mời? “Ông thấy sao? À, Hương phó ban ký, phải Mười Hương không?”
Tôi hất đầu về anh lái xe. (Khiêm nói: Người nhà).
- Không phải Mười Hương, tôi nói. Sao anh từ chối?
- Mấy đứa chúng nó bảo ngoài ấy không tốt, ra làm gì. Cậu Sáu Dân, Võ Văn Kiệt ấy, nó ngăn mình đi. Đi để ném hoả mù cho Liên Xô nghĩ là họ đã tốt với anh ư? Cũng có đứa nói anh đi với đoàn nó có kỷ luật ngăn gặp gỡ thì làm được gì.
- Thế lần này sao?
- Cũng từ chối.
- Theo tôi, anh cứ đi. Nhà ngoại giao cỡ anh đi ra ngoài là cọp về rừng. Sự hoả mù ư? Hoả mù phải có người ném. Ung Văn Khiêm không ném thì ai ném hộ được? Còn kỷ luật đoàn? Liên Xô là chủ, nó có hàng vạn mẹo để móc anh ra khỏi cái đoàn ho hen phần lớn đã từng chửi cha chửi cụ nó chứ anh. Nó lấy cớ tiếp kiến, chiêu đãi người được huân chương Lê-nin rồi đấm mõm mỗi vị trong đoàn một quạt tai voi thì đoàn trưởng nào của ta dám cấm? Năm nọ, một đoàn điện ảnh Liên Xô sang Hà Nội nói muốn gặp Lê Liêm. Anh Liêm từ chối. Gặp cả lũ cả lĩ ở trụ sở Hội điện ảnh thì nói năng cái gì, anh bảo tôi thế. Tôi tán thành anh Liêm. Xuân Trường, thứ trưởng văn hoá sang Liên Xô, khi người ta hỏi thăm Lê Liêm đều bịa rằng Lê Liêm vẫn làm việc bình thường. Đấy chỉ có họ mới rắc hoả mù được về ta.
- Ừ, chúng nó, Sáu Dân, lại mách mình đừng đi, Khiêm ngập ngừng rồi nói. Cậu Sáu Dân này nó yêu mình lắm. Lúc mình đang lao đao, nó ra Bắc đã dám đề nghị Bộ chính trị “cho anh Khiêm về lãnh đạo miền Nam chúng tôi” cơ mà!
Xe đỗ ở cống bệnh viện. Khiêm vừa xuống xe lập tức chìm nghỉm vào giữa đám bệnh nhân đang dạo chơi trong sân. Tôi lùi lại nghĩ, giá ngày nào sắp Nghị quyết 9, anh em trong Nam cũng quây lại bảo vệ cho Khiêm thế này?
Đến bên giường Lê Liêm. Ung Văn Khiêm giơ tay trái lên ngang vai, co lại chào kiểu vô sản. Kiên cường, kiên cường…
- Có tin gì không, Liêm hỏi ngay?
Đặng Kim Giang, Minh Việt bệnh nặng hễ thấy tôi đều “có tin gì không?” thay cho chào. Sự khao khát thông tin này nghĩ lại mới thấy thật là tội nghiệp.
Khiêm lắc đầu. Tôi nói: Có đấy! Dính dáng đến anh Khiêm.
Khiêm “há” một cái nhìn tôi. - Ban tổ chức từ năm ngoái gửi liền hai giấy vào mời anh Khiêm đi nghỉ ở Liên xô và Đức. Tôi thấy là một động thái đáng chú ý.
- Vậy nên thế nào, Khiêm cười hỏi Liêm?
- Hỏi Đĩnh ấy, Liêm nói.
Tôi nói lại ý cọp về rừng. Liêm gật đầu: Mình tán thành.
Hôm sau, Khiêm lại La Dalat ghế đu đưa như võng đến đón tôi thăm Liêm. Chào vô sản xong, kiễng chân móc túi quần lấy ra một xấp giấy bạc đưa cho Liêm: “Cần gì thì tiêu nghen… chẳng có được nhiều”.
Tôi nghĩ ngay đến hình ảnh chị Khiêm tóc bạc phơ sáng sáng thường ngồi bên mẹt khế trước cửa nhà số 222 Điện Biền Phủ bán cho có đồng ra đồng vào. Cùng với Lý Tự Trọng, chị là liên lạc viên đầu tiên của bí thư xứ uỷ Nam bộ Ung Văn Khiêm. Nay hai anh chị già lão nuôi người con trai chạc bốn chục tuổi mắc bệnh tâm thần. Mỹ Điền bảo lúc ở Hà Nội cháu bị thày giáo đánh mà nên bệnh. Người con hay lén ra như cái bóng, nhảy tót cả hai chân lên ghế ôm lấy hai đầu gối lắc lư người nhìn bố và bạn bố, nghiêng ngửa đầu góp một cái cười ngây ngây dại dại. Rất nharih thò tay nhót lấy một điếu thuốc đưa lên miệng. Lúc ấy bố lại trịnh trọng bật lửa dâng đến tận trước miệng hầu con. Có khi chưa kịp đôi hồi đã són ra mà chẳng biết cho đến khi sặc mùi. Tôi đã vài lần xách ghế ra vòi nước cạnh cửa ngoài đường cọ rửa…
Người bố không một lần to tiếng hay cau có, phật ý với người con không may. Không một lần xua gạt. Ngỡ như người con có đến phá đám như thế thì bệnh nhẹ đi được. Vả chăng người con cũng không quậy. Chỉ ư ứ đối thoại lành hiền với bố. Một cái bóng rất nhanh, rất lặng lẽ. Nhoáng một cái đã hiện ra vắt vẻo hai chân trên ghế nhìn bố cười cười. Kiểu như chốc chốc lại phải ra nạp vào người một lượng nhân từ, âu yếm ở mặt người bố để có sức sống tiếp.
Tôi ra Hà Nội ít lâu thì Lê Liêm cũng ra. Bệnh tình mới bị nên nhẹ, anh lại chỉ mới sáu mươi ba tuổi. Thế nhưng không hiểu thế nào bệnh cứ ngày một nặng ra. Tôi đến thăm anh, anh vẫn tập đi trong gian buồng đã từng một lần, quần đùi may-ô anh đứng chuyện với tôi, tay cầm một ca tráng men Trung Quốc ăn cơm nguội với dưa. À, mình vừa đi đánh tơ-nít về. Phải tập, có mức độ. Tim to bằng quả bưởi rồi.
Ôi vị tướng của Điện Biên Phủ, con người đôn hậu, khiêm nhường và dân chủ cực kỳ.
Sau khi tôi chuyển đến cơ ngơi mới được đám tội đồ dọn nhà và mờ cõi giúp, Lê Liêm cùng Đào Phan, Lê Trọng Nghĩa đạp xe vào mừng. Này, cô Linh, tôi bảo nhá, bót hoa đi, trồng rau nhiều vào. À, cả đường đi này cũng thu hẹp lại. Dành đất tròng rau… Cái cô này ở Điện Biên Phủ sáng sớm nào cũng đến đầu núi chỗ mình hát rất to… À, luyện âm, thế hả? Ừ, ở đấy có con suối đổ nước xuống ầm ầm, thế ra đẩy thi âm lượng với tiếng thác chắc, Liêm đùa. Chỉ vào cây hoa giấy mầu cá vàng, anh nói thứ này khó trồng lắm. Nhà mình trồng không đậu. Tôi nói Từ Lâm cho tôi và đã định bụng sẽ giâm cho anh một cây.
Thế rồi anh phải vào viện. Nặng lên rất nhanh. Tôi đến luôn thấy Hương, con gái út anh, học sinh Nhạc viện Hà Nội, ngòi bóp chân bóp tay cho bố. Cậu người yêu của Hương hiền lành, nhút nhát ở sau xa một chút. Lúc ấy anh lại bảo con gái ngừng “để bố nhờ chú Đĩnh”. Tôi thấy có phần nào muốn cảm thấy hơi ấm bạn bè, làm nũng. Không chỉ nhờ xoa bóp. Bảo giúp buồng bên họ vặn bé đài lại một tí nhé. Tìm cô Hiền, bác sĩ trực hộ… Một tối, điện yếu, đèn đỏ từ một sợi dây tóc run rẩy, anh cười bảo con gái: Mai kia, tốt nghiệp ra trường, Hương nhờ chú Đĩnh tìm việc cho, chú quen nhiều lắm.
Một cử chỉ âu yếm với con gái, với tôi mà thôi. Anh thừa biết tôi giúp tôi còn chả xong.
Tối ấy xem vẻ anh bồn chồn. Những lo toan cuối cùng run rầy, bé mọn.
Tôi thình lình nhận thư Vấn. “Anh Khiêm mời Đĩnh vào gấp. Dạo này mình chữa bệnh lai rai có tiền, mình lo cho”.
Năm 1984, Ung Văn Khiêm, Vấn và tôi bàn viết hồi ký cho Khiêm. Tôi vội lên đường. Không được đưa ma Lê Liêm, người bạn tôi yêu quý như một người anh lớn.
Lê Liêm ra đi, vĩnh biệt hết, vĩnh biệt hết. Để nhận lấy những cấp phát Đảng mới đặc cách đặt ra dành riêng cho anh.
- Một, không cho phép gọi (Lê Liêm) là đồng chí! Hai, không cho phép quàn ở Bộ Văn hoá! Ba, các quan chức đang công tác không được đi đưa.
Như Bùi Công Trừng, Lê Liêm ngăn Đảng gắn bó môi răng, theo Mao phát động chiến tranh. Để trả miếng, Đảng ngăn các anh chết được hưởng nghi lễ truyền thống, bản sắc dân tộc, hơi ấm bạn bè. Cho tới lúc chỉ còn là cái xác trần trụi mang tội nói trái lại Đảng, mày mới thấm thía thế nào là tình chí cốt anh em vô sản, hiểu chưa?
Sau này Lê Đạt bảo tôi lúc chị ruột Lê Liêm khóc gọi Huấn ơi - cái tên bố mẹ đặt, cái tên chị đã từng mắng khi nó nhè dai, là lúc cảm động nhất. Chẳng xứ uỷ, trung ương uỷ viên gì hết, chẳng bí danh, mật hiệu gi hết, chẳng đồng chí, đồng tâm, đồng sàng đồng xèng gì hết, cứ mộc mạc như thế trở về với đất mà lại làm cho tất cả nghẹn ngào. May sao còn lại một cõi riêng tây ấy. Và hay sao là nó bướng nó không cho dị thể, tạp vật thọc tay vào cải tạo nó cho đúng với giai cấp luận.
Nghĩa tử là nghĩa tận. Xin cho phép được nói liền đến cái chết của Đặng Kim Giang và của Chu Đình Xương.

Chương 14
T
ôi quen biết Đặng Kim Giang ở nhà Kỳ Vân. (Tuy lúc vây Nà Sản, trời rét quá, anh đã ký giấy cấp cho tôi một giắc-két, tấm vải bạt và một khăn quàng len chiến lợi phẩm). Lúc đó ngồi ở đâu người ta cũng đều hỏi tin và bàn về tình hình Cách mạng Văn hoá Trung Quốc, cuộc biến loạn phi nhân nhất của cộng sản mà Đảng Cộng sản Việt Nam phải giấu biến. Cùng môn phái võ, xấu thày hổ trò! Thế là Giang bèn hất hàm lên nói, mặt rất khoái trá như thọc được tay vào chính cái tổ con chuồn chuồn, may có chạy đằng trời, ừ phải, nhận mình tử tế thì sao lại chí thân chí nghĩa với thằng vô nhân, khát máu như thế? Giang muốn bắt “họ phải nhè quả bồ hòn hiện đang ngậm ở trong mồm ra” như anh bảo tôi. Quả bồ hòn này phải to bằng bốn cái Nhà hát lớn.
Mấy lần gặp tôi trong bệnh viện Việt-Xô, anh vẫy gọi rất to từ trên com-măng-ca đậu xa xa:
- Ê, Hồng vệ binh!
Lúc đó nghe réo cái chữ làm giật mình tên này tôi thấy như anh ném ra phấp phới cả một bồ truyền đơn. Lúc đó, Giang rất thích nói đến cách mạng văn hoá vô… học, chữ bọn tôi đặt ra. Chúng tôi biết cú này Đảng hết sức ngượng: ông anh đầu não giữ gìn sự trong sáng của chủ nghĩa và phong trào cách mạng mà lại đánh nhau loạn xà ngầu thế này a? Chúng tôi chịu là Mao giỏi ở chỗ nuôi phong trào: đầu tiên lấy cớ chống tinh thần cách mạng sút giảm của đảng để xuỳ quần chúng ra rồi tiến đến “nã pháo vào bộ tư lệnh của bọn đi theo duờng tư bản, xét lại trong lãnh đạo”. Nắm được tâm lý bất mãn cùng cực của quần chúng, nhất là thanh thiếu niên đối với thảm trạng xã hội do chính Mao gây ra, Mao đã khéo tạo cho thanh thiếu niên cơ hội xả hận để mượn họ tiêu diệt các kẻ thù vốn là chiến hữu thân thiết của ông như Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình… từng cho hệ tư tưởng của ông ra khỏi điều lệ đảng. Mao có một câu lý thú: Con gà quay mang lên ngon lắm nhưng phải dùng dao cắt nó ra từng miếng ăn dần chứ không thể một nhát ăn hết ngay. Nói hoa mỹ cũng như mách Việt Cộng đánh lùi từng bước tiến lên đánh đổ toàn bộ đế quốc Mỹ cho thoáng cái Biển Đông để Mao tiến vào thay thế. Tóm lại rất tài mẹ mìn.
Tôi gặp Đặng Kim Giang một tối đến Kỳ Vân rồi kể cho hai anh một câu chuyện mới toanh trong đó Lưu Động là diễn viên chính và diễn viên chính vừa kể cho tôi sáng ấy xong. Đầu 1967, bị treo bút, Lưu Động đi Bắc Giang chơi, Gặp Tuấn, bí thư tỉnh. Chưa hay Lưu Động đã vào sổ đen, Tuấn cho biết Cụ Hồ đến Tam Môn và cho Lưu Động giấy để đến đó cùng đón Cụ. Cụ Hồ đến, chủ tịch Phương Minh Nam tiếp đón Cụ thấy Lưu Động lớ xớ cạnh đó liền kéo đi cùng. Báo Hà Bắc chụp ngay một ảnh có bộ ba Hồ Chủ tịch, chủ tịch Hà Bắc và Lưu Động đi giữa đám nhân dân reo vẫy. Bức ảnh bộ ba đồng hành được in ra hai chục nghìn tấm lớn để bán cho dân treo nhà. Lập tức “báo động” và người ta lệnh huỷ tấm ảnh phạm quy. Lưu Động bảo tôi “nếu không thì tớ lù lù bước vào nhà dân cùng với Cụ mà trong bộ Tam Đa này thì tớ và Cụ là xét lại phản chiến”. Tôi hỏi tại sao phát hiện nhanh thế. Anh nói: “À, cùng đi với Cụ lên Bắc Giang có Trần Quốc Hoàn. Chắc Hoàn rỉ tai. Nhưng sau đó Hoàn lại hẹn Lưu Động mồng bốn Tết đến chơi. Còn dặn bảo cả đám thằng Hoàng Minh Chính, thằng Minh Việt nữa cùng đến. Chỉ mình Lưu Động đến. Muổn tận mục sử thị các ông Mao ít Mao nhiều đến đâu, anh bảo tôi.
Đến nhà Hoàn, Hoàn nạt phủ đầu luôn: Các cậu chửi Đảng gớm lắm đấy nhá.
- Chúng tôi chửi Mao chứ đâu chửi Đảng.
- Thủ đoạn ranh ma của các cậu là ở đấy. Các cậu thừa biết đường lối Đảng ta và đường lối Đảng cộng sản Trung Quốc là một cho nên chửi Mao chính là các cậu chửi Đảng! Mà Mao Chủ tịch là cách mạng dám dùng bạo lực chống đế quốc sao các cậu lại chửi?
- Trần Đĩnh đọc Nhân Dân Nhật báo Trung Quốc nói trang nhất đăng ảnh Đặng Tiểu Bình, Bành Chân, La Thuỵ Khanh bị trói giật cánh khỉ quì xuống, cổ đeo bảng Đặng Cẩu, Bành Cẩu với La Cẩu, đấu và làm nhục cả Tổng bí thư lẫn uỷ viên Bộ chính trị bí thư Bắc Kinh và bộ trưởng công an. Như thế sao lại nói là một với ta được?
- Bạn đấu tranh nội bộ thế này là phản ánh cuộc đấu tranh địch ta trên quy mô thế giới và vì thế tất phải dùng bạo lực. Bạo lực triệt để mà trói phản động thì đã làm sao? Bên ấy không bạo lực mạnh thì làm sao thống nhất được đảng, tớ hỏi cậu? Ở ta tình hình phát triển tới lúc khéo rồi cũng phải làm như bạn.
Lưu Động thú nhận rằng nghe nói thế cũng thấy ớn xương sống.
Tôi kể đến đây, Đặng Kim Giang lè lưỡi:
- Kinh nhỉ!
Sau này anh nói lại chuyện này với Chính, Chính bảo tôi: ừ rồi xem ông nào dám Cách mạng Văn hoá đeo biển câu cẩu ở ta nào? Có mà nói phét. Hắn bắn tin qua Lưu Động doạ bọn mình đấy. Lúc ấy chưa ai nghĩ là Đảng sẽ bắt tù đảng viên.
Tôi bảo Đặng Kim Giang:
- Tôi ở Bắc Kinh, biết mấy ông Đặng, Bành và La này. La Thuỵ Khanh tiếp đoàn báo có tôi ở Thượng Hải nên xem ảnh, tôi không cầm được xúc động. Đây là ba con vật người ta vừa săn được ở rừng về, đều như thất tinh lạc hết, ba bộ mặt vô hồn cố ngửng lên chắc là theo lệnh Hồng vệ binh, chỉ còn sáu cánh tay bị trói treo lên là như còn sinh khí…
Đặng Kim Giang cứ lắc đầu, lắc đầu…
Tháng 10-1967, Đặng Kim Giang bị bắt ở Lim. Một trung đội lính súng ống tua tủa nhảy cả từ sau nhà vào trói nghiến rồi lôi đi ông tướng hậu cần từng lo cơm nước, súng đạn, thuốc men… cho mấy chục vạn quân lính và dân cồng ở Điện Biên Phủ. Tù ra, về lại Lim. Rồi chuyển tất cả nhà ra sống trong một túp nhà con ở góc sau chùa Liên Phái. Rồi nhồi máu cơ tim. Vào điều trị ở khoa lão bệnh viện Bạch Mai bằng cổng hậu nên nằm ở một gian dùng làm phòng kho.
Tôi đến. Gian phòng quá rộng, đầy những chồng giường sắt lêu nghêu toàn khung với cọc và lò xo sắt, không đệm và mình anh nằm lọt vào đó, mặt võ vàng, ngơ ngác, vẻ mặt thì nom là một nhân vật của Samuel Beckett (nhà văn Ái Nhĩ Lan - BT) - rách nát, cùng đáy, tồi tàn - nhưng cái thế nằm, cái không khí đại hí trường lại biến anh thành một nhân vật kịch cổ Hy Lạp đang nằm chờ dàn đại hợp xướng đến diễn màn hiển sinh kết thúc.
Năm 1981, anh bị bắt lần thứ hai. Chẳng khai cung được nữa. Ì ra, mệt, ốm. Giam vài tháng thì thả. Và bệnh. Đau thắt ngực. Kiến Giang và tôi đến bệnh viện hỏi xin cho anh nằm lại. Người ta nói trên lệnh là không cho anh vào điều trị. Dứt khoát như thế. Thế chữa ở đâu? Chúng tôi khẽ hỏi. À, bệnh viện chúng tôi không có phận sự trả lời. Nghe câu này, tôi lạnh toát người. Nghĩ ngay có lẽ Đảng đã đặt lời thề mới cho y bác sĩ đất nước này khi tốt nghiệp mà tôi không biết: Ngành y không phận sự cứu chữa bọn “phản động!” Có thể lắm! Một chủ nghĩa ra đời đã xác định ngay kẻ thù phải tiêu diệt và chôn vùi thì không thể nhân đạo chung chung.
Một trận mưa quá to. Nhà đột như ở ngoài trời. Giang ngồi thu lu giữa giường chịu trận, mảnh ni lông căng trên đầu che sao cho đủ. Anh ướt hết và thế là đùng đùng lên cơn sốt. Ngày nào Giang lo cho lính Điện Biên từng hạt gạo, manh áo, đôi giầy, mảnh vải che mưa… Cảm cái ơn Giang đã chuẩn bị xe bò - “sợ nó liệt không đi được” - đánh tháo cho mình vượt ngục thoát án tử hình ở Bắc Ninh, Văn Tiến Dũng nhân dịp “chống Mao” đã cử hai trung tá đến đo đạc xây nhà cho Giang. Nhung rồi Sáu Thọ không nghe nên Dũng đành mang tiếng nói mép.
Giang bảo tôi: Đám Mao nội địa này chống Mao bằng mép nhưng đánh chúng ta thì tới tận cái mạng.
Lê Quang Đạo rất mến Giang. Trên rừng, làm Trưởng ban tuyên truyền trung ương, Đạo hay kể chuyện hai người thời bí mật cùng đi công tác thì Đạo chuyên bị Giang cho mắc xiếc. Đến hàng quán vừa ngồi, Giang đã nhanh nhảu gọi cho “bố con tôi” hai bát nước. “Dạ, tôi dắt thằng cháu đi thi, mặt mũi nom sáng láng thế này nhưng dốt lắm chả biết có đỗ được không?” Trong khi đó, Đạo ngầm nhè mu bàn chân Giang mà giáng cho một gót đau rung đến tận óc. Bé người hơn, trẻ hơn, Đạo không thể tranh gì với Giang được ở chỗ đông.
Thì nay đều lờ đi số phận tối mù của nguời đồng chí thân thiết cũ. Thảo nào người ta nổ ra được Cách mạng Văn hoá. Không có tình nghĩa gì hết.
Tối hôm ấy tôi đến. Mất điện sau cơn mưa dữ. Cả khu chùa mù mịt, thê lương. Oàm oạp tiếng ễnh ương đòi trả lại chúng cái gì không rõ. Một ngọn đèn dầu với chị Mỹ lo lắng ngồi canh bên màn phủ kín. Oi nồng, ngột ngạt. Căn nhà rộng độ mười mét vuông tối tăm, ấm ướt. “Li bì suốt thôi chú ạ… Thỉnh thoảng mới tỉnh một tí. Chả đâu nhận chữa. Vào đâu được bây giờ? Người ta lắc hết…“ Chị Mỹ chợt ngừng: Kìa, hình như động đậy. Để tôi vào xem…
Lại chui ra ngay: vẫy gọi anh đấy, tôi bảo là anh đến.
Tôi lách vào cái hầm lò hầm hập. Anh vẫn đang yếu ớt vẫy. Nói khe khẽ “tớ mong quá”…
Thay đổi quá nhanh. Vàng vọt. Gầy guộc. Râu ria lởm chởm. Anh nằm bẹt dính xuống chiếu. “Tại cái nhà dột, nhà dột ghê quá mà mưa thì quá to… cứ ngồi che áo mưa lên đầu”, anh thanh minh cho sự đổ ngã của mình. Tôi nắm tay anh. Anh khẽ hỏi luôn, có tin gì không?
Ở mỗi câu hỏi bao giờ cũng thoáng chút hy vọng. Và tôi sẵn sàng tranh cãi với bất cứ ai chê cái hy vọng đó là viễn vông, ngây thơ, dớ dẩn. Vâng, chúng tôi lúc đó đều như thế. Chúng tôi đã nghe thấy sự rạn nứt báo trước phải có một thay đổi, dù năm chục năm nữa. Vô luân vô lý thế này thọ sao được? Đến Đại hội 6 (1986) nó đã ra mắt ở câu “Đổi mới là sống còn của cách mạng”. Vả chăng hãy sống cái cảnh Đặng Kim Giang? Cho nên tôi như có lỗi khi bảo anh: “Không có tin gì cả”. Nhưng lập tức, tôi lại nói: “Có, có tin. Từ nay nước ta hai bộ trưởng ngoại giao song hành, hai văn phòng, hai ghế, một chức năng, Nguyễn Cơ Thạch và Võ Đông Giang”.
Anh bóp tay tôi, hàng râu lởm chởm rung mạnh. Anh cười, mồm lặng lẽ ngoác ra rất to. “Chúng họ cấu xé nhau thế rồi cơ à?” Có lẽ đây là câu bình luận cuối cùng và ngắn gọn nhất trong đời Đặng Kim Giang.
Tôi về, chị Mỹ nói: “Những người theo anh đến đây đang lởn vởn ở sân chùa đấy. Khéo họ húc đổ xe”. Hai hôm sau đưa ma Đặng Kim Giang. “Xét lại” bảy tám người ngồi trên sân chùa. Minh Việt bảo tôi: Đấy, tay đeo kính đen ngồi ở quán nước trên đường vào kia, đấy, là Huy theo dõi bọn mình đấy… Kìa, còn bốn năm tay nữa, đấy…
Nghĩa trang Văn Điển. Lèo tèo hai chục người. Đào Phan điếu văn. Rất xúc động. Tôi mới hiểu vì sao anh đã mở lớp tuyên truyền xung phong đầu tiên ở Huế và lấy chị Phan Bội Hoàn, hoa khôi trong nữ sinh Huế thời ấy. Mấy tiếng thút thít. Như khóc trộm Đặng Kim Giang.
Đào Phan giậm chân kêu to: Sao mà khóc? Chết như Đặng Kim Giang là chết vẻ vang, chết vinh dự.
Hạ huyệt rồi, chị Mỹ đứng đầu huyệt khẽ nói:
- Thôi, chào vĩnh biệt người chồng tội nghiệp của tôi…
Năm 1995, tôi giúp chị đôi phần nhỏ mọn vào cái đơn chị gửi Trung ương đảng kể “nỗi chồng” “nỗi con” và “nỗi mình”. Đánh máy sao chụp cho chị. Thư này loan đi hầu như trên toàn thế giới ngay sau đó.
Ở “nỗi con”, có một chuyện vừa hay vừa lạ. Một sáng chị sang tôi. Hai người ra đứng chếch tam quan Chùa Hà. Con đường gồ ghề, lởm chởm đá. Khu đô thị Nghĩa Tân xám bấn và bãi đất rộng trước Chùa Hà là một bãi hoang tôi thường tắt qua để đến chị ở D1 (nay hai cao ốc lừng lững cả chục tầng ở đó).
Chị bảo tôi: Chú nghe và biết thế. Chờ sau ngày 28 tháng 8 xem thể nào đã… Chuyện thế này. Tự nhiên một bà người Mỹ gặp cháu Sơn. Nhận là người của đại học Harvard muốn tìm hiểu trình độ Sơn để có thể cấp học bổng sang đó học. Đánh giá tiếng Anh của Sơn là được, sang đó đằng nào cũng học thêm, hẹn sẽ trả lời. Ba tháng sau, đến lượt một ông nói là ở ban giám hiệu gặp và nói sẽ cho Sơn sang học. Gợi ý hẳn là cháu Sơn hiện đang làm việc ở Bộ nông nghiệp nhưng sang Mỹ thì nên học quản lý kinh tế tốt hơn. Người ta lao đến xin học ở chúng tôi nhưng anh thì chúng tôi lại đi tìm. Sơn hỏi chưa biết gì về tôi, sao các ông lại đối với tôi như thế. Đáp: Chúng tôi biết hết về anh… Biết cả thí dụ anh không giỏi toán nhưng thôi sang đó củng cố sau.
Sơn đi. Tốt nghiệp về nước, làm vụ trưởng. Một bữa liên hoan cơ quan, Sơn mời mẹ đến dự. Nghe có bà Mỹ, một người đến chúc mừng: Tôi xin phép được gọi bác là bà đại tướng. Bác trai xứng đáng được nhân dân tấn phong như thế. Sau đó cả đám tiệc tíu tít đến chào mừng, chúc tụng. Nói: Thư bác gửi Trung ương là tiếng nói tiêu biểu của người vợ, người mẹ và người phụ nữ thời đại mới. Chị Mỹ bảo tôi: Hôm ấy chính nghĩa ló mặt ra chú ạ.
Một lần tôi hỏi Sơn:
- Bên Mỹ biết chuyện bố cháu không, theo Sơn?
- Có vẻ biết.
Có một chuyện tôi ân hận Giang không được biết. Khi tôi nói hai bộ trưởng ngoại giao song trùng, Giang cười thú vị - hàng ria bạc lỏm chởm cứ rung lên : “Chúng họ cấu xé nhau đến thế rồi cơ à?”
Anh biết cấu xé trước hết vì vấn đề Trung Quốc nhưng chưa ngờ nổi rằng với ông anh chí cốt này, Đảng đã có những đối sách kỳ cục: Gọi nó là thù rồi lại ôm lấy nó. Càng không thế biết chuyện Trần Quang Cơ từ chối bộ trưởng ngoại giao mà còn viết hồi ký tố giác Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Hồng Hà đã làm nhục quốc thể. Vậy là cái hy vọng của Đặng Kim Giang cũng không đến nỗi vớ vấn.
***
Mãi sau này tôi mới biết Chu Đình Xương. Lúc đầu thú thật tôi hơi ngại anh - anh quá thoải mái, nói “cứ văng-xi-lô” - bạt mạng, như anh tự nhận. Những ngày mới quen, gặp tôi ở đâu anh cũng vờ nghiêm mặt, chỉ vào tôi lớn giọng: Bắt, thằng này phải bắt, xét lại tầm cỡ đây. Rồi cười đánh khị một cái, ôm lấy tôi.
Sau Cách mạng tháng Tám, anh bảo tôi, Sáu Thọ phân công tớ làm công an. Tớ bảo không thích làm. Không thì thằng nào? Thọ vặn lại rồi giải thích: Cậu có ba cái hợp với công an. Một là cậu biết võ, hai là cậu hay ục, ba là cậu biết tiếng Pháp, công an cần ba cái ấy lúc này. Tớ kể cho cậu chuyện này là cốt để cho cậu thấy nay họ toàn bịp, nói phét nói lác, làm như từ cái hồi ú ớ đó, mọi sự đều có bài bản, có kế hoạch, văn minh, khoa học đâu ra đấy cả rồi. Không đâu.
Nói phét lắm. Tớ kể chuyện tớ đây: Một hôm anh em nó báo trong trại giam có một đứa nó chửi Cụ Hồ ghê lắm. Thế là tớ hét chúng nó đưa tớ đi. Vào một xà lim giam ba đứa. Một đứa thấy tớ lại ngước mắt nhìn. Tớ lập tức xô đến tống cho hai cái vào mặt. Nó khóc ấm lên rằng: “Tôi làm gì mà ông đánh tôi?” Cậu công an lúc ấy mới chỉ vào một tay khoảng năm chục tuổi từ lúc tớ vào vẫn cứ yên lặng, nhu mì ngồi một chỗ: Báo cáo anh, thằng này chửi ạ. Còn hứng gì mà đánh phục thù cho danh dự Cụ nữa. Đấy, những chuyện như thế thì rất nhiều. Chưa kể thủ tiêu phản động. Tớ còn đưa ông Cụ đi gặp Ngô Đình Diệm và Phan Kế Toại lúc ấy bị giam trên gian áp mái của tờ l'Action, nay là báo Hà Nội Mới, rồi ông Cụ thả hai người.
Còn chuyện này cậu biết không? Đinh Đức Thiện (em ruột Lê Đức thọ - BT) hồi đầu kháng chiến đã lập trên Việt Bắc một trại con gái để cho cán bộ đến cấp bậc nào đó đến giải quyết sinh lý, kiểu nhà thổ của lính Nhật “xùng xục giô tô” ấy. Nhật nó không biết tiếng ta gọi món kia là gì thì nó tượng thanh bằng xùng xục, còn giô tô tiếng Nhật là tốt, cậu biết chứ? Phát tem phiếu hàng tháng, mỗi tháng mấy tem, mỗi tem một lần đại khái thế. Nghe đâu Trường Chinh nghe thấy liền bắt giải tán. Cậu bảo biên chế sở ấy vào ngạch gì được nhỉ? Văn công, thể công rồi thì món này thân công à?
Chuyện của Xương nói chung rất khác người. Rất bông phèng.
Có lần anh bảo tôi năm 1946 cậu còn thiếu niên tiền phong thì chắc có ra ga Hàng cỏ đón Bác đi tàu thuỷ ở Pháp về Hải Phòng rồi lên Hà Nội bằng xe lửa. À, có đón hả? Xương cười nói tiếp: Thế thì cậu hoan hô với vẫy hão rồi. Hôm ấy ở xe lửa xuống, cụ lên dự cuộc đón tiếp công khai xong là có người dắt Cụ bịt râu đi tắt trong sân ga đến chỗ thằng Qua, thằng này sau là cục trưởng cục trại giam, chờ sẵn lái đưa Cụ đi. Sự phản động nó xơi mà. Còn Bác trên xe chính thức diễu phố là một cậu lâu ngày tớ quên tên nó mất rồi, thằng này giống ông Cụ kinh khủng, nó đeo râu giả làm ông Cụ nhòm ra vẫy đồng bào. Phản động phơ thì thằng này hứng. Đến Cải cách ruộng đất, tay hình nhân này bị đấu là địa chủ phản động gian ác, suýt ngỏm. Nó khóc: “Tôi từng đóng thay Bác Hồ để phản động có bắn thì tôi chết thay Bác thế nhưng phản động không bắn mà nay Đảng lại bắn tôi, ôi Bác Hồ ơi…” Nó được hạ xuống làm phú nông, thoát tử hình.
Một hôm anh kéo tôi vào quán cà phê quốc doanh ở cạnh rạp Tháng Tám. Mũ phớt, kính đen, áo gió, giầy da, cà-vạt là những lệ bộ quen thuộc trên người, nom anh thật sự rất “phong độ”, chữ để chỉ người nào đã có tuổi nhưng đẹp và sang.
Vừa ngôi xuống, anh đã đưa cho tôi một lá thư lấy từ trong túi trong của áo vét ra. “Xem đi,… tớ gửi cho phó toàn quyền đấy… “
Kính gửi anh Sáu Thọ,
Thưa anh, tôi Chu Đình Xương vừa nghe thông báo là những ai hoạt động thời bí mật muốn hưởng trợ cấp lão thành thì phải lấy được chứng nhận có chữ ký của hai người đã từng cùng hoạt động với mình. Tôi nhớ Tổng khởi nghĩa vừa xong, anh giao cho tôi phụ trách công an mà anh không hề bắt tôi tìm hai thằng nào chứng nhận. Thưa anh, tôi xin phép anh là được không phải đến đấm cửa, bấm chuông nhà thằng nào để lo cái việc lĩnh tiền…“
- Giỏi, tôi nói, trả lại thư. Ông ấy cáu thì sao?
- Không thiết. Lấy tiền là tớ đã trọc đầu thì còn sợi tóc nào để túm mà đánh nữa chứ? Những ngày mới cách mạng, tớ bảo vệ Cụ Hồ, có bắt phải có người chứng nhận đâu? Phú quý sinh lễ nghĩa giật lùi.
Để cho thấy anh từng “chơi ngang” với Sáu Thọ, hôm ấy anh kể thêm chuyện hồi anh ở Khu 5, Sáu Thọ có việc qua, gặp anh. Sáu Thọ bảo: “Tớ vẫn định giao việc khác cho cậu thế nhưng cậu cứ bị tai tiếng về quan hệ nam nữ”. Xương nghiêm mặt nói lại: “Thưa anh, đúng là khuyết điểm nhưng khổ nỗi, tôi phải cái tội giống anh là bảnh giai cho nên đàn bà con gái họ hay lăn vào, anh chả lạ gì. Tôi không đẹp giống anh thì tôi nghiêm lắm…” Thọ đấm tớ một cái: Thằng này xỏ lá.
Có lẽ do tính “chất chưởng”, cả với phó toàn quyền, cho nên trước khi về hưu anh chỉ làm Chánh văn phòng Bộ văn hoá. Nhưng hay rủ tôi và Bửu Tiến đến “phát huy tệ nạn văn hoá” là đánh tổ tôm với vợ chồng anh và Đức, cô con gái lai xinh đẹp của anh chị.
Một hôm tổ tôm ở nhà Xương, Bửu Tiến hỏi tôi:
- Giấy khai sinh mua ở đâu hả Trần Đĩnh?
- Đến dẫy mắm muối dưa cà chợ Hàng Bè - tôi trả lời.
- Cái cha này, sao lại thế? - Bửu Tiến vặn!
- Ở ta, giá trị bị đảo lộn hết cả rồi, tôi nói, cho nên mới cần phải redresser les valeurs, - dựng lại các giá trị chứ.
Xương nghiến răng bóp đùi tôi:
- Hay!… Hay!… Thằng Trần Đĩnh này… Toutes les valeurs, - mọi giá trị.
Một thời gian dài anh vào sống trong Sài Gòn.
Một chiều, đi bộ vòng quanh Hồ Gươm, Minh Việt đưa cho tôi tấm danh thiếp to bằng quân bài xì. Chu Đình Xương gửi tôi qua Việt: “Đĩnh, nhớ cậu lắm, cố đến tớ càng sớm càng tốt. Tớ vừa mới ra Hà Nội”.
Xẩm tối tôi đến cháu Đức hỏi địa chỉ anh. Đức kêu ngoắt ngoéo lắm chú ơi, lại hơi mưa, chú để mai.
Tôi cứ đi. Nghĩa Đô, chân dốc Bưởi, nay là đầu đường Hoàng Quốc Việt, rẽ trái rẽ phải, trái phải, ngoắt ngoéo ghê thật… Thấy tôi, Xương mừng quá… “Tớ biết, cậu thì bạn gọi là đến”, anh nói. Một nhà đầy trẻ con và đàn bà con gái. Tôi thấy anh như một tiểu vương Ả-rập giữa cung cấm láo nháo cung phi, thị nữ.
- A… bị tiền liệt tuyến… Bình thường thôi nhung Giáo sư, Bác sĩ Phạm Biểu Tâm bảo ra Hà Nội chữa tốt hơn.
- Hơi gầy đấy.
- Allons, un petit test, quoi, - thử qua xem nào. Nhờ ông đứng thế (kéo tôi ra chính giữa nhà), cấm động đậy, động đậy mà làm sao tớ không bồi thường.
Tôi đúng thẳng im lặng. Xương xuống trung bình tấn ở trước mặt tôi, nhắc lại: im là im, không nhúc nhích.
Nói đoạn anh vung hai tay đấm tới tấp vào hai bên mặt tôi. Dồn dập chừng mười quả khá mạnh, anh ngừng tay, thở hoi gấp, hỏi tôi:
Thấy gì không?
- Thấy hai bên mang tai gió vù vù.
- Alors, je m' en fous, - thế thì tớ đếch cần. Toét miệng cười hị một cái.
Thế rồi vài ngày sau, Minh Việt lại đưa tôi quân bài xì danh thiếp Xương gọi đến Việt - Đức, hậu phẫu khoa niệu. Minh Việt và tôi đi ngay sau buổi ngồi hồ. Xương vui lắm. Khoe mổ cái u rồi, mười hai gam… Sau đó đã hấp háy mắt nói: Chúng nó vào thăm bảo đại hội này Ba Duẩn về chăn vịt quàng quạc thật rồi, cấm chạy thoát được rồi.
Thế nhưng chỉ tuần sau lại đã gọi tôi. Tối rét, Minh Việt và tôi lại đi dọc Tràng Thi đầy lá bàng đỏ tía trong đêm như những mảng kính mô-da-ích (mosaiqué) mầu tiết bầm, như những đĩa tiết đọng. Mổ lần hai. Cái u nặng lên gấp đôi. Và thần sắc anh hao đi thật. Tôi nhìn những giọt nước hồng hồng lăn chầm chậm trong ống nhựa vào một cái bình thuỷ tinh dưới giường. Không thể tưởng được cuộc sống đang bỏ Xương đi xoàng xĩnh, dễ ợt, rẻ như thế kia.
Xương lại gọi. Lần này ở bệnh viện Việt-Xô. Nhợt nhạt, má hóp, râu ria. Thấy tôi, anh khẽ reo: Tớ mong quá. Tớ đã nói là nhờ cậu sửa cho tớ cái hồi ký, báy giờ đã xong, tớ đưa cho Chu Hảo con cả tớ để rồi sẽ đưa cậu khi cần đến. Còn dặn nó là chú Trần Đĩnh nghèo.
Anh đã nhăn mặt lại rên: Ối, đau quá… Tìm Hoàng Kim Tịnh nhờ tiêm Dolagan cho mình.
Sáng hôm đưa ma Chu Đình Xương, Đào Phan bảo tôi: Trước khi chết, nó nhờ hoặc tớ hoặc cậu thay mặt nó lên nói với bà con tiễn nó vài lời. Tớ bảo có trời sập thì mới đến thằng Đĩnh nhá.
Đào Phan đà có bài tiễn bạn rất hay.
Sau đám ma, tôi vào Sài Gòn. Ung Văn Khiêm gọi.
Hai chục năm sau, trong bữa ăn Quy Viện thông tin mời ở nhà hàng Sam Biển tại Linh Đàm với cả Lê Trọng Nghĩa; Hoàng Hưng nhà thơ; Can, con trai Xương; Viện, thông tin. Can nâng cốc: Cháu chúc chú sẽ đọc điếu văn cho cháu.
Tôi trố mắt.
- Chúng cháu nghe bố nói là đã nhờ chú Trần Đĩnh đọc điếu văn cho bố cháu mà. Vậy chúc chú sống lâu để trả cái nợ điếu văn ấy với bố cháu qua cháu.
2010, giỗ hết Lê Đạt, tôi đang ngồi trong nhà Đạt thì thấy mấy người đi ngang qua cửa, gọi: Anh Chu Hảo.
Một người tóc bạc quay lại. Giống Xương.
Tôi ra cửa, đến vỗ vai Chu Hảo:
- Chào anh Chu Hảo, tôi Trần Đĩnh, bạn của Chu Đình Xương.
Chu Hảo quay ngoắt lại, ôm lấy tôi: Chú Trần Đĩnh.
Rồi bỏ tất cả ngồi với tôi.
Các con Lê Đạt sau đó hỏi tôi “Chúng cháu lạ quá, thấy chú ra vỗ vai rồi nói gi mà ông Chu Hảo ôm chầm lấy chú thế?”
- Xướng cái danh còm.
Tôi không hỏi Chu Hảo hồi ký của bố Xương ở đâu.

Chương 15
U
ng Văn Khiêm hẹn ở đó. Khiêm móc túi đưa tôi một xấp tiền. Tôi cảm ơn, nói tự lo được.
Tôi hỏi ngay anh:
- Hà Nội đồn là anh khai man lý lịch rồi còn ngoan cố không chịu sửa?
Anh cười kể lại: Một cô ở tồ chức Thành uỷ đến bảo “Chú giập cái đoạn chú viết trong lý lịch là bị khai trừ đi. Trên biểu là không có chuyện ấy bao giờ”. (Đến đây, anh một tiếng kinh ngạc!) Mình bèn nói thưa với cháu, tai tôi, tai tôi đây nghe từng lời nghị quyết khai trừ tôi do Lê Văn Lương đọc mà. Tôi là bí thư xứ uỷ thì Lê Văn Lương vào gặp và tôi cho đi vô sản hoá ở Ba Son mà… Tội cháu phải vất vả. Cháu hãy về bảo trên là tôi không bịa ra cho vui đâu. Hay là dể tôi lấy lý lịch về, không sinh hoạt lại nữa. Cô ấy vội đi luôn. Các cha vẫn cái thói chui lủi, gian tà.
Theo anh tìm hiểu thì Điều lệ mới của Đảng không có chuyện kết nạp lại người đã bị khai trừ. Nhưng đến đại hội đảng bộ Sài Gòn, Lê Duẩn cứ nghển nghển nhòm nhòm các đại biểu như tìm ai rồi hỏi: “Ủa, anh Ba Khiêm đâu? Tổng bí thư mà không biết uỷ viên trung ương, bộ trưởng ngoại giao Khiêm bị khai trừ, khôi hài quá há! Anh ngừng kể, hỏi tôi, quan liêu nhất há! Người ta sẵn sàng đóng ngay vai ngoài cuộc, kinh không? Và người ta khỏng tháy ngượng, buồn là như vậy.
Chuyện Ba Duẩn mù tịt việc Ba Khiêm bị đuổi khỏi đảng làm tôi nhớ lại chuyện những năm 1963 - 64 Duẩn hỏi Phạm Ngọc Thạch rau muống luộc với rau muống xào có khác gì nhau về dinh dưỡng hay không? Cái này loài kiến nó giỏi. Hễ thấy rau luộc là nó lờ và rau xào là nó bâu đến.
- Thì vờ ra vẻ đến rau muống tôi cũng chả được xài rồi lại vờ Ba Duấn tôi quan tâm đến dân lắm lắm. Vì thế tôi mới nói là vờ đóng vai ngoài cuộc phủi tay chớ! Cũng đứng ngoài luôn ở cả việc có đứa đặt đèn hiệu lệch cho máy bay ông Hồ đâm mù xuống Bạch Mai. Ở các nước mà Cha già dân tộc bị thế thì nó làm phải động trời lên. Mà ông Hồ cũng lạ! Bị thế mà không tâm sự với Duẩn và Thọ… Thôi, kể nốt chuyện mình, Duẩn còn ngó nghiêng ra vẻ tìm Khiêm nữa và chưa ai kịp nói gì thì thằng Tô Ký nó đứng ngay lên rao to: “Kìa ai đi mời anh Ba Khiêm đi chứ!” Đánh đùng một cái cho mình vào Đảng. Lạ thế nên bây giờ cấp dưới không biết xoay xở sao, đành đến xin mình sửa man lý lịch.
(Đến năm 2000, Nguyễn Trung Thành bảo tôi ngày ông Duẩn thình lình cho Khiêm “phục hồi đảng tịch”, ban tổ chức Đảng khốn đốn, phải đặt ra cho điều lệ một điều mới toe là “cho sinh hoạt đảng trở lại).
- Tổng bí thư một tay phá luôn pháp luật của đảng, tôi nói. Mà đảng phải tuân theo. Chỗ này Hitler cũng phải tị.
Khiêm còn cho biết sau đó Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ lần lượt riêng rẽ đến thăm anh. Đến vào lúc bảy tám giờ sáng mình đang bận vệ sinh chuồng heo và cho heo ăn, anh nói. Thế là cứ đứng bên chung heo nói chuyện, mình chẳng mời ông quái nào vào nhà.
- Anh có cảm ơn không, tôi hỏi?
- Hứ, ơn? Họ làm thế là cốt chạy làng mà. Xưa đánh tôi để được nổi giá lên với Trung Quốc, nay vời tôi là quay trăm tám mươi độ cần tự rửa mặt với Liên Xô.
Anh bảo mời tôi vào để nhờ tôi giúp anh viết một kiến nghị ký tên anh gửi Trung ương về tình hình đất nước cùng những việc phải làm. Trần Đình Bút, chồng cái Ngọc Minh, cả hai học với anh ở Bắc Kinh đấy, sẽ cung cấp tài liệu, số liệu kinh tế cho anh. - Mấy ngày tới tôi đi mấy nơi, về thì chúng ta sẽ làm việc. Nhà Vấn vắng vẻ, chúng ta làm việc ở đấy, anh Vấn thấy được không?
Tuần sau, đúng 19 tháng 8, chúng tôi gặp nhau.
Anh rất vui: Tình hình cho phép tôi góp ý thẳng thắn với Trung ương được rồi. Cách làm ăn cũ hỏng to rồi, Nguyễn Văn Linh nói hẳn là lãnh đạo gì mà làm ăn như cái “con c…”. Gorbachev và perestroika ảnh hưởng mạnh đến ta, mặc dù Ba Duẩn còn rất bảo thủ. Song số đông trong Bộ chính trị tán thành đổi mới như Liên xô. Trung Quốc đổi mới có khi còn ghê hơn. Ta ì ra thế nào được nữa? Lại sức khoẻ Duẩn yếu, tịch lúc nào không biết, Trường Chinh bắt đầu có uy tín trở lại. Nguyễn Văn Linh được Trường Chinh ủng hộ nên đã vào lại Bộ chính trị. Sau 1975, Linh bị Duẩn với Thọ gạt ra khỏi Bộ chính trị, ở trong này lênh phênh mãi. Ở đại hội đảng Sài Gòn, Linh hô Lê Duẩn muôn năm là bắt chước Đặng Tiểu Bình hô cho Mao khoái để mà Đặng làm ngược lại Mao. À, bây giờ thế này… nên tập trung vào hai vấn đề cơ bản: Phát triển kinh tế như thế nào và thực hành dân chủ trong đảng cũng như ở ngoài xã hội như thế nào. Về kinh tế, phải giải phóng tối đa sức sản xuất đã bị đảng bó tay bó chân, kìm hãm, thậm chí đánh đủ thứ tiêu hao chiến, tiêu diệt chiến với sức sản xuất. Nghĩa là nên làm ăn với thế giới. Còn về dân chủ cũng thế, nên quan niệm vấn đề này rộng ra cả với năm châu thế giới, thôi cấm chợ ngăn sông với thế giới. Tôn trọng người ta chứ không phải cứ thằng nào không xã hội chủ nghĩa thì đả. Liên Xô, Trung Quốc đã nhận ra xu thế hoà hoãn nhưng ta như vẫn muốn duy trì căng thẳng, kiểu đại loạn thì Việt Nam được nhờ vậy. Còn tình hình ta? Linh nói với mình rằng hắn luôn lo có ngày thức dậy thì thấy Sài Gòn đã cắm đầy cờ thằng nào khác mất rồi.
Tôi nói tình hình ngoài Bắc. Tôi nói nhiều…
Khiêm ngồi trước mặt tôi tự nhiên khẽ sụp thấp vai xuống, hai con mắt dại đờ ra, hai lòng đen như xáp lại gần nhau, một bàn tay đặt trên thành ghế từ từ lật ngửa.
- Nguy rồi! - Kêu to lên. Vấn bế xốc Khiêm ra giường, rồi chạy sang hàng xóm gọi nhờ điện thoại. Bảo tôi: Tai biến não.
Rất nhanh xe ba nơi: Ban bảo vệ sức khỏe trung ương ở T79, bệnh viện Thống Nhất và bệnh viện Chợ Rẫy đã đỗ đầy trước cửa nhà Vấn. Tôi ra ngoài hè đứng, buồn và ân hận vô hạn. Thấy đâu như tôi đã góp phần vào tai biến này.
Khiêm vốn huyết áp cao, vừa đi mấy tỉnh về mệt mà tôi lại cứ “quần” anh bằng thông tin. Lát sau Vấn ra hè bảo Trịnh Kim Ảnh muốn gặp tôi.
Đã gần hai chục năm chưa gặp nhau. Lần cuối cùng hình như là sáng hôm hết thuốc lá và trà, tôi bảo Lê Công Tuấn và Côn hỏi cung tôi cho tôi sang bệnh viện E mà Ảnh làm giám đốc đang sơ tán tại huyện Thạch Thất gần sông Tích và chỗ tôi khai cung để hỏi mua hay xin (thuốc lá và trà). Đi bộ chừng bốn năm cây số, có chỗ sông Tích lượn một vòng rất đẹp, tôi đã gặp Ảnh rồi mang hai tút thuốc lá và ba gói trà về. Tuấn và Côn được xài ké trà bệnh viện miền Nam mà Trung Quốc đỡ đầu khá là hảo hạng. Một dạo đã vượt cấp khám bệnh cho tôi ở nhà A1 theo lệnh Sáu Thọ, Ảnh không thể nghĩ tôi đang bị tra hỏi.
Ngày thứ hai sau tai biến, Ngọc Minh, con gái Khiêm bảo chúng tôi là ngay hôm đầu tiên Nguyễn Văn Linh đã đến, ngồi cạnh ông cụ im lặng. Lâu không, tôi hỏi. Dễ thường mười phút. Tôi thầm hỏi ngồi thế Linh nghĩ những gì. Một tuần sau, Khiêm tỉnh lại nhưng không nói được. Vũ Đình Huỳnh, Lê Trọng Nghĩa, Vấn và tôi ngồi đầy phòng bệnh và Khiêm vui quá. Huỳnh 74, 75 tuổi lăn ngay ra sàn thị phạm (chứng minh sự thật bằng hình ảnh - BT) mấy thế yoga, trồng cây chuối cho Khiêm học.
Phải thấy Huỳnh lẩy bẩy ấp hông vào tường rồi từ từ dựng ngược hai chân khẳng kheo trắng hơn chân đàn bà lên còn miệng thì vừa thở vừa giảng.
Chính lúc đó tôi quyết định nhận lời Huỳnh viết hồi ký cho anh. Từ 1964 anh đã ngỏ ý. Mà tôi thì muốn nghiên cứu những người như anh, như Đặng Kim Giang, Kỳ Vân, Hoàng Minh Chính… toàn những cộng sản cực kỳ mà rồi làm sao lại quay ra “chê cơm” đảng. Tôi có ý viết một tiểu thuyết về những biến hoá ấy.
Thế là sáng đi Chợ Rầy thăm Khiêm, chiều đi khai thác Huỳnh.
Tôi đặc biệt nhớ mấy việc trong các chuyện Huỳnh kể. Như anh đạp xe về quê Sáu Thọ “nã” Sáu Thọ. Thọ ở tù ra đã lâu mà không thấy liên hệ, Sao Đỏ (bí danh của Nguyễn Lương Bằng - BT) ngờ Thọ quên lời vô sản hẹn hò. Trước đó Huỳnh đã xuống Hoà Bình đón tù cộng sản đi quét đường buổi sáng để đưa thư Sao Đỏ gửi Sáu Thọ bảo Sáu Thọ vượt ngục, phong trào đang rất cần người. Huỳnh đã gặp Ngô Minh Loan trong số tù ra quét đường hôm ấy, đưa cho Loan điếu thuốc lá có giấu thư Sao Đỏ nhờ Loan chuyển và hẹn mai sẽ gặp lại Loan. Hôm sau Loan bảo Thọ trả lời: “Vài tháng nữa ra tù, trốn làm đ… gì?” về lô gích thì có thể đúng nhưng về ý thức tổ chức thì quả là chẳng coi ai bằng cái đinh. Mà có ai dám è hẹ Thọ đâu? Trong tù, Thọ không ở cấp uỷ nhưng “hắn đông vây cánh”, theo Huỳnh, một thế mạnh của Thọ. Mà hắn còn nổi tiếng bặm trợn, một thế mạnh trời cho nữa.
Hay như việc trước cuộc họp Tân Trào, Cụ Hồ bảo Huỳnh rằng ta có thể tán thành diễn văn Brazzaville của De Gaulle chủ trương lập Liên hiệp Pháp với các thuộc địa cũ được tự trị. Như việc Cụ và Huỳnh bị Trương Phúc Thành, tham mưu trưởng quân Lư Hán tịch thu xe và giữ anh Hảo tài xế, đòi Cụ nhường ghế chủ tịch nước cho Nguyễn Hải Thần. Hay lại như việc tối 30 Tết độc lập đầu tiên, Cụ cùng Huỳnh lén đi thăm Vũ Hồng Khanh ở phố Hàng Bún rồi bị các ông kiên cường, nhất là Bùi Lâm, kêu Cụ liều mạng. Này, không ngờ, - Huỳnh nói, Khanh cuống quít chạy ra líu cả lưỡi lại “mời Chủ tịch vào nhà”. Ông Cụ bị các tướng đòi phải cứng rắn chứ như Cụ thì mềm. Tàu nó ép phải mở cho Quốc dân đảng vào quốc hội đấy.
Tôi hỏi: Thế là từ ngày độc lập luôn bị thiên hạ ép, ông Cụ thấy được cục diện trên đe dưới búa ấy chứ?
- Chủ tịch nước cuốc bộ từ chỗ Trương Phúc Thành đường Phạm Ngũ Lão về Bắc Bộ Phủ mà lại không thấy hay sao? Cụ bảo: mình phải Câu Tiễn. Ép thế là cùng rồi còn gì?
Một chuyện tôi không ngờ. Khi Trung ương đưa Trần Đăng Ninh sang quân đội, Huỳnh hỏi Cụ: Anh Ninh biết gì quân sự mà Cụ đưa sang anh Giáp? Cụ hỏi lại: Thế không sự chú Giáp thành quần phiệt à? Sau này tăng cường thêm Nguyễn Chí Thanh sang cũng là trong ám ảnh ngăn chặn quân phiệt lấn đảng.
Khốn cho Giáp là tiếng tăm lừng lẫy quá. Mà với đảng thì chính quyền ra từ nòng súng nên ai chĩa nòng súng ra được là đảng phải canh phòng.
Sáng thăm Khiêm, chiều gặp Huỳnh. Cứ thế chừng nửa tháng rồi tôi về Hà Nội. Bắt tay tôi, Khiêm khóc. Tôi cũng khóc. Bình thường như trước kia, anh sẽ lấy hai tay ôm má tôi kéo xuống thơm dài cho hai cái.
Sau đó, tôi lấy xe anh để ở nhà Vấn đạp về nhà anh trả. Yên xe anh hạ chạm khung, tôi ngồi đạp mà hai chân lê trên đường, chỉ khẽ đẩy là xe đi. Khéo có người cho là tôi trốn viện tâm thần… Có lúc tôi lại thoáng sợ, nếu thấy xe đạp của bố và tôi, anh con trai của Khiêm lại ra nhảy tót lên ghế chờ bố thì sao…?
Hai chục năm sau, năm 2004, Ngọc Minh, con gái anh chị Khiêm, mất, tôi đến chia buồn. Hết sức bồi hồi nhìn mãi cái hiên - phòng - khách quen thuộc, cái vòi nước cạnh cổng, dẫy chuồng lợn nay không còn thấy… Anh đã giậm chân ở cạnh chuồng lợn bảo tôi: Đây, Ba Duẩn đứng ở đây, mình thì quần xà lỏn… Chả còn gì. Dửng dưng, kể cả sinh hoạt lại đảng.
Người con trai tâm thần chết đã mấy năm. Tôi bỗng nhớ đến bàn tay run run bật lửa dâng lên điếu thuốc ở miệng đứa con đang cười rất hiền lành.
Ung Văn Khiêm chết đã có nghi lễ, khác ba uỷ viên trung ương cũng bị đuổi khỏi đảng.
Đảng đã đặt một tang chế chặt chẽ cho cán bộ, đảng viên. Từ vụ phó trở lên chết mới được đăng Cáo Phó, dưới nhất loạt Tin buồn. Cấp thấp thì Tin buồnViệt lai Hoa. Cao cấp mới được toàn Hoa. Nên ghi nhớ chuẩn cao thấp ở phương diện ngôn ngữ này.
Trong thời gian cuối đời Ung Văn Khiêm, tôi lờ mờ nhận diện thấy một sức ép. Tàn nhẫn, ác liệt, chẳng nể nả ai, nó bắt tất cả, bất kể quân tử hay tiểu nhân đều phải theo sai khiến của nó. Lúc đó tôi chưa nghĩ ra được tên gọi cho sức ép vĩ đại này. Đến giữa thập kỷ 90 nghĩ ra. Đó là Đại lưu manh. Vâng, thằng Đại lưu manh này là THỜI ĐẠI.
Nó đại lưu manh vì nó không cho phép chống lại nó. Tao đi lên, mày ì ra thì tao nghiền. Đổi mới chính là đảng vĩ đại đã được Thời Đại nó củng cho một cái vào đầu mà giật mình cất chân lên. Thấy chưa đủ đô nó sẽ không chỉ có củng, ừ, nhờ Thời Đại, tiếng ta đã thêm chữ a lêgo là đi, là nào.
Những ngày lờ mờ nhận diện ra Đại lưu manh, tôi khao khát dữ dội một biến đổi. Một tối vừa ở Sài Gòn ra, Vấn, Minh Việt cùng tôi đi dạo. Qua quảng trường trước Ngân hàng, chúng tôi chuyện về Đại hội lần thứ 26 của Đảng cộng sản Liên Xô sắp họp.
Tôi bỗng say sưa: vấn đề mấu chốt nằm ở quan hệ dân và đảng. Liên Xô, Trung Quốc đông hàng chục triệu đảng viên cũng không được phép bất cần tổng tuyển cử tự do toàn dân đầu phiếu mà cứ đứng ra lãnh đạo đất nước. 1957, phái hữu Trung Quốc đã nêu ra vấn đề này, tôi xực và nó đã vào vô thức.
Quảng trường lúc ấy vắng đẹp như một sân khấu lũ loã nước vàng ròng: đèn và hoa muồng vàng vườn hoa Nhà Kèn đổ xuống một ánh sáng hoá lỏng của vàng chảy. Ba chúng tôi trân trọng đi xuyên qua cái sân khấu sử thi vừa mới dựng lên dành cho những đài từ nghe tàm tạm được.
 

Chương 16
T
rước sau như một, với tôi, Nguyễn Thành Long luôn thân thiết. Vào cảnh ngồi chơi xơi nước, tôi gần như ngày ngày đến nhà Long. Như chiều chiều đi bộ với Lê Đạt, Minh Việt. Hôm ấy tôi vừa ngồi xuống thì Long lặng lẽ đẩy đến trước mặt tôi một bức thư đánh máy: “Giữ lấy chơi”.
Thư “nhân danh bốn trí thức” vợ chồng anh, vợ chồng em trai anh, Bích Ngọc và Trà Giang gửi cho Phạm Văn Đồng đề nghị thủ tướng giúp đỡ tôi, một “trí thức có năng lực và kiến thức nhưng bị oan uổng”. Thư nói nếu Đảng và Nhà nước sử dụng, “chắc chắn Trần Đĩnh sẽ đóng góp được nhiều cho đất nước”.
Tôi cảm động vì tình bạn. Lại hơi ngượng vì thấy Long đã nhờ một vị lãnh đạo tôi ít tin cậy. Tôi không mấy trông đợi hiệu quả ở vị thủ tướng luôn có hai câu quen thuộc trứ danh là “Thế thì làm sao đây? Khà khà khà…” và “Cái này khó lớm, khó lớm, khó lớm, khà khà khà…“ Cái cười rất sảng khoái theo sau cứ khiến tôi nghĩ như là bật ra từ một nhân sư đặt câu hỏi bí ẩn để ăn thịt những kẻ không trả lời được. Mà biết thì ai dám trả lời thật với ông!
Gần đây thủ tướng quan tâm đến Long nhiều hơn. Hình như theo Long nói, ông có người thân ở trước Toà án nên dạo này hay tiện thể đến nhà Long cách đó hơn trăm mét.
Luôn ái ngại lắc đầu kêu nhà văn mà sống chật chội thế này ư? Rồi hỏi lương Long và lại lắc đầu ngán.
Tôi thấy nên kể cho Long chuyện bạn tôi, bác sĩ Hoàn, ở D1 Nguyễn Công Trứ, là “kẻ lao động chân tay nhưng mà oai” theo lời Hoàn tự nhận vì chuyên mát-xa cho các cụ ở Bộ chính trị. Hoàn bảo tôi sợ nhất mát-xa cho cụ Trường Chinh vì cụ hay hỏi sao lại bóp đấy mà mình thì chả nhớ thần kinh số mấy với số mấy làm gì. Người ghét “tẩm quất” là Cụ Hồ. Không cho sờ vào người. Thủ tướng Đồng thích nhất, nhưng khi Lê Đức Thọ kéo Hoàn sang Paris phục vụ thì cũng đành nhịn. Thọ là thủ trưởng chính của Hoàn, thủ tướng lơ tơ mơ có khi Thọ còn… (Hoàn nháy tôi một cái). “Các bố khác phạm cái gì đều không lọt mắt ông này đâu mà…”. Hoàn có lần khẽ bảo tôi. “Tớ là cái thước đo đẳng cấp ở trong mấy cụ Bộ chính trị đấy nhá! Cứ xem đâu được tớ chăm bẵm nhiều!” Dĩ nhiên tôi không nói toạc với Long rằng vị thủ tướng được tiếng quan tâm, sau Cụ Hồ, đến trong sáng tiếng Việt và đời sống vật chất của trí thức, văn nghệ sĩ lại thiên vị kẻ lao động chân tay hơn các anh. Một hôm thủ tướng hỏi Hoàn anh bóp nặn thế này mệt lắm đây nhỉ? - Vâng. Cũng được ạ. - Anh ăn uống thế nào? - Dạ, tôi ăn ở hàng ăn. (Hàng cơm tám cạnh hiệu kem Phố Huế xế chợ Hôm). Trưa hôm sau, vào bàn ăn, Hoàn thấy nhà hàng dọn bốn món cả canh! Bụng nghĩ chắc đầu tháng họ cho ăn vớt những bữa mình bỏ của tháng trước. Nhưng rồi cơm nước vẫn linh đình như vậy, Hoàn chợn phải hỏi. Chủ hàng cơm bảo bác sĩ cứ yên tâm, từ nay trên Thủ tướng phủ thanh toán tiền cơm của bác sĩ. Ít lâu sau, gặp Hoàn thượng xe máy Pơ-giô cá vàng, tôi kêu lên “chà, chà!” thì Hoàn bảo cụ Đồng hôm nọ lại hỏi anh đến tôi bằng gì? - Dạ, xe đạp ạ.
Thế là Pơ-giô Cá vàng lượn đến êm ru.
Có lẽ vì Thủ tướng bỗng năng đến Long hơn, năng lắc đầu ngán ngẩm thay cho đời sống không ra làm sao của văn nghệ sĩ mà Long nảy ý đỡ đần tôi. Nhận thư Long, Thủ tướng đã nời cả nhà Long lên ăn cơm. Tối hôm sau, tôi đến Long. Cháu Hoa Hồng, rất vui báo ngay cho tôi: Chú Đĩnh ơi, ông Tám hôm qua nói sẽ giải quyết cho chú đấy!
Ông Tám, tức thủ tướng, coi Hoa Hồng như cháu yêu. Long cho biết trước mặt cả nhà anh, Đồng hứa sẽ “làm cho tới nơi việc của Trần Đĩnh”. Ông ấy nói: ”Tôi gọi dây nói cho báo Nhân Dân nhưng ở đấy im. Các cậu phải có làm sao thì mới im chứ”. Ông Tô (bí danh của ông Đồng - BT) kha kha cười rất vui rồi nói: Tôi sẽ làm tới nơi việc anh Trần Đĩnh!
Tự nhiên tôi đặt trọng âm của câu nói vào hai chữ “tới nơi ” quá quen thuộc. Hồ nghi nhưng nghĩ khéo mà nên chuyện ngoạn mục.
Và ngoạn mục thật.
Tháng sau, Long bảo tôi là anh ớn lắm. Thư ký của Phạm Văn Đồng đến nói với anh rằng: “Anh Tô không giận anh đâu tuy anh đã cho thủ tướng thông tin sai. Anh mắc lừa Trần Đĩnh. Anh Tô đã huy động tất cả bộ máy của riêng thủ tướng để điều tra tới nơi việc Trần Đĩnh. Anh ta là Nhân văn - Giai phẩm”. (Thủ tướng quên Long đã từng bị vạch mặt là Nhân văn - Giai phẩm vì một truyện ngắn buồn buồn).
Long bảo anh chả thiết thanh minh.
- Nhưng tôi thanh minh. Không có chuyện lừa và bị lừa ở ông và tôi. Chính là ở chỗ khác, tôi nói.
Tôi đã thư cho Phạm Văn Đồng. Viết vì “danh dự Nguyễn Thành Long, tôi đành gửi thư làm mất thì giờ thủ tướng”. Tôi xin thanh minh với thủ tướng ba điều: Một, đề nghị thủ tướng giúp tôi là Long làm theo lòng tốt với bạn bè, không nghe ai xui cả. Hai, nếu biết Long xin thủ tướng, tôi đã ngăn ngay vì xin lỗi thủ tướng, tôi không tin thủ tướng giải quyết được. Ba, thời Nhân văn - Giai phẩm, tôi đang ở Bắc Kinh. Tôi đã viết tiểu sử chính thức đầu tiên của Hồ Chủ tịch, viết hồi ký của hai ông Phạm Hùng, Lê Văn Lương và mới đây là Bât Khuât của Nguyên Đửc Thuận. Thủ tướng thừa biết Nhân Văn - Giai Phẩm không được làm những việc này. Tóm lại bộ máy của thủ tướng đã làm tới nơi nhưng không thu nhận tới chốn thông tin về anh Long (bảo anh ấy là mắc lừa tôi) và về tôi (bảo tôi là Nhân văn - Giai phẩm).
Tôi đưa bản sao cho Long. Nói: Tôi hơi tự khoe dớ dẩn vì với các vị phải ca “thành tích” các vị mới nể. Ông Tô nói thác ra thế thôi chứ ông ấy đã húc phải bên ông Sáu Thọ nên đành đánh bài lùi trong danh dự ảo. Trách nhẹ ông đã bị tôi lừa để cho khỏi ngượng với gia đình ông, với Trà Giang thôi. Phải nói là lúc trên An toàn khu, tôi không mấy chịu ông ngoại trưởng Đồng quá chú ý xây đắp khoảng cách lạnh lẽo với cấp dưới. Điều cụ thể đầu tiên làm tôi không thích hẳn Đồng là lần ông trả lời báo Le Monde ngày 1-1-1955 mà tôi đọc ở thư viện Đại học Bắc Kinh: Nước Pháp phải chọn lấy hoặc Hà Nội hoặc Washington!
Tuy cũng đầy tự hào dân tộc - chiến thắng đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ - tôi cứ thấy ngượng. Chả lẽ Đồng tin thanh nam châm Hà Nội sẽ hút được Pháp vào quỹ đạo Việt Cộng mà bỏ Mỹ thật sao?
Rồi 1961, ông nói với trí thức: “Phương Đông cao quý, chú ý tinh thần, phương Tây vật chất, khốn nạn, khốn nạn, khốn nạn”. Hồng Linh dự bữa đó về bảo tôi là nghe rất khó chịu: “Thế sao lại dùng hơi nước và điện của phương tây”, Linh cáu nói với tôi.
Một chiều sau hôm tôi gửi thư cho Đồng, Hoàng Tuệ, bố Bảo Ninh, tình cờ gặp tôi ở vườn hoa Con Cóc. Anh nhảy xuống xe giữ tôi lại. Mặt nhăn rút: Chết chưa, sao đế báo đảng đăng tệ như thế?
- Đăng sao?
- Bài làm trong sáng tiếng Việt của anh Phạm Văn Đồng thế nào lại tương ra câu “Bình Ngô Đại Cáo là áng văn bất hủ của văn học Việt Nam”.
Gần đây tôi có hỏi Việt Phương là cụ Đồng loà thì chữ các bài ỏng viết cho cụ ấy đọc phải to bằng thế nào? Việt Phương chỉ vùo chữ Tam Đảo trên bao thuốc lá của tôi. Hoàng Tuệ lắc đầu. Không rõ lắc cái gì.
Lần tôi hỏi Việt Phương về cỡ chữ viết cho thủ tướng đọc là ờ nhà Nguyễn Khải. Rồi chính tối ấy, lại gặp Việt Phương ở nhà Đặng Đình Áng, chung cư đầu Duy Tân ăn uống cùng Nguyễn Linh, Thiết Vũ, mấy bạn học Bưởi của Áng. Thiết Vũ giới thiệu Việt Phương là “chuyên viên kinh thế” của thủ tướng, Nguyễn Linh là phó tổng giám đốc Nhà xuất bản Sợ thật. Vì quan tọng như vậy (tọng vì toàn là phải đảng tọng vào vị trí) cho nên hai oanh đều là đoảng viên thăt sắc của đoảng ta toài ghê.
Tất cả đều phá ra cười. Không cười được ắt là thần kinh có vấn đề.
Tối ấy Việt Phương đọc khẽ cho mình tôi nghe bài thơ . Đại khái “rác rưởi đầy hai vai, tôi hú”. Anh bảo anh là marginal aucentre, - ấn sĩ giữa triều đình. Tôi đùa: Et moi, toncontraire, un Centre en marge - Và tôi, trái lại, một trung tâm ở ngoài lề.
Áng bảo tôi anh vừa đi dạy ba tháng ở Mỹ về. Đi Mỹ chuyến này anh được xem hai cái thích. Phim Trung đội (Platoon, đạo diễn Oliver Stone) và quyển The brother and enemies (Huynh đệ Tương tàn) của Nayan Chanda, nhà báo nhà văn tên tuổi gốc Ấn Độ hồi đó hay lui tới Việt Nam. Anh cũng nói có gặp ba bạn Mỹ nay là thượng nghị sĩ. Cả ba đều nói họ muốn làm ăn buôn bán với Việt Nam nhưng dân Mỹ lại không chịu, lý do là Việt Nam hàng ngày chửi Mỹ dữ quá. Dân Mỹ thắng xong Nhật, Đức là khép ngay quá khứ, không có ngày ngày mang kẻ thù xưa lên tụng bài vinh quang và thù hận. Lại còn giúp hai kẻ thù cũ tiến lên thành hai đại cường quốc cạnh tranh lại ngay chính với Mỹ. (“Ngu thế” - tôi đùa). Ở Mỹ, thượng nghị sĩ phải theo ý dân, không theo thì mất phiếu. Việt Nam nên bớt chửi Mỹ đi để dân Mỹ cho phép họ đề cập chuyện làm ăn. Áng bảo tôi, ta hình như quên rằng, như dân ta, dân Mỹ cũng yêu nước, ông về Hà Nội thử nói với các cụ đi.
- Nhiệm vụ chôn đế quốc chưa xong thì ai dám thò tay vặn cho cái nồi súp de căm thù này hạ nhiệt chứ, tôi nói. Sau 30-4, Áng đến trường dạy lại đã thấy trong hòm thư một viên đạn. Nó cảnh cáo trí thức nguỵ hãy cẩn thận đấy thôi. Với ta, càng yêu chủ nghĩa xã hội càng yêu nước thì càng căm thù đế quốc, thằng nào ít căm thù là sẽ bị căm thù cho nên chả miệng nào dám dịu căm thù. Căm thù đã trở thành phù hiệu rực rỡ trên ngực người cách mạng.
Tôi đã đọc Huynh đệ Tương tàn. Vùng này quả là toàn anh em thịt nhau. Trước hết anh em Rồng Tiên; rồi anh em thuỷ chung, trong sáng, mẫu mực Việt - Miên, roi anh em môi răng lạnh Hoa - Việt. Một bạn trí thức nghe tôi thuật lại sách xong khẽ lắc đầu: Một lò anh em đều đô tể háo sát thật.
Nhiều chuyện quá hay trong sách. Làm bù nhìn của Pol Pot sang New York dự Đại hội đồng Liên hợp quốc, Sihanouk đã lén nhét vào tay vệ sĩ Mỹ trong thang máy bức thư xin Mỹ giúp ông thoát khỏi cộng sản Khơ-me Đỏ. Mỹ giúp ông nhưng bảo ông về Pháp sống, có con ông chứ không được ở Mỹ do ông không thân thiện với Mỹ. Hay là chuyện Nguyễn Cơ Thạch, thứ trưởng ngoại giao gặp Richard Holbrooke, thứ trưởng Mỹ, đòi Mỹ bồi thường mấy tỷ đô la nhưng chẳng có vãn bản pháp lý làm bằng nên tét. Thạch bèn mời ăn tối, hạ thấp yêu cầu xuống xin Mỹ viện trợ nhân đạo. Như ông cha đã ca dao:
Anh hùng như thế khúc lươn,
Khi co thì ngắn, khi vươn thì dài!
Phía Mỹ nói viện trợ phải qua quốc hội Mỹ phê chuẩn mà hiện không phải phiên họp của quốc hội. Tối ấy, Thạch mời Richard Holbrooke ăn món đặc sản dân tộc là chả rán nhưng Nayan Chanda người lõi Trung Quốc lại viết nỏ là roll spring, xuân quyến, cuốn mùa xuân, tên gốc Trung Quốc. (Nhân thể nói thêm, chữ chả rán cũng là nòi Trung Quốc. Chữ nhục trên chữ hoả).
Trong sách này, Nayan Chanda viết hơn mười dòng về vụ án xét lại. Tôi dịch đoạn ấy cho Hoàng Minh Chính.
Xin trở lại Nguyễn Thành Long. Anh hay bị “đánh” ở văn chương. Đòn cuối cùng làm anh đau đớn là vụ người ta phê phán truyện ngắn Cái Gốc anh ca ngợi phụ nữ ta nhân hậu, đảm đang, theo đúng phương hướng tuyên truyền của đảng và Hội phụ nữ. Thì đùng người ta bảo truyện anh bêu xấu ta hết đàn ông, trăm nợ đổ vào đầu đàn bà, điều khiến cho Mỹ - Nguỵ tưởng bở sẽ ra sức chống trả ta kịch liệt. Long buồn nhất là các báo hồi ấy hay đăng anh đều quay lại phê phán anh. “Mặt người sấp ngửa là mô hình ban đầu, - prototype của con súc sắc”, tôi bảo anh.
Bây giờ, hôm nay viết đến đây, tôi mới ngợ có lẽ người ta nghi anh bị tôi xúi giục! Tôi là xét lại “trông coi” mặt trận văn nghệ! Tôi thân với anh trong khi thân với đám Lê Đạt, Trần Dần mà! Phải nói từ khi nghĩ như thế tôi không khỏi đôi hồi cảm thấy ân hận.
Căn phòng gia đình Long mười sáu mét vuông. Sàn gỗ, đến đúng giữa nhà thì gồ lên như một sườn núi hay một con sóng, tuỳ tưởng tượng, tất cả nồi niêu, xe đạp, sách vở, giường chiếu, xô chậu, sân chơi, trạn xếp rau củ và bốn nhân mạng nhà anh chia nhau chiếm lĩnh hai sườn núi hay con sóng vừa dựng lên thì chết cứng. Ở một cửa sổ của phòng anh có treo một gáo dừa trong mọc một cây phong lan bé tí teo. Một sáng tôi đến, cây lan nhú ra một bông trắng tinh, nhỏ như một khuy áo hạt trai nhỏ xíu, cánh hết sức mong manh. Chiều lại ghé qua, tôi tần ngần nhìn nó. Nó đã xun lại và tôi hiểu ra là nước mắt cũng già, cũng nhăn nheo như nỗi buồn của con người vậy.
Cạnh cây phong lan, ghếch lên thành cửa sổ là một cái thang đồ chơi mậu dịch làm bằng hai khúc thước kẻ một đỏ một vàng và bậc thang là những đoạn que tính của lớp 1. Một lần tôi chỉ nó hỏi Long: “Định leo đi đâu? Ôi, lối thoát cho một giấc mơ lớn!”
Khi Long đã mệt, tôi đến thế nào anh cũng bắt tôi đưa anh đi dạo một vòng phố. Từng bước nhích rất chậm, kiểu như đi dè cho được ngâm mình lâu trên đường.
Một bữa đến đầu Dã Tượng ra Lý Thường Kiệt, anh nhìn vào toà biệt thự bên trái mà có lần anh bảo ông Đồng có người quen, thân thiết ở đây, rồi nói khẽ với tôi: Tôi đến ông Đồng, ông ấy thường kéo tôi ra vườn nói chuyện. Nghe nói mũ của trung uý Dương con ông ấy cũng bị gài rệp nghe trộm ở ngôi sao đằng trước mũ.
Tôi sững nhìn Long. Long biết thì ông Đồng tất biết! Sao biết mà cam nhẫn chịu cho đồng chí của mình dò la, nghe trộm mình? Ôi, các lãnh tụ của phong trào giải phóng đất nước và loài người mà không phá nổi vòng kiểm soát của đồng chí. Bữa ấy tôi hiểu cả tại sao Võ Nguyên Giáp chịu đắng cay tủi hổ như thế mà im! Các vị tại sao tự nguyện phục tùng tội ác?
Một lần vào khỏi cổng nhà 9 Dã Tượng, Long dừng lại ở sân trước cái bảng vôi trắng to bằng tấm chiếu lớn có đề năm nhiệm vụ của các hộ trong tập thể. Long hất đầu vào đó nói: Có hôm bà nhà thơ Bulgaria đến thăm mình lại cứ đòi đứng ở đây chuyện, mắt nhìn đúng vào dòng thứ 5 đề: “Gia đình tôi không giao thiệp với người nước ngoài”. Thú thật lúc ấy mình sợ phạm luật hơn là ngượng với bà bạn quá giàu tinh thần quốc tế vô sản.
Còn tôi thì nhìn nó mà nghĩ đến câu ông tham tán thương mại Ba Lan nói với tôi ở bệnh viện Việt - Xô: “Với chúng mày tốt nhất là đưa chúng mày ra một hòn đảo hẻo lánh giữa Thái Bình Dương rồi thế giới góp tiền nuôi và mọi người nhờ thế mà được yên ổn”. Tỏi đã có lúc hàm hồ coi đó là một loé sáng của thiên tài trí tuệ chính trị.
Long chết, tôi không biết. Ở quá xa, không ai bảo, không đọc báo, không có điện thoại. Tôi đến, Hoa Hồng ngơ ngẩn nói mỗi câu: “Bố cháu mất rồi! Cháu ngồi với Hoàng, chú ruột, ở bên sườn trái con sóng gỗ. Mẹ Nguyệt làm chuyên gia ở Algeria không về kịp. Chị ở Mỹ cũng không về.
Mẹ hớt hải về thì điên. Thường nằm bệnh viện. Lúc ấy, Hoa Hồng tiến sĩ vật lý nguyên tử đã sang Nhật. Rồi mẹ chết. Đám ma mưa trắng trời. Hai chị em nghẹn ngào bảo tôi dưới mưa xối xả: Thế là chúng cháu hết cả bố lẫn mẹ.
Quê Hương, chị cả, tiến sĩ vật lý nguyên tử lý thuyết nay dạy ở đại học Mỹ, bang West Virginia. Hoa Hồng, tiến sĩ vật lý nguyên tử ứng dụng ở Pháp.
Tôi rất cảm động mỗi khi nghe hai chị em giới thiệu với mọi người rằng tôi là bạn thân nhất của bố Nguyễn Thành Long.
Một lần Thảo Nguyên, con dâu út Thế Lữ, người sưu tầm và nghiên cứu giới thiệu Phong Hoá - Ngày nay “meo” về hỏi tôi: Em gặp cô Quê Hương, con gái nhà văn Nguyễn Thành Long nói anh là bạn thân nhất của bố cô? Tôi trả lời: Rất đúng!
Bạn thân có sức cổ vũ nhau rất lớn. Tôi nhớ không quên lời Long bảo tôi - có lẽ vào hôm cuối cùng tôi đưa Long đi vòng quanh khối phố, tới dẫy tường Hoả Lò, sắp về 9 Dã Tượng, Long dừng lại, đầu khẽ ngúc ngắc: Trần Đĩnh đã thành công! Đúng đấy… Thành công bảo vệ sự tồn tại trước sau như một của bản thân, dù bùn lầy và cay đắng ngập mình. 

Chương 17
T
háng 7-1986 Duẩn chết, dân đứng hai bên đường đếm mấy bà tổng goá. Chúng khẩu đồng từ bảo nhau cái bà tre trẻ mặc áo dài đen dắt đứa con be bé kia đứt đuôi là vợ tư! Ấy, chưa kể những bà bị gạt xuống nữa chứ. Cho lên cả thì khéo phải một hai xe nữa.
Ít ngày sau, dân Hà Nội đồn ầm rằng con cháu Ba Duẩn đang rất lo có thể gia đình Duẩn bị “sờ!” Dân nói rõ các con gái và rể Lê Duẩn hoảng nhất. Nhưng ai trong bóng tối định sờ thì không ai dám chỉ tên. Ngày ấy nếu blogger nhiều như ba chục năm sau thì trên mạng cử là lũ lụt lời bình về sức mạnh tính dục của Lê Duẩn. Rõ ràng là có nỗi sự riêng tư thầm kín của thân thích ông, sau cái chết của ông, vị hoàng đế đỏ từng làm run sự và đau khổ biết bao con người.
Trường Chinh quyền tổng bí thư, anh cầm quyền thì chấm dứt tả, đề đường lối đoàn kết rộng rãi cứu quốc. Nay lại quyền, tôi nghĩ, chắc chắn anh sẽ sửa tệ tả khuynh sặc sụa. Nảy ra từ những ngày tôi đi Bãi Cháy viết hồi ký cho anh, ý nghĩ này nay lại bật dậy. Hơn thế, tôi nghĩ, bị Duẩn ép điểm chỉ vào Nghị quyết 9 làm “bố dượng tinh thần”, cay đắng từ dạo ấy, Trường Chinh sẽ thấm thía hơn ai hết nỗi mất dân chủ nó khiến anh cũng thành nạn nhân.
Dân có vẻ ưng Trường Chinh hơn Duẩn. Người ta đồn anh có một tổng cố vấn Liên Xô giúp đổi mới. Anh sẽ cho phục hồi những cựu thần thân cận của Cụ Hồ nhưng bị xua đuổi như Giáp. Anh sẽ giải quyết các vụ án xét lại Chu Văn Tấn, người từng đưa đường để anh lên Pắc Bó gặp Nguyễn Ái Quốc.
Đại hội toàn quân làm cho mọi người phấn khởi. Sáu Thọ về dự với hy vọng các tướng lĩnh đánh Campuchia sẽ dồn phiếu cho ông đang nắm Quân uỷ trung ương và như vậy hạ vai trò Giáp trong quân đội, trong đảng. Ai ngờ Thọ kém Giáp xa. Nhưng phiếu cũng thua quy hoạch nhân sự. Các tham luận dữ dằn, trong có bài của Vũ Lăng, phê phán thực trạng sa sút, rối ren. Văn Tiến Dũng và Chu Huy Mân không ngờ bị cho de Trung ương. Vũ Lăng nói Chu Huy Mân đi mà bỏ quên cả mũ bình thiên trên bàn chủ tịch đoàn. Hoàng Tùng về leo lầm xe, tài xế báo cáo “dạ xe bác ở đằng kia ạ” mà vẫn ngẩn ra không hiểu…
Những ngày người ta mong tin Lê Duẩn chết đang quàn tại nhà lạnh 108 là thật. Những ngày dân Hà Nội đổ nhau: Con gì trán hói bụng to, miệng xơi thịt gà, ăn nói ề à, đít thượng Volga?
Ôi, con gì kia, úp mặt vào ghế mà mày giữ kín được tên mày đến thế ư? Ghế là mục tiêu theo đuổi của mày và cũng là thành luỹ che chắn cho mày!
Dân còn dạy Đảng một bài học sơ đẳng về đồng tiền vốn bị đảng coi là nhơ nhớp - vì khuyến khích vật chất đã hạ thấp con người xuống thành con vật:
Đồng tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khoẻ của tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là cán cân công lý, đồng tiền là hết ý…
Những người am tường thì minh hoạ bài học trên bằng những con số. Nhờ biết sức mạnh đồng tiền, Nam Hàn, Đài Loan đã nhảy những bước diệu kỳ. Năm 1979, 17 triệu dân Đài Loan xuất khẩu 16 tỉ đô la Mỹ, trở thành nước xuất khẩu nhiều nhất thế giới, tính theo đâu người. Năm 1960 Nam Hàn - nước gửi “lính đánh thuê hung hãn” sang Việt Nam, xuất vẻn vẹn có 60 triệu đô la Mỹ nhưng đến 1981 đã lên 21 tỉ, vừa vặn đổ đồng mỗi năm tăng 1 tỉ. Và mười lăm năm bằng 150 năm phát triển của chủ nghĩa tư bản châu Âu. Thu nhập đầu người từ 50 đô la lên 1.500 một năm. Nhưng cũng như Đài Loan, từ 1960 đến 1990, thu nhập bình quân đầu người tăng sáu lần! Phải mỗi tội “làm chó săn” cho Mỹ như Đảng vẫn lột trần. Lúc ấy chưa thể hình dung rồi đảng lại bạ vào tên chó săn kiêm “lính đánh thuê” này, bạ dữ dội. Hàn Quốc và ta thế mà duyên nợ nặng. Nợ máu duyên tiền kiếp? Ở ta nhờ Đảng cái quái gì cũng hai mặt, hai mang. Với Đảng thì sự thật xã hội luôn là quả đấm tương vào chân lý cao siêu của Đảng.
Đào Duy Quát nói tại một vài hội nghị: Trước khi chết, bác Duẩn gọi mấy anh em lý luận chúng tôi đến nói sau năm sáu chục năm hoạt động đến nay bác Duẩn mới hiểu ra câu của Marx nói lợi ích vật chất là động lực mạnh mẽ thúc đẩy người lao động.
Tôi bảo Kiến Giang: Mao bất lực không làm cho dân sướng về vật chất được bèn phịa ra cái chân lý chính trị hàng đầu, tư tưởng hàng đầu, bác Duẩn nghe sướng quá bê luôn về cho dân xài, đứa nào nói lợi ích vật chất bác phang cho tội xét lại. Bác nhận lỗi ở giường bác chứ đâu có bồi thường cho dân chuyện ba đời cứ phải cầm hơi… Với chính trị hàng đầu, bác phán thế… đếch nào cũng được. Ưu việt của chân lý này là như vậy?
- Song bác thừa biết có hẳn một chương bảo đảm lợi ích vật chất của lãnh đạo cao nhất từ trung ương đến tỉnh, tôi nói tiếp. Tại cánh đồng Tam Thiên Mẫu giữa Cẩm Giàng và Thuận Thành có cả một nông trường nuôi đủ bò, dê, lợn gà, ngỗng, vịt, cá, lươn, ếch… cung cấp cho Bộ chính trị. Ở Thái Bình và nhiều tỉnh, có những thửa ruộng chuyên cấy lúa ngon cho từng vị. Xuống Thái Bình nói chuyện “Mỹ chưa bao giờ bẽ tắc, mất mặt đến thế này, đúng như đã báo trước là chủ nghĩa đế quốc giẫy chết”, Nguyễn Hữu Chỉnh lên xe về đã phải mang giúp mấy bao gạo cho “mấy Anh”: Tớ chỉ nhìn thấy một mảnh bìa viết Anh Nguyễn Duy Trinh ở tai một bao. Là phóng viên đến viết bài, còn ở lại, tôi đùa bảo Chỉnh: “Thắng lợi giòn giã nhỉ!” Hiểu lầm vật chất sang tinh thần, Chỉnh nói: “Chuẩn bị hai ba ngày để nói đấy, Trần Đĩnh ơi”. Tôi chả muốn bảo nay cậu không còn kín đáo ca ngợi Mỹ như hồi xét lại nữa nhỉ. Đúng, trước đây, ở cơ quan, tôi và Chỉnh hay tìm cách kín đáo đề cao Mỹ. Phần lớn khen khoa học.
Tái xuất giang hồ, Trường Chinh có một câu quá hay: Lương của công nhân viên chức chỉ đủ để sống cho mười ngày.
Hoàng Ước, thư ký của Trường Chinh bảo tôi là một hôm Trường Chinh nói với mấy người giúp việc rằng ta trả cho người lao động đồng lương bóc lột. Hoàng Ước bèn nói lương chúng tôi chỉ đủ sống mười ngày. Trường Chinh cau mày khó tin - bóc lột thì có nhưng sao lại có thể ác nghiệt hơn cả đế quốc đến thế - nhưng hôm sau ông bảo Hoàng Ước: Tôi đã hỏi nhà tôi, nhà tôi nói không có chế độ cung cấp đặc biệt thì lương ông cũng chỉ đủ cho nhà này ăn mười ngày. Sau đó Trường Chinh đến nhà máy thuốc lá Thăng Long nói: Phải cứu giai cấp công nhân!
Hay thật! Ở một nước do giai cấp công nhân lãnh đạo mà đảng phải cứu giai cấp công nhân ra khỏi đồng lương bóc lột? Tôi thấy ở đó một khẩu lệnh hành động. Trường chinh rất giỏi đề khẩu lệnh, Nhưng ông không nói cứu công nhân khỏi tay ai? Và thằng khốn nào nó bóc lột công nhân?
Mấy công nhân sắp chữ nhà in bảo tôi: Công nhân được Đảng đại diện mà phải cứu thì dân chết sặc gạch là phải! Thế này chắc có công nhân dỏm nó dìm công nhân xịn. Em là cứ xin phép Đảng cho em soi đèn pin xem đít các bố có nhọ như chúng em không, hay là các bố chính là công nhân dỏm đã nhận xằng.
Song dân biết rất rõ cái cơ chế gà què mổ lẫn nhau nó cho phép bộ máy với lương sống mười ngày vẫn cù cưa được cả tháng, tất nhiên ở mức khốn nạn.
Hãy nói đến cơ chế này ở lĩnh vực y tế được gọi là “từ mẫu!” Xe cấp cứu muốn qua cổng bệnh viện đều phải “kính” người gác 1.000 đồng - không thì mày cho người nhà của mày tò te tí te sớm; rồi khi nằm lên giường mổ, người bệnh lại phải ''tiền đâu trong túi thòi ra”. Trần Thư mổ dạ dày, khi anh đi lại được trong bệnh viện, tôi thấy Thư cứ hai tay nắm cạp quần. Quần không có giải rút!
Mấy hôm sau hai tay được giải phóng, Thư nói vì có rồi. Nay sáng thay quần áo cứ dúi cho chị y tá một nghìn là quần áo đầy đủ lệ bộ. Nghe đâu phụ nữ mất hai nghìn. Cái của phụ nữ quý, phải che kín hơn nên đắt.
Giáo sư vi sinh học Vũ Văn Ngũ, bạn tôi bảo tôi là họp Đại hội công nhân viên chức bệnh viện Bạch Mai, anh chị em người ta lên nói thẳng chúng tôi không luộc kim tiêm, ống tiêm cho bệnh nhân đâu, chúng tôi lấy cồn ấy nấu cơm ăn với nhau chứ ai Lôi Phong mà ra vườn hoa nhặt cành khô lá héo về bệnh viện làm củi nấu bây giờ? Đảng cứ đưa anh hàng xóm hấp lìm ra đế hấp lìm hoá dân ta nhưng dân ta nó cóc chịu!
Ngũ cười bảo tôi: Mình hỏi một cô ai là đứa hấp lìm thì cô ấy nói đứa bảo bọn ta học đứa hấp lìm thì là đứa hấp lìm, còn đại hấp lìm nữa ấy!
Ngũ bịt miệng bảo tôi: Cậu cố tìm hiểu xem Duẩn hay Tố Lành đã xướng chuyện học cái thằng vét rác lấy đồ dùng kia đi nhá! Cái Thảo con tớ nó cứ bảo ghét ai có cái sáng kiến học tập hâm tỉ độ này quá! Ngũ kể một hôm đi vào cổng bệnh viện Bạch Mai, anh và Hồ Đắc Di nhìn thấy băng - rôn tổ bố căng hết mặt tiền toà nhà chính: Hoan nghênh Đại hội V Đáng cộng sản Việt Nam. Di hỏi Ngũ thấy cái chữ V kia nó giống cái gì? Ngũ còn nghĩ thì Di nói: giống cái vagin, đúng không?
Bân, lái xe cho Hồng Hà, uỷ viên trung ương, tổng biên tập báo Nhân Dân, kể với tôi một sáng anh chở Hồng Hà đến Sở điện lực Hà Nội bàn chuyện cung cấp thêm điện cho nhà in báo Đảng đang được các chuyên gia Đông Đức sang lắp máy mới. Xe đến; Bân vào báo người thường trực, anh ta nói giám đốc đi vắng. Bân đưa Hồng Hà về. Lát sau, giám đốc sở điện gọi nói ông chờ báo đảng mãi từ sáng mà không thấy. Thì ra Bân không “bôi trơn”, người thường trực bèn cho uỷ viên trung ương Đảng thấy rõ ngay uy lực tiên phật của đồng tiền.
Tôi bảo “gớm nhỉ” thì Bân tưng tửng: Quần chúng làm nên lịch sử như đảng vưỡn dạy mà anh! Đói thì quân hầu đày tớ phải xây đắp sự nghiệp gian dối thôi. Anh không biết phương châm 12 chữ vàng của dân ta nay là thế này ư? Tăng xin giảm mua, tích cực cầm nhầm, thi đua ăn cắp! Mạt rồi, mạt to rồi…
Tôi hỏi cái gì mạt? Bân lườm tôi: Lại còn phải dạy anh vén váy.
Một hôm vào văn phòng báo, thấy tập hoá đơn các thứ bình nước nóng, máy phát điện, đồ điện… ghi là “lắp vào nhà thủ trưởng”, tôi bảo Dũng - Trung uý - anh cán bộ tài vụ trẻ ở đó: Cậu giữ lại đủ các cái này cho tớ…?
- Để bắt Văn phòng trung ương thanh toán cho Hoàng Tùng chứ sao?
Anh em nói nhà Hoàng Tùng duy nhất là nhà có ba hệ thống điện: điện lưới, điện của lãnh đạo và máy phát điện Đức đem sang xây dựng nhà in báo đảng.
Thái Cò - thợ đúc chữ nhà in - và hai ba anh thợ nữa được cử đến lắp mạng điện của nhà in cho nhà Hoàng Tùng kể với tôi: em làm ở trong ngõ vào nhà, ngay bên dưới cửa sổ vợ chồng Hoàng Tùng đang ăn sáng ở sau đó. Em nói: “Lắp ống đựng dây điện này thì phải độn đầu tre mới xong được đây”.
- Ông chì ống thiếc sao lại độn đầu tre? Vợ Hoàng Tùng thò đầu ra hỏi thì Hoàng Tùng gạt đi.
Lát sau, người nhà ra đưa cho Thái Cò mấy gói chè cùng mấy bao thuốc lá. Hoàng Tùng hiểu chữ độn đầu tre của giai cấp công nhân. Thái Cò nói anh thấy có phải là cả nước này ăn cắp ăn nảy vặt không? Tôi bảo Thái Cò: Khốn nạn, đất nước toàn dân cò mà lại lử cò bợ thì ước mơ và bản lĩnh cũng chỉ là để mò tép riu thế thôi!
Thái Cò là anh thợ cùng tố đúc chữ với tôi dạo tôi lao động cải tạo ở nhà in. Mẹ Thái chết, tôi đến phúng thì Thái nhấm nháy phường bát âm nổi kèn trống lên. Sau Thái bảo tôi: Có mấy lão trưởng ban bên toà soạn đã ở đó nhưng em chỉ cho nổ xã luận chào anh. Lập trường giai cấp công nhân xịn chúng em thế chứ đâu như lập trường bọn công nhân dỏm.
Trong thời gian thai nghén Đổi mới, Hoàng Ước có lần nói với Trường Chinh:
- Tôi giúp việc anh, chắc anh không muốn tôi nịnh, vậy xin anh cho tôi được nói thế này: Dân đang mong mau chấm hết chế độ Ba Đồng Chinh để dân được thở. Buồn là lại dính cả anh ở đấy. Mà cũng lại chỉ anh gỡ được. Chỉ thấy thắng lợi, anh Duẩn không thấy đất nước bế tắc! Đấy, nông nghiệp bí bét, được 14 triệu tấn đã phúc mà anh Duẩn cứ bắt phải 21 triệu!
- Ông ấy nói sao? Tôi hỏi. Hoàng Ước bảo: Im lặng.
- Chắc buồn vì có tên mình trong cái chế độ mà dân mong cho mau sập.
Lần này Ước im lặng.
Mong muốn cứa Trường Chinh cũng chả làm gì lại được. Lương cho sống có mười ngày đã thành hòn cốt lắt lay của cái chế độ chuyên lấy tinh thần, tư tưởng làm thống soái và người kém khoa kinh tế ra chỉ đạo.
Hết thập niên đầu của thế kỷ 21, người ta nói vác lên là đồng lương sống được 20 ngày. Đảng phóng tay cho thị trường tàn nhẫn dìm dân tay không. Và phận cò lử vẫn cứ phải mò tép.
Tin đồn lạc quan ngày một nhiều. Nào Giáp chắc chắn thủ tướng, Sáu Thọ chắc chắn về. Còn nói đến cả làm sao thu hồi tiền các ông ấy gửi ở các ngân hàng nước ngoài. Những ngày trở dạ của Đại hội 6 (từ 15 đến 18-12-1986) phải nhận là nức lòng.
Và tất nhiên làm cho không ít người hoảng nữa. Ai chứ chắc Lê Đức Thọ không thể ngồi im. Các ông theo Mao đã để lại bao nhiêu tội ác. Chỉ nói một việc: Đàn áp nội bộ đến mức đụng đến cả lãnh tụ tối cao, Võ đại tướng v.v… Chuyến này Giáp mà được Trường Chinh bố trí cho tái xuất giang hồ thì có chuyện. Mà cờ đầu Lê Duẩn chết rồi, Thọ phải tìm cách gỡ. Tôi cho rằng Sáu Thọ chả thể xoay ngược tình thế.
Hôm cuối cùng trù bị - mai ra đại hội cờ đèn kèn trống một người cậu họ của Kiến Giang, đại tá công an tại chức đưa cho anh danh sách Trung ương mới bầu. Sau tên từng người có ghi cả số phiếu. Hơn một trăm uỷ viên đều người tử tế, chí ít cũng không tai tiếng nhiều. Giáp sẽ là thủ tướng. Phiếu bầu cho Giáp cao hơn cho Trường Chinh. Sáu Thọ vào hàng gần bét. Một anh bạn đến chơi được Kiến Giang cho đọc. Bật nghẹn ngào ôm lấy Kiến Giang: Đất nước thế này bắt đầu sống được rồi đây.
Tôi rạo rực. Quên khuấy câu đúc kết: Tôi tiêu tiền thật và người ta tiền giả. Tôi chỉ thấy câu tuyên chiến của Trường Chinh “Phải cứu lấy giai cấp công nhân” là một kêu gọi giành lại chính nghĩa. Đại hội ra công khai, tôi xem tivi cả ngày tại nhà Minh Việt. Tôi cảm động theo dõi Báo cáo Chủ tịch Trường Chinh đọc. Đánh giá khá trung thực. Đảng mất lòng tin cúa dân. Nhiều thói xấu được phanh phui như duy ý chí, lời nói không di đôi với việc làm (tu từ che cho chữ dối trá). Vạch rõ nguyên nhân của mọi nguyên nhân (thất bại)công tác tổ chức (dạ con, buồng trứng của bộ máy hư hỏng) và công tác tư tưởng (nhà máy xây dựng tệ duy ý chí và dối trá, đàn áp)…
Khoảng sáu giờ, công bố nhân sự đại hội. Rụng rời. Trường Chinh rút. Nguyễn Văn Linh lên. Võ Nguyên Giáp thôi Bộ chính trị. Nổi lên rõ ràng hình thái mi về ta về, mi vào từng này, ta vào từng nấy, chưa vật lấm lưng được nhau. Thọ còn mạnh lắm. Có bộ máy là nhờ ông mà. Tối mịt tôi chia tay Minh Việt, hơi buồn. Minh Việt hỏi còn đí đâu không? Tôi nói xuống Đào Phan. Việt nói đúng, ông đi đi. Có lẽ nhiều anh em khó hiểu đấy.
Trời đổ mưa nặng hạt và rét căm căm. Quảng trường Ngân hàng trong mưa lạnh tối nay thôi không còn là cái sân khấu đầy nước vàng ròng hôm nào nữa. Tôi nhìn lên chân dung Hồ Chí Minh trên đỉnh Ngân hàng vẫn mỉm cười tươi tỉnh.
Vài năm nay người ta đặt chân dung Cụ Hồ ở tít trên cao kia. Quốc khách được đón ở đây sẽ phải đứng dưới lãnh tụ Việt Nam, nói trong nội bộ thế. Vẫn giấc mộng lớn của nhược tiểu ngàn xưa muốn sử Tàu đi cổng hông mà vào nhà ông. Giận nó một dáo quạt vào đầu cho nó đuổi theo qua cổng ngách, thế là nó chui vào bẫy. Nhưng thế nào đó không rõ, dân đồn là nước ngoài không chịu (vào bẫy) lại chuyển đón họ ở trên Chủ tịch phủ. Còn công nhân vệ sinh đường phố kháo: một đêm bão lớn, bức chân dung bị gió thổi tung đi. Người ta lặng lẽ để nó vào chỗ cũ nhưng khoan vào vòm mái ngân hàng bốn lỗ rồi đóng cọc sắt với bốn dây cáp lớn chốt chân dung Cụ vào đó. Gió ngày đêm lay giằng bức tranh đã phá nứt vòm mái bê tông cốt sắt ngân hàng làm dột từ nóc dột xuống.
Đến Đào Phan, C5 Kim Liên, tầng 5. Vợ cồng anh đang ngơ ngẩn ngồi cùng con rể, đại tá Bảng, con trai Phùng Bảo Thạch. Tôi nói thắng to về chính trị: Đảng đã phải đối mới, con tàu đã quay mũi sang hướng tử tế nhưng tốp lái còn bị lổn nhổn xôi đỗ. Một nhát phá sao nổi được trận địa tổ chức là thánh địa của Sáu Thọ.
Tiễn tôi ra chiếu giữa, Đào Phan ba-đờ-xuy nâu kẻ ô, mũ len cười:
- Hay thật, mày lại đến phân tích, động viên tao. Cảm ơn.
Hôm sau cán bộ thầm thì kháo nhau việc Trường Chinh bị Sáu Thọ ép về.
Hoàng Ước bảo tôi: Buổi sáng trước hôm ra đại hội chính thức, Lê Đức Thọ kéo những Phạm Văn Đồng, Lê Văn Lương, Võ Thúc Đồng, Lê Thanh Nghị… đến gặp Trường Chinh.
Hoàng Ước và mấy thư ký của Trường Chinh sang buồng kế bên phòng khách đã cùng vợ Trường Chinh thành mấy nhân chứng nghe rõ hết cuộc dồn ép lịch sử. Trước đó, theo Hoàng Ước, Trường Chinh đã mấy phen cự tuyệt ký vào thư xin nghỉ do Nguyễn Khánh, Chánh văn phòng trung ương Đảng thảo sẵn mang đến tận nhà. Lần này Thọ thân dẫn một đoàn đông đảo và hùng hậu. Trường Chinh vẫn nói ông ở hay về là việc của đại hội. Cuối cùng Phạm Văn Đồng lên tiếng. Nói anh và tôi đều học Hồ Chủ tịch đặt lợi ích của dân nước lên cao hơn lợi ích cá nhân, vả chăng anh lại là tổng bí thư yếu kém nhất trong các tổng bí thư xưa nay của Đảng ta, anh không về e có những điều không hay. Trường Chinh ký! Mãnh hổ nan địch quần hổ!
Đồng quá giỏi! Đồng đã “thuyết phục” người tổng bí thư làm Tổng khởi nghĩa và Kháng chiến chống Pháp từ quan bằng hạ giá ông xuống: Kém Trần Phú với Xô viết Nghệ Tĩnh, kém Nguyễn Văn Cừ với Nam kỳ Khởi nghĩa và dĩ nhiên Lê Duẩn. Tóm lợi, bét tĩ.
Trường Chinh nhìn thấy rõ ai ở đằng sau Đồng. Lưng Đồng dễ đẩy. Vậy thì thôi về! Ở lại ông cũng chẳng xoay xở nổi mà có khi còn mang vạ.
Tiếc là Trường Chinh không có hồi ký nào. Giả như tôi không nổi cơn “thất tình” với ông.
Lê Phú Khải, nguyên phóng viên đài phát thanh, bộ phận Pháp ngữ La voix du Vietnam, kể rằng Tuyết, em họ anh, con tướng Qua, coi nhà pha, cuối những năm 80 làm phó ban tài chính Trung ương đã ngậm ngùi bảo Khải rằng bà Trường Chinh có hôm tìm Tuyết, đưa một hộp các đồ nữ trang nói em bán giúp chị để chị mua vài con lợn chị nuôi kẻo túng quá. Em nhờ thì người ta xem toàn là vàng tây, đồ trang sức nước ngoài tặng. Nhận hộp về, bà Trường Chình buột ra một câu mà em nghe não ruột não gan: “Thế thì chị làm sao bây giờ?”. Có lẽ nhiều người đã rút ra ở đây bài học là phải ra sức tìm cách củng cố đời con. Hoàng Ước sau có một hồi ký nói lại ngày anh mới về giúp việc Trường Chinh. Có đoạn viết Trường Chinh hỏi tuổi Ước. “Dạ, tôi ba mươi bảy, nhưng còn dại lắm ạ”, Ước nói. Trường Chinh nói luôn: “Tôi năm mươi vẫn dại!” Ước hiểu là Trường Chinh muốn nói đã một mình giơ đầu chịu báng, nhận lấy trách nhiệm sai lầm Cải cách Ruộng đất rồi thôi tổng bí thư.
Đầu năm 2007, viết sách ca ngợi Trường Chinh, giáo sư Trần Nhâm bắt đầu công khai chê Đệ tam quốc tế nặng “giai cấp chổng giai cấp” nên lơ là Nguyễn Ái Quốc. Chỉ thế thôi vì ông còn giữ uy tín cho Đệ tam (dù đã giải tán và phe đã tan nhưng vốn là lãnh tụ tối cao của phong trào cộng sản và công nhân toàn thế giới). À, “lơ là”? Là sao? Là không tin, không dùng, cho xếp xó chứ? Thế mà cứ chịu ngoan một bề. Cả đến đời con cháu.
***
Trường Chinh chết, Hồng Ngọc, vợ Hoàng Minh Chính và Hà, con gái cả đến nhà chia buồn. Hai mẹ con về, Đặng Xuân Kỳ tiễn. Kỳ vừa đi qua sân sỏi vừa nói: ông cụ tôi ngoài không dám ăn uống bất cứ thứ gì. Họp Bộ chính trị với Trung ương cũng uống nước của nhà mang theo và nếu không về nhà ăn trưa được thì ông cụ nhịn.
Thấy tôi ái ngại lắc đầu, Hồng Ngọc cử hỏi: Muốn giữ vệ sinh hay là còn gì nữa hả? Giữ vệ sinh hay giữ thân đều phải chú ý đằng miệng.
Hồng Ngọc hơi ngẩn ra.
- Giữ vệ sinh thì khảnh cái đưa vào miệng, giữ thân thì kén kỹ cái đưa ra.
Hồng Ngọc:
- Tay Trần Đĩnh này!
Hoàng Tùng viết trong hồi ký: “Một nỗi đau của Bác Hồ là mấy vị đầu não của Đảng không ưa nhau. Từ 1966 - tức là sau Nghị quyết 9 ba năm - Bác hay mời cơm mấy vị sang ăn nhưng chả ai nói với ai câu nào. Thế mới biết học Bác khó quá thay vậy!”
Có thể từ khi không còn Bác để cố công nhờ mấy bữa cơm hàn gắn nội bộ đầu não Đảng và đất nước, Trường Chinh thôi ăn ở chỗ lạ. Với ông, nay chỗ ăn lạ duy nhất là chỗ của đảng. Nhưng phi đảng mời thì còn ai mời ông? Tôi lạ là các bộ óc đầy hằn học, nghi ngờ nhau như vậy lại vẫn nhất trí được với nhau trong việc trị dân.

Chương 18
N
guyễn Văn Linh lên, tôi thuyết phục mọi người tin ông. Ông từng mất ghế Bộ chính trị, rớt xuống làm chủ tịch Tổng công đoàn lênh phênh nhàn rỗi. Ông đã nói ngoài Bắc làm ăn như “con c…”, rồi bị phán Nam bộ “sặc mùi Nam Tư” nghĩa là toan theo tư bản. Ông đã ra nghị quyết không khai trừ tù cộng sản ở Côn Đảo vờ “ly khai”, trái với nghị quyết của Sáu Thọ. Ông tán thành Trần Văn Trà ra hồi ký “Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm” bóc mẽ Văn Tiến Dũng gạt Giáp, xí phần và đề cao Sáu Thọ, quyển sách rồi bị cấm lưu hành.
Tôi thích nhất câu Linh nói với Ba Khiêm, Hai Khuynh, Xích Điểu: Nhiều đêm trước khi ngủ tôi sợ sáng mai mở mắt đã thấy cờ của thằng nào cắm khắp Sài Gòn mất rồi. Việc Linh có gan chấp nhận sự thật đen tối đã đủ cho tôi tin ông. Vì tôi thấy ở đằng sau tất cả những điều trên đây, chính là ông đã nhận ra cái điều chí mạng cho đảng: Nhân tâm đang không cùng với Đảng. Thì mới có thằng của nợ nào đó nó cắm được cờ của nó lên khắp Sài Gòn chứ! Và mới nữa là ông trả tự do cho Hoàng Minh Chính, Hoàng Chính.
Vừa thấy ở trên tờ Le Nouvel Observateur có bài của Nguyễn Đức Nhuận không chỉ ca ngợi ông tích cực đổi mới mà còn tố cáo Lê Đức Thọ ngăn cản đổi mới, ông đã xoá cho Nhuận cái tội từng đăng trên Le Monde mấy tiếu lâm (cho Cụ Hồ mắc lỡm vàng giả “độc lập, tự do” của Bộ chính trị và lòng dân muốn các ông lãnh đạo nhảy máy bay chết hết). Ông đã cho mời Nhuận về nước. Có nghĩa ông hy vọng Nhuận sẽ ca ngợi Đổi mới và ông hơn nữa, cũng như kể tội Lê Đức Thọ ra hơn nữa.
Làm gì mà Thọ không biết chuyện này? Mà không thấy Linh tán thành Nhuận bêu ông lên trước thế giới? Vậy ông chịu bó tay hay sẽ chống trả?
Linh như thế, sao mà tôi không tin?
Đến thăm Chính vừa ra tù, tôi bảo anh nên viết thư vừa cảm ơn Linh vừa nói chúng mình ủng hộ Linh đổi mới. Chính bảo còn cần phải xem thế nào đã. Tôi lại thuyết phục anh về Linh. Nhưng Chính muốn tôi hệ thống hoá các nhận xét về Linh.
Nói tin Linh nhưng tôi vẫn thấy cần có quả bóng thăm dò Linh. Tôi viết đơn tố cáo hai ông Hoàng Tùng, Hồng Hà ức hiếp người lao động là tôi, bắt tôi về hưu non trái pháp luật. Còn con trượt đại học thì Hồng Hà đưa vào làm thợ ở nhà in vì Hồng Hà biết ba tháng nữa một đoàn thợ in của báo sẽ sang Liên Xô học nghề rồi sau đó sang ngay Đức học năm năm nữa lấy “bằng đại học” về in. Cậu con quả nhiên vào đoàn thợ du học! (Thự nhà in báo đảng lại bảo tôi anh ơi, anh phải nói là ru học!… Thì đi êm như ru ấy mà lại).
Chắc chẳng mấy thích hai ông chủ báo Nhân Dân từng lên án Sài Gòn sặc mùi tư bản, Linh giao cho Ban bí thư xét đơn kiện của tôi.
Sáng 6-1-1987, tôi nhận thư của Ban bí thư do Nguyễn Đức Tâm ký mời hôm sau đến gặp.
Tôi đến 10 Nguyễn Cảnh Chân, trường Tây con cũ. (May mà Tây xây cái trường cho trẻ con thực dân này chứ không thì Trung ương Đảng lấy đâu ra chỗ làm việc oách thế?)
Người thay mặt Ban bí thư tiếp tôi là chính Lê Công Tuấn, người hỏi cung tôi chín năm trước và nay sắp lên vụ trưởng vụ bảo vệ, Ban tổ chức trung ương thay Nguyễn Trung Thành.
Thấy Tuấn, tôi ngán. Biển hiệu mới nhưng vẫn chủ quan và dao thớt mùn thớt cũ. Đồng thời cũng thấy Tuấn phải dè nể tôi. Quần cung tôi suốt mấy tháng, Tuấn thừa biết tôi là thế nào.
Tuấn đon đả nói ngay:
- Anh Trần Đĩnh ạ, thế này, anh xem đây, Ban bí thư rất dân chủ. Nhận chỉ thị tổng bí thư, Ban bí thư họp ngay với anh Hoàng Tùng, đảng uỷ báo Nhân Dân để nghiên cứu vụ anh kiện. Bây giờ kết luận thế này nhá, anh Đĩnh ạ: Việc để anh về hưu non là đúng vì anh ở trong tổ chức chống đảng, lật đổ. Nhưng vì anh thâm niên, có cống hiến cho báo nên đảng chiếu cố do đó báo đảng làm giúp luôn hết thảy mọi khâu thủ tục hộ cho anh. Cũng vì chiếu cố nên không lập hội đồng giám định y khoa hay kỷ luật như anh đề nghị. Còn anh không nộp mà có ảnh dán vào sổ hưu thì là thế này, anh quên thôi. Khi làm sổ lao động, anh có nộp thừa một số ảnh cho nên nay cơ quan lấy ra dùng.
Miệng nói, tay Tuấn mở cặp lấy ra năm sáu bức ảnh chân dung tôi cho vào lòng bàn tay khẽ xóc lên. Khôn mà không ngoan: Đưa ra quá nhiều ảnh làm bằng! Làm cái sổ lao động ẩm ương mà đứa nào lại đem nộp cơ quan những ngần kia ảnh? Và có phép nào được lấy ảnh cũ có sẵn dùng cho việc mới? Thú thật là nhìn đống ảnh tôi sởn da gà. về vật lý, tôi thấy tôi như đã ma hoá. Kinh tởm cho sự man trá tập thể. Và sự ăn nói bạt mạng.
Về vụ con trai Hồng Hà được cài vào làm thợ để chẳng phải thi mà đi ru học luôn hai nước, Tuấn đưa ra cả lô công văn, nghị định… để nói việc đó hợp pháp.
Hồng Hà chánh văn phòng trung ương thì tất yếu thuộc diện được che chắn chống kẻ xấu hãm hại rồi. Khi anh ta vào ghế này, tỏi đã có thư đê nghị Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh thay người khác vì anh ta chinh là “cái phễu ma quỷ” hứng mọi tin tức, tình hình cho đổ cả về kênh Lê Đức Thọ nữa. Tôi chưa biết Linh đề nghị để Chín Cần (Nguyễn Văn Chính - Phó thủ tướng 1981 - 1987) làm trưởng ban tổ chức mà bị Sáu Thọ lắc.
- Anh nói xong chưa, tôi hỏi Tuấn? À, nay đến lượt tôi có ý kiến lại với Ban bí thư, Anh nói Ban bí thư rất dân chủ đã họp ngay hôm Nô-en với anh Hoàng Tùng và đảng uỷ báo Nhân Dân về chuyện tôi kiện. Dân chủ nào mà lạ quá vậy? Dân chủ mà chỉ mời bên bị họp riêng trong bóng tối? Sao không mời cả tôi, bên nguyên? Anh nói tôi về hưu non vì ở trong tổ chức chổng đảng. A, ai kết luận thế? Điều lệ đảng quy định kỷ luật đảng viên phải tuyên bố trước mặt đảng viên sau khi đã trao đổi ý kiến với đảng viên, và nếu đảng viên không đồng ý có thể khiếu kiện lên tới tận Trung ương. Nào, đã ai gặp tôi trao đổi ý kiến? Các anh vi phạm như bỡn điều lệ đảng. Thứ ba, các anh nói chiếu cố tôi. Chiếu cố thì phải mời tôi ở lại làm việc quá cả tuổi hưu chứ sao tôi chưa năm chục đã bắt về và bất chấp tôi phản đối? Tôi gần ba năm phản đối quyết định sai pháp luật, các anh bèn trắng trợn vi phạm pháp luật, lén lút tự làm lấy mọi thủ tục mà người về hưu có quyền và có nghĩa vụ phải làm lấy như ký vào quyết định về hưu sớm. Không cần tôi nộp ảnh, các anh man trá in ảnh trong lý lịch tôi để làm bậy sổ hưu vắng mặt tôi! Tôi rồ hay sao mà nộp ảnh thừa nhiều đến thế này? Cơ quan rồ hay sao mà lưu giữ ảnh nhân viên lâu và nhiều thế này? Ba tháng đã gọi đồng nát đến bán tống bán tháo sách báo, bản tin, tài liệu cũ mà lại đi nâng niu ảnh thừa của tôi thế này ư?… Thôi, tôi đề nghị anh về nói lại với Ban bí thư trung ương rằng kết luận của Ban bí thư về việc tôi khiếu nại là mờ ám, khuất tất và từ đầu đến cuối đều sai pháp luật.
- Ố! - Tuấn khẽ kêu lên, mặt trắng bệch ra.
Hãi công khai, hãi trung thực. Rồi khẽ nói, như sự có người nghe thấy: Đây là kết luận của Ban bí thư trung ương, anh Trân Đĩnh!
- Biết thế tôi mới nhờ anh báo cáo nguyên văn nhận xét của tôi với Ban bí thư chứ.
Khoác túi vào vai, tôi đứng lên nói: “Chỉ việc thấy anh đến gặp tôi, tôi đã kết luận là các anh sai pháp luật. Xưa hễ học sinh ta và Tây đánh nhau là cảnh sát tự động bênh Tây, nay đảng tự động bênh đồng chí và cán bộ cao cấp, y hệt nhau. Tôi không ngờ Ban tổ chức trung ương mà lại thu nhận vào hồ sơ lưu trữ của mình các tấm ánh man trá ghê gớm này”. Nói câu này tôi rợn người, có lẽ nhìn thấy ma cũng như thế này.
Cảm giác lờm lợm còn lại mãi cho tới khi tôi vào Trường Bưởi để kể lại cho Trần Thư, Mai Luân. Trần Thư đã đi cùng tôi từ Cầu Giấy đến cổng Văn phòng trung ương.
Chúng tôi thấy: Một, Linh sẽ bất lực vì bị bộ máy che mắt, trói tay. Hai, vây cánh Sáu Thọ rất hùng hậu, vụ án xét lại vẫn là tai ương tiềm ẩn với họ. Ba, họ có thể làm những trò gian trá.
Tôi viết một thư gửi Nguyễn Văn Linh nói lại việc gặp Tuấn cùng nhận xét của tôi về Ban bí thư khuất tất, mờ ám và hoàn toàn sai pháp luật. Có thể Hồng Hà ở Văn phòng trung ương đã “hàn khẩu” bằng nhét rác vào miệng phễu.
Khi Linh giải tán hai đảng Dân Chủ và Xã Hội, tôi tán thành. Các vị thân sĩ thoát phận bù nhìn! Lúc này mới biết Đảng Xã Hội chỉ có 92 đảng viên ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, với tuổi bình quân đảng viên là 76! Sau 1975, Đảng Xã Hội xin cho mở vào Nam nhưng Đảng Cộng sản lắc - “giải phóng dân tộc” xong rồi bày kiểng làm gì? Dịp ấy, Lưu Động đến chào Tổng thư ký đảng Nguyễn Xiển, vốn là thày cũ. Nói “tôi bị Đảng đánh vì chống đảng” thì thầy nghẹn ngào: “Tôi hèn… tôi hèn… thấy cả đấy mà chẳng dám làm gì…”.
Linh thật sự được lòng trí thức trong cuộc họp ông nêu mấy khẩu hiệu lẫy lừng một thời: “Chống im lặng đáng sợ”, “tự cởi trói”. Nguyễn Khải bảo tôi là ngồi nghe mà anh ngỡ ngủ mê, mồm há hốc ra, không ngờ và sướng quá mà. “Còn Nguyên Ngọc ở ghế trên thì nhợt cả mặt đi, ghì lia lịa như máy, hắn phải viết tường thuật mà”.
Nguyễn Khải tham luận trên báo Văn Nghệ nói chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa nó hại anh, nó cấm anh phê phán. Chính sách giả, nhà văn ca ngợi chính sách giả hoá ra giả nốt, rút lại ba thằng nhà văn nói dối lẫn nhau.
Nguyễn Minh Châu gửi một “Ai điếu” cho “nền văn học nói dối” (Một chiều trên hồ Đại Lải, anh bảo Dương Thu Hương: “Dấu chân người lính” của tôi dụ bao nhiêu thanh niên vào chỗ chết).
Chắc Di cảo cựa quậy trong đầu Chế Lan Viên những ngày tưởng tiếng nói chân thành sẽ là tiếng chung của đất nước.
Một hai năm sau, sau chuyến Linh đi Trung Quốc, một hôm Đinh Văn Đảng khẽ bảo tôi: Tôi nghe thấy cái này… không biết đúng sai thế nào nhưng…
Thấy ngay Đảng không tin nhưng anh không thể giữ riêng cho mình cái tin này. Cuối cùng anh nói: Vừa rồi Nguyễn Văn Linh sang gặp Giang Trạch Dân. Hắn lại bắt Linh đến Thành Đô chứ không gặp ở Bắc Kinh. Linh đã nói với Giang Trạch Dân rằng Lê Duẩn chống Trung Quốc là sai lầm, chúng tôi nay sửa sai, xây dựng lại mối quan hệ anh em thân thiết với các đồng chí.
Giống Đinh Văn Đảng, tôi cũng không tin Linh lại có thể xuống xề đàn em dữ như thế. Tôi chỉ hỏi Đảng: Ai nói với ông?
- Mình khó nói đấy, Đảng cười như cáo lỗi… Nhưng người này đứng đắn.
- Có phải Tạo Cuội không?
Đảng vẫn cười không nói.
Phải nói tin này có hai tác động với tôi. Một là không tin Linh vạch tội Lê Duẩn ra với Trung Quốc nhưng tôi lại thú vị thấy uy tín của Duẩn đã tụt xuống đến mức bị đem ra bêu với Trung Quốc. Tuy cũng biết ở đây có thể có cả ác cảm cá nhân của Linh đối với Duẩn. Tóm lại tôi còn tin Linh. Một người vừa hết chiến tranh đã đến kéo ngay Ung Văn Khiêm “chống đảng” về Sài Gòn, bất chấp phép tắc.
Lê Giản cho rằng Linh mời anh đến nói chuyện là một dấu hiệu Linh có tình nghĩa. Tôi cũng cố ý không nhớ câu Ung Văn Khiêm nói khi tôi hỏi anh về Linh. “Linh ấy à? cậu này nó khó hiểu đấy!” Mà chỉ nhớ khía cạnh Linh ưu ái Khiêm. Chỉ nhớ câu “sáng sau dậy thấy cờ nào đã treo đầy ở Sài Gòn!” Rồi đi tới hiểu ra thành Linh đồng tình với Khiêm về mọi sự. Tôi đã nói ở đâu: “Hy vọng không trọng lượng nhưng đè sập bao đời người”.
Giữa những ngày he hé cửa cho trí tuệ rón rén ló đầu ấy, Dương Thu Hương và Thanh An điện ảnh đến tôi. Tiếc quá, tôi vắng, không được tiếp nhà văn nữ vừa nổi lên với sức công phá trẻ trung, mới mẻ vào dinh luỹ Thiên đường mù.
Tôi đến chào lại Dương Thu Hương. Đinh Văn Đảng bảo cho mình đi với.
Những ngày này tôi đọc Những ý nghĩ trái khoáy của Gorki. Ông ra tờ Tân sinh hoạt từ trước Cách mạng tháng 10 và ông lớn tiếng phản đối ngay khía cạnh vô nhân đạo của cuộc cách mạng này khi nó lập tức tước đoạt tài sản quý tộc, tư sản, đuổi đàn bà, trẻ con ra khỏi nhà để rồi chân trần kéo nhau đi trên tuyết. Bút chiến giữa Gorki với các cây bút của đảng lên đến cực điểm khi ông lôi Lê-nin ra công kích. Viết Lê-nin biến đất nước Nga thành bản thảo để thử những cuồng mộng tiểu tư sản của mình. Cuối cùng vợ Lê-nin đã ký nghị định đóng cửa tờ báo của Gorki. Gorki “được” sang nghỉ ở đảo Capri, Italia. Lê-nin mất, ông về nước và chứng kiến những cái chốt có công dụng làm cẩm khẩu người sống. Thành lãnh tụ vãn học xô viết, Gorki quay sang bảo vệ lừa dối. Vở kịch Nói dối của Afinoguenov ca ngợi cần phải dối trá vì lợi ích cách mạng đã bị ông phê phán là bênh vực yếu đuối cho dối trá, cái sự tất yếu trong cuộc đấu tranh vì chiến thắng của chân lý vô sản. Ông viết hẳn bài báo “Chống lại sự thật”. Riêng nhà văn Pháp Romain Rolland trước vẻ bảnh bao tư sản của Gorki ở Đại hội Hoà bình thế giới năm 1935 vẫn nhận thấy “lão già vô chính phủ này chưa hề chết” ở nụ cười mệt mỏi của Gorki.
Có lẽ Gorki vẫn sẽ cứ mãi Gorki “chua chát đắng cay” nếu Hoàng đế Đức không chấp thuận một đề nghị của Lê-nin. Theo một tờ báo Đức, ngày 23-3-1917, người của Lê-nin đến xin hai đại sứ Đức, Von Romberg ở Thuỵ Sĩ và Von Brockdorf - Rantzan ở Đan Mạch chuyển tới bộ trưởng ngoại giao Đức, Arthur Zimmerman đề nghị của Lê-nin gửi Hoàng đế Đức xin cấp giấy tờ và phương tiện cho Lê-nin về nước ép chính phủ Nga ký hiệp ước hoà bình với Đức để Đức rảnh tay đánh Pháp, Anh, Mỹ, Ngày 14-4, Hoàng đế Đức phê duyệt. Lê-nin lên một toa xe hàng cặp chì niêm phong qua Đức và Stockholm về Petrograd ngày 16 để lật đổ Kerenski chính phủ tư sản dân quyền đầu tiên của Nga. Tin Lê-nin về Petrograd này in lại trong Biên niên Thế kỷ 20 mà Nhà xuất bản Thế Giới đưa tôi dịch.
Rồi Lê-nin ký nhượng Brest-Litovsk cho Đức. Đến Stalin thì ký hiệp ước bất khả xâm phạm Đức phát xít - Nga Xô. Đều là nhượng bộ Đức để trút tai hoạ cho phương tây. Nhưng Hitler xấp mặt hơn. Chính Nga Xô nhận đòn đủ.
Trần Châu thình lình giữa đêm lên cơn hôn mê co giật. Vợ anh cho anh lên xe cải tiến rồi ngồi ôm anh cho đỡ xóc, còn làm bò kéo là một người họ hàng. Xe cải tiến gập ghềnh lăn bánh năm cây số đường quê khuya khoắt đến bệnh viện huyện và Châu thoát nạn. Năm sau tái diễn một cơn nguy cấp hơn. I.ại xe cải tiến khuya khoắt đáo đồng lắc lư. Xe vừa đặt càng vào hiên bệnh viện thì mưa ầm ầm đổ xuống.
Nhưng lúc đứng bên giường bệnh nhìn Châu li bì tôi lại nghĩ tới các gian truân anh trải và cái may thoát trận mưa kinh hoàng mà chỉ chậm mười phút là anh cầm chắc chết. Lại nghĩ tới bức thư đấu tiên sau mấy năm biệt giam anh gửi tôi hồi 1969: Nếu còn tình anh em thì Đĩnh làm ơn gửi cho minh xin ít thuốc lá, diêm, giấy trắng, bút và vài đồng. Cái giọng thư e dè làm tôi nhòe mắt. Biết thế nào? Thế thái nhân tình hoàn toàn chiếu theo lập trường địch ta mà đối xử mà. Bài học xấu xa thời Cải cách Ruộng đất cuối cùng vẫn cứ được người ta tuân thủ. Bạo lực đã cho một vết hằn kinh hoàng lên tâm trí, vô thức của tất cả. Biết nó xấu, nguyền rủa nó nhưng vẫn không dám từ bỏ nó những khi cần có thái độ trước chuyện “địch ta”. Nghĩa là Châu đã chuẩn bị nhiều phần tôi sẽ ngoảnh mặt đi. Kia, vợ anh đã bỏ anh. Nhưng thư cho tôi vì Châu vẫn tin vợ chồng tôi.
Tôi thích thú khoe ở báo Nhân Dân là nhận được thư Châu. Một số anh em liền khuyên ngay tôi “cắt đứt”. “Này, cẩn thận không lại mất mạng…“
Từ đấy tháng tháng tôi gửi thư và tiền tiêu, quà cáp cho anh. Hiểu rõ rằng Châu thừa biết đây vượt xa ra ngoài đồng tiền tấm bánh. Sau này anh bảo nếu đảng biệt giam tiếp, nếu không liên hệ được với tôi thì chắc chắn anh chết hoặc điên. Anh chị em tù xét lại đều khổ như nhau. Nhưng Châu chịu thêm một nhát chém ngang mình: Vợ anh gửi đơn vào tù yêu cầu anh ký li dị. Việc này đau hơn việc bị tù, anh nói. Trong lịch sử tù có mấy chuyện như thế?
Ở nhà máy nông cụ Quốc Oai, một nữ cấp dưỡng hai con thương anh. Hai người đi với nhau ở phố huyện, dân chửi con đĩ cặp bồ với thằng tù già. Sao chửi? Tôi thật không hiểu làm sao mà Đảng dạy được cho dân có được lập trường chính trị cao siêu đến thế.
Lại văng vắng bốn tai lời Nona, vợ Nguyễn Tài Cẩn: Tôi đi đường cứ bị chửi, cả trẻ con ném đá rồi chửi “đ… mẹ, con xét lại”…
Chúng ta có một kho vũ khí vô tận mà nếu xuất khẩu được thì giàu và danh giá to. Đó là vũ khí “đ… mẹ nhà mày”. Đảng dạy dân yêu nước bằng cách “đ… mẹ” nước khác, trừ hai nước cộng sản đàn anh.
***
Nguyễn Khắc Viện viết Hai mươi lăm năm ấy đăng trên báo Văn Nghệ, rằng mừng là từ ngày sạch bóng quân viễn chinh Pháp, đất nước đã sạch bóng phản động, lưu manh, gái điếm. Chúng đã rút cả vào Nam. Căn dặn mọi người nắm chắc chuyên chính vô sản, “cần nhớ dân chủ với ai và chuyên chính với ai”.
Tôi viết cho Viện một thư nhờ Hoàng Minh Chính chuyển. Vì từ 1963 tôi không giao du với Viện nữa sau khi hỏi mượn anh số báo Pensée (Tư tưởng) tháng 5 mà anh bảo không có, sau khi đã cất giấu nó đi. Thư tôi nói không tán thành anh phân biệt đối xử theo chế độ chính trị và ý thức hệ. Nó dễ thành kiểu thanh lọc chủng tộc khiến người ta sẵn sàng nghĩ ở lục địa Trung Hoa thì tốt, ở Đài Loan thì xấu; Việt kiều ở Pháp xấu (hơi gợi ý đến chuyện anh từng bị dư luận kêu rằng anh “ủng hộ Hitler và có công đưa học sinh Việt sang Đức quốc xã học” sau khi Pháp đầu hàng), Việt nội địa tốt; đồng bào trên vĩ tuyển 17 tốt, đồng bào dưới vĩ tuyến xấu. Và đuổi người Hoa thì lãnh thổ liền trong veo. Vả chăng, nếu phản động, lưu manh, gái điếm dạt cả vào trong kia như anh nói thì có nên sướng vì đồng bào trong kia chịu đựng hộ cho ngoài Bắc không? Còn nay quân viễn chinh nào đến Hà Nội mà tối tối ở hông cơ quan thành uỷ, gái điếm đứng đầy lên đến hai nẻo vệ đê sông Hồng, nhận ra ngay vì mông mẩy đùi vế cứ trắng hếu như cò? Tôi nói anh nghĩ lỗi thời về chuyên chính vô sản. Vâng, xin hỏi anh ai được phép cho ai dân chủ, cho ai chuyên chính?
Viện trả lời. Cũng qua bưu điện dân doanh Hoàng Minh Chính. Anh tán thành không nên gọi là phản động, lưu manh mà nên gọi là “rác rưởi”, chỗ này anh đã “dùng chữ chưa chính xác” chứ còn, anh nhấn mạnh, “chế độ xã hội chủ nghĩa thì tất nhiên là phải tốt đẹp hơn chế độ tư bản”. Còn anh không nói đến chế độ Quốc xã của Hitler như từng ca ngợi nó trong một bài báo viết khi còn ở Pháp mà Trần Đức Thảo vẫn giữ nguyên cả hai trang và đưa tôi xem.
Về chuyên chính, anh thẳng thắn nói anh phản đối “anh (Trần Đĩnh) và một số trí thức hiện nay bài bác chuyên chính”. Anh viết: “Tôi phản đối Mao nhưng tán thành Stalin chuyên chính với đế quốc”. Dĩ nhiên cuối cùng anh nói thêm “tuy nhiên tôi không tán thành đàn áp nhân dân”.
Hoá ra anh không thấy rằng khi đã chuyên chính với đế quốc thì khó mà tránh được chuyện đàn áp kẻ thù trong nó nấp ở nội bộ nhân dân! Mà đấu tranh trong đảng là phản ánh đấu tranh giai cấp ở ngoài xã hội và đặc biệt càng gần thắng lợi lại càng gay gắt. Thủ tiêu, bắt bớ tất phải nhiều lên.
Vũ Cận đọc thư Viện gửi tôi xong nói: Anh Viện rất giống Đảng, không bao giờ nhận mình sai. Vũ Cận và Viện cùng cơ quan, cùng chung trách nhiệm xuất bản sách báo tiếng Pháp. Cả một thời gian dài, tôi không viết cho báo nào. Thôi đi, đón gió, hóng hơi làm gì. Tôi đã có một bài học: Theo lời Sáu Thọ, cho Nguyễn Đức Thuận đứng đèn và nhịn khát mười sáu ngày liền, rồi tôi có muốn thanh minh sao thì cũng vẫn cứ lòi ra là một gã thơ lại.
Thì một hôm đến Vạn Lịch, tôi gặp Tô Hoài. Tôi nói: Lâu lắm rồi, vẫn thế nhỉ, mắt vẫn hoa tình, nói nôm na là đĩ.
(năm 2009, tôi đến Tô Hoài. Câu đầu tiên lại nói: “Cha này 90 rồi mà mắt vẫn đĩ nhỉ!” Tô Hoài sướng cười tít cả mắt lại).
Tô Hoài bảo cậu viết cho Người Hà Nội đi.
- Thật chứ, tôi hỏi? Muốn thử Tô Hoài.
- Thật. Đăng hẳn cả tên Trần Đĩnh của cậu ấy chứ… Tớ đếch sợ!
Nhân báo Người Hà Nội của Tô Hoài vừa đăng một bài của Mai Ngữ nói xã hội ta nay nhiều tiếng tục, tiếng lóng quá, xin ngành văn hoá ra tay, tôi viết bài Vượt rào xổ lồng. Cho rằng tiếng tục, tiếng lóng vượt rào xổ lồng là vì chữ nghĩa quen thuộc đã bị lạm dụng thành xác xơ, dân phải lấy tiếng lóng, tiếng tục nó tươi tốt, mơn mởn sức sống ra thay. Thí dụ: giỏi thì thành đểu; hăng hái thì thành máu, ngầu; thành công, thắng lợi thì thành vào cầu, trúng quả… Người dân ưng tiếng lóng tiếng tục hơn vì ngoài sức sống trẻ trung, tiếng lóng tiếng tục còn cho người dùng nó một mã hiệu về tổ chức, khi dùng nó lập tức thấy ta có vai vế hơn trong xã hội - ấy là được ở trong bè đảng cùng với những phe, những phò, những đầu gấu đông đảo, hùng mạnh đến mức công an cũng phải ngại. Đây không là địa hạt văn hoá mà sang địa hạt chính trị - xã hội mất rồi. Dân mượn tiếng lóng, tiếng tục để đổi chứng minh thư. Nói cho đúng nhất, một cách vượt biên ở ngay trong nước! Đó là tinh thần bài viết chứ cố nhiên nếu tôi viết “đổi chứng minh thư” hay “Vượt biên” thì chắc chắn Tô Hoài sẽ phải bỏ. Vượt biên là cực phản động. Chả thế Đảng phải ra luật phạt rất nặng với ai vượt biên. Tô Hoài đã đăng với tên Trần Đĩnh. Người đầu tiên phá cái hàng rào giam kín tên tôi.
Mai Văn Hiến thư ngay cho tôi: “Cóc đọc tên tác giả tớ cũng biết thừa là cậu. Rất hay. Đến tớ chơi đi”.
Vạn Lịch hò hẹn đạp xe vào tận Cầu Giấy đưa nhuận bút. Tô Hoài nó nhờ tao, anh nói. Nó bảo cậu chơi khăm, đề địa chỉ ở nhà Lê Đạt vậy Tô Hoài nó khó đến mà bảo nhân viên đem đến thì càng không hay. Thế là nhờ tao.
Đã lâu, Vạn Lịch ra toà cãi bênh Tạ Đình Đề. Sau đó, anh bảo tôi: Có đứa nó bảo tớ các cụ đang cáu, mày nên tạm lánh lên Hà Đông đi.
Tôi bảo anh, một trưởng ty Hà Tây sắp bị khởi tố vì tham nhũng thì bí thư tỉnh gọi chánh án đến hỏi anh là gì? Dạ, tôi là chánh án tỉnh. Chỉ thế thôi sao? Dạ, còn là đảng viên. À, vậy anh nghe luật hay đảng? Không xử trưởng ty nữa… Muốn nghe nữa không? Có nhớ cua rơ xe đạp lừng danh Đông Dương Vũ Quốc Thân không? À, con cụ Tư Đường giàu có tiếng Hà Nội. Bây giờ cả nhà rúc ở một căn hộ chật hẹp ở Mã Mây để sửa xe máy. Chung nhà vệ sinh với một hộ bên cạnh thì hộ nó bít tường, cả nhà Thân toàn phải đi vài trăm mét qua đê sông Hồng làm chuyện vệ sinh hàng ngày. Thân kêu, tớ bèn nhờ Nguyễn Đức Mưu chuyên phụ trách mục Ý dân ở báo Hà Nội Mới. Mưu hăng hái nhận lời nhưng mấy hôm sau bảo tớ là mình không làm được vì cái hộ nó chiếm nhà vệ sinh của Vũ Quốc Thân lại là em bà phó chủ tịch thành phổ Hà Nội. Đấy, tuỳ cậu…
Nghe tôi, Vạn Lịch thôi “sơ tán”. Chả đâu có hầm hố tử tế cho anh trú ẩn.

Chương 19
M
ột sáng hè ở Sài Gòn, Nguyễn Văn Trung (giáo sư Triết các đại học miền Nam trước 1975 - BT) đạp xe đến tìm tôi. Mời đến nhà ăn cơm với Nguyễn Đức Nhuận mới ở Paris về thăm nhà.
Mới hôm nào Nguyễn Văn Trung mời Nguyễn Khải, tôi và vài anh em đến nhà Nguyễn Linh, phó tổng giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật nghe anh trình bày quyển sách anh mới viết về tình hình Thiên chúa giáo, Cơ đốc giáo xâm nhập Việt Nam. Anh đã nghiên cứu công phu, soạn thảo rõ ràng và viết khá hấp dẫn. Anh nhấn mạnh đến thái độ bình Tây sát tả của nhà Nguyễn, một chính sách dập khuôn Nhà Thanh. Tôi đã có ý kiến: “Anh viết khá hấp dẫn. Giá như anh nhấn mạnh hơn đến vấn đề quyền tôn giáo là một nội dung quan trọng của quyền con người. Nên đứng cao hơn nhãn quan triều vua Nguyễn”. Đến nhà Trung; thấy Nhuận, tôi chìa tay: Bonjour Van Dulik, - chào Văn Du Lịch.
- Anh biết, Nhuận cười hỏi lại?
- Viết trên Le Monde với Le Nouvel Observateur hay thế, ai lạ nữa?
Le Nouvel Observateur vừa đăng một bài của Nhuận (tôi đọc bài báo hai trang thấy quá hay) ca ngợi đổi mới cùng người hùng của nó là Nguyễn Văn Linh và chỉ ra người cản nó là Lê Đức Thọ. Ai chả thấy đổi mới là chống Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cùng công ty. Ở Paris mà biết chuyện Thọ cản thì Đảng tất phải biết. Về chỗ này Nhuận sẽ cho thấy dưới đây.
Nhuận cho hay sau khi Hà Nội tịch thu tờ Le Monde đăng mấy tiếu lâm của anh, anh không xin được thị thực về nước nữa. Nhưng gần đây bỗng một hôm đại sứ quán ta ở Paris đến thăm. Hỏi giáo sư bận gì mà lâu nay ít về nước? Nhuận nói vì không xin được thị thực thì đại sứ quán ta kêu trời lên sao lại có chuyện lạ đó được chứ giáo sư? Giáo sư muốn về là có thị thực ngay thôi mà. Quay ngoắt này là nhờ Madeleine Riffaud đến Việt Nam đã đưa cho Nguyễn Văn Linh tờ Le Nouvel Observateur trên kia.
Có nghĩa rằng Linh biết rõ đồng chí mình cản mình nhưng im. Sợ Thọ. Và Thọ biết. Quân hầu thày tớ phải báo Thọ chuyện Linh mời Nhuận về chứ! Chung sống “hài hoà” trên cơ sở cảnh giác, nơm nớp với đối thủ sát nách và ngấm ngầm chờ thời, tạo thời là võ đầu tiên để sinh tồn của phần lớn những vị lãnh đạo ở các đảng cộng sản. Trong lúc chờ đợi ai hạ ai thì cả đôi bên đều cùng chung sức chung lòng giấu dân cái bí mật kẻo nó phanh ra thì các vị mất hết đến cả chỗ để đòn nhau. Trường Chinh ôm mộng đổi mới để chuộc lỗi với dân nhưng thua Sáu Thọ phải bỏ về ngồi nhà, việc ấy đã chấm dứt thời kỳ hai phe Trường Chinh - Lê Duẩn âm ỉ giằng co. Thọ sẽ cho Linh về theo nốt và lúc ấy đàn em Thọ sẽ lên và. Thọ thu vén sơn hà vào tay, không còn lo đứa nào chọc phá nữa. Để giữ vững vai tổng bí thư, Linh nhảy sang quy hàng Trung Cộng.
Tôi đã trò chuyện với Nhuận dăm buổi. Phải nói tôi cần cảm ơn Nguyễn Văn Trung đã tin tôi mà mời tôi đến gặp Nhuận để cùng trao đổi ý kiến về tình hình đất nước.
Chẳng hạn về vấn đề trí thức. Tôi nói ở ta không có trí thức theo nghĩa intelligentsia mà chỉ có tầng lớp thơ lại, công chức fonctionnariat của Đảng và Nhà nước được tu luyện trên ba bài bản ở đại học là sử đảng, chủ nghĩa duy vật biện chứng và kinh tế xà hội chủ nghĩa. Còn về chính trị? Ở ngoài chớ nên “giáo điều”, nghĩa là thấy thế giới có gì thì ngỡ trong nước cũng y thế. Không, Lại chẳng hạn như chính trị. Tất cả quốc sự, dân sự đều do tổng bí thư và vài ba ông chủ chốt trong Bộ chính trị quyết định. “Tổng thống Mỹ, Pháp cũng thế”, Nhuận nói. “Nhưng ý kiến của tổng thống lại phải được hạ viện, thượng viện rồi Quốc hội thông qua”, tôi nói, còn ở Việt Nam chỉ có cây kiểng. Hay chẳng hạn kinh tế. Kinh tế Việt Nam là loại đặc biệt, què quặt, bất toàn, sơ đẳng, lạc hậu, nó chỉ chạy phập phù để tự túc tự cấp lấy một phần còm nào còn đời sống đất nước chủ yếu trông vào cưu mang của bên ngoài. Một ông chủ là đảng quản lý bao la bát ngát hết toàn hộ dây chuyền sản xuất, phân phối, tiêu thụ của xã hội. Tất cả sức lao động đều là người làm thuê rẻ mạt của ông chủ. Từ lúc Marx còn sống Proudhon đã nói chủ nghĩa xã hội của Marx sẽ biến người lao động thành nô lệ hay tài sản gì đó của Nhà nước, tôi nhớ hình như thế có phải không anh Nhuận, anh Trung, các anh xài sách hơn tôi? Tóm lại, một nền kinh tế không tư hữu, không hàng hoá, không thị trường, không giá trị ngoài giá trị sử dụng xoàng xĩnh, được chăng hay chớ như bao diêm đánh bẹp cả hộp mới cháy cho mấy que. Nhưng lại nên thấy chất lượng hàng tiêu dùng đã góp phần nhào nặn nên chất lượng con người, tôi nói ở nghĩa phẩm giá, nhân cách. Con người cũng sẽ giống như bao diêm trăm que chỉ cháy một que. Mỗi người làm thuê cho ông chủ Nhà nước nhận một phần tem phiếu quy định mỗi tháng được hưởng bao nhiêu nhu yếu phẩm phân phối. Thí dụ sáu bao diêm (bị móc vơi mất gần nửa vì gian giảo là thuộc tính trời sinh của thứ kinh tế tạo ra bằng những kẻ đói ăn, thiếu mặc nên quay sang tháu trộm lại của Nhà nước). Thí dụ mạt cưa và củi mua về đốt lò nấu cơm thì ướt dề dề vì nhà mậu rẩy nước vào cho nặng cân. Thí dụ nước mắm pha nước lã, đậu phụ trộn thạch cao. Nhà nước độc quyền mọi sản vật, nhất là lương thực. Nông dân với tư cách xã viên làm việc láy công điểm, công điểm được ban chủ nhiệm quy ra thóc và tiến trình dẫn đến: “Mọi người làm việc bằng hai, Để cho chủ nhiệm mua đài, mua xe”. Tóm lại, một phương thức sản xuất mới nhất vì nó lạ lùng nhất, kinh hoàng nhất, lịch sử chưa hề nếm qua. Nhưng điều đáng chú ý hơn nữa có lẽ là chất lượng hàng tiêu dùng đã góp phần nhào nặn nên chất lượng con người, tôi nói ở nghĩa phẩm giá, nhân cách. Con người cũng sẽ giống như bao diêm trăm que chỉ cháy một que, sống điêu sống gian, sống vờ, sống giả.
Nhuận có nói chuyện với uỷ ban nhân dân thành phố. Anh bảo vấn đề có lẽ làm các vị lạ và khó chấp nhận là dân số sẽ tập trung vào vài thành phố. Hình như các vị cho rằng ngược lại, quy luật mác-xít lại đòi phát triển nông thôn lên ngang thành phố!
Một sáng trên đường Duy Tân, trước mặt Nguyễn Văn Trung, Nhuận mời tôi cùng anh làm một chuyến du lịch xuyên Việt, hết chuyến anh lại đưa tôi về lại Sài Gòn. Tôi thật tình cảm ơn anh nhưng xin kiếu. “Anh được về nước để có thể viết bài cho báo Pháp là rất quan trọng, vậy ta nên bảo vệ cái đó. Tôi cặp kè xuyên Việt suốt với anh thì e không hay”. Nhuận hỏi tôi ra Hà Nội nên gặp “xét lại” nào. Tôi lại nói cố giữ thị thực cho các lần về sau. Nay ra Hà Nội anh có thể gặp Trần Dần, Lê Đạt… vừa được tháo khoán phần nào.
Nhuận ra Hà nội không gặp ai. Chắc đã thấy tín hiệu.
Không ngờ 2010 tôi lại gặp Nguyễn Đức Nhuận. Ở Câu lạc bộ Cà phê Thứ bảy. Dương Thụ mời tôi dự đều như khách đặc biệt. Tôi đã đến bắt tay Nhuận, chào tác giả Những câu chuyện không thật ở Việt Nam trên Le Monde. Rồi kể với anh chị em ở đó chuyện cách đây hơn hai chục năm Nguyễn Đức Nhuận thình lình được vời về nước sau bao năm cấm bặt vì mấy chuyện tiếu lâm anh đăng trên Le Monde (có kể sơ lại mấy tiếu lâm đó nó thế nào) rồi chính lại nhờ một bài báo anh tố cáo Lê Đức Thọ ngăn cản Đổi mới cũng như ca ngợi Nguyễn Văn Linh đổi mới mà được “bị động” mời về ra sao.
Nói xong chợt thấy té ra tôi đã ôn lại một đoạn lịch sử chất chứa đầy trò cười ra nước mắt. Và vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt. Đất nước đã mắc phải một giống vi trùng có tên gọi tính đảng nó kháng lại mọi yêu cầu tử tế của con người.
***
Đi thăm Trần Châu thoát chết lần thứ hai về, tôi mừng quá đến ngay nhà Minh Việt để rủ anh đi cà phê sáng. Con rể anh báo anh bị xuất huyết đi cấp cứu ở bệnh viện và hiện đang hôn mê. Tôi rụng rời. Gan đã từng cổ chướng mà nay xuất huyết và hôn mê. Tôi đạp xe vòng qua cổng bệnh viện nhưng không vào, sợ thấy sự thật hãi hùng. Bèn cứ vào nhà Gia Lộc nghe ngóng.
Rồi Minh Việt chết. Đúng ngày 29 lấy làm 30 Tết. Anh phải chờ một mình trong nhà lạnh hết ba ngày Tết mới được đi ra khỏi cái mặt đất nhiều tội lắm nợ với anh
Đám tang anh ở nhà tang lễ Việt - Xô. Đông bè bạn và bắt đầu đã có nhiều tiếng khóc, những tiếng khóc như còn mang nếp vụng trộm râm ran lan rộng đi dần dần. Tiếng cán các con chim ra ràng khe khẽ tập bay. Vào luồng thương xót một nạn nhân đau khổ.
Tôi như bị liệt. Không đi bờ hồ hằng chiều nữa. Bờ hồ, vườn hoa Nhà kèn, vườn hoa Con cóc, đê và bãi sông Hồng, tít lên tới Nhật Tân (đồng đất mênh mông mà đi vào cứ ngỡ trở về nguồn về cội)… nhiều năm là chỗ Lê Đạt và tôi đều đặn dạo bước. Ở tù về, Minh Việt nhập bọn. Gần đây cái ghế đá trông sang Câu lạc bộ Thiếu nhi khống đủ chỗ thì ngồi ra đất và đứng. Sau này Lê Tự, tổng giám đốc su-pe phốt phát Lâm Thao một dạo cũng quần soóc trắng, tóc trắng lòng khòng, nhấp nhổm từ xa đã cười cười đi đến.
Xin nói thêm. Từ 1969, vùng này Lê Đạt và tỏi di như cơm bữa, có khi ngày hai ba lần. Một dạo, Lê Đạt còn sáng sáng đạp xe vào đón tôi ở tận đầu Núi Trúc, Ngọc Khánh - những chỗ bà con Cổ Nhuế đêm vào thành lấy trộm phân ở các nhà xí hai ngăn về vẫn đỗ “tập kết” đầy ở chỗ nay là cổng đại sứ quán Thuỵ Điển - để “dạ, xin rước anh đi làm ạ!” Những cuốc đi bổ ích cho cái chữ.
Chuyện đến chữ nghĩa, tôi thường rất bốc. Nghĩ tới người ta nói Picasso thiên tài ở chỗ đã bắt được hai mệnh lệnh của thời hiện đại là gẫy vỡsáng chế nên ông tự tóm tắt là “đặt mắt vào giữa hai đùi và bộ phận sinh dục lên mặt!” Gẫy vỡ và sáng chế đến thế! Vậy tôi cũng phải sáng chế. Tuyên ngôn xưng xưng lên với Đạt: Thơ là cho hai hành tinh xa lạ làm một cuộc hôn phối lóe sáng rồi đến đăng ký hộ khẩu thường trú ở trong thế giới xúc cảm của con người. Thơ là tiếng Nghệ trọ trẹ hay là nói nhịu vô thức tiếng Hà Nội. Wiliam Yeats nói rồi đó: Tranh luận với người là hùng biện, éloquence, nhưng tranh luận với chính mình thì là thơ! Tôi cũng bảo thơ Đường chính là một kiểu gá lắp cấu trúc các modules, - các cục tổ hợp có sẵn rất quen thuộc về đề tài nhớ bạn - gồm cả mỹ nhân, nhớ quê, chia li, nhân sinh, về hình tượng cũng như các cục từ tổ để cho nhà thơ gá lắp. Gá lắp giỏi thì bài thơ thành một tác phẩm độc đáo, mới. Không thì cóp-pi vô duyên người làm trước.
Minh Việt chết, tôi bỏ hẳn những chuyến đi. Sợ người bạn bị tước mất quyền dạo chơi xôn xao phố sẽ buồn.
Có một câu chuyện về hai vị thống đốc ngân hàng quốc gia mà qua Minh Việt tôi được nghe kể không lâu trước khi anh chết. Một chiều Minh Việt và tôi ngồi ở ghế đá vườn hoa Con cóc thì Tạ Hoàng Cơ ngồi xuống thăm hỏi Minh Việt. Lan man chuyện, Cơ kể là trước đây anh có một cửa hàng guốc ở Hà Nội, thuê dăm ba người thợ. Cách mạng vô sản đã đưa anh tiểu chủ đẽo guốc làm tới tổng giám đốc ngân hàng. (Cũng không khó vì ngân hàng vô sản chỉ là một kiểu két bạc). Rồi về hưu. Lương còm, thiếu thốn, anh đành xoay xở thêm. Nhất nghệ tinh nhất thân vinh, lại nhào vào nghề guốc. Khốn là nay anh làm thợ đẽo guốc, sơn guốc cho một cửa hàng gần Hàng Điếu. Cơ cười hơi tự riễu: Không ngờ đời tôi lại quay về nghề guốc. Có điều trước kia là chủ, nay là thợ, thợ già. Minh Việt nói, thì chúng ta giải phóng cho công nhân lên ngôi chủ mà anh vẫn cứ là chủ thì chẳng hoá ra cách mạng của anh công cốc ư?
Ít lâu sau, cũng tại cái ghế xi măng nhìn sang Ngân hàng Nhà nước ấy lại gặp Lê Viết Lượng, cũng một tổng giám đốc Ngân hàng quốc gia về hưu. Anh vừa ở Sài Gòn ra. Khoe chỉ ba ngày Tết vừa rồi anh kiếm có tới bao nhiêu vạn đồng.
- À, coi xe ở vườn hoa Tao Đàn. Trong kia, anh thấp giọng giải thích, là thuộc địa cũ của Mỹ cho nên họ quen ăn chơi rồi, Tết đến xe gửi cứ là bạt ngàn.
Minh Việt lại đùa, nhờ thuộc địa cũ của Mỹ mà về hưu anh vẫn được là đày tớ của dân nhưng khác là nay anh chuyển sang lao động chân tay thì thù lao lại bộn.
Những kỳ tích kiểu hai ông trên đây lẽ ra đảng nên tuyên truyền nhiều không kém các chiến công vang dội trên chiến trường. Đúng là cách mạng rất thạo đổi đời con người.
Minh Việt bệnh trọng giữa lúc đất nước đang chìm sâu vào khủng hoảng. Món bồi dưỡng duy nhất cho anh, người cổ chướng: phở thúng. Anh đã đưa tôi đến Hàng Mắm ăn nó. Lẽ ra chỉ được một bát thì ăn phở thúng được hai, anh cười hiền lành nói.
Tôi không thể quên ngày Minh Việt mới ở Chợ Thắng, Hiệp Hoà hết hạn quản thúc về. Tôi đến tìm anh. Chúng tôi tíu tít bá vai nhau đi mà thấy quãng hè Ngô Quyền trước nhà Trần Vĩ, chủ tịch Hà Nội sao mà thênh thang thế!
Minh Việt nói, đúng sai thế nào khoan bàn, chỉ biết mấy chục đứa chúng mình đã dám đứng giang tay ra hét lên với đoàn tàu đang tốc hành lao nhanh xuống vực rằng: Đứng lại!
- Chiến tranh thì là vực thẳm quá đi rồi, tôi nói và bất giác đọc hai câu thơ Vũ Hoàng Chương: Một ánh dao bay ngàn thuở đẹp, Dù sai hay trúng cũng là dư.
Đúng, dù bị thất bại nhưng ngăn một cuộc chiến tranh không cần thiết cũng là dư rồi.
Tôi nhắc lại một sáng, trước khi Minh Việt bị bắt chừng một tháng, tôi đi bộ từ Lò Sũ quặt ra Hàng Vôi để đến anh thì thấy anh đi bộ từ Ngô Quyền lên. Mừng quá, tôi nhe răng cười toan đi đến thì anh khẽ lắc đầu, mắt liếc lại phía sau. Hôm ấy tôi vừa cụt hứng vừa ngờ vực vừa lo âu, mặc dù bản thân từng là đối tượng đeo bám. Chả lẽ phó bí thư thành uỷ Hà Nội, tuy sau Nghị quyết 9 vừa mới bị điều sang Bộ công nghiệp nặng, mà… ?
- Muốn gì thì nay so với cái sáng ấy đã khác xa lắm, đúng không, tôi hỏi? Nghĩa là ta đã có thể cho hy vọng nó le lói lên ở trong ta! Bảo thủ đã húc phải tường, ông xem Indonesia hiện vẫn giam tù cộng sản họ quét sạch từ 1965.
Rồi tôi bỗng sôi nổi quàng vai Việt: “Lúc này tôi đang muốn gọi to lên: Đây, ở ngay trước thành uỷ bọn tôi đang nói đất nước đã cựa mình, dân đã nhìn thấy vì đâu ra nông nỗi!”
Trong lúc khai cung, Minh Việt bị vặn dữ nhất chuyện đầu năm 1965, thủ tướng xét lại Liên Xô Kossyghine đầu hàng Mỹ sang Hà Nội đã lén cho Minh Việt vào đại sứ quán để bàn chuyện chống Việt Nam và Trung Quốc như thế nào. Nói sao cũng cứ nhất định là anh đã gặp thủ tướng xét lại, có bằng chứng cả đây nhưng muốn để cho anh có dịp thành khẩn. Đành khai bừa là gặp. Có tiệc chứ? Có tiệc. Tiệc to không? To. Ăn uống những gì? Việt cố nhớ lại những thứ đã ăn ở Liên Xô và những thứ đã đọc thấy trong sách Nga để khai cho ra một đại tiệc. Trong khi ăn thì nói những gì? À, chỉ nói là Liên Xô cần viện trợ nhiều để Việt Nam đánh Mỹ và như thế sẽ kéo được Việt Nam ra khỏi khống chế tuyệt đối của Mao. Thấy chúng nó nghe thế nào?… À, có vẻ nghĩ ngợi nhưng im lặng.
Theo hồi ký Anatoli Dobrynin (đại sứ Liên Xô qua sáu đời tổng thống Mỹ) thì đầu 1965 Kossyghine sang Hà Nội để viện trợ tên lửa SAM. Nhà ngoại giao kỳ cựu này viết rõ rằng lúc Việt Nam nổ chiến tranh với Mỹ, Liên Xô “không hề biết chút nào hết đồ chiến tranh của Bắc Kinh và Hà Nội”. Tức là thanh minh Liên Xô chúng tôi không hề gây chiến. Nhưng rồi tụi tham chiến dữ dằn để cũng góp súng chia phần song ông không nói ra.
Tù 1987, Phúc Thổ Thần, nguyên thường vụ thành uỷ, trưởng ban tổ chức thường hay mò sang nhà Việt mỗi khi thấy tiếng chúng tôi chuyện trò. Nói: “Nghe các ông, tôi thấy tôi đúng là bị bịt mắt, chẳng biết cái gì hết”. Tôi nói: “Thì V. I., thư ký của một cụ đại cốp bảo Chính Yên và tôi rằng họp Bộ chính trị chỉ có ba ông chủ chốt nói còn gần như im và… thiu thiu ngủ”.
Một hôm Phúc bảo tôi: Nhưng chắc chắn có một điều anh không biết là ai xui chị dâu anh bỏ anh Trần Châu. Chính ông Sáu Thọ! Tôi trưởng ban tổ chức thành uỷ nên biết.
Minh Quang bèn nói: Thì ông ấy khuyên cả tôi với Tuyết Minh, vợ Lê Vinh Quốc bỏ chồng cho có tiền đồ mà… Tôi mà bỏ anh Minh Việt thì tôi được thứ trưởng ngay.
Phúc Thổ Thần cạnh buồng bắt đầu lui tới. Tôi bảo Minh Việt: Cái boong ke giấu sự thật bắt đầu lòi cốt tre ra. Sự thật phơi bày thì hết độc tài toàn trị!
Nay cả Trần Vĩ cạnh nhà Minh Việt cũng thôi lảng tránh. Một sáng tôi đến thì Minh Việt bảo chờ, anh ra ngoài hè mua hành về ngay. Nhoáng sau, trở về, anh giơ cái túi lưới bằng cước ni lông Liên Xô lên hỏi tôi: “Vừa có chuyện gì ông có đoán được không? Trần Vĩ. Trước kia Vĩ với tôi cũng như ông với tôi bây giờ, ngày vài ba bận thì thào. Thế rồi một hôm Vĩ bảo tôi Vũ Tuân mới được gặp ông Sáu Thọ, ông Sáu Thọ nói cậu này nó có xét lại xét đi gì đâu, cứ nói oan cho nó và sau đó Vũ Tuân vào Trung ương. Ít lâu sau, Trần Vĩ được Thọ gọi đến và thế là lại vào Trung ương kiêm chủ tịch Hà Nội. Có điều từ đấy Vĩ tìm mọi cách tránh tôi. Tôi biết ý cho nên hễ thấy Trần Vĩ trước mặt thì đều đi vòng xa đường đất ra cho Vĩ đỡ lúng túng”. Minh Việt hỏi tôi: “Vừa rồi mua hành về, thấy Vĩ đứng trước nhà, tôi cũng đi vòng thì ông biết sao không? Thì Vĩ tới huých vào tôi một cái hỏi: - Đi đâu đấy? - À, đi mua hành”.
Thật là thảm. Bao nhiêu năm trời, bạn bè tâm giao cũ trao đổi lại với nhau được bốn chữ: À, đi mua hành.
Rồi Minh Việt chết.
Cuối những năm 80 Lê Đạt làm một trường ca trong có một đoạn về Minh Việt:
Qua T. Đ. tôi biết M. V.
Một những V. I. P (nhân vật quan trọng - B. T) cái thiên hạ quen gọi
Nhóm chống đảng vừa tù về…
Thằng Nhân Văn, thằng chống đảng tù đày
Lòng thổi bận tuổi gió đều Tháng Tám mộng hồng cờ đỏ phố truyền đơn
Thuở cách mạng chưa lành nghè thưa bấm
Dép lốp trường kỳ gối chửa biết đi
Lý tưởng chưa ăn theo vần thủ trưởng
Nói và làm, Tôn Thất Thiệt chửa chia hai
Tiền Cụ Hồ, Thảo Mai chưa phá giá
Lê Đạt tặng Minh Việt khổ thơ này. Đề: “Tặng Minh Việt thời Việt Minh”.
Trong xà lim biệt giam, Minh Việt nuôi một con gà. Chủ buồn đi bách bộ, ba mét dọc, một mét ngang. Và chủ lạ, hễ anh đến gần con gà, nó lại nằm ẹp xuống. Ngỡ nó như chó, nịnh chủ. Mãi mới hay con gà này mái, nó ngỡ - và chắc cả có mong - Minh Việt là con đực sắp đạp mái nó. “Thế mà mình cũng học được ở nó đấy. Hãy sống tự nhiên dù ở đâu”.
Tôi kể cho Minh Việt chuyện hai tù xét lại cùng chuyển trại tuy ở hai nhà giam khác nhau. Khi ra xe, một thằng thấy một oan hồn ngơ ngác, gây guộc bèn gật đầu chào rồi khẽ hỏi anh là ai. - “Trần Châu, còn anh?” - “Ôi Châu, Kiến Giang đây”. Hai bạn mới hai năm xa cách mà đều thấy nhau dị hình quái hết. Hai đứa vừa kịp ôm lấy nhau thì còng số tám ngoạm đánh chát vào cổ tay hai người rồi giải xuống phà qua sông Hồng về Ba Sao Hà Nam giữa thời bom đạn. Phản đối. Máy bay nó bắn thì chúng tôi làm thế nào? Không biết, đây là kỷ luật. Trên xe, mỗi thằng một cũi sắt đứng đấy, ra ngoài phải còng.
Phan Thế Vấn và Hoàng Thế Dũng bị nhốt trong cũi đứng trên xe hơi. Qua phà, vẫn cứ trong cũi.
Chuyện Phan Thế Vấn bị bắt khá kỳ quặc. Công an đến bắt Kỳ Vân thì gặp anh ở đó săn sóc cho bạn cái nhọt. Thế là tiện thể bắt luôn.
Thêm một chút về bố Vấn. Ông mở trường học ở Lamblot Hà Nội, mướn Trường Chinh, bạn học ở college Nam Định, không biết Trường Chinh đã cộng sản. Trường của ông đi diễn kịch ở Đông Triều lấy tiền tế bần cứu đói. Trường Chinh xúi giỏi thế nào mà ông ra diễn thuyết mở đầu bằng tiếng Pháp tuy rất run.
Những lúc chuyện với Việt về hai “oan hồn” chung còng số tám qua sông, con gà chờ đực đạp mái và Vấn bị nạt không là đảng viên sao dám thư lên tổng bí thư và đòi nói chuyện luật với đảng… tôi thường thấy cay mắt và thường vởn lên trong tôi mấy câu:
Cuộc đời nước mắt gương soi,
Gian nan là nợ anh hùng phải mang.
Và như cùng một bài thơ, thế nào cũng đọc tiếp hai câu của Vũ Hoàng Chương lần đâu tiên tôi nghe Nguyễn Sơn ngâm trong campus Bắc Kinh đại học.
Học làm Trang tử thiêu cơ nghiệp
Khúc cổ bồn ca gõ hát chơi.
Anh chị em đều kiên cường, bền bỉ. Hình như mình tôi, bên cạnh cái chí cố giữ gìn cương thổ nhân phẩm của mình không cho nó biến hình hay sứt mẻ vì tay kẻ khác, tôi cứ thấy mang máng trong tôi một vùng hư vô nó hay rủ gạ tôi thiêu cơ nghiệp, cái cơ nghiệp đã nhỏ con lại dựng trên sa mạc. Nhưng chính cái vùng mang máng ấy cũng lại đã giúp tôi sống tử tế. Nôn ọe vào tất cả. Có lẽ sẵn một gien hư không trong tôi. Cùng gien bướng. Họ chửi tôi láo, tôi càng láo. Với họ thôi. Theo họ đế mà rồi mất toi cái thằng mình nó vốn là của rất quý báu với mình ư?
 

Chương 20
P
hạm Hùng, thủ tướng, chết.
Cả trang nhất báo Nhân Dân, hồi ký Trong xà lim án chém tôi viết nhưng xúp tên tôi, để mỗi tên Phạm Hùng. Chiếm đoạt tài sản trí tuệ dễ như thế là nhờ chuyên chính vô sản biến tôi và pháp luật thành con số không chẳng thèm phải đếm xỉa.
Tôi thư cho Hà Đăng, tổng biên tập. Ngày nào ông ta đỏ chan chứa mặt lên phê bình tôi kiêu ngạo không nói chuyện với ông. Mà chỉ vì mới về nước tôi chưa quen ông. Thư tôi nói báo vi phạm nguyên tắc xuất bản và xúc phạm danh dự tôi.
Không trả lời. Thế là ông còn thêm im lặng cao kỳ bậy do được tự cho phép có quyền coi mọi thằng “phản động” như con số không trong mắt mình.
Tôi gửi thư thử hai. Dẫn điều một trăm bao nhiêu đấy trong luật. Đòi đính chính và xin lỗi trên báo.
Vẫn nín thinh. Mày giỏi thì cứ việc mà kiện. Ngụ ý như thế. Ông đẻ ra im lặng đáng sự cơ mà! Ông nắm luật nắm toà rồi còn chó gì mà mày hòng hả?
Tình cờ một tối đến Quang Đạm, tôi tạt qua Lê Điền ở tầng dưới. Gặp Nhật Ninh, biên tập viên báo đảng, vợ Hà Đăng. Nhật Ninh trách tôi về hưu không chịu đến cơ quan chơi.
- Người ta cấm tôi, mà tôi thì thương cậu Sảo Tóc đỏ, tôi nói.
- Anh cứ hay đùa cho nên… Nhật Ninh hơi nghiêm giọng. Anh nghĩ báo đảng là nơi đâu có thể cấm đoán bậy như thế.
- Cô nhà báo ngây thơ ơi, tôi nói. Mai đến cơ quan cô hỏi Sảo Tóc Đỏ trực cổng xem có đúng như thế không. Mà còn tệ hơn thế nhiều cơ. Vừa đăng hồi ký Phạm Hùng tôi viết mà lại bỏ tên tôi! Tôi thư cho Hà Đăng hai cái rồi vẫn không thèm trả lời. Cô về hỏi Hà Đăng xem có phải đúng là đã láo như thế không nhá. Tôi sẽ viết ngay đây thư đòi báo đính chính, xin lỗi và đòi bỏ cả lệnh cấm tôi đến báo nữa, có gì nhờ Nhật Nính đem hộ về cho Hà Đăng.
Nhật Ninh hình như chỉ chờ tôi nói có thế.
Tôi viết tại trận một thư thứ ba cho Hà Đăng.
Các bà vợ có nền chuyên chính lợi hại riêng.
Hai ngày sau, Tô Điện, vụ phó tổ chức và Nguyện (sau là thư ký của Hữu Thọ) đến. Mở cổng tre ra - cái cổng tre tự Linh xẻ tre (tre Linh tự trồng, hàng khóm kẽo kẹt) vót que và đan thành hai cánh cổng mà tôi đinh ninh đẹp hệt cái cửa sài chắc chắn là hết sức thanh tao của lều am Nguyễn Trãi - tôi hỏi ngay Điện: Ngày nào tớ bảo chừng nào Lê Duẩn, Lê Đức Thọ không còn nữa thì đất nước này mới mong khấm khá ra tí chút, cậu đã thấy đúng chưa?
Tô Điện đưa thư Hà Đăng xin lỗi. Nói vì báo quá bận cho nên đã sơ xuất bỏ mất tên tôi và… chậm xin lỗi. Nhưng nhất định lờ việc đính chính trên báo. Tôi đã biết Đảng không có văn hoá xin lỗi - lãnh đạo là phải có uy tuyệt đối mà lại cứ xin lỗi hoài thì còn ra cái uy quái gì - nhưng tôi cứ đòi. Ít nhất cũng nhẳc đến một đạo đức đã mai một hẳn ờ đất nước này.
Tôi ngoáy vài lời truy vấn tiếp - sao không xin lỗi và đính chinh trên báo - đưa cho Điện mang về. Sau mới nhớ quên mất đòi nhuận hút mà tôi biết “có người kể” Phạm Hùng đã nhận khá lớn.
Ít lâu sau, trong một lần cơ quan họp với các cụ về hưu, Nhật Ninh kéo tôi đến chụp ảnh cùng vợ chồng chị và vài anh em khác. Nhật Ninh bắt tay tôi: Chúc anh Trần Đĩnh cử giữ y như ngày xưa.
Biết là một lời chúc tốt đẹp, tôi đùa, nhằm cho Hà Đăng đứng bên nghe:
- Thế là cô chúc tôi cứ chống Đảng ư?
Hơi đỏ mặt, Nhật Ninh lại bình tĩnh: Như ngày xưa mới tốt, đúng đấy.
Sảo Tóc Đỏ trong phòng thường trực cũng chạy ra tíu tít hít tay tôi: Nhữ… những… đứ… đứa xưa đá… á… đánh đánh anh… anh… chúng em có có… chào đâu nhưng mà… anh anh… thì chú… chúng… em (lắp cho một hồi). Cũng là một cách cảm ơn tôi đã chịu nhịn cho vợ con anh yên.
Tôi bảo Nhật Ninh: Cô đã thấy ai cũng ôm trong lòng một bộ sử chân thực về cuộc đời rồi chứ? Khi nào tất cả đều mở nó ra đọc!
Sau này, Nhật Ninh hay than buồn chán với tôi. “Thời thế lăng nhăng”. “Thế là Nhật Ninh cũng có một bộ sử để đọc đấy”, tôi nói rồi hỏi Hà Đăng có biết thế không, Nhật Ninh im lặng nhìn chỗ khác không đáp.
Một lần cô cho tôi hay Hữu Thọ khi là phó tổng biên tập đã dùng tay chân phao tin đồn nhảm dai dẳng rằng Nhật Ninh buôn đô la, đá quý, vàng bạc.
- Sao kỳ quặc thế, tôi ngạc nhiên hỏi?
- Muốn lên tổng biên tập để vào Trung ương thì Hữu Thọ phải đánh đổ Hà Đăng. Mà đánh Hà Đăng thỉ không gì hằng phao tin vợ Hà Đăng thế này thế nọ. Anh chị em ở báo ta gọi hắn là gì anh biết không? Gọi là “ông Thọ Vina Mưu” (hay Vi đa mưu) mưu mô quỷ quái đã được nhận là nhãn hiệu quốc gia. Hay “gia nhân ranh ma quỷ quái của Đỗ Mười”.
Bữa ấy Nhật Ninh bảo nghe nói anh Trần Đĩnh đã có thư gọi Hữu Thọ là “con rắn độc” phải không? Bây giờ anh viết hỏi hắn xem đã cải tạo thành rắn nước chưa đi.
- Thành quá chứ. Phụ trách tư tưởng cả nước thì hẳn là nước lâu rồi.
Mấy năm trước, Hữu Thọ viết bài nói có những “kẻ nay thích nói con người nhưng chúng là những con rắn độc bề mặt nói cười xơn xớt mà đùng một cái mổ chết anh em đồng chí lúc nào không hay”. (Sang thế kỷ 21, anh ta lại sính nói con người, chiến lược con người). Tôi bèn viết thư cho Hữu Thọ, cùng gửi Hà Đăng và Ban biên tập báo Nhân Dân một thư như thế để tường. Khéo sao chỉ mấy ngày sau thì họp kỷ niệm báo ra hàng ngày, tôi đến. Vừa thấy tôi Hà Đăng liền ôm lấy nói: Đúng là Trần Đĩnh Khi chúng ta đánh.
Qua mái đầu Hà Đăng, tôi thấy hai vẻ mặt ngạc nhiên của Hoàng Tùng, Hồng Hà. Sao Hà Đăng lại âu yếm tôi mất lập trường quá thể thế?
Hà Đăng thích tôi ghè Hữu Thọ. Mượn bài ký tôi viết trận đánh Đông Khê 1950 để tỏ ý tôi ghè hay lắm. Giới lãnh đạo có tấm đệm êm áí của mối liên minh bao che lẫn cho nhau và bị cái đoàn kết nội bộ lãnh đạo nó bó tay, Hà Đăng đã phải mượn uy lực chuyên chính phi vô sản của tôi để nện phó tổng biên tập!
Hà Đăng ôm tôi cảm ơn thì Hữu Thọ phải ôm mau hơn, cảm ơn to giọng hơn.
Ngay sau đó, trước bá quan, Hữu Thọ cũng đến ôm lấy tôi. Nói to: Nhận thư ông, tôi đã đọc cho cả Ban biên tập nghe. Ông phê bình rất đúng, tôi cảm ơn ông.
Thư ấy tôi viết cho Hữu Thọ bảo ông chính là con rắn độc xơn xớt nói cười mà mổ chết đồng chí anh em lúc nào không biết. Câu này là của Phan Quang, trưởng ban nông nghiệp tặng Hữu Thọ phó ban nông nghiệp. Hai vị chánh phó kình địch nhau, sau Phan Quang được điều sang Đài phát thanh. Có lẽ Hoàng Tùng thấy Hữu Thọ có Đỗ Mười ở đằng sau sẽ là thế mạnh trong tương lai nên giữ lại. Quả nhiên Hữu Thọ thành Trung ương uỷ viên phụ trách tư tưởng, văn hoá, “rắn độc” lại trùm quyền lực lên đầu Phan Quang. Nhưng cũng từ lúc cá hai đều quyền hành lớn rồi, hai vị lại thành mối liên minh quấn quít trơn tru nhẵn nhụi. Hữu Thọ láu, chỉ nói cảm ơn tôi phê bình chứ không nói ý tôi chê đảng kém chưa đuổi được phần tử xấu như Hữu Thọ ra. Người ngoài nghe lại ngỡ Hữu Thọ trân trọng lời phê bình.
Thư tôi viết cho Hữu Thọ chỉ có cái hơi văn ghẻ lạnh và một câu là bản quyền của tôi. (“Tôi rất tiếc đảng chưa mạnh để đuổi những người cơ hội chủ nghĩa như ông ra”). Hà Đăng ỏm xong đến Hữu Thọ ôm. Hôm nay tử vi có lẽ là đào hoa diêu y gì đó của tôi.
Tôi kể lại với Nhật Ninh. Cô lắc đầu: Đúng là quái thật! Đóng kịch như chơi! Bây giờ càng vai vế hơn đấy.
- Thì đảng càng mất lòng tin của trí thức.
- Của cả dân nữa ấy chứ! Anh có nghe anh Trần Minh Tân nói bố Hữu Thọ là người Hoa mà hắn giấu không? Lại còn khai man tuổi. Ai cũng bảo hắn cũng năm Ngọ như anh Hà Đăng mà nay hắn lại kém những bốn tuổi.
Hà Đăng có biết và có tố cáo không, tôi hỏi? Nhật Ninh im.
Lúc ấy Đảo, một cán bộ sơ cấp ở văn phòng báo đi qua. Tôi giữ anh lại, hỏi hai câu: Sợ nhất cái gì và khó nhất cái gì?
Đảo khẽ khàng đáp:
- Sợ nhất là nói. Khó nhất là làm người.
Nhật Ninh tròn xoe mắt. Lẩm bẩm: Anh ấy rút ra ở đâu mà hay và nhanh thế chứ nhỉ?
- Ở cơ quan tư tưởng trung ương.
Nhật Ninh cứ lắc đầu. Rồi hỏi tôi: Anh có biết chuyện Hữu Thọ từng vận động Trần Kiên đánh Hoàng Tùng để đưa Nguyễn Thành Lê lên không?
Gần như ai cũng biết bụng dạ mưu mô của Hữu Thọ. Thế nhưng Hữu Thọ lại chuyên được cánh nhà báo - nhất là báo công an - coi như bậc sĩ phu để luôn phỏng vấn về lối sống, về trung thực và… thói hèn (hỏi “trí thức có nên hèn hay không?”) Một lần Phạm Văn Đồng đến gặp anh em báo đảng, Hữu Thọ vừa khúm núm vừa thiếu não - làm như đang nghĩ đau đáu lắm - nói: Năm ngoái thủ tướng dạy chúng tôi phải sâu sắc, năm nay xin thủ tướng dạy bảo thêm nữa cho anh em chúng tôi ạ.
Tôi đã đùa bảo anh em: Giá Phạm Văn Đồng nói năm ngoái sắc rồi mà năm nay ta sâu huyền, với nhau thì hay quá đấy nhỉ.
Có tờ báo công an gọi Hữu Thọ là kẻ sĩ hay buồn, ôi, chữ sĩ là đối lại quan. Nhưng Thọ hơn người, vừa là trung ương đảng, cai quản phần hồn cả nước cho được phấn khởi, vui tươi lại vừa được là kẻ sĩ - tuy không biết một ngoại ngữ nào - để được phép buồn cho cái phần hồn mà ông cai quân nó cứ xấu cứ tồi!
Chuyên viên của báo, Trọng Đạt, báo tôi một chuyện cũng rất bà Ba Tý. Bố Hữu Thọ, thường trực ở cổng báo Nhân Dân. Ông cụ mất, chả biết khai báo thế nào, quan liêu ra sao hay do có sự chạy chọt ngầm mà ông cụ được vào nằm ở Khu A nghĩa trang Văn Điển, hơn xa hầu hết cán bộ viết báo. Chức “thường trực báo Nhân Dân” - gác cổng - của cụ được người ta hiểu Thành uỷ viên thường vụ ban chấp hành hội này hội nọ.
Các cái hội quần chúng mà Lê-nin cho vào nằm ở trong hệ chuyên chính vô sản, Việt Cộng ngại chữ chuyên chính vô sản không được dân chủ nên gọi chệch ra là “hệ thống chính trị” nghe mềm mại có vẻ của dân, do dân, vì dân.
Năm 2012, tháng 2, ngày 27, báo Nhân Dân đăng bài Hà Đăng viết Quán triệt thực hiện nghị quyết Trung ương 4, một: số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay, tự phê bình và phê bình, vũ khí sắc bén để xây dựng đảng, chỉnh đốn đảng,
Tựa đề bài quá dài. Chả lẽ lại viết cho ông ta cái thư, hỏi cậu đã phê bình Hữu Thọ vu cáo Nhật Ninh bao giờ chưa?
***
Năm 1974, tháng 1, đón trước đường Hà Nội tiến quân, Trung Quốc “giải phóng” toàn bộ Hoàng Sa. Và vấp phải sức chống trả dữ dội của hải quân Việt Nam Cộng Hoà. Lúc đó Sài Gòn có đề nghị Hà Nội chung sức chung lòng bảo vệ lãnh thổ nhưng theo Đảng, chù nghĩa xã hội Trung Quốc bảo đảm cho độc lập của đảo biển Việt Nam nhất định tốt hơn chủ nghĩa quốc gia Việt Nam “làm tay sai cho Mỹ”.
Năm 1988, Trung Quốc chiếm sáu đảo ở Trường Sa. Ta đắm ba tàu, một số lính bị bắt… Đáng chú ý là Hạm đội Liên Xô ở Cam Ranh im re.
Đến nay đảng mới cho phản đối tất tận. Cuộc phản đối nâng dần tới là cho 300 nhà báo họp “lên án Trung Quốc có âm mưu chiếm lâu dài lãnh thổ Việt Nam và hành trướng ở biển Đông”. Tôi đã xem tờ FEER (Far Eastern Economic Review) nói về Trung Quốc và Đài Loan cùng đòi Nhật hòn đảo Điếu Ngư Đài bé như cái hạt vừng. Tờ báo đưa bức ảnh chụp hai người Trung Quốc đứng cạnh nhau trẽn một mỏm tí xíu Điếu Ngư Đài, mỗi người cầm riêng rẽ hai lá cờ năm sao (cờ Trung Cộng - BT) và thanh thiên bạch nhật (cờ Trung Hoa Quốc Gia của Đài Loan - BT). Tôi xem mà xấu hố. Đối địch nhau nhưng trong bảo vệ bờ cõi, người ta chi có chủ quyền đất nước!
Sau khi Trung Quốc chiếm đảo ở Trường Sa, Phạm Phú Bằng báo Quân đội nhân dân đã ra đó. Anh nói Bắc Kinh rất thâm, chiếm Gạc Ma, một hòn chặn ngay lối từ đất liền ra Trường Sa. Từ nay muốn đến đảo của mình, tàu ta phái “trình diện” nó trước. Tôi hỏi đánh thế nào mà ta đắm ba tàu? Bằng nói chưa đánh. Ba tàu ta vừa ra thì nó cho mỗi tàu một qua pháo trúng hầm đạn là chìm tức thì.
- Nó giỏi thế, tôi hỏi?
- Nào cớ! Nó bắn quen rồi.
Tôi càng ngạc nhiên. Quen bắn tàu ta là sao?
- Ầ, 1964, ta và tàu Maddox đánh nhau, Bằng giải thích. Mỹ ném bom tan hết cả ba căn cứ hải quân ta và ta phải xin đại hậu phương cấp lại tàu. Lúc ấy đang chửi Liên Xô mà. Nhưng sau này đại hậu phương tậu toản tàu mới, loại tàu cho ta, xưa dùng làm tàu bia tập bắn.
Tôi không thể không kêu lén: Đểu nhỉ! Nó phải bảo mình nên mua tàu khác vì từ nay nó bắn tập vào các tàu viện trợ cho mình chứ!
Đảng chỉ cho báo phản đối chứ không cho dân biểu tình như ngày Ba Lan bỏ cộng sản, Hồng Hà bí thư trung ương phụ trách đối ngoại đã tung đoàn quân tóc dài đến trước đại sứ quán Ba Lan phản đối, yểm hộ cho bài xã luận cực kỳ ngạo mạn của báo đảng. Ba Lan quậy. Vội thu quân.
Ba Lan quậy, tôi đã có bằng chứng. Như ông tham tán thương mại muốn đưa Việt Nam ra ngoài biển vẳng sống riêng cho đỡ quấy phá. Hồi ở Bắc Kinh đại học tôi có anh bạn Ba Lan. Kené, khá thân mà tôi đùa gọi là “mon Parisien” - chàng Pari của tôi. “Người Ba Lan chúng tớ ở Pháp gửi tiền về giúp gia đình nên không chết đói”. Tự hào việc phương tây khen Ba Lan là đầu cầu chống cộng trong phe cộng.
Sắp về nước, tôi mua lại chiểc radio Orjon của Benos, bạn học người Hung. Đến buồng tôi chơi, thấy nó, René cười; Phát thanh ở nước chúng mày nói thật à? Mais elle diffuse la vẻrité, la radio de chez ton pays? Tôi ngạc nhiên ngơ ra.
René nhún vai:
- Ta hãy chờ xem điều kỷ lạ của mảy! - On verra ton miracle.
Anh bạn Ba Lan này toàn chê cộng sản. Những lúc nghe anh tố cộng và nhìn hàng lông mi bạc trắng ỏ gốc hơi rung rung của anh, tối lại thấy anh đau đớn thật. Đau khiến cho già đến cả tận chân lông mi. Qua chiếc Orion tôi đã nghe đài Sài Gòn hát đêm lạnh 15 độ âm Bắc Kinh: “Khi mùa chinh chiến đã lui ra ngoài đời, Ở đây anh tính cô đơn…” để nghĩ đến chú em út trong Sài Gòn nóng bức mà thương… Rồi tôi tênh tênh mang Orion đến bưu điện Hà Nội cặp chì để sau đó còn nghe có mỗi đài Hà Nội. Mà phố phố đều mở hết nấc âm lượng từ chào cờ buổi sáng cho đến lúc chào cờ nửa đêm.
Một biên tập viên Nhân Dân bảo tôi: Buồng tập thế bọn tôi bốn giường bốn gia đình, cách nhau có nửa mét, loa công cộng cho cả góc phố Trần Hưng Đạo - Phan Bội Châu cỡ đại ở ngoài cửa sổ cách bọn tôi chưa tới hai gang tay cứ mở ầm ầm. Nhưng thế mà hay! Nhè lúc nỏ oang oang rung màng nhĩ lên thì bọn này tranh thủ đè nhau ra, vợ chồng trẻ cả mà, tập kết nhớ nhà cả thì cái đó càng hăng lên mà, đè nhau cho nhanh kẻo chờ đêm khuya mẫn lại lộ. Sau thành ra quen phối hợp với nét nhạc, mình vừa lăn xuống giường vờ như nghiêm túc thì đài cũng vừa cho chấm hết nhạc chào cờ kết thúc ngày phát thanh.
Sau tôi không nhớ đã cho ai chiếc Orion.
Benos rồi bỏ Bắc Kinh sang Hả Nội học. Anh yêu Hồng Linh. Đã đến báo Nhân Dân nhờ tôi mách địa chi Linh để gặp. Gặp, quay phim, chụp ảnh rồi sau đi đâu không rõ nữa.

Chương 21
T
hình lình Trần Xuân Bách, uỷ viên Bộ chính trị tung thư đòi đa đảng.
Có thể tôi sai. Tôi không tin ông. Ông từng đánh phá xét lại ác liệt, trong có Phạm Viết là đối tượng đả kích ác liệt của ông. Ông là chốn đặc biệt tin cẩn của Sáu Thọ. Tai tiếng ở Nam Hà, ông được Sáu Thọ cho sang Campuchia làm tổng cố vấn bên đó rồi sau nhờ công tích toàn quyền mà vào Bộ chính trị. Kiến Giang kể ông từng sạc Đổng, nguyên thư ký của Sáu Thọ đã không giúp được cho vợ ông vào đảng. Vụ kiện cáo này dính toàn gia nhân nên lên tới tận bà Chiếu, vợ Sáu Thọ. Năm 1988, trong Sài Gòn, Hoàng Yến bảo tôi anh được Chế Lan Viên ốm nằm bệnh viện khoe thư Trần Xuân Bách gửi Bộ chính trị đòi dẹp loạn trong văn nghệ mà trọng điểm là báo Văn Nghệ. Lúc ấy ông đang ở trong Nam giải quyết tình hình nhộn nhạo của nông dân xung quanh vấn đẽ đất. Chính ông gọi Lê Giản là “Nhân văn mới”. Vậy thì sao đùng một cái ông đa đảng? Một cục gọn thế thôi. Không vạch vòi sai lầm gì hết?
Tôi cho rằng đấy là cốt dứ Nguyễn Văn Linh đang được lòng dân với những khẩu lệnh “chống im lặng đáng sợ”, “tự cởi trói”, “tự cứu” nguy hiểm cho độc tài… Nửa nhiệm kỳ đại hội đảng rồi. Muốn cho Linh về thì bày thử thách ra. Nếu đa đảng, lập tức Bách đặt Linh trước cuộc thử vàng. Linh chịu đa đảng thì cũng sẽ là Trần Xuân Bách lên Tổng bí thư, mà chống lại thì Linh lộ ra là dân chủ vỏ. Đòn rất thâm: Linh đã lộ diện. Trở lại ngay với im lặng quý báu.
Tôi có thể đã quá đa nghi. Nhưng năm 2006, Trần Xuân Bách chết, tang lễ long trọng. Đầy đủ công lao nêu lên. Chôn nghĩa trang Mai Dịch. Khác hẳn Trần Độ, người không hề nói tới đa nguyên đa đảng như Bách. Nhưng tôi lúc đầu đã quá tin Nguyễn Văn Linh, một người đã bảo ngoài Bắc xã hội chủ nghĩa làm ăn như “con c”. (tôi khoái lắm, cho là ông đả cả hệ thống chủ nghĩa xã hội rồi!) và tâm sự với đông người rằng trước khi đi ngủ cứ lo sáng mai mở mắt đã thấy Sài Gòn phấp phới cờ nào, người như vậy thì thì sao lại không tin được? Nói Và Làm, Nhảy Vào Lửa cơ mà?
Nên tôi đã vận động cả Trần Văn Trà ủng hộ Linh. Trong những ngày “Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ” hoạt động rầm rộ ở Sài Gòn, với mũi tiêm kích là Nguyễn Hộ; Hoàng Yến dẫn tôi đến dinh thự quá đẹp, đẹp đến ngẩn ngơ người ra của Trà.
Trà phàn nàn Linh rụt rè. Tôi bảo Trà nên bảo vệ cái đầu cầu ấy. Đầu cầu dù chỉ bằng cái mảnh sân cho ta buông ba lô ngòi nghĩ bóp chân thôi cũng vẫn phải cố giữ nó. - Anh Khiêm bảo tôi anh Linh rất hẩu với anh, đi đâu cũng kéo anh cùng đi, anh nên ủng hộ anh Linh và giúp đỡ. Tôi không nói một lần tôi hỏi “thực chất Linh thế nào?” thì Khiêm nói: “Cha này nó khó hiểu đấy!”
Trà cười cười. Chắc đã nhìn thấy cái gì đó ở Linh. Cũng có thể Trà không muốn nhập cuộc. Hay ngờ tôi?
Jean Cathala, nhà văn Pháp bị Liên Xô bỏ tù rồi vào Đảng cộng sản Pháp, đã nói: Nghe Thorez, tôi phân thân thành một Tôi - tin và một Tôi - biết. Tôi - biết thì biết rất nhiều nhưng thằng Tôi - tin nó lại che đi mất hết. Tôi cũng thế. Tin Linh vì tôi để thằng Tôi - tin trong tôi lái dắt. Sau này thay thuỷ tinh thể một mắt, coi thể nghiệm đúng như thế. Nhìn với riêng mắt mới (hay đầy kiến thức) thì sáng, nhìn cả hai mắt lại mờ, mắt cũ hay lòng tin với đặc điểm cố thủ vẫn chỉ đạo. Lạ lùng! Gian nhà có hai ngọn đèn, ngọn mới vừa thay nhiều oát hơn bao nhiêu đi nữa vẫn bị bóng đèn cũ kéo cho tối ngang như nó!
***
Sinh viên Trung Quốc đại náo Thiên An Môn, ngày 4 tháng 6 năm 1989. Đài truyền hình Mỹ CNN quay tại trận đến đâu thì tải ngay đến đại bản doanh ở một khách sạn tại Bắc Kinh và một mặt mời khách mua chương trình đặc biệt một mặt phát lên vệ tinh cho toàn thế giới cùng lúc chứng kiến cảnh xe tăng tiến vào đè bẹp cuộc biểu dương lực lượng đòi dân chủ của sinh viên. Tờ Paris Match đưa lên trang bìa ảnh một sinh viên áo sơ mi trắng đứng chặn đoàn xe tăng Bát Nhất, trước ngay Đại lễ đường nhân dân, nơi tôi đã lao động bảy đêm ở tít trên giàn dáo thứ năm thứ sáu cao ngang mái Thiên An Môn ở bên kia. Tôi ngỡ ngay anh là đồng học cửa tôi ở Bắc Kinh đại học - Alma Mater, nơi từng dấy lên ngọn lửa Vận động Ngũ Tứ, Báo Chữ To thời Mao giương bẫy “trăm nhà lên tiếng” để bóp chết dân chủ. Mới đêm nào anh và tôi cùng đúng cao xấp xỉ mái Thiên An Môn đối diện, giữa lưng chừng trời trăng sáng không mây xây dựng Đại lễ đường kia. Báo nước ngoài nói nghe thấy trong tivi tiếng bánh xích nghiến xương người.
***
Một hiện tượng: Người ta không muốn vào đảng.
Trước đây mười năm, trong một buổi thảo luận về đảng (mà tôi nói không có trí tuệ, đảng thành đảng dân công, đảng lao động chân tay), một biên tập viên, B. H., con gái bộ trưởng Lưu Văn Lợi nói chúng tôi bây giờ có tiêu chuẩn đánh giá khác với đảng. Thí dụ chúng tôi nói chị ấy “đảng viên cơ mà tốt”. Nghĩa là thuộc tính tự nhiên của đảng viên là không tốt. Trước, tôi mong sao thôi thắt khăn quàng đỏ sớm đề được thành đảng viên thì nghe tôi hồi tưởng, em tôi đang quàng khăn đỏ bèn lè lưỡi ra kêu: Leo ôi, có mà một tỉ độ hâm à bà nỡm. Cái gi làm cho trẻ chúng ớn đảng đến thế? Nên mở một đề tài thảo luận trên báo đài để giúp đảng bận trăm công nghìn việc được rửa mặt hàng ngày.
Nay, cũng tại báo Nhân Dân, một nữ biên tập viên cao cấp mới năm mươi tuổi đã dứt khoát về hưu. Chị là người bảo tôi: Tạng anh thế sao lại làm chính trị và rồi hiểu ra rằng tôi chính là chỉ làm đạo đức chính trị - chống gian dối, lừa gạt chính trị.
Trần Kiên, phó tổng biên tập đã gặp chị để vận động chị ở lại làm việc đồng thời bằng lòng vào đảng để vào ban biên tập.
Tôi đã nhiều lần từ chối bằng tiếng Việt, chị nói, tức là tiếng mà anh hiểu rõ nhất. Nay tôi nhắc lại lần cuối cùng với anh cũng bằng tiếng Việt, rằng tôi phải về hưu để tôi đỡ đi được một suất đày tớ nhân dân. Đày tớ chồng con đã quá đủ. Và tôi vẫn không vào đảng. Anh nói tôi thuộc gia đình có truyền thống cách mạng - bác tôi là ông Phan Đăng Lưu, bố tôi là ông Phan Đăng Tài, hoạt động cách mạng từ 1929 - nhưng nói thật với anh tôi tụ1 xét thấy truyền thống cách mạng ấy đã chấm dứt ở tôi. Tôi vào đảng chẳng phát huy được cái gì, trừ phát huy cái nhìn của tôi nó khác xa cái nhìn của đảng. Tôi không vào đảng vì tôi chẳng thấy đảng viên nào xứng với danh nghĩa đảng viên trên lý thuyết. Anh tìm giúp cho tôi năm đảng viên thực thụ ở đảng bộ báo ta xem. Có lẽ không ra, tôi xin lỗi anh phải nói thẳng như thế. Về pháp lý thì Điều lệ đảng thiếu một điều theo tôi là vô cùng quan trọng đối với một đảng tự cho phép mình duy nhất cầm quyền. Đó là điều một của Điều lệ phải nêu rõ đảng viên cộng sản trước tiên phải biết liêm sỉ. Bây giờ chẳng thấy ai đỏ mặt.
Có thể tôi sẽ vào, vâng, khi nào bổ xung liêm sỉ vào Điều lệ… Hồi Nghệ Tĩnh giảm tô, mười tuổi, Việt Liên đã phải ra ngồi cùng gia đình xem người ta đấu tố ông nội, tức bố đẻ của Phan Đãng Lưu và Phan Đăng Tài. Cô bé không sao quên được cảnh ông nội bị người ta trói gô bốn chân tay lại rồi lùa vào đòn ống khiêng lủng lẳng đi. Ông nội cứ chửi thằng Lưu theo cộng sản rồi để cho đàn em mày hành hạ làm nhục bố mày thế này đây. Ông cụ bị đem lên núi giam rồi chết, mất xác. Bố chị, Phan Đăng Tài là em của Phan Đăng Lưu, trí thức. Anh chị em báo Nhân Dân quen gọi anh là từ điển sống. Lúc về hưu, lương nhà cách mạng lão thành kiêm trí thức uyên bác này mới được nâng lên chuyên viên 2 để được vào Cửa hàng Nhà Thờ mua thêm ít thịt và nước mắm loại 1 ăn cho bõ tuổi già. Cụ Cao Xuân Huy hình như cũng thuộc vào lứa về vườn thì bỗng được ưu ái cho lên chuyên viên 2. Vào được Cửa hàng Nhà Thờ khó ngang lạc đà chui qua lỗ kim. Thế nên dân vè rằng: Tôn Đản là của vua quan, Nhà Thờ là cửa trung gian nịnh thần, Đầu cầu là cửa quân nhân, Vỉa hè là của nhân dân anh hùng.
Chắc tự ái, nghe tôi đọc, Thép Mới văng lại:
- Mẹ, đứa nào vào cái ghế ấy thì nó lại đ. tổng kết kiểu ấy.
Ngụ ý kể cả mày. Nhưng anh cũng tổng kết đúng con đường lên quan cộng sản là con đường tụt hạng trí thức. Nhiều người thay ngay khẩu khí khi được đảng cất nhắc. Có nguời phá đàn Nam Giao rồi lại Bộ trưởng văn hoá. v.v.
Học Nghị quyết 9, cùng một tổ, Phan Đăng Tài dặn khẽ tôi:
- Nói không lại được với chuyên chính đâu đấy, nhớ nhá…
Một sáng tôi đi với anh một quãng đến đền Bà Kiệu sắp rẽ sang Lò Sũ, tôi hỏi anh: Làm thơ “Anh Lưu, anh Diểu dẫn con đi” (một câu thơ của Tổ Hữu - BT) thì có hôi han gì đến em anh Phan Đăng Lưu không?
- Không, Tài đáp. Anh không phật ý vì biết tôi nói đến khía cạnh leo lẻo của câu thơ.
- Anh Lưu còn sống thì có giống như họ không, tôi lại hỏi? Đào Phan thường ca ngợi hết lời Phan Đăng Lưu với tôi.
- Không! - Tài nghĩ một lát, đáp.
- Vì sao?
- Anh ấy có học (Vậy là các anh khác ít học, có lẽ đúng, tôi nghĩ ngay).
- Lúc anh Lưu bị bắt anh có biết không?
- Biết. Tôi còn giữ của anh Lưu bức thư anh ấy gửi cho con trai còn bé tí. Thư tiếng Pháp. Văn Pháp rất hay. Vui rúc rích từ đầu đến đuôi cái thư báo con là bố sắp ra trường bắn đây. - Như thế là Tây không khiêng anh Lưu bằng đòn ống về nhà giam và anh Lưu có mồ mả nguyên vẹn.
Tài im lặng nhưng mắt hoe hoe đỏ. Khác bọn thực dân, đảng ưu tiên cho oan hồn bố anh được vô gia cư trong thiên nhiên.
Tôi bóp tay Tài nhìn Hồ Gươm óng ánh ban trưa khẽ nói:
- Tôi xin lỗi… Tôi hỏi vì ghê tởm quá.
Rồi lại im lặng bóp tay anh lần nữa. Tôi vừa nhớ Hồng Đăng bảo tôi hôm nào: ông cụ tôi về hưu, mãi họ mới cho đi thăm “quê hương Lê-nin”. Ở sân bay tiễn ông cụ tôi chợt thấy se lòng vô cùng, ông cụ đi hai chiếc giầy toàn chân trái mượn kho Bộ tài chính! Khố, một nửa đời toàn chân trần. Được cái đảng thì yên tâm: Triệt để với lập trường tất cả đi trái hết của đảng…
***
Giữa năm ấy, Nguyễn Văn Linh bắt đầu gọi Lê Giản và có lẽ cả Trần Văn Trà là “những thằng đĩ đực”. Phải chăng bắt đầu sợ đa nguyên? Lê Giản quắc mắt lên bảo tôi: Cha này hỗn quá… Và hạ giọng lẩm bầm như để nói cho riêng anh: Mình kết nạp hắn vào đảng ở Hải Phòng đấy mà. Ai hay nhờ đổi con mắt nhìn, Linh mới vồ lấy kẻ thù bêu trong Hiẽn pháp được! Để rồi các người đầu đàn của đảng lục tục kéo nhau sang Thành Đô xin liên minh trở lại. Đúng là hăn phải có bùa có bả gì chứ sao lại mê mết hắn thế!
Lúc này theo đà biến động ở Liên Xô tôi đã ngán cộng sản thật lòng. Linh đã hết cái hào quang óng ánh mà cái thằng Tôi - tin ở tôi nó khoác lên ông lâu nay rồi lần đầu tiên bị thằng Tôi - biết hạ xuống, ông có thể thăm hỏi Thế Lữ vì Thế Lữ đã gần đất xa trời. Nếu Thế Lữ cũng nói năng yêu sách đổi mới như Lê Giản thì chắc gì tránh được cái danh đĩ đực?
Tôi sau đó vào Sài Gòn. Tiễn cô em út đi Mỹ đoàn tụ gia đình và đưa con gái vào tìm việc sau khi tốt nghiệp Nhạc viện. Quang Hải, giám đốc Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh xuýt xoa: Khổ anh Trần Đĩnh, phải lận đận tìm việc cho con thế này. Không giúp anh thì tôi còn giúp ai!
Lần này ở Sài Gòn, tôi có ba cuộc gặp ấn tượng.
Trước hết nói đến một người hoàn toàn lạ. Sáng hôm ấy, tôi đến Thế Vấn. Một quan chức ngoại giao, vụ trưởng Vụ người Việt ở Thái, từng hoạt động ở Thái Lan (và quen biết Võ Văn Kiệt nhân một lần về nước cùng dự chỉnh huấn với Kiệt) đang ngồi ở đó sau khi được vấn chữa răng, ông đã giải thích thắc mắc của chúng tôi tại sao kiều bào ta ở Thái lại kéo về nước “triệt để, rầm rộ” như cuối những năm 50 để rồi sau khổ quá. Mắc lừa Bắc Kinh, ông nói. Để cho Hoa kiều “thống soái” kinh tế và thị trường Thái Lan (mà đối thủ đáng gờm ở đó là Việt kiều), họ đã xui ta phát động kiều bào đấu tranh toàn diện nhưng trước hết là chống chính quyền Thái Lan về chính trị. Biểu tình, tố cáo, thỉnh nguyện, bãi thị, bãi khoá, không vào quốc tịch Thái, không lấy vợ hay chồng Thái trong khi Hoa kiều cứ tự do nhập quốc tịch Thái, lấy vợ chồng Thái, do đó nhiều lãnh đạo của Thái, mang tên họ Thái nhưng gốc Hoa. Ta làm dữ thì Thái Lan phải trục xuất. Hoa kiều bèn toạ hưởng kỳ thành, một mình một chợ, hết kẻ cạnh tranh.
Hôm ấy tôi hỏi ông có báo cáo với Bộ chính trị việc bạn xúi chống chính quyền Thái không thì ông nói có. Tôi nói: Hay thật. Sau cú Cải cách ruộng đất phải sửa sai ê mặt mới năm sáu năm thế mà rồi Mao xui chống hổ giấy Mỹ, chống Liên Xô lại theo luôn.
Ông cười. Tôi chợt thấy có những cái cười chưa kịp đặt vào môi đã vèo bay đi. Sau tôi hiểu ông mới đầu định cười nhưng rồi giật mình vì kinh ngạc: ừ nhĩ, bao nhiêu cái hố kinh hồn rồi mà sao cứ học, cứ theo nhanh như thế! Hay nó có bùa mê thuốc lú gì đây.
Hai cuộc gặp khác là người quen lâu mới thấy lại.
Đầu tiên là Hùng Văn, anh bạn phóng viên báo Độc Lập bị bắt từ cuối những năm 70 ở Sài Gòn cho tới cuối những năm 80, Anh giỏi tử vi. Đại tá Tần, Bộ công an theo học tử vi anh một dạo. “Đòn công an đánh tù thì nhiều nhưng tôi chỉ kể anh hai trận, Hùng Văn nói. Một lần quản giáo gọi đứng lại ở sân bắt đọc điều phạm nhân hễ gặp quản giáo thì phải “kính chào”. Tôi đọc xong bị vặn luôn: Thế sao không chào tao? - À, vì bị vướng cái chữ kính. Báng súng cứ thế phang vào hai đầu gối. Liệt một dạo. Một lần tù “Nguỵ” nổi loạn, Hùng Văn làm quân sư rồi bị cùm hoài sau đó. Hai đại tá ở Hà Nội vào hỏi chuyện. Nói anh dù sao cũng là cán bộ Nhà nước cớ sao lại về hùa với bọn bán nước phản động làm loạn? Hùng Văn nói: Vì tôi thấy họ mới thật là đồng bào ruột thịt. Chính họ cưu mang lương thực, thuốc men những khi tôi ốm tưởng chết còn Nhà nước các ông là người gieo đau khổ cho tôi thì bỏ mặc. Gần đây lại hai đại tá Hà Nội vào gặp nói nay đảng khoan hồng cho anh tự do nhưng đề nghị hai điều: Làm được gì cho đất nước thì anh hãy cổ gắng, đảng không phụ công, hai là đừng tiếp tục chống đối. Hùng Văn đáp: Các ông có thể cho tôi vào tù lại. Vì tôi không chấp hành nổi hai điều đó. Tôi không làm gì cho đất nước này nữa. Khi tôi bị bắt nó là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay nó đã là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chuyên chính hơn gấp mấy thì tôi tránh sao lại không bị bắt? Hai là tôi không chống vì chống thì giải thoát cho các ông. Trong tù hầu như khắp mặt quản giáo đều thường lén đến xin tôi xem hậu vận có bị nhân dân trừng trị hay không. Chống các ông để các ông hết được cơn nơm nớp hãi hùng ấy à? Tôi không dại. Khi ra tù, người nhà tôi phải cõng. Cùm nhiều quá chân bị liệt”.
Tôi nghe chuyện Hùng Văn mà trọng lòng gan dạ. Anh đã chở tôi một: tua xe mảy kềnh càng và lấp lánh như cỗ kiệu bay ở trên đường phố Sài Gòn sau khi ra tù. Cho xe nằm rạp gần sát mặt đường để rẽ, cái chống xe cào xuống đất tóe lửa ở ngay dưới chân tôi, ngay trước dinh Thống nhất. Tôi kêu lên thì anh cười: Đi thế họ mới sợ mà tránh mình chứ.
Những năm đầu 1960, Hùng Văn ở trong đội xe mô tô ba bánh biểu diên ở Quảng trường Ba Đình những ngày lễ lớn.
Hôm ấy tôi bảo Hùng Văn là viết đi, viết những ngày ở tù. Anh nói: Để làm gì? Để ra cầm quyền rồi lại thành những đứa tàn bạo mới ư?
Hùng Văn là người đầu tiên dựng tử vi cho tôi. (Thuở bé mẹ tôi đã nhờ thày lên nhưng tôi không biết). Cứ coi như anh chả cần xem gì thêm nữa. “Lý Quảng bất phong hầu và Hình ngục nan đào”, công cốc với cộng sản và cộng sản khéo lại cho nằm ấp, Văn dặn tôi.
Năm 55 tuổi không thấy ấp áp gì, tôi hỏi Hồng Đăng “hay là đi xe máy đâm phải người mà sẽ vào ấp chăng?”
Hỏi tôi có nằm bệnh viện hàng tháng bao giờ không, có bị điên không, tôi đều lắc, Hồng Đăng bèn hỏi: Có bao giờ miễn cưỡng đi xa nhà không? - Có, tôi đáp. Đi mấy tháng kiểm điểm xa Hà Nội với Vụ bảo vệ. Hồng Đăng cười khoái trá:
- Bị giam lỏng thế là tù rồi ông ơi. Hình ngục nan đào, Hùng Văn nói đúng đấy.
Thì ra tôi vẫn cứ xài ngon tiền giả.
Tôi mến Hùng Văn thông minh, thích bông phèng. Chắc anh cũng mến tôi. Sau khi vào Sài Gòn ở, tự nhiên một tối tôi nhận đươc diện thoại Hùng Văn ở Anh quốc cho hay nay anh viết ký tên Việt Thường. Cố nhiên chúng tôi rất vui. Hùng Văn hay gọi tôi từ đấy. Anh gửi biếu tôi ảnh anh bế đứa cháu thứ chín. Anh thấy Hùng Văn “giề chưa?” Tôi thíchtấm ảnh. Nó minh hoạ được cho tình yêu con cháu của Victor Hugo. Anh nhờ tôi gửi cho anh một bức ảnh văn nghệ sĩ đi tàu thuỷ xuôi sông Hồng xuống Thái Bình, chuyến đi anh tổ chức. Nhưng rồi tôi biết anh lên án hầu như mọi người ở trong nước. Kể cả Lê Đạt trước kia anh rất quý mến, anh nói thẳng ra với tôi.
Tôi không phản đối anh - dân chủ mà, vả chăng tranh luận trên điện thoại sao được, nhưng cũng không tán thành cái nhìn xoá sạch mà Trung Quốc gọi là “một gậy chết tươi” của anh. Một dạo anh nói trong trí thức trong nước, anh quý tôi nhất. Tôi cười to. Hùng Văn không phải dân nịnh, vậy sao anh lại “mắt xanh” với tôi đến thế? Dần tôi hiểu hay là anh muốn tôi đừng nói, đừng viết gì, kẻo khi ấy vạch tội tôi, Việt Thường là anh sẽ khó xử… Lâu rồi Hùng Văn không gọi cho tôi. Con gái tôi thỉnh thoảng lại hỏi chú Hùng Văn khéo ốm nặng bố ạ, không thấy gọi cho bố nữa. Nó mến chú Hùng Văn, người đã xem tử vi rất sớm cho nó và bảo nó sẽ giàu lạ lùng, đột ngột, kiểu như trúng số vậy. Một lần nó hỏi chú ơi sao cháu U40 rồi vẫn nghèo, vẫn khổ thì Hùng Văn từ trời Anh quốc nói về rằng cháu sẽ sung sướng. Tôi nghĩ anh an ủi cháu.
Người thứ hai tôi gặp là Nguyễn Văn Trấn (Bảy Trấn, tác giả cuốn “Gửi Mẹ Và Quốc Hội - BT), người trí thức cộng sản nhưng ngay thẳng, trung thực. Ung Văn Khiêm có ưu ái nói đến Trấn.
Không thể quên được hình ảnh một Nguyễn Văn Trấn, mấy lần bí thư xứ uỷ Nam Kỳ, xoay trần, quần xà lỏn cúi rạp xuống sàn thổi cho đượm cái bếp lò than hoa gần sát ban công của căn phòng nho nhỏ trên gác, đường Ngô Thời Nhiệm, quận Ba. Sắc sảo, châm biếm, nhiệt tình là những nét nổi bật ở anh. Tôi đùa, tiền bối báo chí cách mạng nằm khoèo thế này ư? Nói đùa thôi chứ nghe đâu anh chuẩn bị viết một cái hay lắm (Gửi Mẹ và Quốc hội, song lúc ấy tôi chưa biết tên). Anh đã gặp nhiều người?
- Phải nhiều chứ.
- Chẳng hạn?
- Chẳng hạn anh Ba Khiêm nói Cụ Hồ than ở Hội nghị 9 khoá 3 câu: Yêu nhau củ ấu cũng tròn, bồ hòn cũng méo hay lúc biểu quyết thì tẩy chay mà ra đứng hút thuốc ở ngoài hiên.
Trấn rất thích perestroika glasnost. Theo anh thì Trường Chinh học của Gorbatchev cho nên Đại hội 6 mới nói: Lời nói không đi đôi với việc làm (như Gorbatchev lúc mới lên nói chúng ta nói một đằng làm một nẻo). Hay quy nguyên nhân của mọi nguyên nhân vào hai thằng Tư tưởng và Tổ chức.
Trấn rất kính trọng Dương Bạch Mai. Nói là học Mai nhiều lắm. Học nhiều cả tiếng Pháp. Nhớ hết đời Mai dạy hai chữ ablationablution khác nhau. - Mình viết báo tiếng Pháp choang lầm “cắt bỏ” thành “tắm rửa”, may ông Mai bảo.
Trấn cũng nói với tôi như Hoàng Minh Chính đã nói: Họ cho anh Mai uống bia có thuốc độc, chết chưa kịp buông cốc, ngay tại Quốc hội. Lúc ấy, Hoàng Minh Chính nhờ Mai đưa lên Quốc hội thư đề nghị ta nên tham gia vào lưới điện toàn phe của Comecon, tay phụ trách mạng lưới này tên là Frantisek, tôi còn nhớ mà, Trấn nói. Mai đưa xong thì phó chủ tịch Hoàng Văn Hoan chỉ ngay tay vào mặt phó chủ tịch Mai chửi “thằng phản động!” Ta lúc ấy đang hăng hái quyết một lòng nghe Trung Quốc mà, ông chắc nhớ quá. Viết gì thì viết, thế nào cũng phải có đoạn nói về xét lại các ông, Trấn nói. Anh Mai bị mưu sát là cái chắc. Mai chết, Tuân Nguyễn ở Đài phát thanh làm bài thơ khóc Mai thì rồi bị bắt luôn. Có lẽ là người tù xét lại đầu tiên ở ta.
“Có chuyện này, Trấn đã hạ giọng nói khẽ: Này, ngay từ 1947, Duẩn đã chê Cụ Hồ ký Hiệp định sơ bộ mồng 6-3-1946 để cho quân Pháp vào miền Bắc. Duẩn đã có thư gửi Trung ương phản đối hẳn hoi Hiệp định”. Tôi có cảm giác nói đến Duẩn, Trấn hơi giữ gìn. Vì lẽ gì? Không rõ. Nhưng Duẩn ghét Giáp thì chắc chắn hơn cả. Ngay từ sau Cách mạng tháng Tám. Cho là Giáp chẳng hề Trung ương bao giờ mà lại lên to hơn Duẩn.
Trấn thích chuyện trò về nghề báo. Anh hỏi tôi đọc Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng chưa. Được dự và đưa tin vụ toà án Pháp xử Nguyễn Thái Học, tờ báo tường thuật cả lời cãi của Nguyễn Thái Học. Anh cười hóm hỉnh: Vụ xét lại các ông mà được đem ra toà xử rồi được các báo tường thuật thì đúng là đảng dân chủ gấp triệu triệu lần dân chủ tư bản thật. Cụ Huỳnh có một câu về nghề báo mà nếu đem treo lên trụ sở Hội nhà báo ta thì khéo khối đứa xấu hổ thắt cổ chết. Cụ nói: Họ không cho ta có quyền tự do nói nhưng ta lại cho ta quyền tự do giữ ta không nói những cái họ bắt ta nói. Nay làm được như cụ dạy thì phúc tổ.
Trấn tiễn tôi ra đầu đường, gần nhà bà Vân Nga (Nguyễn Thuỵ Nga) vợ hai Lê Duẩn, xưa là người tình của anh. Trời loáng thoáng mưa. Anh vẫn quần đùi xà lỏn, vẫn trơ những giẻ xương sườn và cái bụng lép kẹp đứng nắm tay tôi. Tôi bỗng thấy anh là một tượng La Hán chùa Tây phương “moong” nơi tôn nghiêm trốn vào đây đi nhảo. Tôi chỉ về phía nhà bà Vân Nga nói: Khi tôi sắp rời Bắc Kinh về nước, bà Nga vài ba lần hỏi tôi bà có nên học báo hay không? Lúc ấy tôi bảo nữ làm báo thì vất vả, đến nay chuyện với anh mới thấy có lẽ bà ấy mê làm báo là qua anh.
Nói thế xong tôi vui: Ít ra người đàn ông đã để lại cho người đàn bà sự đam mê.
Chia tay Trấn xong, đến ngã tư đường tôi ngoái lại. Tượng La Hán chùa Tây Phương đang chui vào cái vùng sáng đèn của khung cửa con hình chữ nhật.
Tôi chợt nảy một ý ro: nếu áo quan chúng ta mỗi khi chúng ta nằm vào đó nó lại tự động sáng quắc lên hay tối xầm lại, căn cứ vào cái đời đã qua của ta tốt hay xấu, như bình giá bằng ánh sáng và bóng tối vậy? Trấn thế này là sáng đây! Còn ai có khi tối mịt tối mù nhỉ? Vừa nghĩ đến một loạt ứng viên vừa tủm tỉm…
Khi quẹo Nguyễn Thông qua trước Bệnh viện Da liễu, tôi lại rồ thêm một ý. Nếu những lời nói của ta ra khỏi miệng liền cũng như phún thạch khô cúng lại thành tầng thành dòng đỏ đen trên cơ thể để có thể dọi laser vào cho vang lên được quá khứ trung thực hay gian dối. Mỗi tuần cả nước, bất kể ai, đều phải đi soi một suất laser gọi là chạy thành tâm kế. Không gian vang lên những tiếng nói giấu trong gan ruột.
Tối ấy khả năng rồ dại trong tôi bỗng khá trội. Qua Bệnh viện Mắt chợt lại a! Nếu mắt các nạn nhân cũng để lại tia hoá thạch như ánh sáng vũ trụ thì trong đường phố đây, ta sẽ đọc được biết bao ánh mắt oan khổ. Thế là Hội nhân quyền thế giới sẽ không bị lên án ngược lại là “thiếu khách quan, có thành kiến” và “không có cơ sở”. 

Chương 22
T
ôi vẫn đinh ninh Lê Trọng Nghĩa cũng học ở Frunze như Vũ Lăng, Đỗ Đức Kiên. Cho tới một tối dự lễ cưới Hồng Ánh, con gái út Vũ Đình Huỳnh tại Sài Gòn. Nghĩa, Thế Vấn và tôi ngồi bên nhau ở một bàn thì Vũ Thư Hiên - anh trai Ánh, đưa một thanh niên nước ngoài đến nói là giám đốc Nhà Văn Hoá Liên Xô ở Sài Gòn, sõi tiếng Việt. Làm việc giới thiệu, tôi chỉ vào Lê Trọng Nghĩa nói:
- Đã học ở Liên Xô.
- Tôi biết, anh bạn trẻ nói.
- Ngỡ nói địa, tôi hỏi, ở đâu?
Anh ta nói, ở Kutuzov.
Tôi nói, sai! Frunze.
Thì Nghĩa nói: Đúng đấy.
Tướng lĩnh từ Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái, Trần Văn Trà, Trần Độ, Lê Quang Đạo… học ở Kutuzov, còn đại tá học ở Frunze (Lê Trọng Nghĩa bảo tôi một dạo, Mao đã có ý với Hà Nội sao lại để tướng đi học ở nước ngoài như vậy được chứ!)
Đến đây anh bạn trẻ Nga nói thêm:
- Tôi còn xem ảnh các ông ăn thịt rùa với nhau.
Ma xó? Chợt nhớ đến một quyển sách nói hai cha CIA và KGB có hồ sơ phong phú nhất về dịa danh, nhân danh ở mỗi nước. Cà phê Lâm Khói, phở Thìn… ở Hà Nội là CIA biết cả.
Anh ta chỉ không biết khi tướng Giáp đi Liên Xô học, Mao Trạch Đông đã có ý kiến với đảng Việt Nam tại sao người đứng đầu quân đội một nước lại sang Liên Xô học? Mao chỉ muốn quân sự Việt Nam luỵ Trung Cộng. Anh ta cũng không biết lẽ ra Lê Trọng Nghĩa học ở Trung Quốc nhưng Giáp đã kéo anh sang Liên Xô.
Tình cờ ít lâu sau, kỷ niệm Cách mạng tháng Mười, Hội điện ảnh Sài Gòn mời giới văn hoá đến dự. Chế Lan Viên lên nói thơ Mai-a (chốc lại hỏi vọng xuống: “Có phải thế không nhí, Trần Đĩnh?”)
Giờ nghi, Mai Lộc đưa anh bạn Nga và tôi ra phòng khách. Thì Chế Lan Viên cũng vào. Ngồi xuống cạnh tôi, quàng vai đưa quyển Hoa trên đá. Đề tặng kèm địa chỉ 40/7 Tân Thái Sơn, phường 16, quận Tân Bình, 15-11-85…
Tôi giới thiệu Chế với anh bạn Nga: Chế Lan Viên, nhà thơ rất nổi tiếng. Anh bạn Nga chăm chú nhìn Chế rồi lắc đầu: Không nghe thấy… Dân tộc thiếu số à? Thơ phải dịch ra tiếng Việt không? Giám đốc Nhà văn hoá Liên Xô biết Nghĩa học Kutuzov ăn thịt rùa mà không biết Chế Lan Viên!
Khi trở lại phòng họp, anh ta đi cùng tôi ở đằng sau. Bỗng nói: Ông này cúi xuống hôn Mao mà thấy ông ấy lên lên cao ghê lắm đây… Tôi không bắt chuyện.
Lạ lùng là sau đó vào họp tiếp, nhìn Chế tôi chợt nhớ đến một buổi sáng rét căm căm Chính Yên ra trận địa pháo ở bãi sông Hồng phỏng vấn, đã rủ tôi đi. Sương mù bồng bềnh và những giọt nước như kim châm lên mặt làm tôi buồn nghĩ: rồi chúng sẽ không còn. Bom đạn sẽ xua tan mãi mãi sương mù sông Hồng. Một đại uý trẻ nói sáng hôm kia, nhà thơ Chế Lan Viên ngâm thơ ở đây.
Tự nhiên tôi hỏi:
- Ngâm những gì?
- Ca ngợi đại hậu phương Trung Quốc bên kia biên giới là nhà với lại lên án thỏTôi vẫn đinh ninh Lê Trọng Nghĩa cũng học ở Frunze như Vũ Lăng, Đỗ Đức Kiên. Cho tới một tối dự lễ cưới Hồng Ánh, con gái út Vũ Đình Huỳnh tại Sài Gòn. Nghĩa, Thế Vấn và tôi ngồi bên nhau ở một bàn thì Vũ Thư Hiên - anh trai Ánh, đưa một thanh niên nước ngoài đến nói là giám đốc Nhà Văn Hoá Liên Xô ở Sài Gòn, sõi tiếng Việt. Làm việc giới thiệu, tôi chỉ vào Lê Trọng Nghĩa nói:
- Đã học ở Liên Xô.
- Tôi biết, anh bạn trẻ nói.
- Ngỡ nói địa, tôi hỏi, ở đâu?
Anh ta nói, ở Kutuzov.
Tôi nói, sai! Frunze.
Thì Nghĩa nói: Đúng đấy.
Tướng lĩnh từ Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái, Trần Văn Trà, Trần Độ, Lê Quang Đạo… học ở Kutuzov, còn đại tá học ở Frunze (Lê Trọng Nghĩa bảo tôi một dạo, Mao đã có ý với Hà Nội sao lại để tướng đi học ở nước ngoài như vậy được chứ!)
Đến đây anh bạn trẻ Nga nói thêm:
- Tôi còn xem ảnh các ông ăn thịt rùa với nhau.
Ma xó? Chợt nhớ đến một quyển sách nói hai cha CIA và KGB có hồ sơ phong phú nhất về dịa danh, nhân danh ở mỗi nước. Cà phê Lâm Khói, phở Thìn… ở Hà Nội là CIA biết cả.
Anh ta chỉ không biết khi tướng Giáp đi Liên Xô học, Mao Trạch Đông đã có ý kiến với đảng Việt Nam tại sao người đứng đầu quân đội một nước lại sang Liên Xô học? Mao chỉ muốn quân sự Việt Nam luỵ Trung Cộng. Anh ta cũng không biết lẽ ra Lê Trọng Nghĩa học ở Trung Quốc nhưng Giáp đã kéo anh sang Liên Xô.
Tình cờ ít lâu sau, kỷ niệm Cách mạng tháng Mười, Hội điện ảnh Sài Gòn mời giới văn hoá đến dự. Chế Lan Viên lên nói thơ Mai-a (chốc lại hỏi vọng xuống: “Có phải thế không nhí, Trần Đĩnh?”)
Giờ nghi, Mai Lộc đưa anh bạn Nga và tôi ra phòng khách. Thì Chế Lan Viên cũng vào. Ngồi xuống cạnh tôi, quàng vai đưa quyển Hoa trên đá. Đề tặng kèm địa chỉ 40/7 Tân Thái Sơn, phường 16, quận Tân Bình, 15-11-85…
Tôi giới thiệu Chế với anh bạn Nga: Chế Lan Viên, nhà thơ rất nổi tiếng. Anh bạn Nga chăm chú nhìn Chế rồi lắc đầu: Không nghe thấy… Dân tộc thiếu số à? Thơ phải dịch ra tiếng Việt không? Giám đốc Nhà văn hoá Liên Xô biết Nghĩa học Kutuzov ăn thịt rùa mà không biết Chế Lan Viên!
Khi trở lại phòng họp, anh ta đi cùng tôi ở đằng sau. Bỗng nói: Ông này cúi xuống hôn Mao mà thấy ông ấy lên lên cao ghê lắm đây… Tôi không bắt chuyện.
Lạ lùng là sau đó vào họp tiếp, nhìn Chế tôi chợt nhớ đến một buổi sáng rét căm căm Chính Yên ra trận địa pháo ở bãi sông Hồng phỏng vấn, đã rủ tôi đi. Sương mù bồng bềnh và những giọt nước như kim châm lên mặt làm tôi buồn nghĩ: rồi chúng sẽ không còn. Bom đạn sẽ xua tan mãi mãi sương mù sông Hồng. Một đại uý trẻ nói sáng hôm kia, nhà thơ Chế Lan Viên ngâm thơ ở đây.
Tự nhiên tôi hỏi:
- Ngâm những gì?
- Ca ngợi đại hậu phương Trung Quốc bên kia biên giới là nhà với lại lên án thỏ…
- Thỏ?
- Vâng, ngâm Những con thỏ hoà bình, ngươi nghịch tuyết trong khi ta chịu lửa, Ta chiến đấu chính vì ngươi đó…
Anh sĩ quan nói lúc ngâm thì chính nhà thơ vịn vào dòng chữ Chế tạo tại Liên Xô trên nòng pháo mới toanh.
Tôi nói: Tôi ở Trường Múa tại Khu văn công Mai Dịch, Ngay đầu chung cư tôi, một lính Liên xô luôn ngồi coi một tổ họp máy nổ ngày đêm phát điện cho ra đa quét máy bay Mỹ. Đặc biệt thấy người lại cúi gằm như có lỗi. Chắc đã được dặn là người Việt Nam rất ghét Liên Xô. Mà đúng là chẳng ai đi qua chào hỏi họ. P. K. L., chuyên viên Vụ báo chí truyền đạt ở nhiều nơi rằng Liên Xô sang giúp ta chẳng qua vì ta thắng to quá nên muốn dây máu ăn phần. Tôi hỏi sao nói thế thì P. K. L. nói: Trung ương bảo thế nào tớ nói thế ấy. Các cụ cho nhà báo Trung Quốc vào vùng giải phóng chứ đâu cho Liên Xô. Cho Trung Quốc nghiên cứu đặc công ta chứ Liên Xô thì xin nghỉ. Ông lên Trung ương mà chất vấn.
Tối đọc Hoa trên đá: “Sinh thời nào chúng bịp theo thời ấy, Thời hổ thật chúng bày trò hổ giây… Giả cách mạng, giả anh em, giả mặt trời hồng. Thối hoắc gió Tây rồi còn giở giọng gió Đông, Quỳ gối cho đế quốc cỡi từ lâu rồi còn đóng kịch… Pháo Bắc Kinh thay vào bom Mỹ… Hôm qua bạn bè nay thành đao phủ, vẫn hát Quốc tế ca và dương cờ đỏ… Lũ “thái thú” tân trang bằng một ngọn cờ hồng…
Lại lạy (?) xin lỗi Hai Bà Trưng v.v…
Hơi bâng khuâng. Y hệt giễu Mao với tôi ngày nào. Bao lâu rồi, từ hôm anh bảo tôi “từ nay đ. mẹ đồng chí rồi đấy” đến tập thơ đ. mẹ đồng chí khác nữa này. Lại mừng, đà này Chế sẽ dần tố ra hết các cốp từng xui anh thờ lầm lũ thái thú phất cờ hồng.
Chợt nghĩ nếu một nhà thơ Trung Quốc viết: Sinh thời nào chúng mù tin thời ấy, Thời hổ thật chúng mù tin hổ giấy, Mù tin cách mạng, mù tin anh em, mù tin mặt trời hồng…
***
Lê Thọ, chánh văn phòng, rồi phó ban nông nghiệp báo Nhân Dân sang làm cố vấn giúp báo đảng của Campuchia tuyên truyền nông nghiệp. Khổ lắm, báo đảng mình ế, lại sang giúp bạn cho ế theo, anh cười khà khà nói. Cái bãi mìn này nuốt không trôi mà khạc ra thì ê… Này, cộng sản sản xuất tồi nhưng đánh nhau thì ác như nhau. Thật, du kích Khơ-me Đỏ đấy, rất đông trẻ con mười bốn mười lăm mà đánh ta cực hung. Không chỉ trẻ con Việt Nam anh hùng nhá. Việt Cộng mượn đất nó đánh Mỹ thì nó mượn đất Thái đánh lại. Nó ghét ta lắm. Lúc Trung ương cục và Thành uỷ Sài Gòn- ia Định đóng nhờ căn cứ địa của Pol Pot tại tỉnh Kendal, đêm anh em ta vẫn nghe thấy lính Pol Pot hô ầm ầm ”Cạp duôn!”(chặt đâu mọi). Gọi ta là duôn, là mọi. (Thọ cười phá lên). Nghe đâu xưa đội bóng Campuchia đấu ở Ganefo, Sihanouk cho phép được thua tất cả nhưng phải thắng Duôn!
Tôi nói: Để tự hào dân tộc, anh nào cũng kiếm một kẻ thù. Ta kiếm Mỹ, Campuchia kiếm Duôn.
- Tự hào đâu không rõ chứ nói ê thật, Lê Thọ nói tiếp. Sáng chủ nhật nào khu chuyên gia duôn cũng ầm ầm như nhà máy Ba Son. Vợ chồng chuyên gia vần thùng phuy về đầy sân rồi chặt, dàn thẳng ra làm rào che chắn. Khốn nạn, nhặt nhạnh, thu vén được tí nào thì phải phòng gian bảo mật chứ! Chủ nhật ăn tươi là ra chợ mua đầu cá, thứ dân bên đó vất đi, về nấu canh chua. Me đày đường thả cửa trèo lấy. (Tôi vụt nhớ Trân Vũ Nhai kể chuyên gia y tế ta ở Algeria. Ba anh chung một phòng mà đèn bếp cháy bóng thì mặc kệ. Len rẻ như thế, bỏ tiền mua bóng đèn làm gì cho hẹp vốn đi. Mỗi anh một bao diêm giấu đầu giường, hễ thấy ai đánh một que là hai anh kia phải mờ ngay bao của mình ra đếm xem que nó vừa đánh có phải là nẫng của minh không). Lúc ấy có ba chế độ bồi dưỡng bở cho cán bộ: vào nằm Việt-Xô, đi làm chuyên gia ở Campuchia và cho con cái sang họ hay lao động ở các nước anh em. Ông hỏi nay tôi thấy thấm thía cái gì nhất à? Mạng người. Vụ sập hàm ếch chết hàng trăm dân công làm thuỳ lợi Kẻ Gỗ Nghệ An mà khi làm lễ mừng công, không hề truy điệu họ. Có phải là nhờ Mỹ nó tìm thi hài lính chết mà ta cũng học nó tìm không?
Ngô Lê Dân, chuyên viên báo Nhân Dân từng ở Phnom Penh bảy năm giúp báo Rô Chia Chuôn tức Nhân Dân của Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia. (Y như báo ta theo tên báo đảng Trung Quốc). Dân đến nay vẫn ái ngại cho bà Xom Kim Xua, Tổng biên tập, trung ương uỷ viên. Khi ta rút, đảng mất quyền, hết ngân sách, báo đảng chỉ còn in vài chục tờ kiểu bản tin phát không để giữ tiếng. Không còn lương, mấy anh chị em ở báo đành thu hep chỗ ở trong trụ sở lại để cho thuê lấy tiền chia nhau lần hồi. Sau gặp anh em ta bà ấy cứ khóc. Dân cho biết Tổng bí thư Pen Sonvan bị hạ vì có ý thân Liên Xô. Đâu như có nói, làm đày tớ thằng giàu còn hơn làm nô lệ thằng nghèo.
Tôi đùa Dân: Thế ra, ta như trâu trắng, đến đâu là đem hoạ đến đấy nhi?
Dân còn kể việc anh được ông Võ Nguyên Giáp tâm sự… u ám. Anh đến đưa cho bà Hà một thư của Thanh Hảo, nữ phóng viên nhiếp ảnh báo Nhân Dân. Không ngờ đại tướng giữ anh lại. Phàn nàn chuyện ông đi mấy nước Bắc Phi thì được Algeria mời và sau khi báo cáo về nước, ông đã đến đó. Rồi, ông ngao ngán nói: “Người ta phê bình tôi vô kỷ luật”. Ngô Lê Dân bảo lần đầu gặp tép riu lạ mặt như Dân mà đại tướng cũng kể lể nỗi niềm thì chắc trong lòng cay đắng lắm. Tôi thấy vui vui, chỉ cần ta ngó quanh là thấy đày khắp vết tích tội lỗi của đảng. Như hồi Cải cách ruộng đất có người nói cứ nhìn mặt bất cứ địa chủ nào cũng thấy máu bần cố, ác lắm.
Quốc tế, nhất là Trung Quốc, ép dữ Việt Nam rút khỏi bãi mìn. Báo chí ta ca ngợi Việt Nam “vẻ vang hoàn thành nghĩa vụ quốc tế” nhưng Hun Sen trả lời Time: Chúng tôi rất mừng là đã xoá bỏ được bản hiệp định nô dịch đỏ của Việt Cộng. Dùng chữ đỏ là chắc Hun Sen muốn chỉ cả chủ nghĩa lẫn máu me.
Sau đó, xảy vụ người Việt bị người Khơ me giết ở Phnom Penh, Hun Sen lại trả lời báo Time: “Người Campuchia giết vì căm thù người Việt, chúng tôi biết làm thế nào?”
***
Năm 1991 có hai sự kiện quan trọng. Một là đến Đại hội 7, Nguyễn Văn Linh chỉ mới một nhiệm kỳ đã về. Hai là Liên Xô sụp. Cán bộ kháo rằng Đỗ Mười, Tổng bí thư mới đã mời đống trí thức đến hỏi: Liên Xô sập rồi, ta có sập không?
Một giảng viên Học viện chính trị quốc gia nói: “Chủ nghĩa Mác-Lê từ lâu rồi đã chẳng thuyết phục nổi được cả vợ con tôi”. Thế nhưng cương lĩnh đại hội nào cũng nêu cao lòng trung thành của Đảng với chủ nghĩa.
Riêng tôi thật sự hết đèo bòng.
Tôi kính trọng Gorbachev, người đã bóc đi hai trăm triệu bùa ma cấm khẩu dán trên miệng người xô-viết và hạ các nòng súng đang lăm lăm chĩa vào nhau. Tôi chưa muốn đánh giá hết vai trò của Yelsin, một người nát rượu.
Báo Pháp viết Liên Xô sụp trên chính cái rỗng không mênh mông của nó.
Người ta cho rằng cấm vận đã giết chết Liên Xô. Lủi thủi một mình bên lề mấy cuộc cách mạng công nghệ khoa học thế giới rầm rộ, Liên Xô không có nổi lấy một thương hiệu tử tế, kể từ thuốc đánh răng, hộp phấn, bảnh xà phòng. Cơ bản vẫn là nền kinh tế moi ruột: dầu lửa, kim cương. Nhiều của mà dân nghèo, công nghệ thấp. Nghịch lý thế mà lại hợp lý: bởi chỉ lo giữ ghế, khinh trí tuệ!…
- Thỏ?
- Vâng, ngâm Những con thỏ hoà bình, ngươi nghịch tuyết trong khi ta chịu lửa, Ta chiến đấu chính vì ngươi đó…
Anh sĩ quan nói lúc ngâm thì chính nhà thơ vịn vào dòng chữ Chế tạo tại Liên Xô trên nòng pháo mới toanh.
Tôi nói: Tôi ở Trường Múa tại Khu văn công Mai Dịch, Ngay đầu chung cư tôi, một lính Liên xô luôn ngồi coi một tổ họp máy nổ ngày đêm phát điện cho ra đa quét máy bay Mỹ. Đặc biệt thấy người lại cúi gằm như có lỗi. Chắc đã được dặn là người Việt Nam rất ghét Liên Xô. Mà đúng là chẳng ai đi qua chào hỏi họ. P. K. L., chuyên viên Vụ báo chí truyền đạt ở nhiều nơi rằng Liên Xô sang giúp ta chẳng qua vì ta thắng to quá nên muốn dây máu ăn phần. Tôi hỏi sao nói thế thì P. K. L. nói: Trung ương bảo thế nào tớ nói thế ấy. Các cụ cho nhà báo Trung Quốc vào vùng giải phóng chứ đâu cho Liên Xô. Cho Trung Quốc nghiên cứu đặc công ta chứ Liên Xô thì xin nghỉ. Ông lên Trung ương mà chất vấn.
Tối đọc Hoa trên đá: “Sinh thời nào chúng bịp theo thời ấy, Thời hổ thật chúng bày trò hổ giây… Giả cách mạng, giả anh em, giả mặt trời hồng. Thối hoắc gió Tây rồi còn giở giọng gió Đông, Quỳ gối cho đế quốc cỡi từ lâu rồi còn đóng kịch… Pháo Bắc Kinh thay vào bom Mỹ… Hôm qua bạn bè nay thành đao phủ, vẫn hát Quốc tế ca và dương cờ đỏ… Lũ “thái thú” tân trang bằng một ngọn cờ hồng…
Lại lạy (?) xin lỗi Hai Bà Trưng v.v…
Hơi bâng khuâng. Y hệt giễu Mao với tôi ngày nào. Bao lâu rồi, từ hôm anh bảo tôi “từ nay đ. mẹ đồng chí rồi đấy” đến tập thơ đ. mẹ đồng chí khác nữa này. Lại mừng, đà này Chế sẽ dần tố ra hết các cốp từng xui anh thờ lầm lũ thái thú phất cờ hồng.
Chợt nghĩ nếu một nhà thơ Trung Quốc viết: Sinh thời nào chúng mù tin thời ấy, Thời hổ thật chúng mù tin hổ giấy, Mù tin cách mạng, mù tin anh em, mù tin mặt trời hồng…
***
Lê Thọ, chánh văn phòng, rồi phó ban nông nghiệp báo Nhân Dân sang làm cố vấn giúp báo đảng của Campuchia tuyên truyền nông nghiệp. Khổ lắm, báo đảng mình ế, lại sang giúp bạn cho ế theo, anh cười khà khà nói. Cái bãi mìn này nuốt không trôi mà khạc ra thì ê… Này, cộng sản sản xuất tồi nhưng đánh nhau thì ác như nhau. Thật, du kích Khơ-me Đỏ đấy, rất đông trẻ con mười bốn mười lăm mà đánh ta cực hung. Không chỉ trẻ con Việt Nam anh hùng nhá. Việt Cộng mượn đất nó đánh Mỹ thì nó mượn đất Thái đánh lại. Nó ghét ta lắm. Lúc Trung ương cục và Thành uỷ Sài Gòn- ia Định đóng nhờ căn cứ địa của Pol Pot tại tỉnh Kendal, đêm anh em ta vẫn nghe thấy lính Pol Pot hô ầm ầm ”Cạp duôn!”(chặt đâu mọi). Gọi ta là duôn, là mọi. (Thọ cười phá lên). Nghe đâu xưa đội bóng Campuchia đấu ở Ganefo, Sihanouk cho phép được thua tất cả nhưng phải thắng Duôn!
Tôi nói: Để tự hào dân tộc, anh nào cũng kiếm một kẻ thù. Ta kiếm Mỹ, Campuchia kiếm Duôn.
- Tự hào đâu không rõ chứ nói ê thật, Lê Thọ nói tiếp. Sáng chủ nhật nào khu chuyên gia duôn cũng ầm ầm như nhà máy Ba Son. Vợ chồng chuyên gia vần thùng phuy về đầy sân rồi chặt, dàn thẳng ra làm rào che chắn. Khốn nạn, nhặt nhạnh, thu vén được tí nào thì phải phòng gian bảo mật chứ! Chủ nhật ăn tươi là ra chợ mua đầu cá, thứ dân bên đó vất đi, về nấu canh chua. Me đày đường thả cửa trèo lấy. (Tôi vụt nhớ Trân Vũ Nhai kể chuyên gia y tế ta ở Algeria. Ba anh chung một phòng mà đèn bếp cháy bóng thì mặc kệ. Len rẻ như thế, bỏ tiền mua bóng đèn làm gì cho hẹp vốn đi. Mỗi anh một bao diêm giấu đầu giường, hễ thấy ai đánh một que là hai anh kia phải mờ ngay bao của mình ra đếm xem que nó vừa đánh có phải là nẫng của minh không). Lúc ấy có ba chế độ bồi dưỡng bở cho cán bộ: vào nằm Việt-Xô, đi làm chuyên gia ở Campuchia và cho con cái sang họ hay lao động ở các nước anh em. Ông hỏi nay tôi thấy thấm thía cái gì nhất à? Mạng người. Vụ sập hàm ếch chết hàng trăm dân công làm thuỳ lợi Kẻ Gỗ Nghệ An mà khi làm lễ mừng công, không hề truy điệu họ. Có phải là nhờ Mỹ nó tìm thi hài lính chết mà ta cũng học nó tìm không?
Ngô Lê Dân, chuyên viên báo Nhân Dân từng ở Phnom Penh bảy năm giúp báo Rô Chia Chuôn tức Nhân Dân của Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia. (Y như báo ta theo tên báo đảng Trung Quốc). Dân đến nay vẫn ái ngại cho bà Xom Kim Xua, Tổng biên tập, trung ương uỷ viên. Khi ta rút, đảng mất quyền, hết ngân sách, báo đảng chỉ còn in vài chục tờ kiểu bản tin phát không để giữ tiếng. Không còn lương, mấy anh chị em ở báo đành thu hep chỗ ở trong trụ sở lại để cho thuê lấy tiền chia nhau lần hồi. Sau gặp anh em ta bà ấy cứ khóc. Dân cho biết Tổng bí thư Pen Sonvan bị hạ vì có ý thân Liên Xô. Đâu như có nói, làm đày tớ thằng giàu còn hơn làm nô lệ thằng nghèo.
Tôi đùa Dân: Thế ra, ta như trâu trắng, đến đâu là đem hoạ đến đấy nhi?
Dân còn kể việc anh được ông Võ Nguyên Giáp tâm sự… u ám. Anh đến đưa cho bà Hà một thư của Thanh Hảo, nữ phóng viên nhiếp ảnh báo Nhân Dân. Không ngờ đại tướng giữ anh lại. Phàn nàn chuyện ông đi mấy nước Bắc Phi thì được Algeria mời và sau khi báo cáo về nước, ông đã đến đó. Rồi, ông ngao ngán nói: “Người ta phê bình tôi vô kỷ luật”. Ngô Lê Dân bảo lần đầu gặp tép riu lạ mặt như Dân mà đại tướng cũng kể lể nỗi niềm thì chắc trong lòng cay đắng lắm. Tôi thấy vui vui, chỉ cần ta ngó quanh là thấy đày khắp vết tích tội lỗi của đảng. Như hồi Cải cách ruộng đất có người nói cứ nhìn mặt bất cứ địa chủ nào cũng thấy máu bần cố, ác lắm.
Quốc tế, nhất là Trung Quốc, ép dữ Việt Nam rút khỏi bãi mìn. Báo chí ta ca ngợi Việt Nam “vẻ vang hoàn thành nghĩa vụ quốc tế” nhưng Hun Sen trả lời Time: Chúng tôi rất mừng là đã xoá bỏ được bản hiệp định nô dịch đỏ của Việt Cộng. Dùng chữ đỏ là chắc Hun Sen muốn chỉ cả chủ nghĩa lẫn máu me.
Sau đó, xảy vụ người Việt bị người Khơ me giết ở Phnom Penh, Hun Sen lại trả lời báo Time: “Người Campuchia giết vì căm thù người Việt, chúng tôi biết làm thế nào?”
***
Năm 1991 có hai sự kiện quan trọng. Một là đến Đại hội 7, Nguyễn Văn Linh chỉ mới một nhiệm kỳ đã về. Hai là Liên Xô sụp. Cán bộ kháo rằng Đỗ Mười, Tổng bí thư mới đã mời đống trí thức đến hỏi: Liên Xô sập rồi, ta có sập không?
Một giảng viên Học viện chính trị quốc gia nói: “Chủ nghĩa Mác-Lê từ lâu rồi đã chẳng thuyết phục nổi được cả vợ con tôi”. Thế nhưng cương lĩnh đại hội nào cũng nêu cao lòng trung thành của Đảng với chủ nghĩa.
Riêng tôi thật sự hết đèo bòng.
Tôi kính trọng Gorbachev, người đã bóc đi hai trăm triệu bùa ma cấm khẩu dán trên miệng người xô-viết và hạ các nòng súng đang lăm lăm chĩa vào nhau. Tôi chưa muốn đánh giá hết vai trò của Yelsin, một người nát rượu.
Báo Pháp viết Liên Xô sụp trên chính cái rỗng không mênh mông của nó.
Người ta cho rằng cấm vận đã giết chết Liên Xô. Lủi thủi một mình bên lề mấy cuộc cách mạng công nghệ khoa học thế giới rầm rộ, Liên Xô không có nổi lấy một thương hiệu tử tế, kể từ thuốc đánh răng, hộp phấn, bảnh xà phòng. Cơ bản vẫn là nền kinh tế moi ruột: dầu lửa, kim cương. Nhiều của mà dân nghèo, công nghệ thấp. Nghịch lý thế mà lại hợp lý: bởi chỉ lo giữ ghế, khinh trí tuệ!

Chương 23
Đ
ông Đức, "cái mặt tiền hoa lệ" của chủ nghĩa xã hội sụp. 1989, nhân đà dân Hung nổi dậy, dân bên Đông liền phá một mảng Bức tường Berlin, tấm rèm bê tông phân chia tổ quốc - mà 1987 Tổng thống Mỹ Reagan đã nói Hạ nó xuống (Tear it down!) Hãy cho chù nghĩa Mác - Lê vào tro tàn lịch sử - rồi ào ào vượt sang hoà vào nửa tổ quốc “mãi xa vắng, mãi thù địch” nhưng quá xá là giàu. Giàu tiền, giàu cả tình yêu thương hoà hợp. Tây Đức không bắt nhân viên chính quyền Đông Đức đi tù hay cải tạo. Tất cả bộ máy cộng sản của Đông Đức cũ đều hưởng lương hưu. Ôi chao, chữ nhân nghĩa này tư bản nó học ở đâu? Chả đâu xa. Có lẽ học từ ở cái hung tàn của Cộng.
Sau cộng sản Đông Đức sụp chừng nửa tháng, Cách mạng nhung của Tiệp diễn ra đúng một ngày rưỡi. Một biển người biểu tình đón mừng Dubcek, nguyên Tổng bí thư từng đề xuất “chủ nghĩa xã hội với mặt người” và “Mùa xuân Praha” rồi bị lưu đày và Vaclav Havel, nhà văn, thú lĩnh Phong trào Hiến chương 77 vừa từ nhà tù bước ra. Vì thành phần gia đình quý tộc khá giả, ông đã bị cấm vào đại học. Ông từng có thư gửi Tổng bí thư Husak nói: “Trật tự đang chế ngự tại đây là một trật tự quan liêu giết chết cá thể, đè bẹp đặc thù, loại bỏ mọi thăng hoa, một trật tự không sự sống. Vâng, đất nước Tiệp đang có yên bình… của các bãi tha ma”.
Tôi tưởng phen này Dubcek sẽ cho được mặt người vào chủ nghĩa xã hội. Lầm! Dân Tiệp kén người sẵn có mặt người chứ tội gì kén anh cộng sản phái đem ghép thêm mặt người vào mình.
Ở Đông Đức người Berlin xông trước tiên vào trụ sờ Stasi, tổng hành dinh công an Đông Đức. Mở toang cửa toà “ngân hàng” lưu trữ hồ sơ theo dõi công dân thì liền kinh hoàng. Một hệ thống chì điểm dầy đặc chăng khắp nước. Một bà trí thức bỗng nhận ra chồng mình bao năm qua vẫn mách đều cho an ninh hành vi và ngôn luận của bà. Gunther Grass, nhà văn Tây Đức, giải Nobel đã phải viết: Xin đóng cửa vết nhơ to lớn mới của Đức, sau những trại tập trung và lò thiêu. Stasi với 265.000 nhân viên mật vụ đã đỡ đầu cho an ninh Việt Nam. Trụ sở Bộ công an ở Yết Kiêu là quà tặng của nó. Trùm của nó, Markus Wolf, thế giới đánh giá là nhà tình báo lỗi lạc, “nhà trí thức”, “nhà nghệ sĩ” đã nói với nhà văn Pháp Narcejac (nay viết trinh thám, hình sự) rằng chủ nghĩa Lê-nin nguy khốn vì nó trước hết chỉ lo nắm quyền, còn lợi ích dân thì xuống dưới lợi ích của đảng.
Theo hồi ký Gorbachev, khi lên dự khuyết Bộ chính trị, lần đầu nghĩ hè ở chỗ Bộ chính trị, gặp Tổng bí thư Andropov, Gorbachev mời ông đến nhà, ông từ chối. Lý do: Phải nghĩ tới việc các đồng chí Bộ chính trị sẽ đặt vấn đề chúng ta gặp nhau thì nói những gì đấy.
Như đã nói, giữa thập niên 80 của thế kỷ trước, con người tôi trải nhiều lay động. Đọc thư Vaclav Havel gửi Tổng bí thư đảng Tiệp Husak tôi rất thích, tuy thư đó đã dẫn ông vào tù. Ồng lên án đảng cộng sản Tiệp đã xây dựng tập tính sợ thành nền móng ứng xử ở trong lòng dân Tiệp, cái sợ đã khiến nước Tiệp yên ắng như một bãi tha ma.
Té ra nhiều danh nhân nói đến cái sợ. Bởi vì nó nằm ngay ở trong phần cốt tử của mỗi chúng ta. vấn đề là ta đối phó với nó ra sao cho đúng cốt cách con người.
Tổng thống Mỹ Roosevelt cho rằng cần chống trước tiên cái sợ ở trong ta.
Faulkner, nhà văn Mỹ dành cả một đoạn trong diễn vãn nhận giải Nobel kêu gọi chống cái sợ.
Và gần đây hơn, bà Aung San Suu Kyi, chiến sĩ dân chủ Miến Điện lên tiếng khuyến cáo người cầm quyền cũng như người dân hãy cùng giúp nhau từ bỏ cái sợ. Theo bà, người cầm quyền sợ dân lên án nên không dám cho dân hưởng dân chủ.
Khác người, Stalin biết khai thác triệt để cái sợ của người dân. Theo De Gaulle thì hiểu sợ là động lực mạnh mẽ thúc đẩy quần chúng hành động nên Stalin đã dựng lập nên hệ thống sợ có tính quần chúng bát ngát bao la.
Lần đầu tiên hệ thống sợ được đảng chăm sóc công phu, bài bản kia đã bị công phá. Những việc làm nức lòng như thả tù chính trị, bỏ kiểm duyệt, bầu cử tự do ở Hung và Ba Lan… trở thành các địa chấn ở Liên Xô và Đông Âu.
Nhưng dù mặc slip hai ngăn, Duẩn vẫn dự thảo báo cáo chính trị Đại hội VI và nhận định tình hình: Đất nước tốt đẹp hơn bao giờ hết, cao trào lao động xã hội chủ nghĩa toàn dân làm chủ tập thể đang chờ ở trước mặt.
Tôi thấy ra rằng con người ta dễ đem cái vẻ vang cá nhân phủ lên toàn cục, nhìn đâu cũng ngỡ tươi sáng vững bền, dĩ nhiên đó thường là những con người chớp nhoáng đổi đời, một nhát từ đất đen lên gác tía.
Tin đồn vẫn dồn dập. Lê Đức Thọ đến Nghi Tàm thăm Lê Duẩn bị Lê Duẩn mày tao. “Anh háo danh nên tôi cho anh đi Paris đàm phán, cho anh vào chỉ đạo chiến dịch Hồ Chí Minh… Thôi, anh về đi, tôi không muốn thấy anh”. Đuổi thẳng cánh Thọ.
Thọ mang thư Trường Chinh vào Nam phê bình Duẩn. Duẩn đọc và khóc, ở chính nhà vợ đầu của Mai Lộc và rồi những giọt nước mắt ngày ấy đòi trả nợ: từ 1963 đến 1986, gần một phần tư thế kỷ, Trường Chinh đã phải đắng cay theo Duẩn. Trong khi đó Duẩn thu phục được Sáu Thọ - xưng em với Duẩn. Trường Chinh đã bị Sáu Thọ chê ở Sơn La rằng đường lối đoàn kết dân tộc của Trường Chinh là “Trung ương của thằng Khu chứ đ. gì. Cộng sản mà đoàn kết với tữ sản, địa chủ?” Trường Chinh cũng đừng mong Thọ có thơ: “Lời anh là cả lời non nước”. Anh là Duẩn. Lê Duẩn bị đầu óc cực tả của Mao thu phục và đầu óc cực tả của Duẩn lại đã thu phục Thọ. Thọ thật lòng suy tôn Duẩn hay Câu Tiễn hoả mù che mắt Duẩn để chờ thời đá Duẩn? Nhưng tôi thấy lúc đầu Thọ thật lòng. Thọ choáng vì những tia chớp duy ý chí sáng loà của Duẩn, những tia chớp manh động Thọ ít thấy hơn ở Hồ Chí Minh, Trường Chinh.
***
Cả một mảng trận địa cuốn theo chiều gió, Việt Nam choáng hơn hết. Vụt một cái, những “tự cứu”, “tự cởi trói” biến mất. Cỗ máy toàn trị lại cót két vận hành trên một nền “im lặng đáng quý”. Đáng quý vì trước mắt nó sẽ cho phép im lặng quay lại với “kẻ thù” Bắc Kinh.
“Đông Đức không ngờ mà đố, hay quá, mày ạ”. Một hôm Vãn Cao bảo tôi, đôi mắt nhiều khi nom thẫn thờ ngơ ngẩn tìm cái gì bỗng lóe lên hom hóm. Rồi anh kể chuyện khoảng cuối những năm 1986-87 Đông Đức mới mời tác giả Tiến Quân Ca sang thăm muộn quê hương Marx, Engels và Goethe, Beethoven.
“Sang đó, tao được choyé - cưng chiều, ghê quá. Ngỡ như tao muốn gì bạn cũng bằng lòng. Có lẽ nếu tao ba mươi tuổi họ sẽ lẳng lặng kiếm cả gái cho tao kia. Có muốn một tiêu khiển gì đặc biệt không, hỏi hẳn tao như thế. Phải nói là cũng cảm động. Một hôm họ nói đồng chí đã đi nhiều nơi, đã thăm nhiều chỗ, đồng chí sắp về nước, vậy hãy nghĩ xem còn có ai hay địa phương nào đồng chí cần gặp, cần đến nữa không.
Tao nghĩ mãi thì chợt nhớ ra thằng Chiến Sĩ, thằng lê dương Đức bỏ Pháp theo ta và rất trung thành với ta, mày nhớ chứ? (Tôi nói: tên Đức là Brochers, trước khi về Đức đã bán ngôi nhà cậu ấy cho một người bạn tớ, Lưu Động ở dưới Thịnh Quang với giá 800 tiền cụ). Ừ, tao bèn bảo họ tao muốn gặp một bạn Đức, đảng viên khá thân thiết, tên như thế như thế. Hôm sau họ bảo tao ông ấy đã trốn sang Tây Đức từ lâu rồi. Bỏ lại cả vợ con Việt Nam ở Đông Đức. (Tôi đế: Bà vợ nom quê mùa). Ừ, lúc ấy tao cũng quê quá. Nhưng rồi nghĩ sở dĩ thằng Chiến Sĩ bỏ quê hương cộng sản sang quê hương tư bản là nhờ nó đã bị quê hương thứ hai, Việt Cộng om nó quá khổ. (Tôi cười: Chiến Sĩ cũng bị liệt vào danh sách chống đảng như cậu với tớ. Còn cậu Waiter Nguyễn Đức Nhân nữa cơ. Cậu này trí thức hơn. Viết rất hay. Bị trù sớm hơn Chiến Sĩ. Có lần đến chỗ Lê Quang Đạo, Ban tuyên truyền trung ương hồi 1949, cãi nhau rất to với Quang Đạm, tớ chứng kiến, về chuyện người Việt hay đánh súc vật, cái đó chứng tỏ người Việt yếu chả nghĩa nhân văn và kém tri thức. Khéo cũng về Tây Đức cả). Văn Cao bảo có lần Chiến Sĩ nó nói cộng sản phương đông hiểu sai Marx nên làm không đúng. Nay trốn sang Tây Đức chắc là nó thấy Marx cũng sai nốt. Khéo mấy cha Đức chiêu đãi tao dạo ấy bây giờ lại phục tao thân với những chiến sĩ từng tiên phong phá tường Berlin rất lâu”.
Văn Cao lại nói có một giáo sư nhạc học Đức bảo anh: Giá như hồi mới độc lập, bị Stalin lờ đi mà Việt Nam nhảy theo phương tây thì nay đã là một thành trì của thịnh vượng và văn minh, dân chủ ở Đông Nam Á, ít gì cũng ngang Singapore. Tao bảo nhưng Truman cũng lờ Hồ Chí Minh thì ông giáo sư nói vì họ biết tỏng cái bụng vờ vịt của các ông (Hồ) chứ, các ông vẫn trung trinh chui với cộng sản. Nếu như các ông cử người gặp họ mà nói rõ hết tình đầu, tuyên bố từ bỏ cộng sản, đặt ngay quan hệ ngoại giao và kinh tế…
Rồi Văn Cao thở dài.
Lúc ấy, Văn Cao không thế biết đầu thế kỷ 21, thủ tướng Đức, bà Merkel lại là một người sống ở Đông Đức. Đang sinh viên bà đã được Stasi tuyển nhưng bà từ chối và vì thế không được vào đại học bà chọn. Hiểu đến tổ chấy chế độ cộng sản, bà nói nó chỉ tạo ra dối trá. Bài học lớn của bà là đừng bao giờ lập lại cái chế độ khiến cho nguời ta chỉ còn có cách hoá điên lên này. Kỷ niệm hai mươi năm tường Berlin sập, bà Merkel ca ngợi công Gorbachev đóng góp vào sự dân chủ hoá và đoàn tụ của nước Đức.
Văn Cao, chắc chắn cậu càng không biết năm 1975 có một trẻ Việt miền nam mồ côi vì bom đạn được vợ chồng một người Đức đem về Tây Đức nuôi, mang tên Philipp Roesler. Đứa trẻ Việt bật gốc ấy đến năm 2011 đã trở thành chủ tịch của Đảng Tự do Dân chủ Đức đang cầm quyền và nghiễm nhiên làm phó thủ tướng nước Cộng hoà Liên bang Đức.
Bên Đức họ quyết “lập quyền dân tiến lên” thật sự chứ không như cậu cùng toàn dân Việt mình mắc bẫy tiến lên lập quyền ông chuyên chính vô sản.
Không ngờ tôi lại gặp một nhân chứng Việt sống động về vụ bức tường Berlin đổ. Một con cháu chính cống Trần Phú: Trần Gia Minh, quê Đức Thọ, hoạ sĩ học ở Đông Đức 11 năm. Cuối 2011 anh bảo tôi và Trần Lưu Hậu:
- Trần Phú là một trong mấy người Việt đầu tiên đến đất nước chuyên chính cộng sản thì có lẽ cháu là người Việt đầu tiên ở Đông Đức đặt chân đến Berlin ngay sau Bức tường Berlin đổ. Tối trước cháu uống rượu ngủ say không biết gì cả. Sáng đến trường vắng tanh. Hỏi bà lao công, bà nói: Herr Minh, bức tường Berlin đã mở, người ta sang chơi bên đó hết cả rồi! Hội lễ cả ở bên đó rồi! Cháu bèn sang, cẩn thận bước qua, thấy hai lính Mỹ to tướng cầm hai khẩu M16 đứng cạnh chỗ tường bị phá mờ. Hỏi: Sang được chứ, thì họ nói “Vùng đất của tự do rồi mà, mời ngài sang!” Sau đó đi lĩnh thẻ nhận ở ngân hàng 100 mác Tây Đức để tự do tiêu dùng tạm. Vùng đất tự do cưu mang đồng bào nghèo độc đáo thật. Cho tiền tham quan, rồi đổi tiền Đông sang tiền Tây mà chả theo tỉ lệ gì hết. Lẽ ra một ăn tám thì nay một ăn hai, ăn ba, có khi ăn một. Chả bù Nhà nước Hà Nội thừa cơ thắng trận thì trảm cho đám dân thua phải hoá ra thành cùng đinh bán xởi.
Một bạn của Gia Minh nói: Hai cực tốt xấu với dân đã rành rành mà cứ xoen xoét. Nhiều khi thấy các tướng lãnh đạo cháu cứ nhìn như khoan vào đầu các tướng cố tìm xem có cái hàng rào kẽm gai gì không mà chẳng cái gì của dân vào lọt nổi trong đó. Có cái rào kẽm Mác-Lê, tôi nói.

Chương 24
B
áo đăng dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội 7 (1991). Tôi gửi thư cho Bộ chính trị. Tôi đề nghị đảng cần xem xét trước hết bản thân có còn khả năng lãnh đạo nữa không chứ không nên như Dự thảo chỉ viết Đảng cần “xem xét các tiềm năng phát triển của đất nước”, có nghĩa là đảng đã yên chí mình hoàn hảo, chỉ còn xem khách quan đất nước và dân có với được tới yêu cầu của đăng không thôi.
Mà theo tôi thì hiệu lực lãnh đạo của đảng thấp kém. Lương công nhân viên vẫn chỉ đủ ăn cho mười ngày, nghĩa là nhu cầu sinh học tối thiểu của đất nước chỉ được thoả mãn một phần ba. Hai công tác tư tưởng và tổ chức, (“nguyên nhân của mọi nguyên nhân” tiêu cực nêu ra từ Đại hội 6) vẫn như cũ. Lòng tin của dân càng mất vì tiếp tục nói không đi đôi với làm, tiếp tục sa sút đạo đức, tiếp tục bất lực với tham nhũng, quan liêu, khinh dân, tiếp tục đặc quyền đặc lợi. Đảng nói dân là gốc nhưng dân tự nhận “phó thường dân”. Đảng nói đảng có truyền thống đoàn kết nhưng Chính cương Nguyễn Ái Quốc bị Luận cương Trần Phú thay. Và Võ Nguyên Giáp khiếu kiện đảng đã được dân chia sẻ bằng mấy câu ca: Ngày xưa đại tướng công đồn, Bây giờ đại tướng bịt l. chị em và Chiến trận ba mươi năm, Tướng võ không còn nguyên mành giáp…
Đảng nói đảng chí công vô tư thì dân nói Mất mùa đố tại thiên tai, Được mùa vơ vội thiên tài Đảng ta. Đảng cần lấy đánh giá của dân làm chuẩn để sửa mình. Dân không tin đảng là cái mất, cay đắng nhất, phũ phàng nhất và cũng nguy hiểm nhất cho đảng,
Đảng im lặng, không hồi âm…
Ít lâu sau, một buổi sáng, Nguyễn Chí Hùng an ninh đến. (Tức là thư tôi gửi trên kia đã đến tay công an Hà Nội. Khôn ngoan thì tự hiểu từ nay thôi góp ý xây dựng đảng đi). Hùng hỏi nhân sự Đại hội: Họp trù bị hai ngày rồi anh có nghe nói gì không?
- Không, tôi không bận tâm.
- Anh mà không?
- Bận sao nổi chứ? Chúng ta biết cái gì? Đảng giấu kín bưng, đâu có như ở Mỹ họ vạch nhau ra ghê gớm khi tranh cử. Thí dụ đây, các lực lượng trong Trung ương ghè nhau, anh có biết không? Tổng cục an ninh cũng chẳng biết. Mà biết lại càng chết. Thế thì đoán mò làm gì? Mới lại mình có là trẻ con đâu để mà đi hứng hoả mù.
- Hoả mù?
- Đại hội 6, Kiến Giang được một đại tá công an là cậu cho một bản đánh máy có tên hơn trăm vị vào Trung ương. Đều người dân tin, dân yêu. Võ Nguyên Giáp thủ tướng còn nhiều phiếu hơn Trường Chinh. Một người bạn được cho đọc cử ôm lấy Kiến Giang mà thút thít “Đất nước khá ra rồi đây”.
- Theo anh, ông Giáp thế nào, Chí Hùng hỏi?
- Tám chục tuổi rồi… và vẫn bị đánh. (Tôi chưa biết sắp có án mới cho Giáp trong đại hội này).
- Anh ác thế! ông Giáp vẫn tỉnh táo lắm mà.
- Tôi ác hay ai ác? Nếu ai tốt thì đâu ông ấy ba đào? Thôi, nhân đây, tôi nói nguyên tắc nhân sự của tôi: Hãy chọn nhân sự của đảng trong toàn dân! Tôi thí dụ đây, cái bàn này là dân cả nước, cái khay chén này lả đảng. Người tài trong bàn tất phải nhiều hơn người tài trong khay. Vậy bầu Tổng bí thư thì xin tìm người trong cả cái bàn. Tìm bầu được rồi mà chưa phải đảng viên thì lúc ấy kết nạp có sao? Lại được là Đảng và nhân dân cùng làm và lấy dân làm gốc thật.
Đại hội 7, Nguyễn Văn Linh về, sau chỉ mỗi nhiệm kỳ - thường là hai. Không cùng cánh sáu Thọ, Linh chỉ là đệm lúc giao thời. Người ta không thể bỏ ông ngay sau khi buộc Trường Chinh, ngọn cờ đổi mới rút lui. Ông than thở với đám Mai Lộc: Ở lại cũng không làm được. Tôi đề nghị anh Chín Cần làm Trưởng ban tổ chức mà họ có chịu đâu. Họ là ai?
Hoá ra lại có một cái đảng quỷ nhập thần sầu nữa ở ngay trong Đảng?
Nguyễn Văn An, vốn trưởng trạm điện huyện, hậu sinh một đời của Trần Xuân Bách (được ông Bách đặc cách cho vào tỉnh uỷ) nhưng mấy đời của Nguyễn Vắn Linh, nay lên Trưởng ban tổ chức trung ương, nghĩa là có góp phần đưa Linh xuống, đã nhận xét: Anh Linh tốt, nghe bảo về là về liền không khó khăn như những anh khác. Anh khác nào vậy? Trường Chinh ư?
Và nói thế phải chăng đã có phương án đề phòng khó khăn, trở ngại? Sẽ là gì nhỉ? Có phương án đặc biệt ấy trong hồ sơ lưu trữ không?
Hai ngọn cờ Đổi mới thế là bị bứng cả để cho Đỗ Mười lên Tổng bí thư làm sửng sốt gần như toàn đảng toàn dân. Hà Nội rộ ngay lại tiếu lâm: Hồi làm bộ trưởng hay phó thủ tướng gì đó, ông vi hành cãi nhau với “con phe”, vỗ ngực hỏi:
“Không biết Đỗ Mười đây à?”
Phe đốp lại: “Đứa đỗ đến lớp mười hai tớ còn cho bấn xúc xích con mẹ nhà nó lên thì ra quái gì cái đỗ lớp mười nhà ông”. (Lúc ở tù ông viết, đọc vất vả. Sau này theo chế độ “dốt học chính quy” nên vẫn đụt hoàn đụt).
Các lão thành hỏi nhau có nhớ hồi nào Đỗ Mười điên nằm Việt-Xô. Lên cơn, ông leo lên cái cây cạnh cổng đứng xoạc chân cành cao cành thấp giơ tay hét xung phong. Các cô y tá ra dỗ bác xuống đều ù té chạy. Bác mặc quần đùi, trận địa pháo đài bày ra hết. Mà các cô thì không ở nam khoa, nội tiết. Sau gien điên của Đỗ Mười đã bền bỉ truyền sang cả con trai và cháu. Đồn rằng đặc điểm là thạo ăn người.
Tôi nói tôi đọc báo Mỹ đăng bản khai sức khoẻ của Reagan khi ra tranh cử tổng thống, có ghi ở mục tính dục là “bình thường”. Các cụ ồ lên hỏi sao lại khai thế? Dạ, họ minh bạch. Không khai ngộ ông ấy đồng tính luyến ái lẹo khắp lượt các bộ trưởng thì sao? Quốc trưởng bên họ phải khai đầu tiên là có bộ não lành mạnh. Kẻo chập điện mà bấm nút cho nổ bom A thì chết toi hết. Với lại người ta thiếu gì người bình thường mà phải đưa người bị tâm thần ra cai trị toàn dân lành lặn? Ít ra người ta cũng biết tể nhị không làm cho đân cả nước tủi: không bằng một người có bệnh tinh thân kinh!
Từ đầu những năm 60, Kỳ Vân đã đố tôi tại sao mặc quần Tây mà bộ trưởng Đỗ Mười cứ xắn một bên gấu. À, trước kia hoạn lợn. ống quần bên chân xéo vào chuồng bắt lợn phải xắn cho nên đã thành tập tính nghề, Kỳ Vân giải thích.
Hoàng Minh Chính, Lê Trọng Nghĩa kể ở Hoả Lò, Đỗ Mười thường sảng khoái nói: Tớ đã xấu giai lại dốt chữ nghĩa, kém lý luận thì khéo sau này thành công làm thằng tuyên truyền cũng đếch nổi.
Nhưng tổng kết Đỗ Mười triệt để và công khai nhất là nguyên phó thủ tướng Đoàn Duy Thành. Có vẻ Đỗ Mười đã ẵm mất ghế Tổng bí thư của ông thật.
Đại hội dạo này hay xảy đột tử. Đại hội 6, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn lần lượt bất đắc kỳ tử, Lê Đức Anh liền thế hai ông làm bộ trưởng quốc phòng. Đại hội 7, Nguyễn Đình Tứ chuẩn bị lên chủ tịch nước lại đột tử. Lê Đức Anh lại thay. Con mã của ông nhảy thang quá hay.
Lê Đức Anh lên dữ thì um chuyện lý lịch. Cai, không phải phu cao su. Xú Chột hay Cai Lé, hai biệt danh này do Nguyễn Trung Thành, vụ trưởng bảo vệ xì ra chứ không tôi làm sao mà biết được. Đảng hồi đó không kết nạp cai, lớp người bị coi là tay sai của Pháp!
Hồi Lê Trọng Nghĩa đại tá chánh văn phòng Bộ quốc phòng, Lê Đức Anh là trung tá dưới trướng. Vợ cả ông ở trong Nam ra họp đã đến tận văn phòng Bộ làm ầm lên chuyện ông lấy bà bé.
Mới nổi trong Bộ chính trị có Nguyễn Hà Phan, chiến sĩ trung kiên nhà tù “Mỹ-Nguỵ”. Người o bế ông là Đào Duy Tùng. Nhưng cũng xôn xao rằng bố Đào Duy Tùng ngày xưa lý trưởng chuyên lùng bắt Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt. Tôi hỏi Trần Độ. Anh nói lúc ấy Hoàng Tùng có bắn chết Lý Khanh, hình như là chú bác ruột Đào Duy Tùng. Việc này tôi có viết trong hồi ký Đón súng bên sông.
Nhân sự của Đảng nay toé loe ra mới thấy bê bối quá. Và lạ là không như trước nữa, bí mật thâm cung cứ tóe tòe loe ra? Tôi cũng bắt đầu thấy rõ đường diễn biến đi xuống của lãnh đạo, đồng thời nhìn ra nguyên nhân tại sao lại ngày cứ một kém đi. Đó là do: đầu không dùng đầu mà chỉ dùng tay chân. Theo nếp giáng thấp, tay chân lên thay đầu cũng không dùng tay chân mà chỉ dùng… đuôi, cứ cái trật tự móc hạt giống ở nách mình ra thì dứt khoát lãnh đạo đời sau phải thua kém đời trước.
Đảng bỗng đề cao Đại hội 7 là “bước ngoặt”. Ôi, Đại hội 6 vừa ngoặt “đổi mới” đã “ngoặt” về cũ luôn: Đại hội 6 nới quyền lực đảng thì 7 siết chặt hơn lên bằng cách đề ra Cương lĩnh độc lập dân tộc gắn với chủ nghía xã hội, không thì mất độc lập. Đại hội 6 bỏ ban cán sự đảng hay đảng đoàn thì đại hội 7 cho nó sống lại. Đại hội 6 bớt quân đội trong Trung ương đi thì đại hội 7 cho thêm nhiều hơn. Sau đại hội, xã luận báo Nhân Dân số Xuân viết: Đảng vừa “chặn đứng một nguy cơ nghiêm trọng”. Không nói rõ nhưng ai cũng hiểu là suýt nữa thì Đại hội 6 làm mất đảng.
Suốt những năm 60 ruộng đồng Albania ngổn ngang gò đống boong-ke phòng chống Liên Xô xâm lược. Dân Trung Quốc một dạo dài nơm nớp sợ quân Liên Xô tràn sang. Hai nước đã đánh nhau kich liệt. Có trận mấy sư đoàn Trung Quốc bị diệt. Nghe nói cúc đồng trên áo lính Trung Quốc chảy thành nước hết. Rồi Việt Nam và Campuchia đánh nhau gần chục năm ròng. Đến nay vẫn sót lại ở Campuchia 6 triệu quả mìn (mà ít ra một phần tư là mìn Việt gốc Nga-Hoa, còn là mìn Cam gốc Hoa-Nga) sẵn sàng nổ xin giò con nít. Trung Quốc gọi Liên xô là đế xã và Việt Nam là tiểu bá. Liên xô chửi Trung Quốc bành trướng (nhưng tôi nghe truyền đạt thì chính ra là thế này: Chữ “bành trướng” này là do “Đảng ta” nghĩ ra, Liên Xô mượn, vì với Trung Quốc ông anh (Liên Xô) còn lơ mơ lắm, không được tỏ tường như “Đảng ta”. Trước thảm trạng bê bối đó mà đảng vẫn bình tâm đề ra chủ nghĩa xã hội bảo đảm cho độc lập dân tộc thì coi cái chết quả như lông hồng thật!
Qua các tuyên bổ chính thức thành văn (Việt Nam ra cả Sách Trắng) và các đợt giáo dục, học tập nội bộ sâu sắc của Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam rõ ràng thấy đều đã chửi nhau là đồ xâm lược cả. Bắc Kinh láu cá cho hàng chục vạn quân sang đánh sáu tỉnh biên giới Việt Nam nhưng lại gọi đó là chiến tranh tự vệ (thì lại lòi là thằng xã hội chủ nghĩa Việt Nam nó uy hiếp độc lập của tôi, nó bé mà nó láo lắm, hết đánh Mỹ lại đánh tôi!}
Trung Quốc bị đế xã Liên Xô, tiểu bá Việt Nam uy hiếp độc lập nên từ 1979, Đặng Tiểu Bình đã lên án chủ nghĩa xã hội chuyên phá quấy độc lập các nước rồi cùng Carter ra Thông cáo báo chí long trọng tuyên bố “Mỹ - Hoa cam kết bảo vệ độc lập của các dân tộc”. Sau đó, gặp Lý Quang Diệu, Đặng lại đề nghị ASEAN cùng Trung Quốc lập liên minh chống đế xã Liên Xô và tiểu bá Việt Nam. (theo Từ thế giới thứ ba tới thứ nhất của Lý Quang Diệu).
***
Năm 2000, Lý Quang Diệu mà thế giới gọi là nhà tư tưởng, là một trong mấy nhân vật tạo nên châu Á cận đại, cho ra hồi ký lớn “Từ thế giới thứ ba đến thứ nhất” được thế giới đánh giá rất cao. Trong đó, ông viết năm 1990, tại một hội nghị quốc tế, ông hết sức ngạc nhiên thấy phó thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt vồ vập ôm ông, nói muốn cộng tác với ông. Ô, mới hôm nào ông là đối tượng chửi của Việt Nam! Tay sai đế quốc! Chống cộng, chống nhân dân Việt Nam mà! Ông từ chối. Việt Nam chiếm Campuchia, thế giới đang cấm vận trừng phạt thì cộng tác sao được. Kiệt bèn khoe đã ký hơn trăm giấy phép đầu tư. Lý nói ký cả vạn cũng không ăn nhằm gì nếu như Mỹ chưa gật đầu để Ngân hàng thế giới vui lòng cho Việt Nam “vay nợ mềm” (soft loan). Chỉ khi Ngân hàng Thế giới bảo đảm cho hầu bao Việt Nam, các nước mới đầu tư vào. Vậy trước tiên cần có chìa khoá Mỹ để mở két Mỹ. Rồi muốn vượt lên, lại cần đến động cơ mạnh là Mỹ.
Mỹ là chìa khoá và động cơ xây dựng - thảo nào Mao, Đặng đều mong ôm được nó. Hận là Mao không bảo ta cùng ôm mà lại nhờ xương máu ta để được ôm riêng.
Xem thêm bằng chứng về tình anh em xã hội chủ nghĩa. Phạm Dương, tình báo và tham tán của phái đoàn Việt Nam bảy năm tại Liên Hợp Quốc nói sau tháng 5-1975, đám chuyên viên kinh tế bạn anh báo cáo với Lê Duẩn rằng Đông Nam Á, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan tiến mạnh được là nhờ gia công cho các nước v.v. thì Lê Duẩn nạt: Lại muốn học chúng nó làm nô lệ ư? Một thứ trưởng y tế gợi ý cho các xí nghiệp dược của Sài Gòn cũ đang thất nghiệp làm kháng sinh gia công cho khối Comecon cộng sản thì Tố Hữu hứ: Trẻ con! Độc lập mà đi gia công! Anh tưởng Comecon mà không ngoạm nhau à?
Tôi nói: Thảo nào, tớ dịch cương lĩnh Comecon đăng báo, người ta đã chữa chữ hội nhập - integration thành liên hiệp. Cẩn thận, lợi dụng hội nhập, họ hoà tan ta như chơi đấy. Tớ định vặn thế sao bảo bốn phương vô sản là nhà và chủ nghĩa xã hội bảo đảm độc lập dân tộc?
Trở lại với Từ thế giới thứ ba… của Lý Quang Diệu. Một vận hành trí tuệ sắc sảo, thiết thực, thông minh. Thế giới gọi Lý là nhà tư tưởng không hề ngoa.
Đọc nó tôi chịu ấn tượng nhất về việc năm 1965, Lý Quang Diệu xin cho Singapore ra khỏi Liên bang Malaysia để thành quốc gia độc lập với vẻn vẹn vài triệu dân rồi nhờ chính quân lính Anh bảo hộ cho trong năm năm! Theo ông, ở liên bang chắc chắn nội chiến: Đảng cộng sản Mã Lai rất năng nổ dứt khoát sẽ cho chính quyền ra bằng nòng súng. Vậy thì tránh voi chẳng xấu mặt nào!
Tôi bảo Vũ Quốc Tuấn trong ban chuyên viên của thủ tướng hãy cho dịch cuốn sách để các ông ấy đọc. “Để thấy cố vấn tối cao đã xin quân Anh bảo vệ trong năm năm”.
Rồi Tuấn bảo: “Tôi đã dịch nhưng chỉ để tham khảo nội bộ”.
- Ôi, - tôi kêu lên, nhân dân anh hùng đổ máu bao nhiêu vẫn bị xua khỏi các bữa cỗ trí tuệ mình Đảng hưởng! Thua dân Singapore, Malaysia, Thái Lan… cứ xì tiền ra là đọc. Bộ chính trị của “Đảng ta” chỉ hơn họ là không mất tiền mua!
Tôi không biết là còn tệ hơn thế nữa: các chỗ nói thật về Việt Nam đều bỏ không dịch. Thế mà đề ra “nhìn thẳng vào sự thật!”
Không thể không đặt câu hỏi tại sao Lý Quang Diệu chỉ nhằm tới lợi ích đất nước Singapore chứ không tôn thờ một ý thức hệ nào, khác Nguyễn Ải Quốc đèo bòng giấc mộng giải phóng cả loài người? Phải chăng vì Lý Quang Diệu hay Gandhi không lĩnh lương của một lực lượng quốc tế nào để mà sống?
Năm 2011, trả lời Tom Plalte phỏng vấn, Lý Quang Diệu nói số phận của Singapore phụ thuộc vào cả những gì đang diễn ra ở Mỹ. Ông cho rằng thế giới tự do phải trông cậy vào sức mạnh của Mỹ. Đây là cách nghĩ của hầu hết thế giới.
Cộng sản nghĩ khác, vẫn phải ông Lê-nin. Thêm hai ông Giang - Hồ (Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào) hộ pháp hai bên thì phong trào cộng sản lên phải biết, chả cần vần (chữ vận của Trung Quốc được ông cha ta nôm na hoá thành vần quá hay) vẫn động.


Chương 25
P
he xã hội chủ nghĩa tan, Việt Nam tứ cố vô thân. Bà bảo mẫu thứ nhất qua đời, bà thứ hai thành thù, leo lên tận Hiến pháp. Bản thân bị cấm vận vì tội xâm lược Campuchia (Từ điển Larousse Pháp, ở mục về Campuchia có nói Việt Nam xâm iược Campuchia. Đáng chú ý là Đảng không bắt họ cải chính). Nghe đâu IMF, Quỹ tiền tệ Quốc tế, nó cùng với Ngân hàng Thế giới do Mỹ đẻ ra từ 1945 nên bị ta chửi - mách ta gia nhập ASEAN, cái tổ chức chống cộng Hà Nội từng gọi là tay sai đế quốc. Thích thị trường hơn chiến trường, ASEAN bằng lòng cho Việt Nam “nhập cuộc có tính xây dựng (constructive engagement)”. Nghĩ sẽ uốn dần chiếc bách giữa dòng vào khuôn phép tư bản!
Ngỡ đảng đã tỉnh ngộ, khiếp đoạn trường tân thanh cộng sản rồi thì phen này sẽ đi hẳn với thế giới đa số. Ai ngờ tứ phía tan hoang, hoảng hồn lên, ngựa lại theo đường cũ - đường đã được gọi là kẻ thù - bấm bụng chịu nhục vồ ngay lấy Trung Quốc.
Dẫu sao cũng cứ phải mở cửa!
Mở cửa làm bạn với thế giới thì ba thiên sứ đầu tiên cửa thời đại ập vào và Việt Nam đầu hàng lập tức. Đó là tỷ giá đô-la làm cơ sở tính tiền, nói tiếng Anh (nói thật nghiêm là tiếng Mỹ - bà bán rau giờ cũng bái bài, thiến cu rồi sằng sặc cười) và đi xe Nhật. Nguyện trung thành với chủ nghĩa hết cả đời con kiếp cháu, rất nhanh các cốp toàn lượn Toyota. Volga, thước đo quyền lực, quyền lợi và tình liên minh vô sản vụt biến hết. Cùng Toyota lên đài là đô-la. Đô-la công khai sang tay tíu tít tại Bờ Hồ.
Dân sáng tác ca dao ngay: Hôm qua anh uống Mao Đài, Hôm nay anh đổi sang xài Vodka, Mai kia anh nhẩm Săm-pa, Uyt-ki anh xực là dân ta sướng cứ rên lên hừ hừ… Đúng là không ai mò ra được lòng dạ đâng bằng dân thật.
Một sáng đến Vũ Cận thấy một ông Pháp. Tuần trước tôi đã chuyện với ông ở nhà Bâo tàng dân tộc đường Nguyễn Văn Huyên, ông nói trước bố ông là giáo viên tiếng Pháp ở trường Albert Sarraut Hà Nội. Nhưng Việt Nam sau đó hận tiếng Pháp, công cụ nô dịch và đàn áp Việt Nam nên hầu như chẳng còn mấy ai biết tiếng Pháp. Vũ Cận và tôi là des raretés - của hiếm.
Ông hơi thận trọng nhận xét:
- Nhưng tiếng Trung Quốc cũng là công cụ nô dịch và đàn áp thì lại được các ông rất trọng. Nghe nói xưa ai để giấy có chữ Hán rơi xuống đất là phải tội.
Tôi đùa:
- Vì Trung Quốc không có Voltaire, Montesquieu…
Ông bèn hỏi:
- Trước sứ quán Thuỵ Điển, một khách sạn lấy tên B.s. Hotel. B.s. tiếng Việt là gì? Còn tiếng Anh thì quá là không hay rồi. (Tiếng Anh BS viết tắt theo lối nói lóng là bullshi, nghĩa là cứt bò - BT).
Cận nói:
- Ở tiếng Việt BS là ba sao, bốn sao, bảy sao. Hay buôn sượng, bán sống, bôn sệt.
Thích ngôn ngữ, ông Pháp liền chộp lấy ba chữ vừa nghe. Cận nói hai chữ trên là nói buôn bán bất lương còn chữ bôn sệt thì là buôn bán trung thực có thể dịch ra là extra-bolchevisme hay bolhevisme condensel
Tôi nói thêm:
- Như Nestlé sữa đặc có đường, một thìa pha được 100 mililít.
Ông Pháp gật gù rồi nói:
- Dầu sao cũng là cái lỗi đáng yêu khi bắt đầu học đồng ca, thôi solo giữa sa mạc.
Đến đây tôi thấy dân chúng sính ngoại trái với người cầm quyền bài ngoại.
- Lãnh đạo của chúng tôi có bài và có bái hay là vái, Vũ Cận nói. Các vị đều từng vái chuộng bí danh bằng tên Nga và tên Trung Quốc cả.
- Cảm ơn, cho tôi hiểu thêm. Hồ Chí Minh từng có mấy tên Nga… Và tên Pháp. Hình như là Paul… Song tôi buồn là hiện nay Việt Nam không chuộng tiếng Pháp bằng tiếng Anh.
- Vì tiếng Pháp đô hộ chứng tôi đã trăm năm còn tiếng Mỹ mới có hai ba chục năm. Với lại chúng tôi phải nắm chắc tiếng Mỹ để đánh họ cút. Gần gũi này là do ghét bỏ, Cận đùa.
- Dầu sao, cũng mừng là các ông đã nhận mấy trăm triệu phơ-răng (tiền Pháp - BT) của Pháp để mở Hội nghị nói tiếng Pháp! Nghe nói bài diễn văn tiếng Pháp của ông Trần Đức Lương đọc khai mạc Hội nghị là có thày chuyên dạy ông ấy đọc hàng ngày trong suốt hai tháng cho tới khi thuộc lòng. Ông ấy nói xong, một bà Pháp ở trong ban tổ chức đến chúc mừng thì ông ấy cứ tỉnh bơ. Muốn gì thì các ông cũng đã có phân biệt đối xử về ngôn ngữ.
Tôi đùa theo: Thế thì phải nói các nhà lãnh đạo nước tôi yêu tiếng Pháp hơn cả vì không ai nói mà vẫn nhận vơ có nói. Vả lại, nước chúng tôi có thuật ngữ đi hai chân. Thô sơ đi với hiện đại, tự lực và ngoại viện, hai vai hai gánh ân tình Liên Xô, Trung Quốc. Nay hai “lưỡi” Anh và Pháp, OK?
- Này chúng tớ có chữ d' accord giống OK.
- Okay, d'ac, voilà notre bipédalisme langagier, ngôn ngữ đi hai chân của chúng tớ đấy… Với lại mỗi thứ mỗi thời. Từng có thời cả thế giới hát theo Josephine Baker J' ai deux amours, Mon pays et Paris, - tôi có hai mối tình, đất nước tôi và Paris.
- Cậu là một cha francophile - yêu Pháp chứ không phải một francophone - nói tiếng Pháp, tay bạn Pháp nháy mắt nói.
Ông bạn đi rồi, Cận bảo tôi:
- Tay này chả thiết gì chuyện ta nói tiếng Pháp hay tiếng Mỹ nhiều đâu mà chỉ cốt kháy vào chuyện dân Việt ôm ấp tiếng Mỹ đã từ quá lâu.
Mà quả thật lạ! Chỉ có thể nói tiếng Anh - Mỹ đã phục nấp lâu bền ở trong lòng người Việt để thời cơ đến là phất cờ vùng lên mở trận địa bao la, nhanh gọn đến thế?
Cái gì trong vô thức Việt dắt tay nó rinh tùng rinh đi vào ngon vậy? Coi đó là chuẩn mẫu đổi đời? Hay biểu trưng của trùng khơi, của bay bổng? Niềm khao khát nâng cao giá trị bản thân? Hay ghét của nào rời trao của ấy? Tôi chợt nhớ đến một ý tôi đã viết cho Người Hà Nội của Tô Hoài: Dần nay hay nói tục và dùng tiếng lóng chính là thoả mãn một nhu cầu vô thức tìm bản ngã đã bị biệt tích trong mấy tấm danh hiệu “quần chúng lao động cách mạng”, “gốc” và “chủ”. Nói giọng con phe, phò phạch tức là mượn tín hiệu có thế lực của giới anh chị khiến công an dè nể, người dân tự phóng thích khỏi cảnh kém mọn. Nay thì nhờ một thế lực sang trọng là tiếng Anh - Mỹ để tự cất bổng thân phận. Hoặc đầu gấu hoặc quý phái chứ không mờ nhạt chung chung. Tóm lại đổi chứng minh thư.
Gần đây, trước siêu thị Parkson, Sài Gòn, tôi hỏi một cháu gái jean trễ: Shopping là gì cháu? Cháu vừa bảo bạn cháu đấy.
- Là… là… đi mua sắm ạ… Nhưng nói lượn hay diễu shops cũng được
- Thế sao không nói đi mua hàng, sắm đồ?
- Dạ, nói… nói shopping thấy tung tăng. Nói đi mua sắm thấy chen, thấy mồ hôi,
A, cái tiếng nói này nó lại có sức cải tạo tâm thần, tôi nghĩ và hỏi tiếp: - Thế còn cái gì cay chát?
- Dạ… ?… À, ông ngoại, chat là tán trên net. Chat rồi mail rồi blog… Cháu đang muốn đưa bà ngoại với mẹ cháu lên Wikipedia. Giới thiệu nhân vật quý ạ.
- Còn nom con kia hip hop?
Cháu ngửa tay che miệng cười không nói. Bai bai ông ngoại nha… Lại ôm miệng cười. Mà cái miệng rất xinh… Nè, ông ngoại, hip hop là… hip hop. Tóc ông ngoại bạc để rất đẹp and hip hop a lot thattool
Tôi sang Mỹ, thằng cháu kéo vào hiệu cắt tóc bảo cắt “như lính”. Ở ta là đầu đinh. Đúng hip hop.
Tối xem tiểu thuyết Bắc Kinh dòng văn học ling lei, - linh loại, loại vặt. Nhưng tôi cứ thích hiểu nó ra thành linh lei, - linh lệ - nước mắt thiêng hay linh lôi - cơn phẫn nộ thiêng. Lại baby, honey, candy… Rõ ra một thế giới với mật mã riêng.
Tôi không khỏi mừng thầm mình đã có đôi chút tiếng Anh, Mỹ để hàng chục năm nay được đọc đều Time, Newsweek, The Far Eastern Economic Review… cùng các sách khoa học, triết, văn thơ… bước vào tâm tư duy hiện đại. Thế là chợt thèm trẻ quá. Thèm tham gia cái diễn đàn chat, blog, Wikipedia, YouTube… của đa số vô danh đang được thả cửa vượt ra khỏi mọi lãnh đạo, kiềm chế để nói, nghĩ, làm phim, làm báo, xuất bản sách, làm thượng nghị sĩ, thám tử tư dò xét các cốp… , chủ động tạo dựng cuộc sống mà ở đó vương tướng khanh hầu chính là tôi.
Cái bầu trời ngoại xa lạ mà gần gũi, thân thiện đó xâm nhập hồn nhiên như thời đại, như không khí. Chúng là một lực kéo ta khoái trá nhảy vào tuộc chơi, vào thắng trung tâm sự vật. Đó là lò luyện miễn phí hiền tài, nguyên khí quốc gia ở quy mô quốc tế không bè phái, chia rẽ. Ở đó tiếng nói của một thiếu niên cũng làm cho quyền uy chột dạ. Ngày xưa thống trị bắt người rải truyền đơn chống đàn áp thi nay không bắt nổi kẻ rải chữ vô hình lên không gian. Bộ trưởng Nội vụ Nga, Rachid Nourgualiev đã phải nói: “Đâu có Internet thì đấy minh bạch”. Và “Chúa tạo ra con người nhưng Internet làm cho con người bình đẳng”.
Vậy có thể kết luận Mỹ đã có công lớn trao cho con người khắp thế gian này có công cụ để bình đẳng được với nhau không?
Ý thức hệ vốn bè phái cực độ. (Nhờ Đặng Tiểu Bình, trí thức mới được bám gót công nông nổi giá lên tí chút). Lạ là hiền tài hay “nguyên khí quốc gia” tức trí thức, đều yêu nước - đảng đã xác nhận đều biết đảng cầm quyền là “thay mặt đất nước và nhân dân” thế nhưng chưa hề thấy “nguyên khí” nào cắt tay lấy nguyên huyết viết đơn xung phong vào đảng để được phục vụ tốt hơn nữa. Sợ hai cái giớp - “Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ” và vào thì cũng chỉ đến làm kiểng - chăng? Họ biết ở giữa họ và đảng là một rào chắn bè phái kiên cố về trí tuệ (chủ nghĩa Mác, con đẻ tinh thần của công nhân phải cải tạo triệt để nguyên khí quốc gia - hòng trước chuyên sau mà Mao Chủ tịch đã dạy và ta kiên trì theo, coi cái võ thanh lọc nội bộ này như nguyên lý cuộc sống) là cả một cái vực sâu chia cắt về đạo đức (họ khó trung thành tuyệt đối với đảng) bởi thế kết nạp hiền tài, đảng phái xét ba đời lý lịch và đòi thời gian thử thách dài hơn. Còn phận họ thì vạ gì mà đang yên đang lành lại xung phong xin vào để cho hương hồn ông bà bố mẹ bỗng dung bốc mùi. (Thí dụ nhãn tiền Hồng Linh, chi bộ yêu nhắm kết nạp và thế là lòi ông bố bị ta giết… oan!) Bởi nguyên khí quốc gia là phải chịu nguyên khí giai cấp quản lý, cải tạo, dạy dỗ cho kỳ mất quốc gia đi.
Solzhenitsyn (văn hào Nga - BT) có một câu hay: Ai tôn thờ bạo lực thì tất phải chơi trò dối trá.
Thời gian này, một tối tôi đến Lê Trọng Nghĩa rủ anh đi vòng quanh cái vườn hoa con con ở ngã tư các phố Trần Phú, Sơn Tây lên chợ Ngọc Hà và Ông ích Khiêm.
Tôi nói chúng ta nên gặp Sáu Thọ, đặt thẳng vấn đề chúng tôi đề nghị đảng cho một công tác để chúng tôi cùng với đảng đổi mới. Cùng với đảng là có phần của chúng ta chứ không phải chỉ theo đảng. Tôi nghĩ các ông ấy cũng đang cần rửa mặt mà cái vết cần rửa nhất là vụ chúng ta vậy thì quyền bính, tổ chức trong tay, các ông ấy có thể bằng lòng. Sợ gì mấy đứa chúng ta. Còn chủng ta qua công việc có thể tác động, gây ảnh hưởng… ít nhất cũng không lạc lõng như hiện nay. Tôi không gặp Thọ được vì tôi không phải lão thành cách mạng như các anh. Tác động của tôi không lớn bằng các anh. Cho nên tôi nghĩ anh hay Hoàng Minh Chính hay Lưu Động nên chủ động đề nghị gặp Thọ. Nghĩa im lặng.
Sau đó theo đề nghị của tôi, Chính, Nghĩa, Hoàng Thế Dũng, Trần Thư, Gia Lộc, Lê Đạt một sáng mát mẻ đã đến nhà Lưu Động hẻo lánh ở Thịnh Quang bàn việc này.
Chính phản đối. Cho là nay cứ việc đứng ngoài mà đấu tranh trực diện. Tôi nói trong bộ máy có chúng ta, nhất là các ông, các vị lão thành vốn bắt đầu ngầm đồng tinh với các ông, mà số này đông đấy, mới dám gần gũi chúng ta và qua đó chúng ta mở rộng ảnh hưởng. Tôi hỏi ông, mới ra tù lần đầu, ông viết khen Lê Duẩn là thiên tài, tôi bảo không nên khen thế thì ông bảo sách lược thôi, vậy nay sao không thử sách lược này một lần xem? Tôi bảo Đặng Tiểu Bình ba lần viết thư xin Mao rủ lòng tha tội thế mà rồi chính Đặng cho Mao kềnh. Đặng biết vai trò của bộ máy. Thư ký của Hồ Diệu Bang trốn chạy sang Mỹ cũng viết: Không thể đứng bên ngoài mà làm sập cộng sản, cần cái lực chia rẽ ở nội bộ nó.
Cuối cùng “sách lược đội lốt tung thâm” của tôi chết ngóm. Tranh luận dữ với Chính, tôi là người cuối cùng ra về, đến cổng ngoài tôi thấy Nghĩa dắt xe chờ ở đó, “Đĩnh cáu quá, mình đi cùng với”.
***
Người Mỹ đầu tiên đến ở Hà Nội lâu là Dessaix Anderson, tiền trạm sứ quán. Thứ đến Winston Lord, trợ lý bộ trưởng ngoạỉ giao Mỹ.
Lord đã soạn Chương trình 10 điểm cửa Mỹ ở Thái Bình Dương, theo đó Châu Á - Thái Bỉnh Dương đang là quan trọng nhất với Mỹ. Nhắc nhở trong năm chế độ cộng sản sót lại, thì ở khu vực có bốn cái còn có thể gây rối.
Ông cho biết: “Cường độ và độ nồng ấm trong quan hệ Mỹ-Việt tuỳ thuộc vào tiến bộ của Việt Nam ở lĩnh vực tự do và dân chủ”. Quả là Mỹ sẽ cứ giữ hoài cái tiêu chí này. Với Việt Nam, Trung Quốc khăng khăng đòi Biển Đông, Mỹ nhất định đòi phải nhân quyền, dân chủ.
Rồi Mỹ bỏ cấm vận. (Chắc tin lời hứa của Việt Nam). Đô-la Mỹ một nhát bềnh kinh tế Việt Nam tăng trưởng 9%. Tư sản mới nhảy ra mở lại cái nghiệp còn u uất oan hồn lớp cũ.
Mấy ông tư sản từng bị “lột” chẳng biết sao lại cho tôi xem những con số cải tạo tư bản ở miền Bắc. 100% hộ tư sân công nghiệp tức 783 hộ; 97% hộ tư sản thương nghiệp tức 4.826 hộ và 319 hộ tư sản giao thông vận tải bị xoá sổ. 14.000 công nhân “được giải thoát khỏi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa”. Rồi 230.000 tiểu thương vào hợp tác xã cung tiêu (tiểu thủ công một chục năm nữa là diệt vong hoàn toàn).
Một tư sản già nói: cỏ đúng là chỉ bằng cái vẩy ghẻ không? Thế mà tiêu diệt nghiến luôn! Bây giờ cờ đào lại phất cho tư sản mới dấy binh. Liệu họ rồi lại có bị chủ nghĩa xã hội bắt xé xác ăn mừng phen nữa không đây?
***
Rồi Clinton tuyên bố bình thường hoá. Diễn văn của Clinton đăng báo Nhân Dân có mấy chỗ đáng chú ý:
“… chúng ta sẽ… phát triển buôn bán với Việt Nam phù hợp với pháp luật Mỹ (tôi nhấn mạnh ở đây và ở dưới)”.
“… có rất nhiều cái đòi hỏi những xác nhận về quyền con người và lao động thì mới có thể thực hiện được”.
“Tôi tin tưởng việc bình thường hoá quan hệ và tiếp xúc Mỹ - Việt sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở Việt Nam như đã từng diễn ra tại Đông Ằu và Liên Xô cũ”.
“… những người Mỹ dũng cảm đã chiến đấu và hy sinh ở đó (Việt Narn) đều là… vì tự do và độc lập của nhân dân Việt Nam…“
“Chúng ta tin rằng bước đi này sẽ mở rộng tự do ở Việt Nam, các cựu chiến binh được tiếp tục sự nghiệp cũ”.
Lần đầu tiên lời lẽ “phản cách mạng” đăng trang trọng trên trang nhất báo đảng. Một trí thức bảo tôi: Này, đảng cũng biết xuống xề xàng xê líu ngọt ra phết đấy chứ!
Không nhịn được, rủa tiếp: Sư thằng đế quốc, sướng thế, đến nước vô sản mà cứ tha hồ nói! Mình dân nước vô sản thì lại đ. được.
Tôi có phân vân: Cho Clinton nhảy thẳng vào dinh luỹ tư tưởng ca ngợi mục tiêu chống cộng và bảo vệ tự do cho Việt Nam, Đảng đã mót Mỹ đến mức này rồi cơ à? Có hy vọng được không? Hay là ông Cộng này chuyên đánh tráo. Hiệp ước ký còn xé tan thì lời nói gió bay cần gì… Đừng nghe tao nói, tao đã dạy.
Nên biết trước đó một năm, ngày 11-5-1994, Clinton ký Ngày Nhân quyền của Việt Nam, ngày mà hàng năm Quốc hội Mỹ bàn đến vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Vấn đề nhân quyền sẽ là cái kẹt dai dẳng nhất trong quan hệ hai nước. Lòi ra cộng sản kị con người kinh khủng, đến mức bất chấp mọi lý tính, lương tri, miễn sao nó được trèo lên đầu cưỡi lên cổ của tất cả những ai là người! 

Chương 26
T
ôi quen ba người dạy tiếng Anh và tôi muốn nói tới các anh như những người từng chịu hẩm hiu lúc đất nước sập cửa lại với thế giới, tiếng Anh bị miệt thị. Thật ra chả phải chỉ tiếng Anh mà là bất cứ tiếng nói của kẻ thù nào. Chị P. T. M., dạy tiếng Trung Quốc ở Đại học Sư phạm đã ngồi làm thường trực mãi ở cống trường cho tới khi Trung Quốc hết là thù mới lên truyền hình dạy lại. Ông Nghĩa dạy tiếng Trung Quốc ở Cao đẳng sư phạm Hà Nội thì đi làm bảo vệ. Khi đánh xét lại, các giáo viên tiếng Nga nghỉ dài dài. Đầu tiên nói tới Đặng Chấn Liêu. Cùng tội “xét lại”. Treo giò, mất chức chủ nhiệm khoa tiếng Anh Đại học Sư phạm. Liêu cho hay hồi ấy chả ai thiết cái thứ tiếng phản động này. Nhiều phụ huynh thấy con “bị” phân vào khoa Anh ngữ đã kiện anh: “Gia đình tôi thành phần cốt cán lại thêm cơ sở cách mạng mà đi bắt con tôi học tiếng Anh là sai nguyên tắc!” Hoặc: “Con tôi thành tích học như thế sao lại đưa nó vào khoa tiếng Anh?” Liêu ở Pháp làm viên chức của Liên Hợp Quốc. Theo Cụ Hồ kêu gọi, anh về nước và bị Hoàng Văn Hoan nghi là tình báo Anh. Số là khi qua Thái hồi hương, anh gặp một người bạn nói đang hộ tống một lão thành cách mạng hiện thiếu áo rét. Liêu biếu luôn chiếc áo khoác len sang trọng, lông lạc đà. Người bạn hẹn Liêu sáng sau đến khách sạn để lão thành cách mạng cảm ơn và trò chuyện. Y hẹn đến. Lão thành cách mạng nằm quay mặt vào tường vờ ngủ. Người bạn cho biết vì vị này nghi Liêu tình báo Anh (ở Anh lâu quá!) Áo không làm gián điệp được nên lão thành nhận. Run rủi sao trong công việc Liêu hay gần gụi vị lão thành. Một lần anh theo Cụ Hồ đi các nước xã hội chủ nghĩa. Ở Nam Tư, Chủ tịch Tito tự lái xe đưa Cụ Hồ và Hoàng Văn Hoan đi. Lái nhanh như gió, bất chấp đường núi, cua gấp tay áo. Sau lần thử gan mật dựng tóc gáy đầu tiên, Hoan bảo Cụ Hồ đừng đi xe Tito lái nữa. Cụ bảo: Chú sợ thì chú đi xe khác. Hoan đổi xe luôn. Phòng xa rủi Bác làm sao thì có người thay, Liêu nói. Một chiều 2 tháng 9, hình như 1977, đạp xe về cơ quan, tôi gặp Liêu đạp xe ngược lại. Mũ đi rừng trắng, ti-sớt trắng, giày te-nít trắng và bí tất trắng, Liêu vẫy tôi dừng lại. Chúng tôi ghếch chân chuyện trò dưới những hàng cờ tíu tít trong các tán lá xanh dọc con đường ven hồ chính thu. “Nhân ngày Độc lập long trọng, mình vừa gửi cho Phạm Văn Đồng cái thư. Cảm ơn thủ tướng mười năm trước đã chỉ thị cho Đại học Sư phạm tăng lương tôì và nay tôi vừa mới được vinh dự hưởng lương… nổ chậm, đùa với ông chứ không viết thế”, Liêu nói.
- Nổ bao nhiêu, tôi hỏi? - Tám đồng bọ. Thế là mười năm qua mỗi năm tăng tám hìu lương. Với Trung Quốc ông ấy lại xộp. Nhận chủ quyền biển đảo ngọt ghê.
- Ừ nhỉ! Nếu còn Liên Hợp Quốc thì nay làm gì?
Liêu cười cười.
- Có thể đại sứ không, tôi hỏi?
- Ô, mà có khi đại sứ ở Việt Nam. Chết, như thế thì lúc ấy Phạm Vãn Đồng lại tặng huy chương vì gì này nọ và cảm ơn đại sứ đã giúp Việt Nam. - Kèm một tranh sơn mài Chùa một cột treo ba ngày là vênh, Liêu đùa theo.
Tôi không thế quên một trưa đầu tháng 8-1967, ở chỗ Nguyễn Đức Thuận K15 về, tới giữa đường Thanh Niên, gặp Chấn Liêu đi xe máy Liên Xô ngược lên đê Yên Phụ, khéo là đến Mỹ Điền ở đầu dốc. Liêu giữ tay bảo tôi dừng. Rồi ghé tận tai, giọng thú vị: May quá, cái luận văn chống giáo điều của Mình Việt để ở nhà Phạm Viết không việc gì… (Nhưng rồi công an đã ngang đường bắt Ngọc Lan, vợ Viết và Lan đã phải nộp cái gọi là Cương lĩnh chống đảng). Một cái gì nghe như tình đồng đội thấy ở trong Khải hoàn môn của Erich Maria Remarque (nhà văn Đức - BT) Xưa có những tối Chấn Liêu, Minh Việt và tôi cùng đến nhà Phạm Viết hay nhà Vũ Đình Huỳnh, những buổi trò chuyện nhẹ nhàng mà ấn tượng sâu sắc. Bác sĩ bệnh viện Việt-Xô ngờ tôi xơ gan, Liêu một sáng chủ nhật dẫn tôi tới nhờ Tôn Thất Tùng khám giúp. Tùng nắn một lúc xong thoi một cái khá mạnh vào bụng tôi, đệm một câu chửi khá tục (vợ ông lắc đầu cuời), nói: Tốt, nhưng anh đừng bảo là tôi chửi chúng nó nhé. Tôi nhớ một câu Liêu nói: Chúng mình nhìn người bằng con mắt thân thiện vì chúng mình cảnh giác trước tiên với cái xấu ở trong bản thân; còn họ, tự nhận là cách mạng cao quý, họ luôn cảnh giác với người khác để kịp thời giáo dục, uốn nắn. Họ với chúng ta cơ bản ngược giò nhau, họ bắt buộc phải tự khẳng định vai trò lãnh đạo, dạy dỗ chúng ta. Cái mặc cảm ưu việt này tất dẫn tới đòi dân phải có mặc cảm tự ti với họ. Mặc cảm tự ti này là dấu hiệu dân tin tường đảng, yếu tố hàng dẫu của thắng lợi, khốn nạn thế đấy.
Sau 1975, Vũ Đình Huỳnh và Liêu vào Sài Gòn đã rủ nhau “đi dzô dzô nam”. Đang chuẩn bị thì Liêu ngã bệnh. Bụng to tướng, Vào nằm bệnh biện Việt-Xô. Tôi tới thăm. Liêu nhắm mắt ngủ. Vợ anh khoe hôm qua anh uống thang thuốc bắc đầu tiên, bụng xẹp ngay. Mừng quá, tôi xoa xoa trán anh. Anh mở mắt, cười như mếu và nước mắt từ từ chảy ra. Ngoài cửa số phòng bệnh, bên kia đường thấy sườn đê sông Hồng mới mọc, tôi thầm nghĩ hôm nào rủ Liêu dạo chơi. Nhưng hôm sau Liêu vĩnh biệt tất cả.
Người thứ hai là Mỹ Điền. Học ở Anh từ 1947-48. Liên hệ với Đảng cộng sản Anh nhưng không vào. Vào thì quá dễ: ở góc dưới mỗi tờ Công nhân Nhật báo (The Daily Worker) đều có in sẵn đơn gia nhập: chỉ cãn điền tên tuổi và ký vào ô đó rồi gửi cho toà soạn là anh đang lêu bêu liền hoá thành linh hôn của thợ thuyền Anh. Mỹ Điền lập Hội sinh viên yêu nước và là hội trưởng.
Sau Điện Biên Phủ về nước, anh theo Ung Văn Khiêm, thứ trưởng ngoại giao đến chào bộ trưởng Phạm Văn Đồng. Trong chuyện trò, Đồng dặn Khiêm chú ý để Mỹ Điền sinh hoạt chi bộ. Nhưng rồi chả ai nhắc tới, có lẽ thấy anh không bập. Sớm ngán thế cuộc, bắt đầu từ đọc báo cáo mật của Khrushchev trên báo Le Monde, Mỹ Điền trở thành một trong hai ba trung tâm lan, yến, kỳ hoa dị vật ở Hà Nội những năm 60, khi thú chơi này bị coi là “tư sản, đồi truỵ” rồi bị cấm. Minh hoạ đúng cho câu thơ của Bertolt Brecht “Thời thế gì / Mà nói đến cỏ cây”. Cũng như đã phạm vào tội ác. Hết chiến tranh về ngay Nam, cùng bác sĩ Dương Quỳnh Hoa tậu mỗi người năm nghìn mét vuông đất cạnh nhau ở Thảo Điền, sát sông Sài Gòn, đêm ngày nghe chuyện sóng. Đào ao mương, đắp đồi ụ, cất nhà sàn, sưu tập thân cây lũa anh rình vớt trên sông. Cả khu rừng thông thống không tường rào, không một viên gạch hòn ngói và toàn lối mòn giữa cỏ hoa. Trong không gian chăm chút hoang vu kiểu Anh này, hoa các màu trên mặt đất nom như một tấm toan không có khung của Monet (Claude Monet, Danh hoạ Pháp - BT). Nền bếp đất nện, mái bếp dừa nước. Anh từng có thời chăng lưới kín các ngọn cây thả chim, câu vắt qua lạch qua mương bằng tre, tay vịn là tre uốn xuống. Ngôi nhà sàn tựa vào quả đòi nhân tạo, Trên mái lấp lánh mấy mảng: pin mặt trời bạn bè bên Anh tặng. “Chả ai thích dùng tôi, Mỹ Điền nói… Đúng hơn là mình chẳng thích dùng mình cho ai”.
Tôi biết đằng sau câu này là cả một kinh lịch gập ghềnh. Anh thấy quá nhiều cái xấu - đối với trí thức - và mớ hành trang nặng mùi rác người ấy đã khiến anh chọn cho khu nhà cái tên Thanh Phong Các, Gác Gió Trong Xanh. Bây giờ anh thiền ít nhất mỗi ngày hai ba giờ. Sáng ra sông bơi ngửa “thuỷ thiền” có khi trôi xa hơn cây số. Tám mươi hơn tuổi đời. Nhưng Tết ta thể nào anh cũng xe buýt xe lam đến thăm gia đình Ung Văn Khiêm. Anh đã cho tôi hiểu rõ hơn Ung Văn Khiêm. Một lân, sau khi Khiêm “sinh hoạt đảng lại”, Mỹ Điền đưa mấy đại sứ cũ tới thăm cựu bộ trưởng ngoại giao, Khiêm đã nói: Lúc tôi khó khăn, đảng viên chỉ có anh Tô Ký và ngoài đảng thì vợ chồng anh Mỹ Điền thường ngày đến thăm tôi.
Vừa ở Anh về, Mỹ Điền đi Cải cách ruộng đất ở Thái Bình. Mẹ anh trong Nam là địa chủ, một cán bộ trong đội anh bảo anh từ nay phải gọi mẹ là “con địa chủ”. Anh phản đối gay gắt thì chiều được lệnh về gấp Hà Nội. Đã chợn. Hoá ra được mời dạy tiếng Anh cho một số Thanh niên xung phong trung kiên - trong đó có Nguyễn Di Niên - để chuẩn bị tiếp xúc với uỷ ban Quốc tế Giám sát Đình chiến. Sau này làm bộ trưởng, Nguyễn Di Niên đã hứa sẽ thăm thày. Tết, một người của Bộ ngoại giao đến đưa cho Mỹ Điền quà biếu của bộ trưởng - một phong bì đựng một triệu đồng. Mỹ Điền tới bưu điện gửi bảo đảm trả lại nói tôi là người biết đủ, xin cảm ơn. (Thêm một chút: Bố mẹ anh đã được Chính quyền Ngô Đình Diệm cải cách điền địa, trưng mua với giá tử tế, gọi là truất hữu và không bị gọi là con này con nọ. Mẹ anh hoạt động bí mật ở Sài Gòn, giúp nhiều tiền cho Mặt trận Giải phóng, có khi bằng chính tiền ông Diệm mua lại ruộng đất của cụ). Sau khi Alvarez, phi công Mỹ bị bắn rơi đầu tiên ở vịnh Hạ Long, quân đội mời Mỹ Điền làm việc. Hứa đưa anh sang quân đội nhưng nhận mấy anh học trò của anh rồi thì người ta lờ. Có sao đâu, anh nói. Người ta từng mời tôi vào đảng để ra lại nước ngoài hoạt động nhưng tôi từ chối mà. Tôi không có hạp với thứ việc đó (À, trong bốn nữ sinh Đặng Chấn Liêu giới thiệu cho Cục tình báo lúc đó thì một người nay là viện trưởng Viện nghiên cứu tổng hợp của Tổng cục tình báo). Mấy bạn của Mỹ Điền ở Anh về làm bộ trưởng cho Sài Gòn. Có người hỏi thì anh nói xách cặp cho Cụ Hồ là thích rồi.
Đặng Chấn Liêu về khoa tiếng Anh Đại học Sư phạm trong dịp đảng chuẩn bị đánh Mỹ. Quản không xuể, Liêu mời Mỹ Điền sang. Mỹ Điền sang thì nghe ngay mấy giáo viên do Trung Quốc đào tạo và đang nắm trọng trách ở trường nói trước tất cả các giáo sinh: 90% kiến thức của đám người được phương Tây đào tạo là sai, 10% còn lại thì là cố tình xuyên tạc.
Muốn bỏ đi ngay nhưng thương Chấn Liêu nặng gánh, Mỹ Điền ở lại. Gặp anh trong một buổi chiêu đãi quốc tế tất niên, Nguyễn Khánh Toàn bảo anh: Mấy cha cường hào nói bậy, anh giận là phải nhưng tôi xin anh ở lại và sẽ chỉ làm việc với tôi. Anh đáp: Thưa, chưa có chuyện giáo viên làm việc trực tiếp với bộ thứ trưởng bao giờ cả.
Mỹ Điền thỉnh thoảng lại kể cho tôi nghe về một nhân vật nào đỏ. Một lần anh hỏi tôi có biết Ngô Mạnh không? Tôi nói Ngô Mạnh như một quả núi sừng sững giấu mặt ở An toàn khu với các tác phẩm hàng ngày của ông ta là bản Ba Tê Giê viết tắt ba chữ TTTG tin tức thế giới, bản tin nhanh hình thành từ những ngày đầu kháng chiến theo chỉ dẫn của cụ Hồ. Rất giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, Quốc tế ngữ, làm việc cực kỳ chuyên cần, cắm chốt ngày đêm bên mấy cái máy thu thanh rồi tai nghe, tay tốc ký, thu lại đầy đủ gần như toàn bộ mạch đập của thế giới vào hai ba trang giấy toàn viết tắt tiếng Pháp cgvt alg là chính phủ Algeria, cbt achné à 30 kms N-E Hnoi là chiến đẩu ác liệt ở 30 cây số Đông Bắc Hà Nội, 13 sdts frs tués là 13 lính Pháp chết…) trình lên cho lãnh đạo cao nhất nắm hiểu, ông là người có nhiều độc giả nhất và độc giả cao sang nhất nước này. Nhưng bị vết đi lính cho Nhật. A, thế là ông biết khá rồi đấy, Mỹ Điền bảo tôi. Mạnh vốn là sĩ quan quân báo cao cấp của Nhật, có xe và lính bảo vệ cơ mà. Sau 1945, được Cụ Tôn đưa ra Bắc và làm việc ở văn phòng Phạm Văn Đồng, ở Paris, Đồng và Mạnh đã “tam cố thảo lư”, ba lần gặp Trần Đức Tliảo vận động về giúp nước. Khi Thảo qua Luân Đôn để về theo ngả Liên Xô, Trung Quốc, tôi đã đón tiếp và bố trí chỗ ăn ở mấy ngày. Rồi Thảo vè nước thành ra tên phản động, ông biết quá rõ đấy… Nhưng tồi muốn nói cái kết của Ngô Mạnh. Trước hết chuyện con chó của Ngô Mạnh chết. Chó chết thì hết chuyện chứ? Không! Con chó của Ngô Mạnh là của Bác Hồ cho. Bác yêu Mạnh mà. Mạnh giúp Bác thấy rõ thế giới mà. Chẳng may nó chết. Ngô Mạnh chôn cất chu đáo nhưng anh em trong cơ quan lại bật mồ nó lên để… nhựa mận. Ngô Mạnh cố nhiên không chịu. Tranh cãi tới tai Phạm Văn Đồng. Đồng ra lệnh chôn lại con chó xuống. Xem đấy, thủ tướng rất trọng hiền tài. Tài thật chứ! Năm 1964, ai là người báo trước Mỹ sẽ ném bom trả miếng ta đánh tàu Maddox để ta đề phòng trả đũa sớm được? Ngô Mạnh. Mạnh nghe đài Úc lúc 11 giờ trưa, khi các quan viên Bộ ngoại giao đã đũa bát kéo sang đầy nhà ãn ở Chu Văn An. Nhưng tài liền với tai ương một vần. Người ta nghi. Sao Mạnh biết sớm và chính xác thế? (Ai dám bênh anh mà nói chẳng qua nhờ ở cái múi giờ chênh nhau mà Mỹ lúc ấy hễ đánh thì đều báo trước?) Vậy thì hắn vẫn liên hệ với tình báo Nhật! Ngô Mạnh liền bị bật khỏi Bộ ngoại giao về Thông tấn xã.
Đến lúc này, các đấng bề trên không màng đến nữa. Bác Hồ lặng lẽ gửi Mạnh một hộp xúc xích Tiệp. (Tôi hỏi Mỹ Điền: Là suất của Cụ hay Cụ lấy ở đâu?) Bác phải ý tứ chứ nhưng thời khan hiếm, một chút thịt là một chia tay hay hơn lời lẽ. Thông tấn xă không mặn mà với “gián điệp” dù là nghi vấn! Đặng Chấn Liêu bèn đón Mạnh về Đại học Sư phạm làm công đoàn. Quen một cơ sở thực phẩm quốc doanh gần hồ Thuyền Quang, Ngô Mạnh lo đều đặn lòng lợn, huyết heo cho giáo sinh trong khoa. Không giúp được trí tuệ thì giúp ruột phèo vậy. Về hưu, Ngô Mạnh vào Sài Gòn. Tình cờ chiếu X quang thấy phổi mờ hết, Mạnh bèn vào nằm ở Thống Nhất (Bệnh viện Vì Dân cũ - BT) nhưng người ta mắng anh lẻn vào Chủ nhật khi họ lơi lỏng thủ tục. Ngô Mạnh bảo con gái tìm Mỹ Điền. Hỏi han cụ thể, Mỹ Điền bảo Ngô Mạnh về nhà, đằng nào cũng chết nhưng đỡ bị mắng mỏ. Mỹ Điền hỏi tôi:
- Ông có biết trước khi Ngỏ Mạnh chết chừng mười ngày, hôm nào cũng có một cha cố đến giải tội, xức dầu thánh cho Ngô Mạnh không?
À, thì ra anh ta đi đạo. Khổ, cái thân đã làm cho Nhật mà lại phạm Gia Tô Giáo nữa thì ai người ta cho tham gia cứu nước? Đành bỏ đạo và giấu biệt. Theo đảng thỉ phải chịu xảy đàn tan nghé thôi. Tàn đời trở lại đạo, với Chúa. Không gửi cho Mạnh xúc xích Rô-ma, cũng không bới vết Mạnh đã theo cộng sản vô thần ra để trù, Chúa vẫn phái đại diện đến nâng dắt anh ở những bước xiêu vẹo cuối cùng. Nếu Chúa cảnh giác nghi anh là gián điệp cộng sản chui vào Nhà Chúa? Ở lớp chính huấn xác định lập trường giai cấp chống địa chủ năm 1953 mở cho trí thức và cán bộ cao cấp ở ATK an toàn khu, Cụ Hồ đến nói Đảng ta không có kiểu vắt chanh bỏ vỏ. Tôi nghe mà hơi lạ tai. Ừ, sao Đảng lại có thể vắt chanh bỏ vỏ được. Thì ra Cụ đang nhằm nói với các trí thức cũ quen đọc sách báo của đế quốc phản động vu cáo chính sách cán bộ của đảng vô sản.
Mỹ Điền kể một trí thức Trà Vinh học ở Pháp là Phạm Trung Tương, làm cò cảnh sát. Liên hệ với Việt Minh, lúc sắp tổng khởi nghĩa, Tương cho cảnh sát nghỉ ba ngày, súng ống để cả ở trong đồn rồi ông mở cửa cho Việt Minh vào chiếm ngọt sớt. Tham gia kháng chiến, ra Bắc tập kết rồi thất nghiệp vì lý lịch bẩn: cảnh sát trưởng của Pháp. Mỹ Điền nhờ Ung Văn Khiêm. Khiêm bảo đưa Tương về Nhà xuất bàn ngoại văn dịch sách cùng Phan Hiền. Sau 1975, về lại quê, không thẻ đảng bị địa phương thành kiến, cắt điện, sống tối om, bệnh viện từ chối chữa. Ba đào hết nước. Một hôm Ba Duẩn về Trà Vinh nói chuyện với trí thức. Trên bục nhìn xuống thấy một bộ mặt quen quen, Tổng bí thư bèn đi xuống rồi túm tay Tương nói với hội nghị: Người con ưu tú của miền Nam đây! Tối hôm ấy điện lập tức sáng trưng nhà Tương và hôm sau bệnh viện đến nói từ nay luôn có một phòng bệnh dành cho bác, bác muốn đến nằm lúc nào tuỳ. Ở ta để cho dân chủ khắp được có lẽ phải cân vài chục nghìn Tổng bí thư toả đi các nơi thu nhặt hiền tài bị bỏ xó vì không quen Tổng bí thư để cho nhà có điện. Mỹ Điền nay vẫn thắc mắc tại sao hai ông thày dạy văn anh rất yêu ở trường Pétrus Ký là Phạm Thiều và Nguyễn Văn Nho lại tự sát. Phạm Thiều đã là quan chức ngoại giao và rồi treo cổ chết. Nguyễn Văn Nho có bốn con trai: hai sĩ quan quân đội Cộng sản, hai sĩ quan quân đội Quốc gia nhưng ông mò ra Bắc sống với hai đứa con vinh quang. Chả hiểu sao rồi ông lên xe lửa, khi qua một cây cầu ở bắc Hà Nội, ông gieo mình xuống sông. Con “nguỵ” không ngăn được chân bố, con “cách mạng” không giữ nổi mạng bố. Lúc Trần Đức Thảo chăn bò trên Ba Vì, Mỹ Điền đã chính tai nghe Phạm Văn Đồng bảo bà Nhất, vợ Thảo: “Chị hãy chịu khó lên Ba Vì khuyên anh ấy gắng cải tạo tốt tư tưởng…” Tôi thầm hỏi sao không nghĩ vì cái gì mà ở Paris Thảo tốt để Đồng phải “tam cố thảo lư” thế rồi về nước đã có Đồng lại thêm Cụ Hồ nữa lại hoá ra xấu? Ở các nước chuyện Thào chăn bò báo chí nó bêu lên cho phải biết là xấu hổ. Xấu hổ quá chứ! Vô ơn, vắt cam bỏ vỏ. Chỉ cho ghi nhớ công lao bản thân Đảng thôi, kỷ niệm, học tập thì thòm, hết đợt này lại sang đợt khác, dân thở không kịp.
Một lần Mỹ Điền hỏi tôi có biết bà Frida Cook không? À, bà là đảng viên cộng sản Anh lâu năm, sang giúp ta đào tạo nhiều thày cô giáo. Sau 1975, bà sang lại ta, vào Sài Gòn, bảo tôi chỉ muốn xem một thứ hiếm; trại cải tạo. Đến cổng trại, gặp ngay một cụ già. Hỏi cụ sao vào đây? “Dạ, tôi là viên chức nguỵ”. Hỏi tuổi thì đáp ngoài 70. Bà Cook kêu lên: “Ôi, tôi nghe giới thiệu thì toàn những là ác ôn… !” Khi ta chiếm Campuchia, bà gửi trả lạí ta các thứ huân huy chương, bằng khen, mọi vinh quang Đảng và Nhà nước ta cho bà. “Tôi từ lâu đã ngửi thấy ở họ một cái gì…“, bà nói. Tôi bảo Mỹ Điền: Bà ấy không biết cả chục năm trước an ninh ta đã bảo với Ngọc Lan, vợ Phạm Viết rằng bà ấy là gián điệp Anh sang ta phá hoại, Nhà nước gắn huân chương cho mụ ấy cốt để che mắt và mò phá tuyến của mụ ấy.
Tôi nhiều lần bảo Mỹ Điền hãy viết một tập truyện như Sử ký Tư Mã Thiên về con đường đi từ tin yêu đến tỉnh ngộ và bị ruồng bỏ của trí thức hay con đường cam quít bị bội bạc, vắt cam bỏ vỏ. Mỹ Điền cười: Để làm gì? Họ sửa sai à? Họ sửa thì đã không phải là họ. Hỗn xược cộng sản mà, có coi ai ra gì đâu.
Gần đây, Mỹ Điền bảo tôi: Tôi đã ở trong quân đội Bình Xuyên sau Cách mạng tháng 8. Tôi cũng đã ở nội phủ cộng sản. Tôi thấy sao? Nội phủ phần lớn hoạn quan. Bình Xuyên thì dân anh chị. Phải công bằng mà nói là dân anh chị lại quân tử, nói là giữ lời. Hoạn quan thì không à nha. À, có cái này… dịch cho các ông lớn, đủ hết các ông lớn, tôi rất lạ là nhiều ông (có nói tên) cứ nói dăm ba hồi là lạc đề có chết không? (Tôi nói: “Xơ cứng động mạch não”).
Tháng 9-2009, Mỹ Điền chết. Trước đó mười lăm ngày tôi đến thì anh bảo ngay: Tôi đi mất đấy… Không ngờ đúng thế. Quá nhanh. Tôi đề vòng hoa phúng đặt ở chợ Bến Thành: “Lê Trọng Nghĩa, Phan Thế Vấn, Trần Đĩnh thương nhớ Mỹ Điền, người thích sống với cỏ hoa, sông nước và lặng lẽ”. Anh tâm nguyện làm những khu vườn giống hệt như lúc chưa có giống người trên quả đất này. Khấn ở bàn thờ anh xong, tôi ra vườn, cỏ cao ngang hông roi. Nhà sàn trên sông u ám… Tự nhiên tôi chợt thấy lại sương khói Tiền Đường - bọt nước vỡ tung dưng dưng dưới nắng - nhìn từ đỉnh tháp Lục Hoà.
Hè 1955, bị cấm yêu và phải “cắt đứt” với Hồng Linh, tôi đi chơi Thượng Hải, Hàng Châu, Tây Hồ, Thái Hồ… hết sức buồn, buồn đến mức tưởng nhắm mắt lại thì cả phần xác lẫn phần hồn tôi sẽ lìa thoát tất cả, rất nhẹ nhàng êm ả. Ở cửa sông Tiền Đường, tôi leo lên tới tầng tháp trên cùng, vắng âm u và hẹp, ngỡ sẽ được hưởng hết nỗi côi cút và nhìn thấy Hồng Linh lúc ấy đang nghỉ hè ở Bắc Đới Hà, Sơn Đông. Không ai hiểu nổi được mối liên quan quanh co kỳ lạ của cảm xúc. Trước khi Linh chết mấy tháng, ở xế chợ Bến Thành (tồi đặt vòng hoa cho Mỹ Điền ở đây) Mỹ Điền biếu Linh một lọ nước hoa. “Bạn bè bên Pháp vừa cho. Mẹ tôi, chị tôi đều chết ung thư, lúc ấy cần cái thứ này, tôi hiểu lắm, tôi…”
Cuối cùng Bùi Ý. Một dạo anh hay lượn hồ với tôi, tay xóc xóc chiếc lọ penicillin đựng ít nityroglycerin phòng cơn đau chắt từng đánh anh quỵ mê man mấy ngày. Tôi cho Bùi Ý mượn Nhà lễ của bố tôi (In My Father's Court) của Isaac Bashevis Singer, nhà văn Mỹ gốc Do thái, giải Nobel như Saul Bellow. Mượn và anh khất lần. Tôi ngỡ anh đánh mất. Không! Anh thú thật: Tôi mê nhà văn này quá, anh cho tôí được giữ lâu lâu. Thế này… tôi lấy trong đó ra các khoá văn cho học trò tiếng Anh của tôi. Tôi hy vọng dùng ngôn ngữ mở ra cho chúng thấy được cái tinh tế của hồn người, cái chất yêu thương tràn ngập của con người. Nhưng anh đã quàng vai tôi nói khẽ: Mình giấu học sinh đây là nhà văn Mỹ. Đang ghét Mỹ mà lại cho học thằng Mỹ, lại là thằng Mỹ được Nobel ư? Tôi khó quên cái giọng Bùi Ý cố giữ thì thào một chiều lượn hồ. Anh kể chuyện một hôm em gái anh bị thương hàn phải vào bệnh viện Saint Paul. Anh điện báo cho bố anh làm quan ở Tứ Kỳ, Hải Dương. Tan tầm chiều, bố anh lên xe về, Xe đến quãng đường sắt cắt đường số 5, dưới ga Như Quỳnh cầu Ghênh một tí, bố anh đang mơ màng ngủ chợt nghe tiếng gọi. Một người con gái quần áo trắng toát đứng vẫy vẫy ở ngay trước mũi xe. Cụ vội đập vai anh tài và anh ta giật mình vừa đủ kịp cho xe chúi xuống mấy thửa ruộng cạn ven đường, tránh sát sườn một đoàn xe lửa từ Hải Phòng lên rầm rầm lao qua. Tới bệnh viện, cụ hỏi ngay anh em chúng tôi: “Em mất rồi?” “Vâng”. “Em chết giờ ấy phút ấy?” “Vâng”. “Em cứu sống bố…“ Hình như bố tôi có kể chuyện này với Thạch Lam. Chuyện này tôi ít kể lại. Sợ. Mê tín dị đoan mà! Hồn con gái cứu bố này, quan lại này, rồi nằm nhà thương bà Xơ này. Này, bọn mình gọi hồn cụ mấy lần, cụ về đều nói đúng hết. Như cụ bảo chị cả nhà này hà tiện cúng ông bằng chân giò…
- Nhưng ông sợ gì, tôi hỏi?
- Sự cõi âm huyền bí luôn theo sát ta xem cái bụng dạ ta ăn ở tốt hay xấu. Sợ cõi dương gian ngày ngày thọc vào mọi xó xỉnh đời sống ta để xem bụng dạ ta tin nó ít hay nhiều. Thế đấy, thế giới chưa thấy chống môi trường sợ nhỉ…
- Thì đòi dân chủ, nhân quyền đấy, tôi nói.
Bùi Ý quàng vai tôi, một ngón tay khẽ nhấn vào chỗ xương vai tôi trồi lên. Một lúc khẽ nói: Ngày xưa ghét Trung Quốc mà tổ tiên cũng cấm dân dùng chữ Hán thì nay chúng ta nói năng sao? - Không nói hoa mà nói gioọc, mí mì ca lăng gioọc, không có hoa nào cả, tiếng Tày đấy… - Thế ghét Pháp mà cấm chủng đậu và tiêm phòng bệnh? - Thì dân mặt rỗ gioọc và chân khèo. Bại liệt cũng là chữ Tàu. Lần này vẫn chỗ xương vai ấy Bùi Ý nhấn khá mạnh, tôi như bị điện giật. Sau đó tôi theo anh về nhà lấy chồng sách anh nhờ tôi sắp vào Sài Gòn mang hộ vào cho anh của anh.

Chương 27
C
huẩn bị Đại hội 8 (1996) thư Trần Độ gửi Đảng vang dội khắp nước. Theo anh, “chủ nghĩa xã hội kết họp với độc lập dân tộc” chính là gốc rễ của bệnh bè phái. Nó gạt hết những ai yêu nước nhưng không tán thành chủ nghĩa xã hội sang “địch.” Anh cho rằng hiện cái mà đất nước cần nhất là dân chủ. Chả phải điệu ra toà, đảng gọi ngay anh là phản động!
Cùng lúc trong Nam, Đỗ Trung Hiếu thư xin Đảng thực hiện quyền tự do tín ngưỡng. Thư đồng kính gửi Toà thánh Vatican, Và Hoàng Minh Chính sao chụp. Thế là hai người thành một vụ án chính trị mới, việc cần thiết để chứng minh tằm quan trọng phải triển khai chuyên chính.
Giữa trưa, Tiến, anh trung tá an ninh bây giờ thay Chí Hùng, đến báo tôi rằng Chính vừa bị bắt. Tôi nhăn mặt kêu lên: Sao đảng thích bắt người thế? Tôi rất buồn. Ngồi xuống bậc cửa nhà tôi buộc dây giầy, Tiến lẩm bẩm: Em cũng buồn… Ngay tối hôm ấy tôi đến Hồng Ngọc - biết quanh nhà Ngọc nay đầy cá chìm rồi - nói chị viết đơn xin cho Hoàng Minh Chính đã quá thất thập cổ lai hy được tại ngoại. Hồng Ngọc viết. Đảng lờ. Hôm xử Chính tôi không ra đứng ở cổng toà mà đến Hồng Ngọc tối trước. Đang trò chuyện thì ông luật sư K. gia đình mời bào chữa cho Chính đi vào. Một cái bóng lúp xúp. Cụp vai, cúi đầu thì thào dăm ba câu, cái dáng sợ bị nghe trộm, nhòm trộm. Tuy nhớn nhác nhưng ông trưng thực, trước sau chỉ khe khẽ chối (nhưng lại gắt): Tôi không cãi được… ý gia đình như thế thì không cãi được đâu. Hà, con gái cả Chính kêu lên: Thế thì im hả bác? Lúng túng giây lát ông luật sư lại gắt giọng nhưng vẫn thì thào: Không cãi được mà. Tôĩ hỏi thế nghĩa là gia đình nhận tội thì cãi được? Ông nói: Đã nhận thì cần gì cãi. Rồi lúp xúp đi ra. Ông biết trong bóng tối quanh đây đầy những con mắt lúc này đang theo đõi chặt. Rồi máy ghi âm. Có khi chụp ảnh nữa. Qua tư thế ọp ẹp, ông cố để lộ rõ ông đầu hàng Nhà nước. Nhìn theo ông mất hút vào bóng tối bên ngoài, tự nhiên tôi muốn cười phá. Thấy tận mắt hình ảnh pháp luật đất nước cuốn cờ ngoan ghê. Nhưng gần nhà Chính luôn có tấm băng-rôn chăng ngang Hàng Bài chỗ gặp Hai Bà Trưng, đề sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Những hôm to gió, nó giằng quẫy, nó sà xuống rồi ưỡn lên phần phật, tiếng phần phật có khi tôi nghe mà ngỡ tiếng ai tát vào nó. “Này, cáĩ đồ lừa bịp, dối trá này!” Chuyện một hồi thì Lê Hồng Hà đến. Và tiếp luôn là chị Bác sĩ Văn, vợ Đỗ Trung Hiếu mới từ Sài Gòn ra để dự toà. Hồng Ngọc khẽ bảo tôi: Anh về đi không họ lại bảo chúng ta họp chống họ. Tối hôm đầu tiên toà xử, tôi lại đến “đoàn kết” với mấy mẹ con Hồng Ngọc. Ngọc cho biết toà cấm bị cáo cãi. Trong cáo trạng, toà móc lại tội chống đảng trước kia của Chính nhưng khi Chính trình bày rõ vụ đó thì chánh án lại cấm “nói lạc đề”. Đúng là xử vờ, như hề, dự vừa tức vừa chán, Ngọc nói.
Nhưng nghe một chuyện tôi cảm động. Đó là Diệu Hồng đến ngồi chịu trận lặng lẽ cùng Hoàng Minh Chính ở trên các bậc tam cấp toà án. Hai hình ảnh liền chập một trong tôi: Diệu Hồng Nhà hát lớn Cách mạng tháng Tám và Diệu Hồng ở tam cấp Toà án. ở Nhà hát lớn, chị kêu gọi giành độc lập, ở Toà án Hà Nội, chị kêu gọi tự do, dân chủ. Hai việc ai ngờ lại tách biệt nước và lửa đến thế! Hôm nào, Diệu Hồng nói với Minh Việt, Minh Quang - vợ Minh Việt và tôi là mấy anh Minh Việt, Lê Trọng Nghĩa, Hoàng Minh Chính phụ trách chị lúc Tổng khởi nghĩa. Sau đó ít lâu, Minh Quang bảo Minh Việt và tôi: Chị Diệu Hồng nói chị ấy có lúc muốn tự sát. Lửa hoả ngục chuyên chính đã làm cạn khô nước thiên đường - nhân quyền, tự do, dân chủ.
Sáng 17 tháng 8 năm 1945, Tống hội Công chức mở cuộc mít-tinh lớn đốt bằng sắc thực dân và tuyên thệ trung thành với chính phủ Trần Trọng Kim ở trước Nhà hát lởn. Diệu Hồng đã cướp diễn đàn cuộc mít-tinh, đeo kính đen giấu mặt đăng đàn vì bao hiểm nguy chờ ở trưởc mặt! (Lê Trọng Nghĩa bảo tôi chả thế chị đã gửi một tự vệ giữ hộ những thư riêng tư nhất. Rồi mất thư và rồi chị cứ bắt Lê Trọng Nghĩa phải tìm lại cho ra). Bây giờ người ta nói Việt Minh đã “tổ chức”cuộc mít-tinh ấy để kêu gọi cướp chính quyền! Tôi nghĩ lịch sử chính là tấm khăn rải giường của quyền lực, ai nằm lên đó sau cùng thì tạo nên vết nhăn nhúm của nó. Mỹ nhân thì vết nhăn còn yêu được chứ của quái nhân thì ta sẽ chết khiếp ở trong đó. Diệu Hồng sáng 17 ấy đọc ở trước Nhà hát lớn bản hiệu triệu Tổng khỏi nghĩa. Ai là tác giả bản kêu gọi đã đi vào lịch sử đó? Lưu Quyên! Vừa trốn tù ra ông liền được nhóm sinh viên thuộc Đảng Dân Chủ phá cuộc mít-tinh trên kia nhờ viết. Không biết đảng nghi Lưu Quyên khai báo đã cho anh vào danh sách những người hễ gặp là “thịt”. Bản hiệu triệu Tổng khởi nghĩa lịch sử (hình như có để ở Bảo tàng cách mạng) hoá ra là công trình của một kẻ đảng sắp thủ tiêu! Chuyện này không lạ. Về sau đảng ngày một rộng bụng nên nhiều kè tội lỗi hay nửa tội lỗi từng bị nguyền rủa, vạch mặt đều được lên tên phố. Tôi thỉnh thoảng dạo phố vẫn hay dừng lại nhìn lên một tên phố mà chuyện trò lặng lẽ với con người ngồi ở trên cái bảng sắt tây dó. Để nghe anh ta giãi bày. Và cũng để anh ta đừng tưởng bở. Thí dụ Văn Cao, ngày hai lượt ra trung tâm thành phố và về Cầu Giấy, tôi từng có lần hỏi anh: Cậu khỏe không? Cậu vào bảng phố được thôi nhưng cậu nên xin về chỗ nào đó chứ chả lẽ cậu, người bị họ làm mẻ uy tín, tên tuổi, lại đi làm mẻ nốt mất một hạt trong chuỗi ngọc cổ sử của kinh đô đầy huyền thoại Kim Mã, Giảng Võ, Liễu Giai hay sao? Cậu có nhớ hôm uống ruợu nhà ông Lĩnh, cậu họ của Trần Thư tại dốc Cống Vị gần nhà Hoàng Mắt Lửa chứ? Cậu nhờ người đến mời tớ rồi ngùi ngùi bảo tớ sao có nhớ không? “Đĩnh ơi, tao mong mày không hư như tao… “ Tớ nói ngay: “Văn Cao không hư. Hư đốn là đứa đã làm cho cậu rầu rĩ thế này… Bây giờ ở trên cao này có thấy sao không?” Thì Văn Cao bảo tôi: “Tao làm nhạc, làm thơ, vẽ, ai hay nay làm diễn viên lên sân khấu đóng vai kịch ca ngợi đảng trọng hiền tài. Mày với tao sống trong cái chăn toàn rận này, mày lạ đ. gì nữa. Hôm nọ thằng Dương Bích Liên nó lui lủi đi dưới kia, đầu chúi chúi, hai tay đút túi quần. Tự nhiên nó nhìn lên hỏi, mày lại cam ra làm bù nhìn bịp cho cái chính sách yêu vớt trí thức ư? Thế là tao rơi đánh xoáng một cái xuống. Liền bảo mày thích lên tao lại treo lên cho. Tao bảo cảm ơn, tao thích xây nhà bên mép cống này và nếu có rượu uống với mày thì hay lầm… Nó nói thế ra là ở cống mơ bên vùng rác thối ư?” Tôi bảo Dương Bích Liên nó trêu cậu chứ nó cũng lên tên phố rồi. Ở Thủ Đức. Đất đấy thua giá Liễu Giai nhiều. Văn Cao nói “Này, giá đem sơn các biển phố có tên bọn tớ vằn vện bẩn thỉu như da linh cẩu thì hay đấy nhỉ…“ Trước khi đi, tôi hỏi Văn Cao: “Cậu có câu hát hồi 15 tuổi tớ rất xúc động là lập quyền dân, tiến lên Việt Nam…” Như biết tôi sẽ nói gì tiếp, Văn Cao nheo mắt thử dài: “Họ tuyên truyền tao thế nào tao xực luôn thể ấy… Đ… biết là họ bịp. Dân thì có quyền đ. gì với Cộng được. Tỉnh ra là bị bịp thi đời tàn rồi…”
Lối vào cổng chùa Hà là phố Trần Đăng Ninh, tôi chiều chiều đi bộ qua đó có lần dừng lại dưới cột treo tên ông, tủm tỉm cười. Một chủ thợ may cạnh đẩy hỏi cụ thú cái gì thế. À không, nhớ lại một chuyện xưa. Cố nhiên tôi không nói. Thời gian báo Sự Thật ở chung với Ban kiểm tra trung ương và Ban tài chính trung ương, dưới chân đồi - Đồi A I - là cái giếng mà một lần ngồi ở bàn làm việc tôi thấy Trần Đăng Ninh thủ trưởng ban kiểm tra trung ương mò ra trêu thủ trưởng kinh tài Nguyễn Lương Bằng đang tắm, quần đùi “ca cơi” thưa như vải màn, trắng béo. Mấy tháng trước, sau khi thanh toán vụ Hát Xăng Vanh Đơ - H122 - ê ẩm do Phòng Nhì Pháp bố trí, Trẫn Đăng Ninh đi cùng Cụ Hồ sang Bắc Kinh, Mát-xcơ-va xin cho vào phe… Trần Đăng Ninh đến quàng tay bóp hai vú Nguyễn Lương Bằng; Sướng không? Này, lấy vợ nhá? Sợ đàn bà à? Đàn bà hay chứ lị, rét nằm với họ thì hoá ấm mà nóng lại hoá mát… Tình cờ hôm ấy Phạm Văn Khoa ghé qua tán tếu trông thấy, Khoa bảo tôi tao có lần thấy ông Ninh này tội lắm. Hộ tống Cụ Hồ tới đất Trung Quốc đang chờ họ đến đón đi thì Cụ Hồ hút thuốc, Ninh bảo Bác cho tôi một điếu. Cụ lắc đầu: Chú hút thì chú mua chứ sao lại đi xin? Thì vừa lúc một chiếc xe con đến bứt mỗi mình ông Cụ đi tuốt luôn, chẳng nói chẳng rằng vất bọn mình ở lại. Ninh cứ hỏi tớ sao cậu không hỏi họ là đem Bác đi đâu? Tớ bảo họ làm như biệt động ấy thì còn ai hỏi kịp! Mẹ, nẫng lãnh tụ của người ta đánh cái roạt mà không thông báo gì. Chúng nó có coi đám người cùng đi với Cụ ra cái gì đâu.
Quá dưới nữa là phố Xuân Thuỷ, ông từng đau khổ bảo Đào Phan và tôi: Bao nhiêu rác rưởi, họ đổ hết vào đầu mình.
Chuyện tên phố còn có thế kể nhiều - chẳng qua là đảng cho thơm thì được thơm, đảng bắt bẩn thì chịu bẩn thôi - còn có thể kể nhiều nhưng thôi, phải quay về với tuyến chính. Sau Hiệu triệu Tổng khởi nghĩa, Lưu Quyên được thu dung lại. Với bản Hiệu triệu Tổng khởi nghĩa, lẽ ra anh cũng phải lên biển phố nhưng lận đận miết, về hưu rồi, một hôm anh đến nhà Lưu Động. Tình cờ tôi ở đó. Lưu Quyên nói đảng kỷ luật các cậu là phải, các cậu chống Staỉin! - À, Stalỉn không đáng chống ư? Stalin giết đồng chí như ngoé mà tốt à, Lưu Động vặn lại? - Khrouchtchev vu cáo, Lưu Quyên nói. - Thế thì hôm nay tôi nói anh rõ là theo đúng kiểu Stalin, đảng đã tặng anh án chết ngay từ lúc anh trốn tù ra đấy nhá. Anh không lạ đâu nhung tôi nhân chứng tôi nói để anh sởn da gà anh lên. Coi một trạm giao liên, tôi được chỉ thị hễ anh vác xác đến tìm đảng là cho anh tiêu luôn. Lẽ ra tôi giết anh rồi nhưng thằng tú tài trong tôi lỡ đọc Montesquieu với Voltaire nên anh sống, đấy, có Stalin đấy, thấy chưa? Mặt Lưu Quyên đờ dại ra. Lưu Động nói tiếp: Đây, tớ nói chuyện này nữa mà chắc cậu cũng chả lạ. Tớ đi công tác với Hoàng Quốc Việt. Qua khỏi một đò ngang, Việt hỏi tớ, vừa rồi giả dụ bị lính với trương tuần đuổi thì qua xong sông cậu làm gì? Tớ đáp chạy cho mau, chả trả tiền lẫn cảm ơn gì cả. Việt lắc đầu: Tiểu tư sản! Làm như cậu có ngày vỡ hết. Lính với trương tuần chúng bắt lái đò chỉ lối ta chạy có nguy hiểm không? Vậy thì sắp tới bờ, trong khi tôi vờ móc túi lấy tiền trả, cậu phải vớ lấy bơi chèo nện ngay cho hắn ngã lăn xuống nước… Bữa ấy Luu Quyên thú thật: “Ngô Ngọc Du, thứ trưởng công an nhờ mình nghe ngóng đám xét lại và báo cáo lại”. Anh thanh minh anh không làm. Rồi nói nốt: “Tớ kể lại với thằng Đào Năng An mà nó mắng tớ ghê quá. Sao cậu im? Cậu phái bảo thing Du là cậu không làm được cái trò chó má ấy chứ. Đám xét lại ấy họ sáng suốt và họ dũng cảm, cậu cũng thấy đấy thôi”. Mấy năm sau, Đào Phan, Đào Năng An, Lê Trọng Nghĩa và tôi đến nhà Lưu Quyên gần Bộ công an ăn giỗ vợ anh, có thông gia của anh là Tế Hanh. Đào Phan đùa: “Đảng mà xịt Lưu Quyên rồi thì không có bản hiệu triệu lịch sử về Tổng khởi nghĩa chứ!” - Xưa kỷ luật cao nhất trong đảng là xịt à, Đào Phan? Đào Phan gật: Có cái đó, nhưng không thành vãn, nhờ đó đội ngũ mới tự giác kỷ luật sắt thép ghê như thế chứ!
***
Trước đây trong Bộ chính trị xung đột về chuyện theo Mao hay theo Liên Xô. Nay đấu nhau ở về vấn đề có tiếp tục theo chủ nghĩa xã hội nữa hay thôi. Hà Nội đồn Nguyễn Mạnh Cầm vừa phát biểu ý kiến xong (ý kiến là không còn mâu thuẫn đối kháng với Mỹ, nghĩa là có thế làm ăn với Mỹ) liền bị ngay Đào Duy Tùng và Nguyễn Hà Phan (sắp Đại hội 8, Phan bị rầm lên chuyện đã đầu thú khai báo) quây lại uốn nắn. Nhằm một ai khác, cầm chỉ là khói, người ta muốn dập lửa. Quả nhiên, Võ Văn Kiệt tương ra một thư chệch hướng - thôi chủ nghĩa xã hội - gửi Trung ương. Một số người truyền tay nhau thư này. Thế là lên ngay một vụ án chính trị - vừa dẹp bên ngoài vừa đe Kiệt bên trong. Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu bị tù. Trước khi rời ghế về, để chuộc tội chệch hướng, Kiệt hạ bút ký cái nghị quyết CP31 phát xít cho phép uỷ ban nhân dân các cấp từ xã phường được quyền quản thúc bất cứ ai nó cho là hại đến an ninh. Ký cả cái CP lập Tổng cục tình báo “siêu chính phủ”, “siêu pháp luật”… Tôi không thể không nghĩ đến Triệu Tử Dương, Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc thà mất hết, chịu quản thúc tại gia cho đến chết chứ không đàn áp sinh viên ở Thiên An Môn. Đến khi vào WTO (World Trade Organization, Tổ chức Mậu dịch Thế giới - BT), thể giới đòi nhân quyền, đảng mới bỏ cái CP cho phường xã bẳt người. Và như bù vào cho xã phường bị tước mất quyền bắt người, lúc này Kiệt đòi quyền tự do cho dân lập trại nuôi hổ.
Ít ra ở mặt nào đó Kiệt đã công nhận một sự thật trong Luận Ngữ: Hổ không đáng sợ bằng người, dân nuôi hổ ở nhà tốt, không cần ra CP31 quản thúc.
***
Những ngày sôi lên vụ án phản động nắm giữ “bi mật quốc gia” (tức lá thư của Kiệt), những ngày trong Bộ chính trị soi tìm chệch hướng ở nhau, tôi đã có những giờ phút lạc vào không gian đầy xúc động của kiến thức: đọc (và dịch) Ancient societies, - Những xã hội cổ đại của vị thày tu Mỹ thông thái Lewis Morgan, tiếp đó đọc La Mélodie secrète (Giai điệu huyền bí) và le Chaos et l'Harmonie (Hỗn độn và hài hoà) của Trịnh Xuân Thuận, nhà vật lý vũ trụ Mỹ gốc Việt tên tuổi lẫy lừng. Vị thày tu đưa tôi ngoi ngược tới thời nguyên thuỷ, con người sống bầy đàn, ăn lông ở lỗ, mông muội. Nhưng chính họ đã sáng tạo ra chế độ tư hữu khiến họ thoát khỏi sinh hoạt thú vật và ròi trên cơ sở đó dụng nên ba trụ cột nền móng của cấu trúc xã hội người: chế độ tư hữu, gia đình và chế độ dân chủ. Ba toà tháp vàng này tồn tại chừng nào xã hội người tồn tại. Nhưng Tuyên ngôn Cộng sản lại tuyên bố thủ tiêu mọi hình thức tư hữu, điều kiện đầu tiên tách người ra với bầy đàn thú vật rồi tổ chức nên xã hội người. Xoá tư hữu tất yếu xoá chế độ dân chủ. Trịnh Xuân Thuận cho tôi ngược thời gian lên tới giây phút năng lượng của hư vô kích nổ ra một đầu kim vũ trụ. Tôi thật lòng tiếc cho Marx, Engels đã bị tông đô con cháu tẩm liệm cứng khư bằng bê tông. Nếu người ta tiếp tục nghiên cứu lắng nghe các phát kiến khoa học mới mẻ rồi đính chính, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Marx thì có thể cũng tiến đến được một học thuyết hoà nhã, thuận tình người, hợp lẽ tiến hoá, chẳng phải mượn đến bà đỡ máu me thật sự đầy mình là bạo lực để cho ra đời cái mà đích thị là không tưởng. Chớ tiếm quyền của Huyền bí. Bất ngờ, Hỗn độn, chẳng mang định hướng, chương trình gì nhưng nó là sức mạnh vô địch, nguồn ngẫu hứng thiên biến vạn hoá của muôn loài. Chớ có tham vọng chuyên chính với nó. Năm 2004, một tờ báo lớn ở ta ca ngợi Trịnh Xuân Thuận. Song nhấn mạnh ông là Mỹ nhưng gốc Việt, ông làm việc ở Mỹ nhưng học ở Pháp, ngụ ý thằng Mỹ chẳng đào tạo mà chỉ chờ bóc lột chất xám. Luôn ghi lòng tạc dạ rằng không bao giờ được đề cao Mỹ. Tôi đã thư cho tờ báo nói nhà bác học đúng là người Việt cơ mà Bắc chạy cộng sản. Sang Pháp, học ở Thuỵ Sĩ cơ mà như ông thừa nhận, ông đã có may mắn và vinh dự được học tại đại học Caltech, thánh địa vật lý vũ trụ Mỹ. Bố ông, Trịnh Xuân Ngạn, làm việc ở Toà án “nguỵ”, sau 1975 đi cải tạo cơ mà thành một bộ xương ba mươi bảy ký. Thuận phải nhờ chính phủ nhưng cơ mà thông qua can thiệp của Pháp để cứu bố ra. Đâu năm 2005, Đảng ra bảng tôn vinh người Việt gồm mười mấy vị danh tiếng công dân nước người trong có Trịnh Xuân Thuận, Ừ, giá như tôn vinh từ lúc định bó tù bố ông. Chắc không đọc Hỗn độn và Hài hoà, không biết Trịnh Xuân Thuận viết: Tôi thông báo cái chết của chủ nghĩa duy vật biện chứng (tôi nhấn). Lời thông báo hả hê hơn lời Karl Popper bác bỏ chủ nghĩa duy vật Mác-xít tại một hội thảo năm 1937. Popper cho rằng Hégel đưa phép biện chứng ra để ủng hộ Nhà nước tuyệt đối của Phổ, kiểu chủ nghĩa toàn trị sau này thì học trò của ông, Marx đưa phép biện chứng duy vật ra để tiên tri một Nhà nước vô sản chuyên chính độc tài trì trệ vì cấm đoán tự do tư tưởng để giữ vị trí độc tôn. Tôi đã đến Caltech và UCLA (University of California, Los Angeles, Hệ thống Đại học của California - BT). Vào thư viện. Hệt giáo đường. Vào một phòng thí nghiệm. Cảm giác về thăm Alma Mater kiếp nào. Tôi lặng ngắm trong bể sen một con rùa im lìm canh giữ thiền giới mênh mang của giáo đường trí tuệ và đang nghe những tín hiệu từ rìa vũ trụ đang tiếp tục dãn ra gửi về. Liệu rồi vũ trụ có thành ra cái xơ mướp tả tơi không? Hay hòn bi ve?

Chương 28
D
ân Thái Bình gióng lại trống Tiền Hải sau sáu chục năm im lặng (Dân Thái Bình nổi dậy bắt công an, đốt trụ sở của chính quyền địa phương năm 1997 - BT). Chính quyền ba cấp tê liệt, rệu rã hoặc bỏ trốn lưu vong như thời chạy Pháp càn. Dân lập nên các ban tự quản. Một số nơi bắt đầu học nổi dậy như Thái Bình. Lập chốt khám bên đường. Cán bộ đi xe máy xịn qua liền giữ lại. Tiền đâu mà ra xe sang trọng này? Ấp úng thì cho ngay một mồi lửa…
Đại hội 8 (1996) của Đảng họp trong không khí Trống Tiền Hải màn hai thời xã hội chù nghĩa kế thừa màn một thời nô lệ. Sau đại hội, Trần Đức Lương về nhận trước dân Thái Bình rằng đảng và chính quyền địa phương sai, dân đòi Đảng và Nhà nước trong sạch cùng dân chủ hoá là chính đáng. Tôi gửi một thư cho Trần Đức Lương và Bộ chính trị. Hoan nghênh ông. Và hỏi cớ sao không dân chủ để dân phải nổi lên ầm ầm. Vì ta, - tôi viết, làm không như nói trong Tuyên ngôn Độc lập. Mở đầu Tuyên ngôn, Hồ Chủ tịch long trọng cam kết: “Mọi người đều sinh ra có quyền bình đằng”. Nghĩa là mọi người được hưởng mọi quyền lợi và cơ hội như nhau, chẳng hạn dân được ứng cử chủ tịch nước, thủ tướng, những chỗ hiện chỉ dành cho duy nhất đảng viên. Không tiện nói ở ta Cỗ bàn linh đình chỉ dành cho ai có thẻ đảng, tôi chỉ đặt vấn đề sao ở nước ta không bình đẳng được? Tôi nói vì chúng ta vướng hai nguyên tắc nền móng của Đảng: nguyên tắc đảng lãnh đạo và nguyên tắc giai cấp. Nguyên tắc đảng lãnh đạo tự ý đem dân nước chia làm hai hạng: bị lãnh đạo và lãnh đạo. Tức là: Muốn thực hiện sứ mệnh lãnh đạo thì đảng phải thiết lập và duy trì quan hệ bất bình đẳng có tính định mệnh vè thứ bậc đảng trên dân dưới này. Nguyên tắc giai cấp tự ý đem dân nước chia ra làm TA, tức đảng và giai cấp công nhân, BẠN, tức bần cố trung nông, và nay vớt thêm trí thức, THÙ tức là địa chủ, tư sản, các phần tử bóc lột khác, Tóm lại dân nước là một mớ hổ lốn và đảng cân phân biệt rành rọt dựa ai, cải tạo ai và tiêu diệt ai. Có thể thấy ngay rằng hai nguyên tắc này đã triệt tiêu tuyệt đối chữ bình đẳng. Cuối thư tôi viết nếu ngày 2-9 ấy, Hồ Chủ tịch tuyên bố minh bạch từ nay độc lập rồi, dân Việt chia thành hai hạng lãnh đạo và bị lãnh đạo, tư sản với địa chủ rồi đây sẽ bị thủ tiêu thì không biết tình hình sẽ ra sao. Thư viết cố nhiên vì sự kiện dân Thái Bình làm cuộc tập huấn dân chủ nức lòng toàn quốc. Nhưng có một ánh sáng tinh thần trợ giúp tôi. Đó là bài diễn văn của ông thợ cạo Sạc-lô trong phim Tên độc tài, bộ phim nói duy nhất của Charlie Chaplin. Trong phim, bị lầm là Hitler, Sạc-lô đã phải diễn thuyết như sau: Các bạn, các chiến binh, các bạn đừng dâng mình cho những con thú, những kẻ bắt các bạn làm nô lệ, đặt đời các bạn vào trong hệ thống, điều khiến hành động, ý nghĩ và cảm xúc của các bạn! Chúng rèn giũa các bạn, kiếm soát khẩu phần của các bạn, coi các bạn như bầy gia súc. Chúng là những kẻ dị dạng, những người máy với những bộ ốc máy, những con tim máy và chúng đã hứa hẹn và rồi lừa các bạn. Chúng giành tự do cho chúng cỏn các bạn thì thành nô lệ. Các bạn không phải là những cỗ máy, không phái là gia súc mà là những con người! Là con người, các bạn bây giờ hãy chiến đấu cho tự do, hãy không chịu làm nô lệ…
Bài diễn văn kết thúc với câu: Hỡi các chiến sĩ, hãy nhân danh dân chủ, kết đoàn lại (tôi nhấn). Khẩu hiệu cuối cùng chắc Sạc-lô nhái kêu gọi của Marx “vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!”. Thư dĩ nhiên theo lệ không hồi âm. Nếu tôi ca ngợi Đảng chắc chắn sẽ được văn phòng Chủ tịch phủ có dấu nổi gửi một thư cảm ơn và khuyến khích nhận xét nhiêu hơn nữa v.v. Nhưng tuần sau, trung tá an ninh Nguyễn Chí Hùng, con rể Ngô Minh Loan, đến. Trong những lần an ninh đến, tôi đã nói nhiêu điều. Một vài anh em bảo tôi chuyện với an ninh làm gì. Tôi nói mình kêu họ không đối thoại, khi họ muốn đối thoại mình lại lảng hay sao? Tôi đã có tiền lệ trong lần chuyện trò rất thẳng thắn với Lê Kim Phùng. Nói đảng yếu trí tuệ. Nói tôi không tán thành chủ nghĩa xã hội vì nó vô hiệu, không mang lại phát triển và công bằng v.v… vả lại, tôi cũng muốn thắng cái e ngại thường ngấm ngầm kèm ám ta mỗi khi “tiếp xúc” với “bạn dân”. Tôi chọn cách tôi đã làm với Lê Kim Phùng: nói đủ ý, tới nơi nhưng ôn tồn, không khiêu khích, mạt sát. Một lần Nguyễn Chí Hùng hỏi tại sao Trung Quốc khỏe dằn mặt ta quá thế.
- Do tư tưởng Đại Hán của họ, - tôi nói, và lại do cái đạo đức của ta là trung thành với tình hữu nghị với họ, là theo họ - kim chỉ nam mà! - rồi lại hết lòng biết ơn họ. Bác chả nói trăm ơn, nghìn nghĩa, vạn tình đó sao? Theo tôi, đỉnh cao của tất cả các cái này là Nghị quyết 9, ta đã dám theo họ tè vào cái ta vẫn thành kính gọi là “thành trì cách mạng”. Nhưng họ cũng thấy rồi ta lại theo Liên Xô mà chống họ, cái mà họ cho là “ăn cháo đá bát” của họ. Ta cũng đâu có xoàng. Ký Hiệp ước hữu nghị tương trợ Việt-Xô hôm trước, hôm sau đánh luôn Campuchia, đúng không? Bắc Kinh thấy bị phản thùng và ai, nhất là bậc đàn anh, bị phản thùng mà chả cáu? Song hiện nay họ còn có một dụng ý quan trọng nữa là họ đang mượn ta làm kẻ phản diện để nêu cho thế giới thấy họ không cùng nòi cùng tông giống với cộng sản sính bành trướng, chiến tranh và bạo lực như đại bá Liên Xô và tiểu bá Việt Nam. Vậy càng đả phản diện Việt Nam thì họ càng trắng trong trước mắt Mỹ và thế giới.
Với dân Trung Quốc, họ cũng cần chứng minh Việt Nam xấu. Mà hay nhất, dễ nhất là chụp cho cái tội bội bạc, điều quả là có khó bác bỏ thật. Tóm lại họ vẫn giờ món võ quen thuộc mượn Việt Cộng làm cái bung xung. Ngoài ra tôi thấy còn có thêm chỗ này: Họ đã hạ Mao xuống, bộ máy của họ nay đều gồm nạn nhân của Mao nhưng bộ máy của ta mà họ rất rõ vì họ từng tham gia góp ý về nhân sự và từng đã mê Mao hết xảy nhưng nay vẫn cứ yên vị hết, trong khi nạn nhân của Mao ở ta như vụ xét lại, như Võ Nguyên Giáp thì vẫn cứ khốn nạn. Họ đã tóm lấy chỗ này chọc ngoáy, gây sức ép với ta. Mời Giáp sang làm khách danh dự Á vận hội ở Bắc Kinh đó. Rồi Giang Trạch Dân mời vợ chồng Giáp sang chơi Trung Quốc. Tín hiệu dứ ta đã rõ - tôi ưa người mà các đồng chí đánh đấy. Họ ghét Duẩn lắm - phản bội họ mà - thì mới cho đài phát thanh đêm đêm đọc hồi ký Giọt nước trong biến cả của Hoàng Văn Hoan chửi Duẩn hết nước hết cái giữa lúc Duẩn đang còn sống chứ! Rất mẹo. Cuối cùng tứ bề cộng sập, còn có họ để dựa cho nên nghe đâu Đảng đã đưa Lê Duẩn ra làm vật tế thần, trăm tội đố vào đầu Duẩn, trong dịp Đỗ Mười sang xin họ “liên minh”. Việc tày đình thế mà chả đưa Quốc hội xem xét, vi phạm ngay Hiến pháp. Đỗ Mười còn hoan nghênh đường lối chống diễn biến hoà bình. Xin lỗi Phạm Hùng, tuy Hùng không làm, chỗ này dân gọi là tồ, tồ là ngố ấy, đây: không biết Dương Thượng Côn dùng món này để cản Giang Trạch Dân lên Tổng bí thư, Mười lại múa lên với Giang nhưng biết Hà Nội đường cùng xin quay về với “kẻ thù” thì là thần phục hẳn hoi rôi, Bắc Kinh còn tha gì mà không thu dụng để ép cho cạn màu kiệt mỡ. Anh có biết Bắc Kinh từng có phương châm này với Việt Nam không? Gần mà không thân, sơ mà không xa, tranh mà không đấu, jin er bu qin, chu er bu yuan, zheng er bu dou? Anh lạ gì cái thế đi xin tình cảm nó luôn là phận lép mà.
Chí Hùng chợt thấp giọng, gần như thì thào:
- Anh viết cho Bộ chính trị đi.
- Không viết, tôi nói. Các cụ không hiểu. (Không hiểu đúng ra là các cụ phải đặt lợi ích đất nước lên trên lợi ích đảng nhưng tôi không nói). Vừa rồi đám anh em chúng tôi học Đại học Bắc Kinh có chiêu đãi Lô Uý Thu, một bạn gái học tiếng Việt ở đại học này cũng thời gian đó. Chị vừa theo Giang Trạch Dân vào Sài Gòn, làm phiên dịch. Hỏi thăm từng người, tình cờ lại dành tôi làm người cuối cùng. ‘Trần Đĩnh sao?” Tôi hỏi lại: Xem phim Khát vọng chưa?
- Xem rồi.
- Mình là nhân vật chính khốn đốn trong Khát vọng đấy. (Anh này cũng xét lại và bị đày tới số).
- Ná hảo! Lô Uý Thu reo lên. Thế tốt!
- Sao tốt?
- Bộ máy bên tôi nay toàn là các vị xét lại, hữu phái, đi đường lối tư bản và nạn nhân của Mao.
- Bên mình không có Đặng Tiểu Bình. Nên dòng nước lạnh lẽo vẫn cứ trôi như cũ, y jiang han shuiy jỉu liu, - nhất giang hàn thuỷ y cựu lưu.
Tôi nói chuyện này cốt cho Chí Hùng thấy ở các nước theo Mao, kể cả ở ta, ai cũng hiểu các vụ án “xét lại” đều là âm mưu chính trị bỉ ổi của cánh theo Mao. Nhưng họ đã sòng phẳng, do đó cởi được nỗi oán giận, bất bình trong lòng dân. Chiều hôm ấy, tôi cảm thấy Chí Hùng đã nhận ấn tượng rất sâu. Như Lê Kim Phùng năm 1990 vậy. Nói phải củ cái cũng nghe mà. Lúc tôi dịch Máu lạnh (In Cold Blood - Truman Capote) Hùng đến xin tôi một quyển. Tôi ngần ngừ, ý là tặng công an theo dõi mình thi chuế quá. Nhưng Hùng năn nỉ. Và tôi cho. Hùng đã khe khẽ bảo tôi, như bật mí một điều quan trọng: Em đến báo Nhân Dân không thấy ai ghét anh sất.
- Có đấy, tôi nói, lãnh đạo rất ghét.
Nói thêm về Lô Uý Thu. Sau đó, giáp Tết âm lịch, từ Bắc Kinh chị điện thoại cho tôi. Chúc Tết. Định biếu anh ít sách. Anh cho biết cần sách gì?
- À, cảm cm lắm. Dạo này không đọc được nhiều với lại nhiêu khê quá đấy, thôi, rất cảm ơn. Tiếng Uý Thu nho nhò: Tôi thấy có nghĩa vụ đỡ đần chút nào những người bị thiệt thòi như anh. - Thiệt mà có lợi, tôi đùa. Mọi người thương. Thật tình nghe bạn, tôi vừa cảm động vừa mừng thay cho người Trung Quốc: Tâm hồn họ đã bước đầu được gột rửa. Một lần tôi hỏi Hùng có biết trong vụ án xét lại ở ta, nạn nhân bị đầu tiên, dù gián tiếp, là ai không? Hùng khẽ lắc đầu. - Bác Hồ! - tôi nói. Nghị quyết 9 cụ không biểu quyết - rạn nứt động trời đầu tiên giữa lãnh tụ và môn đồ - thế rồi từ đấy Bác không dự hội nghị Bộ chính trị nữa, sức khỏe yếu. Sau đó viết Di chúc, sang Trung Quốc chữa bệnh. Còn chuyện Bác suýt chết, anh biết không? Kìa, hồi ký Vũ Kỳ đăng trên một số báo Văn Nghệ Tết đó! ông Cụ về nước ban đêm bằng máy bay nhỏ. Đến sân bay Bạch Mai phát hiện đèn hiệu đã bị đặt lệch 15 độ, hạ cánh theo nó thì đâm cổ hết xuống khu ao đầm quanh đó. Anh phi công đành xin được hạ cánh mù, tức là theo thói quen. Thế mà không có vụ án đặt láo đèn hiệu, sợ không? Là công an, chắc anh thấy quá lạ là chả có điều tra truy cứu nguyên nhân gì cả chứ phải không?
Chuyện đèn hiệu đặt lệch tôi nghe đã rất lâu, ở nhà Đào Phan, nhà báo Thế Kỷ kể. Nhưng lúc ấy, xin lỗi nhà báo, tôi đang ngờ người ta phóng tin để mò bắt vịt trời. Đặc biệt từ ngày “mờ cửa làm bạn với thế giới”, sự thật bắt đầu lộ dần. Nguyễn Tạo hay Tạo Cuội xì ra ở nhà Đinh Văn Đảng những chuyện tày đình về lý lịch Trần Quốc Hoàn và bà Xuân, vợ Cụ Hồ bị Hoàn giết. Một lực bí ẩn trong nội bộ đảng đang muốn cho lộ dần ra những xó xỉnh của Hồng cung bí sử chăng?
***
Một chiều tôi đến Lê Giản. Anh nắm ngay tay tôi: Này, vào đây xem. Cái ban cống quen thuộc bên ngoài phòng khách đã bít kín và anh đưa tôi vào đó. Một toa lét đủ hết mọi thứ trừ đường ống dẫn nước. Tôi ngạc nhiên thì anh nói thế mới bảo vào xem chứ. Ngoài tám chục tuổi rồi hễ có nhu câu anh thường không kịp chạy xuống nhà vệ sinh công cộng dưới tầng trệt. Chị cùng tuổi anh lại phải xách nước, thay quần áo, cọ rửa, dọn dẹp. Con anh, một đại tá công an - từng bảo vệ Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh - có sáng kiến biến ban công thảnh toa lét. Nhưng thợ vừa đến đào bể phốt ngay dưới chân cầu thang trời thì chủ căn hộ cạnh đầu tầu thang cấm. Thuê cả đầu gấu đến đe hành hung nguyên tổng giám đốc Nha công an Việt Nam đầu tiên sau Cách mạng Tháng 8. Lý do: Đặt hố cứt ngay bên ngoài nhà tôi, ống cứt đái sẽ lù lù ở trên tường nhà tôi. Mỗi bận ông vào đó tôi sẽ lại thấy như ông ỉa ngay trên đầu tôi v.v… Anh này là con vị phó chánh án tối cao đồng sự của Lê Giản. Hai vị ở chung ngôi nhà số 8 Nguyễn Thượng Hiền và chắc chung chi bộ. Vị phó chánh án kia chết, người con thành chủ hộ và quan hệ lão thành cách mạng vỡ tan lập tức. Theo Lê Giản, phường và quận bênh nhà kia. Tôi hỏi có phải vì người ta nghĩ anh là “phản động” không. Anh lắc. “Chẳng rõ, chỉ biết cứ là lờ yêu cầu của mình”. - Hay họ dúi tiền, tôi hỏi? Lê Giản lại lắc. Đang lằng nhằng thì bà vợ ông phó chánh án tim nặng nằm bệnh viện về. Lê Giản lên thăm. Cuối chuyện xin bác nói giúp với các con việc toa-lét Bà cụ liền nghiêm mặt: Các con tôi quyết định sao là tôi theo chúng bác ạ. Chẳng may đêm ấy bà cụ chết. Quốc hội đang họp. Cùng các đơn lên quận lên phường kiện Lê Giản nay thêm đơn lên Quốc hội tố giác tội Lê Giản “bức tử mẹ chúng tôi vì mục đích ích kỷ đen tối”. Tôi về, Lê Giản tiễn xuống tận chân cầu thang, nơi định làm hố xí. Nhãn mặt lại, anh giậm giậm chân lên đó: Đây, định đào ở đây… Giọng run rẩy, nghẹn lại nói tiếp, sáu mươi năm làm cách mạng không đào nổi cái phốt cứt! Chỉ có đào tung bành đất nước lên thôi! Tôi nói: Hay thật, muốn giải phóng giai cấp với loài người mà không cho lão thành cách mạng giải phóng lấy một mét vuông chỗ ị! Về nhà, tôi gọi ngay Lê Tiến hay đến tôi sau khi Nguyên Chí Hùng lên trường phòng chính trị Sở công an Hà Nội (từ 2002 Tiến cũng lên phó phòng chính trị) nói: Tôi là người dưng nhưng không thể không nói giúp bác Lê Giản, người công an số một ở nước ta. Nghe xong, Tiến xăm xắn: Vâng, em sẽ báo cáo thủ trưởng chúng em, chắc thủ trưởng sẽ có đề xuất… Toan nói “Con cháu lên sau ăn bẫm quá thì cũng nên nhớ đến phần của chú bác với chứ” nhưng tôi lại thôi. Gần năm sau, mộng toa lét thành hiện thực.
Thời gian này Lê Giản lận đận nạn giấy tờ. Tô Duy, cháu anh nảy sáng kiến xin bằng liệt sĩ cách mạng cho Tô Hiệu và đẩy Lê Giản ra làm đơn đề nghị. Người ta bảo phải có chữ ký của hai người cùng hoạt động với Tô Hiệu làm chứng. Đánh đố nhau thế này ác quá! Lê Giản vặn lại: Khi các anh viết cây đào Sơn La của Tô Hiệu vào sách giáo khoa cho trẻ con học, các anh có xin phép họ Tô nhà chúng tôi không? Không phải là nhà Tô Hiệu thì xin bằng làm cái gì? - Không, bác ơi, đây là nguyên tắc. - Nguyên tắc thế sao 1945-46 lấy tên Tô Hiệu đặt cho Hải Phòng mà không xin phép họ hàng chúng tôi? Rồi Lê Giản lắc đầu thờ dài: Các tướng này quen thói chiếm hữu hết, quốc hữu hoá hết, cái gì cũng là của đảng, tôi sợ cây đào Tô Hiệu là nhận vơ… Có lẽ lính khố xanh họ trồng.
Tô Hiệu chưa xong lại xin chứng nhận cho Tô Chấn. Tô Chấn cùng Ngô Gia Tự, Nguyễn Thới làm bè vượt ngục Côn Đảo chẳng may gặp bão mất tích đã sáu chục năm hơn rồi nhưng vẫn cứ phải tìm cho ra hai người làm chứng. Cù cưa mãi rồi hai anh em Tô Hiệu, Tô Chẩn cũng được. Nhưng bằng mẹ liệt sĩ cho mẹ hai anh em Tô Chấn thì dứt khoát không. Tôi đùa, không có ai chứng nhận chỗ này à? Lê Giản chợt cười, sau việc xin chứng nhận này hễ nghe báo đài ca ngợi cầy đào Tô Hiệu xanh tươi như một minh chứng về sức sống lâu bền của cách mạng, tớ lại chột dạ như nó vừa lột truồng ai ra vậy. Tôi kể với Lê Giản chuyện Bảy Trấn nói lẽ ra Lê Duẩn về chuyến bè ấy nhưng rồi ở lại và tôi đã hỏi Bảy Trấn: Nếu Duẩn cũng về thì sẽ không Tổng bí thư và như vậy liệu đất nước có khác gì đi không? Bảy Trấn gãi gãi sườn rồi nói:
- Khó nói nhỉ?
Giọng trầm trầm run rẩy, Lê Giản cũng ừ một cái!
Tôi lại hỏi: Nếu Tô Chấn, Tô Hiệu thời ấy biết sau này chế độ làm khó ngay cả các anh ấy thì liệu sẽ thẽ nào? - Lúc ấy bọn mình toàn nghĩ những cái cao quý cả, ai hay rồi thành ra tối tăm. Thì tớ đấy, mãi gần đây mới dám nói thật ra chính phạm của vụ bố vợ cậu là Lê Đức Thọ.


Chương 29
K
ỷ niệm Cách mạng Tháng 8 và Ngày 2 tháng 9, Hà Nội đặc xá khoảng hai chục nghìn tù trong đó ba “tù hình sự” nổi nhất là Thích Quảng Độ, Nguyễn Đan Quế và Đoàn Viết Hoạt.
Cả ba cùng bị kêu án tù hai mươi năm. Hoạt ban đầu không nhận đặc xá: phản đối bắt anh trái pháp luật. Nhà nước phải mời Thức, vợ Hoạt ở Mỹ về nước vận động chông ra tù rồi sang Mỹ định cư. Báo chí thế giới đã phỏng vấn ba “tù hình sự” thế giới quan tâm. Nguyễn Đan Quế trả lời Time: ông đến tôi hẳn đã thấy họ trực sẵn trước cổng đó. Tôi chỉ là từ một xà lim hẹp bước vào một xà lim rộng hơn mà thôi. Ở xứ này người ta làm kinh tế thị trường bằng Nhà nước cảnh sát… Cũng với Time, Hoà thượng Thích Quảng Độ nói: Nếu chúng tôi mất tự do tín ngưỡng và tự do ngôn luận thì chúng tôi có khác gì con vật. Năm 1977, ông bị tù 22 tháng, năm 1981 bị trục xuất khỏi Sài Gòn, năm 1994, tổ chức cứu trợ đồng bào bị lụt, ông bị toà kêu 20 năm tù với tội danh chống chính phủ. Trước kia ông chống chính phủ Sài Gòn (nhưng báo miền Bắc nâng lên là “chống chế độ Sài Gòn”). Ông nói: “Tôi hiện như con chim trong lồng”. (sống trên căn gác của Thanh Minh Thiền Viện bị khoá cổng). Quảng Đức, Quảng Độ, đức-độ, tôi cứ thấy như cùng chung một mối. Khác là một nguời có tượng, một người có tù. Tổng thư ký Kofi Annan đã tiếp Đoàn Viết Hoạt, tiến sĩ giáo dục học, nguyên Viện phó Viện đại học Vạn Hạnh, trợ lý của nhà Phật học thông thái Thích Minh Châu. Anh nói sau bao năm ở tù ra, anh ngỡ ngàng nhất là máy tính, quá kỳ diệu, Tổng thư ký cười bảo anh: Nhờ nó từ nay không độc tài nào ngăn được con người giao lưu.
Theo lời Hoạt, Hoạt gặp Tổng thống Clinton vài ngày trước khi ông Clinton thăm Việt Nam nhân dịp Hội Nhân quyền Robert F. Kennedy tổ chức sinh hoạt. Khi bà Kerry Kennedy (con gái Robert F. Kennedy) giới thiệu Hoạt với ông Clinton, ông liền mời Hoạt ngồi nói chuyện riêng chừng 20 phút. Hỏi về tình hình Việt Nam, hỏi ông nên làm gì, nói gì… Hoạt đề nghị 2 việc: “Nói chuyện với sinh viên, và ra phố gặp dân chúng vì nhà nước không muốn dân biết ông sang thăm mà dân chắc chắn hoan nghênh việc ông sang thăm Việt Nam”.
Hoạt cũng được gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma 2 lsshn. Một lần trong nhà bà quả phụ Robert F. Kennedy, một lần trong dịp cùng đi thăm mộ John F. Kennedy. Lần thứ 2 này, Đức Đạt Lai Lạt Ma “nắm tay Hoạt vừa đi vừa nói chuyện suốt từ ngôi mộ ra xe hơi của Ngài, hỏi nhiều về Việt Nam về quan hệ giữa Phật giáo Việt Nam và Phật giáo Tây Tạng”.
Trần Thị Thức, vợ Hoạt dạy tiếng Việt cho các quan chức Bộ ngoại giao Mỹ, chẳng hạn đại sứ Shear trước khi đi Việt Nam nhậm chức, đã đến thăm vợ chồng Hoạt.
Năm 1975, Hoạt bị đi tù “cải tạo”. Khoảng đầu những năm 80, anh trở về và qua vợ chồng Thế Vấn, tôi quen Hoạt và Trần Thị Thức vợ anh, cả hai cùng học ở Mỹ. Thức là em họ Trần Huy Phong, người mà lát nữa tôi sẽ nói đến. Thức đã dạy tiếng Anh cho con gái tôi. Thời gian Hoạt bị tù lần hai, Thức ở Mỹ mấy lần thư cho tôi nói chị đã đến những Quốc hội nào đấu tranh như thế nào cho dân chù và nhân quyền ở Việt Nam, và đi nhận giải Cây Bút Vàng Hội Văn Bút Quốc tế tặng người tù Đoàn Viết Hoạt ra sao. Một lần chị đọc cho con trai út viết. Một lần phong bì đến tay tôi tơi tả với dòng chữ: Bị mưa làm rách.
Chả biết có mưa hay không nhưng biết chắc là bị tắm nước mà rách.
Năm 1988 hay 1989, vợ chồng Hoạt cùng con trai út ra Hà Nội đến nhà tôi. Anh chị đưa con gái tôi đi chơi. Trở lại, anh rất lạ chuyện công an tịch thu hết phim của anh chụp ở Lăng. “Bọn mình đang chụp ảnh thì thấy mấy người thổi còi inh ỏi chạy đến. Giằng ngay máy, mở lấy luôn phim, toan tước cả máy nữa. Hỏi tại sao thì bảo tại không nghiêm túc. Không nghiêm túc thế nào? À, chụp ảnh đã ngồi lại cười cợt…”.
Tôi chột dạ: Hoạt làm gì khiến cho an ninh bám đến thế?
Năm 1990, tôi vào Sài Gòn. Một tối Hoạt mời tôi đến nhà ở đường Lê Văn Sỹ. Rủ tôi cộng tác làm tờ báo đòi dân chủ. Anh rất tự tin. Cho rằng rất bí mật. Bọn tôi cùng chơi kiểu tổ ba người như họ. Tôi nói trong tổ ba người mà anh nói ấy thế nào cũng có một chân gỗ công an. Hoạt cho là tôi quá thận trọng. Nhưng tôi nhớ anh bị khám máy ảnh lột phim ở Lăng. Sau đó về qua Vấn (ở gần Hoạt) tôi cứ áy náy như có lỗi. Không dám cộng tác với anh, tôi có tồi không? Nhưng tôi phải chịu tinh thần đấu tranh kiên định của Đoàn Viết Hoạt. Tuần sau Hoạt bị bắt. Trần Huy Phong bảo tôi là một đứa trong tổ ba người của Hoạt đã nộp bản thảo số báo sắp ra cho công an. Nhưng sau này, ở Mỹ, Hoạt đính chính với tôi: Trong mấy người làm báo với anh, không có “tay trong” nào của an ninh cài vào sất cả.
***
Trần Huy Phong và Trần Thị Thức quê ở Quần Anh, Hải Hậu, con cháu chính tông Trần Hưng Đạo. Phong là Phụ tá Trưởng môn Việt Võ Đạo có chi nhánh lớn rộng ở hơn mười nước. Sau 30 tháng 4 năm 1975, Huy Phong bị bắt. Vì đã dạy võ cho “nguỵ” dù chi với tư cách giáo viên ngoài quân lực dạy thuê. Trong tù, anh giết rệp lấy máu kẻ dần khẩu hiệu khá công phu. Quản giáo vào quát, ai cho viết khẩu hiệu? Mà lại còn viết quyết tâm nữa? - Dạ, quyết tâm cải tạo mà! - Không, chỉ cách mạng mới được viết khẩu hiệu và mới được quyết tâm, biết không?
“Nhờ trận quát mắng ấy tôi hiểu sâu sắc chế độ công hữu hơn, tôi bị lột mất cả tâm lẫn chí”, Phong bảo tôi.
Năm 1988, Huy Phong bị bắt lần thứ hai. Hình như anh tổ chức cho môn sinh ra nước ngoài xây dựng cơ sở Việt Võ Đạo. Hôm trước ngày anh bị bắt, tôi đang ngôi quán cà phê ở sân nhà Võ Quang Anh, bạn Côn Đảo với những Đào Năng An, Đào Phan… đường Nguyễn Thông thì Huy Phong vào. Anh khẽ ra hiệu mắt cho tôi và tôi quay đi.
Cuối những năm 90, anh đã làm mai cho con gái tôi với một người ở nước ngoài. Nó không muốn xa bố mẹ nên từ chối. Rồi Huy Phong chết. Tẩu hoả nhập ma? Tôi cảm thấy rõ ràng mất đi một nhân cách quý.
Khoảng 1994-95, một lần ra Hà Nội, Huy Phong cùng Bình Bún môn phái Vĩnh Xuân ở Mã Mây đến tôi. Bình nói hai đứa tôi vừa đến nhà Trần Quang Cơ, con trai cả ông ấy học võ cứ cố mời “đại sư phụ”. Tôi đang mến Trần Quang Cơ, sau khi có tin đồn ông từ chối làm bộ trưởng và vào Trung ương. Chưa hay rằng lúc ấy ông đã nhìn những Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Hồng Hà là những người làm nhục quốc thể. Có lẽ cũng cùng quan điểm với Nguyễn Cơ Thạch đang cho rằng Việt Nam sắp bước vào một thời kỳ Bắc thuộc mới.
- Anh biết không, - Bình Bún hỏi tôi - Cạnh xa lông nhà thứ trưởng ngoại giao, bên ghế anh Ba Phong có một tượng mộc nhân bằng lim nặng tạ mốt, dụng cụ cho võ sinh tập giáp đấu, giống cái ở nhà tôi mà anh đã thấy đấy. Nhìn pho tựợng, anh Ba Phong búng ngón tay vào nó nói “Đổ!” Vả nó từ từ chúi nghiêng đi, tôi phải giơ hai tay đỡ lại.
- Sao lại thế được, tôi kêu lên. Không đánh mà đổ ư?
- Dạ, có đánh… Đánh bằng ý - Huy Phong khẽ cười.
Tôi ngẩn người. Không ngờ. Đúng hơn, không thế nào hiểu. Một ham muốn mãi bị dày xéo, bóp nghẹt của Huy Phong: Xin phép Nhà nước công nhận Việt Võ Đạo hay Vovinam dể được tồn tại đàng hoàng. Từ 1975, Việt Võ Đạo luôn chui lủi, mặc dù nó có tổ chức ở mười mấy nước và đã có một đoàn võ sĩ ở Pháp về biểu diễn. Tôi đã mách nước: Bây giờ anh cố tìm một lão thành cách mạng nào dám nhận là đã xui anh mở phái võ để cho ông ấy nấp bóng mà hoạt động thử xem.
Huy Phong lắc đầu. Từ 1945 Nguyễn Lộc, sáng tổ Vovinam đã bị liệt là “tay sai” của Nhật. Không có môn bài yêu nước đảng cấp cho thì với đất nước làm gì công to đến đâu cũng chỉ ăn mày.
Ngay bản thân Huy Phong. Không giấy chứng minh nhân dân. Một lần, 1985, anh chở tôi và con trai út của Đoàn Viết Hoạt ở Vũng Tàu về đến Long Thành thì gặp trạm công an kiểm soát. Huy Phong chậm xe lại, từ từ đi đến. Mấy anh công an vừa tới đầu xe, Huy Phong bỗng rồ máy vút thẳng. Tôi ngồi sau cùng suýt bổ chửng. Còi công an rít lên lanh lảnh ở đằng sau. Đúng là phóng thục mạng. Đến công ty sữa Long Thành, Huy Phong rẽ vào uống sữa tươi, ăn bánh sữa. Anh bảo tôi: Không giấy tờ gì lại chở ba thì cầm chắc họ làm lôi thôi rồi.
- Nhưng ông nên báo trước tôi, suýt thì tôi vào đồn nằm lại… Nhưng sao dám đánh tháo?
- Tôi đã quan sát. Không thấy xe cộ gì ở quanh đó cả.
Những ngày ở Vũng Tàu với đám Huy Phong, Đoàn Viết Hoạt, tối tối ra bãi biển tôi thường thấy xa xa trong giữa vắng lặng một cây cột đá đen đủi hiện lên im lìm. Trần Huy Phong trồng cây chuối. “Trồng khoảng bao lâu”, tôi hỏi anh?
- Dạ, một tiếng. Tôi lại nắn nắn cánh tay anh. Cứ nghĩ đến các trụ đá tiền sử ở Stonchenge… Hai chục năm sau, Việt Võ Đạo thành một môn được báo đài Việt Nam ca ngợi. Té ra đảng chỉ luôn chạy vuốt đuôi thời đại. Và bao mạng con người, bao mộng ước, bao hạnh phúc đã tan vỡ. Như bao nhiêu sức sản xuất của nông dân bị đảng giam cùm trong hợp tác xã. Như bao nhiêu trí tuệ bị đảng còng tay nhốt lại. Và đảng thì không bao giờ nhận ra mình là kẻ phá phách vĩ đại. Huy Phong đã giúp một người bạn của anh ở Úc gặp con gái tôi để xem mặt. Bà bạn gặp và ưng. Nhung con gái tôi có lẽ sợ bỏ mẹ ở lại trong nước có một mình, đã từ chối. Huy Phong và vợ chồng Đoàn Viết Hoạt đặc biệt ưu ái Trần Dần. Năm 1990, Trần Dần vào Sài Gòn, tôi đưa Huy Phong đến gặp và chở Trần Dần tới dự một bữa rất thịnh soạn Phong do vợ Hoạt làm ở nhà Phan Thế Vấn. Huy Phong mời Trần Dần lưu lại Sài Gòn để anh nhờ một thày lang rất giỏi chữa liệt do tai biến não cho Trần Dần.
Trần Dần đọc thơ mini. Tôi khóc những người bay không có chân trời, Tôi khóc những chân trời không có người bay… Mỗi người một vụ án, Mỗi người chôn sông một chân mây. Trước đó mấy hôm Trần Dần đến nhà tôi ở Sài Gòn. Hai em gái tôi mở cửa.
- Tôi hỏi thăm ở đây có ai là con Hoan không, Trần Dần hỏi luôn chủ nhà?
- Dạ, thưa ông, tôi là con Hoan ạ, xin ông cho được vinh dự biết quý danh? Hai em tôi kể lại. Sự ra mắt kiểu Đông chu liệt quốc này quá ấn tượng. Hân, em út tôi cứ xuýt xoa: Đặc biệt hai con mắt… như mắt thần hố.
- À, tôi là Trần Dần, đến hỏi xem Trần Đĩnh đã vào như hẹn tôi ở Hà Nội chưa? Trần Đĩnh hay nói trong này có em là con Hoan.
Thế rồi mắt hố nhắm lại mãi. Ngọng quá lâu, liệt quá nhiều. In xong Cổng tỉnh thì Trần Dần đi. Nhìn Trần Dần ốm yếu tôi cứ nghĩ đến những ngày Dần lao dộng cải tạo ở Khu Gang thép Thái Nguyên. Có những thời gian người ta giao cho anh mỗi ngày phải đào 2 mét khối đất. Làm đến 3 giờ sáng hoàn thành. Chợp mắt tí chút lại dậy gấp để đào 2 mét khối khác. Khuê, vợ Dần kể: “Ông ấy về nghỉ phép mà hôi thối không chịu được. Thì ra cả tháng không tắm bao giờ vì công trường không có nước, anh bảo có ghê không?”. Ở Khuê, tôi thấy có một “liên minh thần thánh” thầm kín giữa những nạn nhân chính trị. Không hề biết Trần Châu anh tôi nhưng hễ gặp tôi, ngay đầu tiên chị lại hỏi anh Châu dạo này sao anh Đĩnh? Trước khi chết ít lâu, một hôm Trần Dần hỏi tôi: Tao định nhờ Phong với Hoạt trong kia giúp chữa bệnh. Mày thư cho… - Không thành rồi! - tôi nói. Hoạt tù. Tội lật đổ. Huy Phong chữa bệnh dài ngày ở Pháp. Ở đám ma Trần Dần, Nguyễn Chí Hùng, Sở công an Hà Nội đến chào tôi. Tôi nói chị Linh vào chơi với con gái ở Sài Gòn thi công an khu vực đến hỏi ngay ông Trần Đĩnh vào phải không? “Không, chi có tôi là vợ ông ấy vào thôi”. Hôm sau đến yêu câu: Bà viết nộp cho chúng tôi một sơ yếu lý lịch của bà!
Hùng nói ngay: Anh ơi, trong ấy tình lẻ mà.
Tôi phì cười: Sáu triệu dân với giám đốc công an Bùi Quốc Huy từng là Tổng cục trưởng an ninh mà tỉnh lẻ à? Tôi chưa biết Năm Huy siết còng với dân chủ, nhưng xòe tay ra để dính chàm hình sự Năm Cam. Sau đó, tôi hỏi Lê Đạt xuống nghĩa trang làng Vạn Phúc bằng gì, Đạt bảo nhờ xe Tô Hoài, nó kia kìa. Kính râm trên mặt, mũ phớt len đan trên đầu (Trần Vũ cho), tôi đi đến nói: “Cho đi nhờ xe với nhé…“. Tô Hoài cau mày nhìn, khó chịu. Tôi cười: Trần Đĩnh đây!
Tô Hoài kêu: Sư mày, sao béo ghê thế? Ở ta thường thằng ở tù mới béo… Không gặp nhau khéo đã một giáp. Từ lần anh bảo tôi viết cho báo anh, “Tớ ký cả tên Trần Đĩnh, tớ đếch sợ”. Phải nhận rằng cho đăng bài tôi viết dân sính dùng tiếng lóng và câu tục là nhằm kiếm cho mình một tấm giấy chứng minh nhân dân khác, Tô Hoài có không sợ thật. “Hãy rẽ vào xóm thợ, Hãy ngả vòng tay nghìn bác mẹ nghèo, Tôi tháo quả tim học trò. Đồng chí thợ nguội! Rèn cho tôi thứ quả tim yêu. Yêu nghìn lẻ một người yêu không mỏi… Hỡi thế giới tàn bạo! Đảng cử tôi về vật chết mày đây… Vùng lên! Nô lệ vùng lên! Đây là cuộc phá gông làn cuối. Để mãi mãi về sau người chẳng thể cùm người… (Cổng tỉnh). Trần Dần đã nói hộ cả một lứa thanh thiếu niên tin đảng (khao khát nô lệ vùng lên) rồi chống đảng vì thấy phải xài tiền giả và bị vùi xuống. Nên biết tối 19-12-1946, đã nổ súng, Trần Dần, Trần Vũ còn đi dán lên tường ở một số phố Hà Nội Tuyên ngôn Dạ Đài: “Lũ chúng tôi đầu thai lầm thế kỷ…“. 1965, hai năm trước khi chết, Ernesto Che Guevara phản đối gay gắt “bệnh theo đuôi xô viết” với bạn là Armando Hart, bộ trưởng văn hoá Cuba, chê môn triết mà các sách giáo khoa mác-xít đưa vào trường đại học La Havana nguy hại là chúng “không cho người ta nghĩ, đảng đã làm nó ra cho mày thì mày phải tiêu hoá nó”. “Không thể diệt một ý kiến bắng bạo lực mà chỉ có ngăn cản trí thông minh nảy nở”. Guevara có hẳn một tập phê phán cuốn “Giáo khoa kinh tế chính trị học” của Liên Xô. Ông đã viết: “Nếu Lê-nin còn sống chỉ sẽ phạm phải sai lầm là chết”. Đúng, lãnh tụ chỉ có sai lầm duy nhất là chết. Buồn cười! Luôn nói không được can thiệp vào nội bộ nước khác nhưng toàn ca ngợi Che Guevara anh hùng đi nhen lửa nội chiến ở mọi nơi. Hay là chấp hành lệnh Mao: “Căng đế quốc Mỹ ra khắp thế giới mà đánh!” Lúc ấy không biết ông còn nhen lửa toan đốt chủ nghĩa Lê-nin. Cái sự gian dối nhiều khi lại còn do cả yếu tríự, mỏng kiến thức.
***
Lần vào Sài Gòn trên kia tôi đến thăm vợ chồng L. và Q., hai người bạn tôi mến. Vào bàn ăn, chị Q. nói: Anh Trần Đĩnh ạ, tôi muốn kể với anh chuyện này. Hôm nọ, anh L. nhận huy hiệu mấy chục năm tuổi đảng, tôi hỏi anh ấy “Anh có mấy chục năm công với đảng vậy mấy chục năm ấy anh đã có những tội gì với dân, anh kể ra đi?” L. lắc đầu cười hiền lành. Anh hiểu vì sao vợ mình “dữ” thế. Chuẩn bị diệt tư bản, để cấm bệnh viện tư nhân và bác sĩ chữa thêm, người ta dựng lên một vụ án bác sĩ tư “tiêm nước lã” cho bệnh nhân! Bố chị đã được chọn làm “tên thày thuốc phản diện”. Chị nói: Thà anh gọi đến nói theo chủ nghĩa không cho tư nhân hoạt động ở mọi lĩnh vực vậy từ nay cấm khám bệnh ở ngoài bệnh viện Nhà nước có phải là tử tế không? Lại bày mưu mẹo đểu làm nhục cả họ nhà người ta. Sau hơn ba chục năm tôi thấy rõ mặt Q. vẫn tái lại khi nhắc đến vở giết người bằng nước bọt. Ghê tỏrn dối trá đã hiện thành phản ứng sinh học ở chị.
- Chị lạ gì món võ xây dựng điển hình của đảng chứ! Điển hình anh hùng cũng như điển hình xấu xa đều là dựng khống lên tất cả ấy mà.

Chương 30
M
ột tối, tôi nhận điện thoại Dương Thu Hương. "Một nhà báo Mỹ muốn gặp em nhưng tiếng Pháp lão khó nghe quá, anh liên hệ giúp. Hỏi khách sạn Bộ quốc phòng đường Phạm Ngũ Lão ấy. Tên à? Anh hỏi luôn cả hộ em đi… Sáng mai, 11 giờ, hẹn tại đấy nhá…“
Nhà báo Mỹ này và tôi chập tiếng Pháp và Anh của nhau lại thì chuyện trò cũng bén giọt. Tên ông: Brian Eads. Sáng sau tôi đến chỗ hẹn, nhà hàng X., thì vừa lúc một người nước ngoài đăm chiêu đi tới, vẻ canh chừng, kiếm tìm. Nhà báo Mỹ.
- Việt Nam có câu vách có tai, vậy đây thế nào?
Vừa ngồi xuống ghế ông liền nhìn quanh hỏi ngay. Phóng viên nước ngoài chắc đã phổ biến kỹ cho nhau vòng vây của an ninh Việt Nam. Tôi nói:
- Tôi cũng không rõ. Bà Hương mời thì ta cứ đến.
- Thế ở khách sạn của quân đội ông có ống nhòm ở vách không?
- Ai bảo ông đến ở đó?
- Một người bạn.
Mách nhau chui hang hùm. Đúng là Mỹ. Bữa ấy rất vui. Nhà báo xem chừng hết bồn chồn. Dương Thu Hương, người được an ninh chăm sóc kỹ mà vui vẻ, hoạt bát như vậy thì chắc là vách không có tai rồi. (Kỳ thật có! Anh em chạy bàn rất nhiều lần kín đáo nhắc Hương cẩn thận với bàn nào bàn nào, đó… đó… , cô nhá!)
- Tôi biết gặp bà rất khó (khẽ nhún vai như phần bua: điều này ai còn lạ?) nhưng khi báo đề nghị tôi gặp bà phỏng vấn thì tôi rất thích. Bà biết cho là tờ Reader's Digest có hơn 130 triệu người đặt mua và nó được bán ở hơn một trăm nước trên thế giới. Nếu bà không ngại và bằng lòng thì…
- Tôi không ngại. Thế này đi, chín giờ sáng mai, mời ông đến nhà hàng Bông Sen, phố Thợ Nhuộm. Chỗ ấy sân rộng, thoáng mát và có nhiều người nước ngoài đến.
- Có thể đến khách sạn Quốc phòng không, - Brian Eads ngập ngừng… - Tôi còn ghi âm, quay phim, chụp ảnh…
Thôi thì thế vậy, ăn xong ta cùng đi kiếm phiên dịch. Nếu đến nơi giữa trời của tôi, ông sẽ rất thích.
Gặp người nước ngoài, nhất là cánh nhà báo đàn ông, Hương lại rủ tôi. Tôi có mặt như che chắn kiểu NATO vậy. Những người đến gặp Hương dù chuẩn bị tư tưởng đến đâu vẫn cứ ngây thơ.
Một bà của Hội Văn Bút quốc tế đến từ Hà Lan. Gặp Hương ở Thuỷ tạ một sáng nọ. Bà thoải mái đặt máy ghi âm lên bàn, tay ghi tay micro chú vị hỏi. “Chẳng để ý tới một nguời trẻ tuổi vạm vỡ đến ngồi phịch ngay xuống ở bàn bên, sát vai tôi, mặc dù xung quanh còn nhiều chỗ trống và không ai lại hóng chuyện người khác lộ quá như vậy”. Bà phàn nàn lãnh đạo Hội nhà văn nói chuyện với bà toàn bằng “lưỡi gỗ” giống hệt công báo. Kể cả một nhà văn đang nức tiếng là viết mới, viết dữ cũng cố tránh bà. Ba hôm sau, bà điện từ Bangkok than với Hương rằng đến sân bay Nội Bài bà đã bị công an khám xét và lấy hết băng ghi âm cùng sổ tay bà ghi cái sáng đẹp trời ấy.
- Tôi xin chia buồn với bà. Nhưng thực tế ấy cũng có cái hay: Bà hiểu hơn hoàn cảnh sống của chúng tôi. Công dân Hà Lan hết sức tự do nhưng đến đất nước này cũng bị tước mất hết.
Trở lại chuyện Brian Eads phỏng vấn. Theo hẹn, Hương và anh phiên dịch đến khách sạn Quốc phòng. Gặp nhau mới đôi hồi vài câu xã giao thì công an ập vào. Khá đông. Brian Eads đã đưa cảnh này lên đầu bài báo sau đó đăng trên Reader's Digest. Người ta nhè phá một cuộc phỏng vấn nhưng chính bản thân sự chặn phá đã là đề tài hấp dẫn của một bài báo. Bài báo có kèm mấy ảnh chân dung Hương. Một nhà báo Mỹ khác, Vogel chụp sau vụ phỏng vấn bị phá. Tôi chưa thấy ai chụp lẹ bằng Vogel. Một nhoáng hết bay bốn cuộn phim. Trước đó, đi ngược chiều với ông ở gần chỗ hẹn gặp nhau, tôi đã ngạc nhiên thấy một người nước ngoài kênh càng quanh người toàn máy ảnh và bao túi, một Tartarin (nhân vật truyện của Alphonse Daudet - BT) hiện đại. Ngỡ nghe thấy cả quân nhạc rầm rộ phát ra ở người ông. Khi bắt tay nhau, tôi thốt lên là tôi đã nghĩ ông tay không đến. Ông cười thích thú: Eads không biết rằng người ta đâu có lạ ông ta là nhà báo, tên tuổi đã lên các báo khá nhiều, thế nhưng lại đi khai là người du lịch và đó là chỗ an ninh nắm lấy mà ngăn chặn. Sau vụ này chừng nửa tháng, một hôm Hương đưa tôi xem một số báo Văn Hoá của Bộ Thông tin Văn hoá. Một tác giả đàn bà, có thể là mạo nhận để cho nồi bật lên hơn khía cạnh sa đoạ đạo đức mà bài báo nhắm gợi đến. Việc Hương gặp nhà báo Mỹ biến ra thành như sau: Sau lần bị bắt năm 1991, Dương Thu Hương đã “ngoan ngoãn ngồi nhà” nhưng gần đây “ả” (chữ của bài báo) lại “ngứa nghề” (cũng chữ của bài báo) mon men gặp một nhà báo nước ngoài, do Phan Huy Đường, “một tên phản động ở Paris” mách mối. Ả đến để “làm trò bậy bạ” nhung không may cho ả, “an ninh ta đã lập thời can thiệp”. Bí mật chụp hình, quay phim cho đầy đủ các màn cụp lạc, đô la cả xấp trao tay với sự chứng kiến chắc là mê dại đi của người phiên dịch rồi hãy đột nhập thì hay biết bao, sao hấp tấp quá thế? Thời gian này, Hương cho tôi quen một cô gái Mỹ, Nina McPherson đến Hà Nội học lấy thạc sĩ tiếng Việt. Nina đã làm báo cho AFP ở Trung Quốc. Đọc Những thiên đường mù của Dương Thu Hương thế là mến tác giả rồi dịch nó ra tiếng Anh, cộng tác với Phan Huy Đường, một dịch giả và một nhà nghiên cún.
Tháng 6-1998, một hội nghị Việt Nam học được triệu tập tại Hà Nội. Người chi tiền là Quỹ Fulbright hay Ford gì đó tôi không nhớ. Trong quan khách đến có Marr và Tonnesson, hai nhà Việt Nam học uyên bác của Úc và Thuỵ Điển. Tôi đã đọc tác phẩm hai ông về Cách mạng Tháng Tám. Tôi còn đọc Dân chủ hoá ở Việt Nam của Tonnesson. Theo ông thế nào cũng có dân chủ ở Việt Nam - ông chỉ không khẳng định hỉnh thái của nó - bỏi vì bốn tiền đề: đảng phải nói đổi mới tức là đã cũ hay đã sai; có máy tính, giá đỡ vật chất cửa tin học; có cách mạng tin học và cuối cùng sẽ có một giai cấp trung lưu ra đời. Giai cấp trung lưu sẽ không cho phép ai bắt nó phải bỏ phiếu bầu ai. Thập niên 60 giai cấp trung lưu ra đời ở Nhật và Nhật dân chủ hoá thật sự từ đấy.
Nina chuẩn bị tốt nghiệp xong về nước. Cô rất muốn dự hội nghị này. Nhưng mai khai mạc thì hôm nay Đại học Sư phạm, nơi cô học, cho hay cô không được phép dự. Nina bần thần ra nói lại với tôi. Tôi nói: Quyền lợi công dân Mỹ bị vi phạm thì chính phù Mỹ can thiệp. Đại sứ Mỹ Douglas Pete Peterson liền có một công hàm gửi Bộ ngoại giao và Bộ công an nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nhắc lại rằng hội nghị này do một hội Mỹ chi tiền, nguyên tắc hội nghị mà Việt Nam đã tán thành là người nước ngoài ở Việc Nam hội nghị diễn ra đều được dự vậy tại sao lưu học sinh Nina McPherson Mỹ kiều không được dự, “xin quý ngài trả lời cho hay lý do cấm họp”. Đọc chỗ này tôi ngớ ra: không ngờ nổi Nhà nước ta lại quên được chính cái nguyên tắc mình vừa cam kết. Chết thôi, người ta dễ bảo là chỉ cân lấy tiền và mau xổ lồng cong đuôi! Nina cho tôi công hàm này. “Làm kỷ niệm. Nhờ anh gợi ý cho mà có nó chứ còn em thì đầu óc cứ rối cả lên”. Dự hội nghị xong, Nina chuẩn bị về nước. Hương mời một bữa tối tiễn bạn rồi sáng sau Hương và Bình, cô giáo dạy tiếng Việt của Nina cùng sang Nội Bài với Nina. Hai hôm trước ba chúng tôi ăn trưa tại một nhà hàng, về gần tới nhà, Nina nói: Em nhờ anh xem (gãi gãi đầu, ngúc ngắc đầu) xem cho em mấy chương Lưu Ly của chị Hương em dịch để giới thiệu trước với nhà xuất bản. Mấy hôm nay cái đầu em hỏng quá, dịch không thú. Chẳng hiểu cái gì đã khiến tôi sau một ngày một tối mà trao lại nối cho Nina ba chương tiểu thuyết Nina dịch sang tiếng Anh với một số hiệu đính có lẽ khá giả cầy của tôi. Nina cẩn thận hỏi mai kia sách in rồi em cảm ơn anh và vài người nữa ở lời nói đầu, anh có thấy làm sao không? - Sao thì sao chứ sao? - Tôi đáp. Thị phạm một tỉnh tế tiếng Việt “ba sao”.
Chiều sau, ở Nội Bài về, Hương gọi tôi. Hẹn sáng đến Hanoi Daewoo Hotel - Khách sạn Đại Vũ Hà Nội. Tôi đến. Hương vả Nina đã ở đại sảnh. Tôi nghĩ thầm: Cậu chụp ảnh trộm đang đứng ở đâu đây. Rồi được Nina cho hay sáng qua ở Nội Bài, công an giữ Nina lại khám xét cho đến quá trưa, liền mấy tiếng đồng hồ, tịch thu hết các tư liệu trong laptop của Nina. “Thế là bao nhiêu cái em làm việc với chị Hương mất hết cả rồi. Từ sáng mai em còn phải làm việc với công an văn hoá”. Hương nói ngày “làm việc” đầu tiên, tham tán đại sứ quán Mỹ đi cùng Nina đến. Rất nhã nhặn, công an văn hoá nói đây chỉ là để làm rõ vài việc, xin ngài chớ bận tâm. Làm rõ vài việc bằng hỏi thượng vàng hạ cám. Tại sao đang ở Trung Quốc lại sang Việt Nam? (Sang học thêm tiếng Việt Nam mờ) Sao ở Việt Nam nhiều người tốt không chơi lại đi chơi với phần tử xấu? (Ai là phần tử xấu?) Dương Thu Hương, Trần Đĩnh là phần tử xấu! (Tôi thấy hai người rất tốt. Chị Hương là nhà văn mà tôi yêu và dịch tác phẩm. Anh Trần Đĩnh là người nhiều hiểu biết ở Việt Nam). - Không, hai phần tử ấy chống đảng, chống chủ nghĩa xã hội. Nói hẳn ra thể đấy.
- Muốn thế thì nói thế chứ mình thì thế nào cũng thế. Tối hôm ấy tôi cho cô bạn Mỹ thấy tinh tệ tiếng Việt “bốn thế”. Hỏi hơn mười ngày. Mỗi chiều “làm việc” xong, Nina lại cho biết nội dung “làm việc”. Họ hỏi em trắng trợn: chị có biết đẹp như chị mà làm gián điệp thì nguy hiểm không? Bình, cô giáo dạy Nina cũng bị công an gặp hỏi. Hương và tôi không. Ba năm sau, một lần đến tôi, Tuấn, an ninh chính trị văn hoá A25 chuyên đi với các đoàn làm phim Mỹ - như Một người Mỹ thầm lặng - bảo tôi Nina là gián điệp cỡ đấy anh ạ. Đã hoạt động ở Trung Quốc, dính líu sâu vào vụ Thiên An Môn rồi cả ở Tây Tạng, bị Trung Quốc đuổi mới sang ta. Tôi phì cười. Cười thật tình:
- Thảo nào tôi không làm được an ninh. Tôi chỉ thấy cô ấy là một cô gái rất hồn nhiên và giống như nhiêu người Mỹ khác rất bênh vực dân chủ và nhân quyền. Thế sao ngày ấy không túm lấy mà làm to ra?
Ngày ấy ta đang muốn hoà dịu với Mỹ. Muốn hoà dịu để còn được vào WTO (The World Trade Organization - Tổ chức Mậu dịch Thế giới) Còn nay sau khi Lê Khả Phiêu vào ghế Tổng bí thư thì sự căng cứng bắt đầu rộ lên. Có lẽ Phiêu cho rằng bản lĩnh chính của Tổng bí thư thời đổi mởi là thắt chặt an ninh, tăng cường chuyên chính chống diễn biến hoà bình. Ồng lên một cái liền bất quản thúc trở lại Hà Sĩ Phu. Tỏ thái độ gay gắt với nước ngoài, nhất là với Mỹ, như trường hợp Brian Eads và nay Nina. Terry McCarthy của tờ Time phủ tin Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam nói với Hương và tôi là công an hiện theo bám nước ngoài gắt lắm. Anh này đạp xe như thi giành áo vàng trên đường phố Hà Nội. Ngày 30-4-1998, tờ Asiaweek viết các nhà ngoại giao và nhà báo nước ngoài đang làm việc ở Việt Nam cảm thấy công an và an ninh theo dõi họ siết sao, ngặt nghèo hơn trước. Có chuyện kỳ! Phiêu chuyên chính cao độ để nắm quyền cho chắc mà nửa nhiệm kỳ đã phèo! Tên Phiêu thì khó bền. Một cái hẩy bay vèo! Quanh quẩn thời gian đó, đại sứ Mỹ Peterson ở một cuộc phỏng vấn nói: “Chúng tôi hoan nghênh Việt Nam mở cửa làm bạn với thế giới. Nhưng làm bạn có pháp luật của làm bạn, tức là quy tắc chơi mà hễ là bạn thì phải tuân thủ. Quy tắc chơi này là chúng tôi không làm ăn với khu vực quốc doanh, chúng tôi đòi công khai, minh bạch, chẳng hạn về ngân sách, tài chính, chúng tôi yêu cầu ngân hàng là một định chế kinh doanh chứ không phải ngân khố Nhà nước…” Luật chơi này dần “đi vào cuộc sống” rồi “trở thành hiện thực” Việt Nam. Pete Peterson bị bắn rơi ở bắc Hà Nội ngày 10-6-1966 rồi bị tù sáu năm: “Cơn ác mộng tồi tệ nhất trong đời tôi”. Khi rời Hoả Lò, ông đã (theo lời ông) “giận dữ, ngập tràn hận thù và tự nhủ: ta sẽ không bao giờ trở lại nơi kinh tởm này nữa”. Nhưng rồi ông học được rằng không nên bao giờ nói không và ông đã làm đại sứ Mỹ đầu tiên ở Hà Nội. Một lòng vun đắp cho hữu nghị Mỹ-Việt. Chủ nghĩa tư bản mở hơn chủ nghĩa cộng sản. Nó tự tin, cộng thì co lại cố thủ.
***
Tôi đọc quá thích The voice of hope - Tiếng nói của hy vọng, Nina cho. Đàm thoại giữa Aung San Suu Kyi, chiến sĩ dân chủ người Miến Điện được giải Nobel Hoà bình và Alan Clements, nhà báo, nhà văn, nhà Phật học từng tu ở Ấn Độ tám năm. Báo chí ta hầu như không bao giờ nhắc đến tên bà. Xin kể qua tên vài chương sách: Chân lý là một vũ khí hùng mạnh (chân lý tạo ra sức mạnh, chân lý không bao giờ tách khỏi thành tâm và thiện ý, tìm kiếm chân Ịý là quá trình khắc phục chủ quan); Làm việc cho dân chủ, dân chủ là một đại nghĩa xứng đáng để gắng chịu đau khổ vì nó; Các thánh nhân là những người có tội đang trên đường gắng gỏi; Tôi không thù ghét những người bắt giữ tôi; Bạo lực không phải là cách làm đúng; Ngoài tôi, không ai làm nhục được tôi v.v…
Một đàm đạo tràn ngập trí tuệ và nhân ái. Dựa trên chữ “ngộ”: gạt bỏ chủ quan, đạt tới khách quan. Chì khi khách quan mới có thể không thù hận người đã hành hạ đày ải ta. Mới có thể mong gỡ bỏ nỗi sợ cho dân và người cầm quyền, nhất là cho người cầm quyền, để đi tới khoan nhường, hoà hợp. Bà không biết đến phẫn nộ thần thánh, cái cho phép ta ngỡ có thể xúc phạm mọi điều, nhất là người khác. Bà đứng bên những nhà nhân văn lớn Martin Luther King, Nelson Mandela, Mẹ Teresa… những người có thể nói đã tiếp nhận giáo huấn của Mahatma (nghĩa là Tâm hồn vĩ đại) Gandhi không đề xướng hận thù và bạo lực, cốt lõi tinh thần Luther King ở trong “Chúng ta có một giấc mơ”: chớ tìm cách thoả man khát vọng tự do bằng uống vào cốc chua cay, hận thù… và thoái hoá ra thành bạo lực vật chất. Tuyên huấn Việt Cộng đã ghép da anh hàng thịt cho ông để đánh tráo ông thành người ca ngợi Việt Nam thạo uống vào cốc chua cay thù hận và giỏi bạo lực đổ máu để thoả mãn khát vọng tự do.
Chương 31
H
oàng Hữu Nhân đổ bệnh. Tôi vào bệnh viện thăm, anh phấn khởi nói mai kia đỡ bệnh anh về sẽ uống mật gấu. Mật gấu trị ung thư tốt lắm. - Thật ư anh, tôi hỏi, rất mừng.
- Thật! - anh rất tin tưởng nói.
Nhưng rồi anh chết. Đưa ma, tôi được chính chị Nhân cho biết trước khi chết, anh cứ lầm rầm một mình: “Họ nói dối, họ lừa… Phải làm lại hết… Phải thay đổi…”
Lúc còn sống anh hay bảo tôi là bình tĩnh, thể nào họ cũng thay đổi. Mỗi lần tôi đến anh luôn thấy một người chạc 35, xuềnh xoàng, lắng lặng đến ngồi xuống ghế. Một lần tôi hỏi anh: “Anh là thế nào mà vào đây?” Anh ta ấp úng, lí nhí gì đó. Tôi quay sang hỏi anh Nhân lúc ấy cũng đang nhìn người lạ: “Anh có biết anh này không?” - “Không,… tưởng là đi với anh”. Tôi nghĩ thầm Lê Khả Phiêu mót trổ bản lĩnh chống địch tích cực hơn các tướng trước, nêu gương đây. Tôi rất khó chịu nhưng chủ nhà chưa đuổi mà mình chả lẽ lại thay mặt chủ. Có điều lạ là bị tên tò như thể, tay an ninh vẫn cứ thế ngồi chiếu tướng chúng tôi cho đến khi tôi đi. Lần sau tôi bảo anh Nhân: Anh phải đuổi những người trắng trợn như thế đi chứ.
Chờ tang lễ Nhân bắt đầu, tôi đứng ở sân với Hồng Ngọc. Chợt Hoàng Tùng lẫm chẫm từ cổng đi vào. Đi thẳng tới tôi bắt tay. Đã bao lâu anh và tôi khồng giáp mặt? Hoàng Tùng nói luôn: Cậu là tớ yêu lắm… thế mà cậu như thế với tớ - không nói rõ “như thế” là thế nào. Sau mấy chục năm “tuyệt giao”, câu đầu tiên là trách! Đúng hơn, bày tỏ tinh xưa.
- Thôi, thôi được, - tôi cười, không biết ai đây sao? (tôi chỉ Hồng Ngọc)… Hoa khôi càn cứ địa, Hồng Ngọc, vợ Hoàng Minh Chính!
Đoạn tôi kéo Hoàng Tùng sang đám Chính, Lê Hồng Hà đứng cạnh đó. Thấy Hoàng Tùng, Chính cười to:
- Ô kìa, đối đầu gặp nhau này!
Tôi nói:
- Hôm nọ tôi đến Trần Độ thấy anh ấy nói Hoàng Tùng vừa có quyển sách khá đấy. Nói Cụ Hồ chủ yếu là tinh thần dân tộc, đã bị mấy ông Trần Phú riềng…
- Ô! Chính ngạc nhiên.
- Viết rồi, in rồi nhưng tịch thu rồi, - Hoàng Tùng nói.
- Tịch thu, tôi hơi ngạc nhiên?
- Ừ, thu hồi rồi nhưng Hữu Thọ (Trưởng ban tư tưởng) nó vẫn đến nhà xin một quyển.
- À, chắc để nói “ dạ, tịch thu là lệnh của đứa khác” - tôi nói.
- Tớ sợ chó gì chứ?
Trong xã hội ta, cái đức tính được ao ước nhất là không sợ. Mà Hoàng Tùng ở mặt nào cũng sợ “chó gì” thật! Những người lãnh đạo hiện thời đều tép riu với ông. Nhưng họ tịch thu sách của ông… Thế rồi, như bị ám, Hoàng Tùng lại chỉ vào tôi nói với Chính:
- Cậu này là tớ yêu nó lắm thế mà nó cứ chửi tớ. Tớ cho nó đi Trung Quốc học…
- Không, tôi nói. (Lúc ấy ở Trường Đảng Bắc Kinh về, Hoàng Tùng làm Chánh Văn phòng trung ương, chưa về báo).
- Ừ, yêu nó lắm… Nó đưa mấy đứa về báo làm tớ suýt chết với Lê Đức Thọ (mấy đứa là chỉ Trần Châu, Chính Yên). Không, thật mà, tớ suýt chết với Lê Đức Thọ vì mấy tướng ấy thật đấy. Mặt trận thống nhất các nạn nhân của Sáu Thọ đang lan rộng. Lúc này thú thật tôi thấy gặp nhau lũ lĩ ăn nói với nhau những lời mon men đến bên sự thật như thế này nó vui. Có vui được với nhau thì mới có thể nói sang các cái khác mà vẫn nghe nhau đưọc.
Tôi kéo Hoàng Tùng đến chỗ Lê Trọng Nghĩa, Lê Giản ở trên hiên nhà tang lễ.
- Có nhận ra ai không, tôi chỉ vào Lê Trọng Nghĩa?
- Ai nhi? - Lê Trọng Nghĩa Tổng khởi nghĩa Hà Nội… - Ơ, cậu này ngày xưa đẹp trai lắm cơ mà. Lúc tra tấn, Tây nó toàn bắt cởi truồng ra cho nó vừa đánh vừa ngắm… Thế rồi dứt lời lại chỉ vào tôi: “Cậu này ngày xưa tớ yêu lắm…” Câu này như một điệp khúc để bù lại mấy chục năm qua cơ quan đấu đá, xào tái xào lăn tôi. Chợt hơi ngửa đầu nhìn ngước lên, giọng thấp hơn nữa: Mấy con rồi? - Một… 1967, ông đi Liên Xô với ông Duẩn về cho nó con búp bê Matrioshka rồi sau đó thì tôi nhật ký chìm tàu đấy. Nắm tay tôi khẽ giật giật, đầu gật gật: Thôi, chuyện cũ cho qua, chỗ anh em với nhau…
Hôm ấy câu nói với giọng khấn nài của Hoàng Tùng đã làm tôi cảm động. “Thôi, anh em với nhau”. Nghĩa là anh em như cái thời Hoàng Tùng và tôi gần như cùng một sóng điện - chế Mao. (Dĩ nhiên anh không thể quên là tôi đã vũ trang cho anh nhiều chuyện khốn nạn của Trung Cộng). Cái thời tàu xe khó khăn, Hoàng Tùng nghĩ ra cớ thâm nhập dân tình trên Thái Nguyên để đưa tôi lên thăm mẹ vợ ốm nằm bệnh viện ở trên đó. Thời đảng còn chưa ngả hẳn theo Mao, Trọng Anh, phê bình sân khấu chê Hoàng Tùng với tôi - cốt nhằm tác động tới tôi: “ông Tùng mà đi nói ta sợ Trung Quốc hơn sợ Liên Xô. Trung Quốc ngăn ta hoà bình với Mỹ…” Thế rồi Hoàng Tùng theo Mao. Trước Nghị quyết 9, từng cho đăng không sót một diễn văn, một hoạt động nào của Khrushchev, Hoàng Tùng tất phải thấy lạnh gáy và cố “chuyển” cho lẹ. Dạo Nghị quyết 9 mọi người hay nói đến “chuyển”: “Tớ chuyển rồi”. Tức là theo Trung Quốc phát động chiến tranh gây đại loạn cho Trung Quốc được nhờ rồi. Lê Duẩn quyết liệt theo Mao hay “lão phù thuỷ sính gọi âm binh” như Hoàng Tùng vẫn nói với tôi, thì Hoàng Tùng có lỗi gì khi theo Duẩn? Hồi ấy tôi không chịu được sự “chuyển” này. Cho rằng đằng sau tất cả biến động hay ý thức kỷ luật người ta viện ra chỉ thuần tuý là cám dỗ của quyền lực, lợi lộc… Bị bẻ ghi đột ngột, con tàu cách mạng rẽ ngoặt, đứa lăn chiêng thì rơi ra khỏi đoàn tàu và bị gọi là sa ngã, đứa ngả ngiêng rồi bám ghế yên vị lại được thì tự hào đã “chuyển”. Cơn bão kinh khủng đã qua lâu, nay về hưu Hoàng Tùng lại muốn rỉ rả với tôi như hồi nào.
Sau đó ít lâu, Trần Độ cho tôi cuốn Kỷ niệm với Bác Hồ của Hoàng Tùng. Vụt nghĩ chắc sở dĩ Hoàng Tùng “làm lành” với tôi là do âm vang niềm xúc động trong cơn viết ra mười nỗi buồn của Hồ Chủ tịch mà ông vừa mới hé lời thì đã bị bóp nghẹt. Cũng vụt thấy chắc Hoàng Tùng không quên ông và tôi trước kia giống nhau thế nào về nhiều quan điểm nhung rồi vì không chịu theo ông “chuyển”, tôi biến thành phản động chống đảng, lật đổ và bị ông đánh… hôi. Có lẽ bữa ấy gặp tôi, ông khó lòng mà không thấy tôi đã vội che chở ông tránh đòn Hoàng Minh chính - khen quyển sách tôi chỉ mới nghe qua Trần Độ để cho Hoàng Minh Chính không “đối đầu”. Ít nhất ông cũng thấy ở tôi có cái chất gì đó nó khác ông. Còn quan điểm của Hoàng Tùng cơ bản tất nhiên khác tôi - tôi trọng dân chủ hơn quyền lực của đảng còn ông lại không thể lơ là củng cố cơ đồ lãnh đạo độc quyền của đảng, không thể không gắng thu hẹp quyền lực của dân lại càng nhiều càng tốt. Ông đã cáu kỉnh nói với các chủ báo khi tình hình gay go do lạm phát quá bổn con số: “Đang giông bão thì ngồi im trên thuyền cho người ta lái”. Đã có lúc tôi ghét ông. Đọc xã luận ông trên Nhân Dân năm 1979: “Biến Đông không phải là cái ao tù của Trung Quốc”, tôi bình luận: “Đợi nó bạt tai cho tóe đom đóm ra rồi mới dám mở miệng”. Nhưng hôm gặp nhau ở nhà tang lễ và sau đó ít lâu, thật sự tôi đã toan đến nhà Hoàng Tùng. Vừa để nối lại một quan hệ cũ vừa hy vọng có thể quân sư thêm chút ít! Chẳng hạn về cải cách ruộng đất, nói Bác Hồ phải theo vì Mao “gọi sang” - viết “gọi sang” phải chăng ông đã muốn qua đó bênh Lê Duẩn? Bênh như thế nào ư? Ngày ngày đọc các bài báo xin duyệt của một Trưởng ban, D. Th., luôn có hai dòng nắn nót Kính đệ trình… Tổng biên tập duyệt, ông thừa biết chữ gọi khác chữ mời, như chữ gửi khác chữ đệ trình. Vậy dùng chữ gọi, có thể là ông muốn ngụ ý đảng theo Mao thời Bác Hồ để bênh Lê Duẩn, người từng bẻ lái cho đảng đổi sang hẳn chỉ độc một monorail Trung Quốc để rồi sau đó Bác Hồ ngồi chơi xơi nước cho tới lúc “đi xa”. Từ 1950, Mao đã cài La Quý Ba, thư ký trung thành của Mao thời Diên An vào nách chóp bu của Việt Nam. Võ Nguyên Giáp không dễ nghe Mao nên đã bị đại sứ kiêm cố vấn (hay gian tế) họ La báo cáo tường tận hành vi, ngôn luận, nên Mao từ đấy cho nên, khi vừa sai Hồng vệ binh nã pháo vào tư lệnh của bọn tư sản, xét lại Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình và sau khi cho Duẩn “làm Câu Tiễn” (Lê Duẩn dixit) nằm chờ một tháng rồi Mao mới tiếp, Mao đã chỉ cho Duẩn đích danh Giáp là đại điện cho phái hữu Việt Nam cần hạ xuống, Nguyễn Chí Thanh là đại diện của phái tả cần đưa lên… Chuyện này Hoàng Tùng có thể không biết vì không được dự như Lê Trọng Nghĩa đi theo Duẩn chuyến ấy. Nghĩa đã kể lại với tôi.
Cuối cùng tôi không đến Hoàng Tùng.
***
Xong tang lễ Hoàng Hữu Nhân, Lê Trọng Nghĩa và tôi ra lấy xe đạp. Đang lúi húi mở khoá thì nghe:
- Chào Trần Đĩnh, anh nhớ tôi không? - A, (tôi quay lại). Phan Diễn! Quên sao được.
Diễn đến bên hè, bắt tay. Tôi nói:
- Mình muốn chuyện với Phan Diễn nhiều nhung khó đấy… Nói câu này, tôi nghĩ chắc Diễn sẽ nhớ đến câu tôi nói khi gặp lại anh lần đầu sau hàng chục năm ở hội nghị kỷ niệm 45 năm báo Nhân Dân ra hàng ngày tại Cung Văn hoá Công nhân. Đến muộn, tôi đang vừa lách ghế vào vừa đáp lại các chào hỏi thì ở hàng trên một người quay xuống chào rất vui: - Chào anh Trần Đĩnh, anh nhớ tôi không? - Ô, Phan Diễn, nhớ chứ. Này, nói luôn, Phan Diễn là uỷ viên trung ương tân cử duy nhất mà mình tán thành. Đảng nhiều cái sai đấy, nhớ nhá, cần phải sửa! Phan Diễn gật gật cười. Xong lễ, Phan Diễn ra tới sân thấy tôi chuyện trò với anh chị em ở đại sánh thì lại quay trở vào: Chào anh Trần Đĩnh, tôi về. Hôm nay tôi chắc chào tôi xong, Diễn, uỷ viên Bộ chính trị, sẽ đi. Nhưng Diễn dừng lại: Tôi ghi cho anh số nhà và số điện thoại để cần thì anh liên hệ, anh có sổ tay đấy không? Phải nhìn Phan Diễn lục ví trong áo vét tông, tìm một lá thư xanh da trời, xé ra một mẩu bằng ba đầu ngón tay rồi để lên ví viết: (cq) 08042456, (nhà) 08043835-66 Phan Đình Phùng. Tôi không gọi Phan Diễn bao giờ. Tôi đã thấy rõ cái vòng cương toả nấp ở bên dưới các thứ mỹ tự tinh thần kỷ luật, nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo vệ uy tín của đảng v.v… Tôi nhận ra nó đầu tiên quanh bạn thân Thép Mới. Rồi Trường Chinh!
Ít lâu sau, Quang Đạm chết. Tôi đến đưa anh hơi muộn. Trực trước áo quan bố, thấy tôi đứng ở một góc kín đáo, Tạ Quang Ngọc kéo Điền, em gái ra chào:
- Chú đến chúng cháu mừng quá… cháu cứ sợ chú không đến. Chú ơi, cháu nghĩ luôn đến chú. Chú gắng giữ sức khoẻ…
Mặc niệm. Một người ở đằng sau vỗ vai tôi:
- Xin chào thủ trưởng… Hải, nữ biên tập viên quốc tế báo Nhân Dân đã về hưu.
- Thủ trưởng gì tôi, tôi đùa!
- Thủ trưởng mà dân chọn thế mới quý chứ! - Hải nói tiếp - Ông cha đổ bao xương máu giành được độc lập nhưng nô lệ vẫn hoàn nô lệ. Được cái bao bì oách!
Tôi ngớ ra thì chị nói:
- Được cái bao bì độc lập đấy thôi. Chỉ phải tội là nhân ở trong, cái tự do hạnh phúc ấy đã bị người ta móc ra cà làm một mình mất rồi. Đảng thế này là mệt đây, mệt đây…
Tôi chợt thấy tôi lầm rầm mãi câu này. Không ư? Dân đã nhìn ra thấy ngọn nguồn bất hạnh. Ở người dám nói sự thật, tôi cũng thấy vòng cương toả hiện ra lồ lộ ở trên mặt. Nó ngăn chặn cái sợ vì nó chỉ biết có tự do, nhân quyền.
Chương 32
T
háng 2-1999 , Lê Khả Phiêu đi thăm Trung Quốc. Có cả doanh nhân tư bản theo, cất cánh tám giờ sáng ở Hà Nội. Năm giờ chiều chủ đón. Vậy là có một thời gian nán lại ở đâu đó lặng lẽ. Một so sánh nhỏ: Mấy tháng trước vừa đến đất Trung Quốc, Clinton liền ghé nghỉ Tây An, khai vị tưng bừng luôn bằng duyệt tượng lính đất nung Đại Đường, toạ đàm cùng nông dân thôn Xihe rồi tối xem vũ nữ xiêm y cổ xưa múa. Đài báo đưa tin rầm rộ. Đồng chí cũng không bằng đứa nước lớn. Một so sánh nữa: Lê Khả Phiêu là Tổng bí thư phải chờ đợi khá lâu mới được Trung Quốc mời sang. Có lẽ một kiểu úm cho mà biết tiến thoái đúng nhịp trống. Năm giờ chiều “bạn” đón. Rồi hội đàm. Rồi chiêu đãi rồi… hạ màn. Liền một lèo. Đặc biệt không diễn văn! Gần tàn chiêu đãi, Giang Trạch Dân lên hát bài Bông hồng nhỏ của tôi. Hát xong bảo Nguyễn Mạnh Cầm sắp thôi Bộ trưởng ngoại giao hát. Cầm hát “Cây trúc xinh là ý a cây trúc mọc… một mình…“ Như sinh hoạt liên cơ quan thời Diên An và Tân Trào! Trần Châu đùa: Bắc Kinh có lầm ra rằng Cầm ngụ ý tao không cần mày đỡ đầu không nhi? Nói thế thôi chứ nó thừa biết anh trơ cái thân còm ra nên phải quay đầu về lạy nó rồi. Một thứ mentalité d' esclave, - tâm tính nô lệ. Với Bắc Kinh thì việc “cáo chết ba năm quay đầu về núi” này là một thắng lợi quá lớn không tốn một giọt máu, một hạt mồ hôi, một viên đạn, một đồng xèng. Báo đài theo đoàn viết rằng trước khi lên đường, phía bạn bắt anh chị em kê khai khắp mặt các thứ mang theo, số lượng, kiểu loại, nhãn hiệu… và sắp lên đường lại kiểm tra xem có khớp đúng với khai báo hay không. Một nhà báo than chưa thấy đâu thít nhau quá xá thế này. Tôi đùa: Ta được cái đức tính lăn xả. Đánh Mỹ thì lăn xả vào ôm thắt lưng; nối lại với Trung Quốc thì lăn xả vào bám “đường lối”. Tham quan mấy nơi trong đó có một “nhà máy hiện đại”. Hỏi nhà báo chi li đến nách kia, tôi biết là nhà máy làm thuốc đánh răng. Có hiện đại không, tôi hỏi? - “Em cũng chẳng biết làm thuốc đánh răng thì thế nào là hiện đại nhưng đến xem cái ấy là hơi bị yếu”. Tôi lại hỏi: “Hay cốt để liên hệ đến môi răng?” Bạn nhà báo cười: “Sao lại liên hệ?” - ”À, đại khái bây giờ hiện đại răng có cắn môi cũng không sợ nhiễm trùng… - “Hình như Bắc Kinh mời chậm? Thường Tổng bí thư ta mới lên vài tháng Bắc Kinh mời ngay. Đằng này từ 1997 cho đến mãi 2000! Có ý gì với Phiêu không?” - “Em không biết”. - “Bắc Kinh có ý nhắc là Phiêu xâm lược Campuchia… Đe tí ti cho hốt mà rối chân tóc rồi lia lịa gật”. Không ký một hiệp định nào. Kinh tế vẫn biên mậu chui chui lủi lủi, cửu vạn, đòn gánh, hàng nhái, hàng lậu, hàng có chất độc, bạc giả (mua bao nhiêu cũng có!). Trong khi đó Trung Quốc ký hiệp định kinh tế với Campuchia và trợ cấp 100 triệu nhân dân tệ. Ta 20 triệu nhân dân tệ và không ký gì hết. Ở Campuchia, Bắc Kinh có cả bố con ông Sihanouk lẫn ông Hun Xen cách mạng, ta chỉ le lói chút bào ảnh Hun Sen. Kỳ dị là bao giờ, ở đâu Bắc Kinh cũng tay trên ta. Ta biết Trung Quốc ở đằng sau Pol Pot diệt chủng nhưng Phnom Penh vẫn có hẳn một đại lộ Mao Trạch Đông còn không ai của ta - dù ta đổ máu bao nhiêu cho họ - thì lại không vào nổi phố xá họ. Trên đường về, giữa chín tầng mây, Tổng bí thư Phiêu họp báo phân tích thắng lợi của 16 chữ vàng. Chắc rất hớn hở: Tổng bí thư duy nhất lời, đem được chữ vàng về. Hơn Duẩn, hơn Linh và Đỗ Mười là cái chắc. Lúc ấy dân chưa biết ông còn có hạt máu đỏ vất lại bên đó, theo tin Trung Quốc. Có vị có khi lại phục thầm chỗ dấm dúi tông giống chui lủi vả liều mạng này. Theo một số nguồn tin thì mười sáu chữ vàng Giang viết là: “Sơn thuỷ tương liên, lý tưởng tương thông, văn hoá tương đồng, vận mệnh tương quan”, mười sáu chữ chơi trên một chủ điểm “tương” - sông núi liền nhau, lý tưởng thông nhau, văn hoá giống nhau, vận mệnh liên quan tới nhau. Theo tôi cái vế cuối cùng mới đáng sợ: Nó cộp lại hết ý tứ Giang định nhắc nhủ: vận mệnh chúng ta móc xấu vào nhau, thiếu đứa này là đứa kia chết liền! Đó là tương tương, hai bên tương nhau. Chắc chắn Giang Trạch Dân không biết tiếng Việt. Mà có biết ông cũng không thư pháp chữ Việt. Nhưng đảng lại thích trình dân một bùa bảo lĩnh của ông anh để cho dân phấn khởi mà tin yêu thêm đảng. Bình đẳng thì hai bên cùng bàn bạc nội dung, cùng trao nhau một bản tiếng Việt, một bản tiếng Hán thế nhưng đảng cứ phải xin anh đề bút rồi nhận về xuýt xoa bình văn anh ban cho. Như kiểu xin ấn Đền Tràn. Tức là chịu để cho anh chơi cha bố. Kiểu thế này! Vào đúng lúc Tổng bí thư họp báo trên không giải thích thắng lợi 16 chữ vàng diễn đạt theo ngữ pháp, câu cú cũng như thi pháp Hán, Bắc Kinh cánh cáo Philippines chớ này nọ với quần đảo Trường Sa, cảnh cáo thia lia Phiêu. Ra ma hết bao nhiêu tấn xăng nhớt phục vụ cho chuyến đi xin hữu nghị. Rồi thành lệ. Hễ vị to nào của ta sang hữu nghị, bên đó anh lại mó đến Trường Sa! Được cái ta lăn xả trước hết vào hữu nghị. Tôi rất muốn biết Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu giải trình thế nào với Bắc Kinh riêng một chữ “kẻ thù” bêu trong Hiến pháp. Chỉ suông miệng thôi sao? Còn gì nữa trong biên bản các cuộc gặp lúc cầu cạnh cho quay trở lại? Lê Duẩn khó lòng vắng bóng ở vai trò bung xung! Một nhà thơ cho hay năm 2005, hồi ký Những cái lần đầu tôi thấy của Tiên Kỳ Tham, nguyên phó thủ tướng, bộ trưởng ngoại giao có hai chương nói đến Việt Nam. Cả về chuyến thăm của Lê Khả Phiêu. Theo hồi ký này thì đoàn Phiêu chờ mãi chẳng thấy chủ nói năng gì. Xem lịch tiếp đón của chủ thấy 14 giờ Giang Trạch Dân tiếp khách, Lê Khả Phiêu bèn dẫn đoàn đến nơi nhưng đó là Giang đón Đổng Kiến Hoa, thống đốc Hông Kông. Lúc ấy Tiền Kỳ Tham mới báo Phiêu là 17 giờ Giang tiếp Phiêu. Phiêu đã đưa cho Tiền một tờ giấy gồm một số chữ, đề nghị Giang thư pháp. Tiền đưa nỏ cho Giang. Giang đọc xong lẳng lặng vo lại ném vào sọt giấy, lấy một tờ khác thư pháp theo ý ông. Nhận được thư pháp, Phiêu hỏi Tiền sao không có chữ bình đẳng hợp tác Phiêu nêu ra? Tiền Kỳ Tham viết trong hồi ký: “Tôi không trả lời Phiêu mà chỉ cười và nghĩ thầm rằng, người lãnh đạo cao nhất như Phiêu mà không hiểu nổi rằng xưa nay có bao giờ Việt Nam được bình đẳng với Trung Quốc!” Rồi tiễn Phiêu, Tiền viết: Máy bay cất cánh, tôi được biết Phiêu sẽ họp báo trên không phân tích thắng lợi 16 chữ mà ông từng thắc mắc là thiếu một số chữ với tôi… Trong hồi ký, Tiền Kỳ Tham nhắc tới cả việc các tác phẩm tiến bộ ở Việt Nam đã bị tịch thu như tập thơ của Nguyễn Duy. Ông có dẫn hai câu thơ trong tập thơ xấu số: Điếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng, Điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn…
Phó ban tư tưởng văn hoá Hồng Vinh họp báo nói cấm phát hành nó. Tôi chợt hiểu Ban tư tưởng còn có nhiệm vụ ngậm đẳng nuốt cay chứ không chỉ phun lời châu ngọc. Cũng thấy rõ ràng là bạn “Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên”. Tiền Ninh, con trai Tiền Kỳ Tham, học ở đại học Michigan Mỹ sau vụ đàn áp Thiên An Môn đã cho ra một quyển sách “Học ở Mỹ” gây xôn xao vì cái giọng “lật đổ” của nó như Lý Quang Diệu nhận xét.
Đầu 1999, Vũ Quốc Tuấn ở Phủ thủ tướng rỉ tai tôi: Bộ chính trị vừa có một quyết định quan trọng. Ký hiệp định thương mại với Mỹ. Thấy tôi trố mắt, Vũ Quốc Tuấn bố sung: Đa số phiếu, sáu ông tán thành cơ đấy.
A, lại cả biểu quyết nữa! Tôi nghĩ rất nhanh và thấy vui. Mới hôm nào Vũ Quốc Tuấn bảo tôi hai cố vấn Đỗ Mười và Lê Đức Anh vẫn lập trường lắm. Phản đối kịch liệt trang trại. Cố Mười nói đảng đấu tranh gian nan mãi mới đem lại được cho mỗi nông dân một sào mà nay lại toan cho tư bản nó lột đi mất của nông dân ư! Tháng 6 đúng là thế giới nói một hiệp định thương mại Mỹ - Việt có cơ được ký. Tháng 7 sẽ họp keo thứ bảy. Tôi chợt nhòm ngược lên thấy cánh gà sân khẩu của việc thả tù chính trị hồi nào. Trong khi đó, mấy sĩ quan quân đội thắc mắc sao Trung Quốc cũng sẽ kỷ niệm to “chiến thắng Điện Biên Phủ”. Không biết Trung Quốc đã ra một cuốn sách kể trong sáu đại chiến công của Giải phóng quân nhân dân thì có ba là ở Việt Nam: giải phóng Đường số 4, mở thông biên giới Hoa-Việt, chiến dịch Điện Biên Phủ và “cho bài học” ở sáu tỉnh biên giới bắc Việt Nam.
Quả nhiên tháng 5-2004, Bắc Kinh họp kỷ niệm Điện Biên Phủ. Mời ta, mời Pháp. Mời cả cựu chiến binh ba nước - làm như Trung Quốc đánh chác là chính vậy. Sau đó, báo đài Việt Nam nói về vấn đề Điện Biên Phủ, Việt Nam và Trung Quốc có một số “bất đồng do mỗi bên sử dụng sử liệu có khác nhau”. Thì họ cốt thế, nếu để cho giống ta thì chỉ còn mỗi câu suông tình “giúp đỡ to lớn” thôi ư? Chỉ nói riêng việc chỉ đạo các anh thôi là tôi đã có đánh đó! Ra Hà Nội Tết Ất Dậu, 2005 về lại Sài Gòn, Nguyễn Khải bảo tôi Võ Nguyên Giáp hứa sẽ nói hết sự thật về Việt-Trung cho Hữu Mai viết. Mỗi người một kho kinh lịch, nhiều đấy, nhưng anh thủ kho lại phải đợi lệnh xuất kho. Nhận định của Đặng Tiểu Bình về Việt Nam bội bạc có vẻ vẫn còn in đậm trong lãnh đạo Trung Cộng. Hồ Mộ La, con gái chí sĩ Hồ Học Lãm, ca sĩ, giảng viện nhạc đến nhà tôi, than thở chị về Vân Nam tìm mộ bố, gặp đám bạn học xưa, họ đều kêu Việt Nam bạc. Chó nó không bao giờ cắn lại chủ, cậu nhớ lấy nha, họ bảo Mộ La! Việt Nam học cách mạng Trưng Quốc mà quay lại đánh như thế. Họ cũng nhắc lại câu Chu Ân Lai: Ai tốt với Trung Quốc một thì Trung Quốc tốt lại mười, ai xấu với Trung Quốc một thi Trung Quốc xấu trả lại một trăm. Thảo nào dân ta được dạy là phải nghi ngút nhớ ơn họ! Thật trái ngược! Đồng thời nghe Mộ La, tôi cũng không thể không nhớ đến gian buồng của cụ bà Hồ Học Lãm sống với con gái bé của Hồ Mộ La ở phố Hàng Cống bên hông báo Nhân Dân. Chừng năm mét vuông, một mái dốc cao chừng hai mét rưỡi, chắc chắn hẹp hơn xà lim giam Cụ Hồ ở Trung Quốc. Trước buồng là đường cống cái của eơ quan báo. Cụ Hồ một Tết đã từ Câu lạc bộ Thống Nhất chui qua cửa sổ buồng bác Lâm thường trực cổng cơ quan báo mà sang báo Nhân Dân rồi đứng ở mép cổng hỏi thăm cụ Lãm bà. Nghe Mộ La, tôi tự nhiên nghĩ: Ta chỉ trả miếng cái xấu gấp có chục lần nhưng ta thường quên hẳn cái ơn đã nhận.
***
Ký tắt được hai ngày, hai anh an ninh Tiến và Đoan đến tôi. Hỏi ký hiệp định thương mại này ta liệu có sợ mất không? Tôi hỏi mất cái gì thì lại nói à không. Tôi ngợ, có chuyện mới hay sao? Thì ra Việt Nam tẩy chay Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ thật. Không giải thích công khai nhung mấy luật sư Hà Tây bảo Trần Châu và tôi: được nghe truyền đạt ở chi bộ rằng bác Đỗ Mười chỉ thị phải nhớ Mỹ vẫn là kẻ thù của loài người và của ta. Đó là vê chính trị, còn về mặt kỹ thuật thì có cái vướng nhất là rồi nó có thể sẽ trợ cấp cho bọn tay sai trước kia ở trong Nam. Nhất định nhiều hơn ta trợ cấp ta. Thế ra “bán nước” lại vớ bẫm ư? Cho nên Đỗ Mười nói ai thò tay ký là bán nước. Tích cực với việc ký tắt, Trương Đình Tuyển bị phế bộ trưởng. Nhưng tháng 12, Mỹ - Trung lại ký với nhau, chả sợ địch đọt gì cả. Dân Hà Nội kêu thế là Bắc Kinh xỏ. Hắn xui ta thận trọng để một mình hắn tha hồ hửng đầu tư Mỹ. Tôi hiểu thêm tại sao các nước kiểm tra đầu tiên hệ thần kinh của người ứng cứ tổng thống. Lên cơn mà bấm nút phóng tên lửa hạt nhân thì chết cả nút. (Nhân thể kể một chuyện. Tr., con trai Đỗ Mười chập điện hàng tỷ vôn. Đã mấy mụn con, anh ta vẫn y như hồi ở Tú Xương một mực lắc không cho vợ nhập hộ tịch ở biệt thự mới xây xong tại An Khánh. Mà lấy đâu ra tiền mà xây biệt thự?)
Liền đó, báo đăng “Hiệp ước biên giới (đất liền) Việt - Trung đã ký kết thành công”. Dân thấp thỏm chờ bản đồ đăng báo xem ta được miếng nào. Thỉ đồn ran lên là ta mất phần lớn thác Bản Giốc và Mục Nam Quan.
Rồi sẽ còn mất nửa Vịnh Bắc Bộ. Năm 1979, quân Trung Quốc phá hang Pắc Bó. Nghe đồn tượng Marx mà Cụ Hồ tạc vào vách hang nay bằng thạch cao. Cán bộ bàn nhau: Thế ra chúng nó ghét Mác à? Tôi muốn hỏi: Thế ta yêu Mác hơn nó mà sao không được Mác bênh?
***
Sau nghị quyết Trung ương về bản sắc đậm đà dân tộc, Hữu Ngọc, nhà văn hoá tên tuổi viết trên báo Nhân Dân một bài nói đến “tiếp biến văn hoá”, “sốc văn hoá” rồi kêu gọi sẵn sàng làm cuộc “kháng chiến thứ ba” là kháng chiến về văn hoá. (Tuy ông thủ nhiều quỹ văn hoá nước ngoài giúp ta mà ông không hề kêu gọi kháng chiến chống “sốc tài chính ngoại” cũng như nay ông viết sách truyền bá văn hoá Việt Nam ra ngoài nhiều đến độ có lẽ họ phải chuẩn bị kháng chiến chống diễn biến văn hoá Việt. Phương tây nhận xét người Việt tham thích ăn người có lẽ đúng). Tôi thư cho ông nói ông mới “dẫn luận” về “tiếp biến” tức là dem ý hệ Marx, cái đã vào ta và thay đối cơ bản văn hoá ta, ra chỉ đạo khoa học cho nên ông không thấy rằng “tiếp biến” là bất khả chỉ huy. Hai ngoại tộc Mông, Mãn thống trị Trung Quốc hàng trăm năm cả thì rồi Mãn “tiếp biến” văn hoá của kẻ bị trị để hoá thành một bộ phận của nó còn Mông quay về thảo nguyên với vẹn toàn cát sa mạc. Sao lại nhất hữu nhất vô như thế? Khi gửi, ngại dài, tôi đã bỏ một đoạn: Ngay như chủ nghĩa Marx là công trình Đức nhưng quê hương Đức “tiếp biến” yếu nên đã phải sang Nga dựng “sốc cách mạng”. Ờ Nga, Plekhanov “tiếp biến” nó sớm nhất thì hoá thành “phản bội”; còn Lê-nin, tiếp biến nó qua Plekhanov lại thành thánh nhân. Nhưng rồi Nga, quê hương chủ nghĩa Lê-nin cũng giũ nó nốt. Ờ Trung Quốc, Lý Đại Chiêu, Trần Độc Tú “tiếp biến” chủ nghĩa Marx lại bị các nhà văn hoá lớn của Trung Quốc cùng thời gọi là “tay sai Nga Xô” và cuối cùng cũng bị chính đảng cộng sản đào thải vì đã “tiếp biến” giáo điều Nga Xô. Tiếp biến chủ nghĩa tư bản, Minh Trị Thiên Hoàng Nhật và Tôn Trung Sơn đều thành thánh nhân. Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông cũng đều thánh nhân Trung Quốc nhưng ở hai “tiếp biến” tương diệt.
Tôi nói ông kêu gọi “kháng chiến văn hoá” là dễ đi đến đóng cửa và khẩu hiệu này làm tôi nghĩ tới bài báo của tướng Trần Xuân Trường đăng trên báo Nhân Dân hồi tháng 4 nhận xét nền độc lập của Việt Nam “chưa vững chắc”. Vậy thì nước Nga không còn đảng lãnh đạo chắc đã hoá nô lệ mất rồi. Và kháng chiến mà ông chuẩn bị sẽ là ùng oàng chứ đâu có thuần “văn hoá” nữa. Tôi biết nhà văn hoá này khi biên tập lại mấy trăm trang viết của Hoàng Xuân Hãn cũng đã “tiếp” rồi cho “biến” bằng cách bỏ đi các đoạn viết rất lý thú về Hồ Chí Minh và Cách mạng Tháng Tám. Trả lời tôi, ông nói “đồng ý với đa số ý kiến” của tôi. “Cuộc kháng chiến văn hoá tôi nêu lên chỉ là để nhấn mạnh việc bảo vệ bản sắc dân tộc, đừng để nó suy tàn trong toàn cầu hoá”. (Đọc đến đây tôi nghĩ ngay: Vậy theo ông để cho văn hoá chỉ quấn quít với văn hoá Trung Quốc thì sẽ cường vượng?) ông thanh minh không đứng trên ý hệ. Cũng nói đóng cửa là tự sát. Nhưng ông không nói quỹ văn hoá các nước giúp ta mà ông trông coi có gây “sốc đô la” hay không? (Tôi nghĩ thế là ông không thấy bị sốc rúp, sốc nhân dân tệ, Việt Nam đã hoá ra ngất ngư đầu óc. Tất nhiên ông càng không nhắc đến cuộc “kháng chiến văn hoá” từng đã thắng lợi trên một trận địa hẹp vanh là hai hàm răng trong suốt cả nghìn năm Bắc thuộc; thế mà mới chỉ vài chục năm Pháp thuộc liền bỏ chạy khiến cho cả nước bây giờ sớm tối đều Colgate cho răng khỏi kiên trì mãi bản sắc… đen). Ngại “sốc xã giao”, tôi đã bỏ đi đoạn viết các thứ chống “diễn biến hoà bình”,”sùng bái văn hoá ngoại”, “sốc văn hoá” hiện nay chính là kết quả của câng cuộc “tiếp biến” một ý hệ ngoại vào cải tạo cho dân tộc ta chỉ còn được phép thờ độc nhất nó là thần thiêng. Và nó đâu chỉ có gây sốc văn hoá? Nó gây sốc đảo điên dân tộc. Nó cho “tiếp biến” lập trường đấu tranh giai cấp, nó dẫn cả địch vào trong mọi mối quan hệ xã hội, họ hàng, gia đình, bè bạn để đấu tố nhau, xin mạng nhau. Tôi cũng rất tiếc phải bỏ một đoạn: có lẽ phục trang nữ Việt chịu nhiều sốc văn hoá nhất. Có thời nữ chỉ được “tiếp biến” váy. Rồi đến thời chỉ “tiếp biến” quần (nhà Minh). Manh vải che hạ bộ phụ nữ mà chịu bao nhiêu “sốc” là “sốc” (Chú ý: không phải xốc). Có lẽ nên nghiên cứu cái sốc văn hoá dâm ô nào đã đem tiếp biến xịp vào. Cái xịp này là dẫn tới tụt truồng rất dễ, chỉ cần ngoéo ngón tay giằng nhẹ một cái. (Một bạn xét lại bảo tôi, các cụ bà xưa không xịp nên chỉ cần tốc váy lên thôi, không có động tác thừa). Ngại “sốc” tràn lan, tôi không hỏi người giữ quỹ quốc tế giúp đỡ văn hoá Việt có ăn lương phòng chống “sốc kinh tài” không? Tôi có tật khi viết thư thường như viết luận văn theo chủ đề. Phóng hết ý ra rồi xoá cho hợp đối tượng gửi thư. Sau đó, nhà khoa học Nguyễn Lân Dũng rất hay viết báo có một bài ca ngợi Nguyễn Mạnh Tường. Theo ông, luật sư Tường đã rất được đảng và chính phủ ta ưu ái.
Tôi thư cho tác giả nói chắc ông không đọc quyển hồi ký thê thảm Người bị rút phép thông công của Nguyễn Mạnh Tường nên không nhắc được đầy đặn đến đời ông Tường. Sự thật giấu một nửa là giả dối. Tác giả trả lời, ông (Nguyễn Lân Dũng) mới vào nghề báo nên còn có chỗ chưa đạt, xin thông cảm. Đến năm 2012, chắc đã đạt, ông có bài viết: Ban chấp hành Trung ương Đảng là đã đại diện cho toàn dân Việt Nam ta rồi! Trong khi dân Việt Nam biểu tình phản đối Trung Quốc xâm lược thì bị đảng đàn áp thắng cánh. Hồi ký của Nguyễn Mạnh Tường tôi đọc nguyên bản tiếng Pháp - Un Excommunié rất sớm. Đưa Vũ Cận. Đọc xong Cận đạp xe đến kính tặng thày Tường (dạy anh ở trường Tây Con) ba bông hồng anh mua ở quầy hoa chuyên bán cho Tây xã hội chủ nghĩa ví lép tại ngã ba Lê Duẩn - Điện Biên Phủ. 
Chương 33
T
ôi vừa ngồi, Lê Giản đã càu nhàu: Sao dạo này các ông ấy hay than dân trí thấp… Đảng lãnh đạo toàn diện thì dân trí thấp tại ai?
- Ngày đánh Mỹ thì dân trí cao. “Ra ngõ gặp anh hùng” rồi “Tay súng tay cày”, “Ba đảm đang…” Nay hết kẻ thù, cái đói nghèo nổi lên cần xoá bỏ nhưng khổ nỗi kè thù này nó lại gắn bó với anh quá nhiều thế là anh đổ ngay cho là tại vì… dân trí thấp.
- Luôn ca ngợi con thuyền này vượt mọi sóng gió, đáp đến mọi bến bờ thắng lợi mà lại than chân sào thấp trí. Mà đặc biệt chỉ đảng được nhận xét dân kém đầu óc chứ dân nhận xét ngược lại Đảng trí có vấn đề thì dân ngoẻo sớm. - Hegel nói rồi, tôi nói. Dân nào thì chính phủ ấy. Thuyền nan mơ đại dương là pha trò. Biết thế nên cho thuyền nan bám tàu lớn để nó kéo hộ. Lê Giản đứng lên lò dò ra bàn giấy lục trong chồng báo rồi quay lại, đưa ra một tờ báo: Xem đi, thấy cái thuyền nan này thì hiểu vì sao dân trí thấp. Tờ báo đưa tin Bộ công an kỷ niệm ngày 19 tháng 8 năm 1945 là ngày thành lập công an của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, có sắc lệnh ký hắn hoi. Tôi kêu lên: Đâu đã có chính phủ mà ra sắc lệnh ngày ấy? Hôm ấy cả Cụ Hồ lẫn Trung ương đâu đã biết Hà Nội Tổng khởi nghĩa? Còn mải đánh trại lính Nhật ở Thái Nguyên mà Nhật đã đe là không ngừng lại thi nó đàn áp. Lê Trọng Nghĩa bảo sau 19 tháng 8 mấy ngày Sở liêm phóng Hà Nội mới hỏi Việt Minh rằng chúng tôi phải làm gì đây! Lớ ngớ quên mất cả “địch” cơ mà!
Cựu tổng giám đốc Tổng nha công an Lê Giản rất bực nói: Thì bịa dựng đứng lên thế tôi mới nói! Sáng qua tôi gặp ngay Phạm Thế Duyệt thường trực Bộ chính trị. Tôi bảo Duyệt là ngày 23 tháng 8 Cụ Hồ mới về đến Hà Nội và ngày 28 mới tạm công bố danh sách chính phủ mà rồi còn phải hai lần điều chỉnh thành viên nữa thì hỏi ra cái chính phủ nào, ra chủ tịch nào ký sắc lệnh ngày 19 ấy? Anh Duyệt bảo tôi cho tên người ký đi rồi cho tôi xem mặt mũi sắc lệnh! Điêu khiếp thế này, người ta cười cho.
- Duyệt bảo sao, tôi hỏi?
- Thôi, đã lỡ nói mất thì cứ để thế bác ạ.
- Ối! Chơi cả trò cướp cờ với sự thật lịch sử! Nhưng sao cứ phải lấy ngày 19 tháng 8? - Vì phải đặt chuyên chính lên đầu, coi bạo lực là bà đỡ của cách mạng mà. Năm 1944 thành lập quân đội thì lập công an bét ra cũng phải đúng ngày tổng khởi nghĩa. Điêu rồi lại bắt tin cái điêu! Tin cái điêu mới là cao dân trí à? Nhà nào cứ dạy con dối trá thì nhà ấy cầm chắc lụn bại. Dối trá, nguồn của mọi đốn mạt, sẽ triệt hết mọi điều tử tế.
- Nghe đâu sau tổng khởi nghĩa, ông Sáu Thọ giục anh em mau đi giải quyết sinh lý cho đỡ bí kẻo mai kia mỗi thằng ôm một chức lại bù đầu lên. Còn mắng: Cái thằng này, thì cứ dẫn xác đến Sầm Công là nó kéo tuột mày vào giường nó đè ra nó dạy chứ lại còn phải vẽ lối cho mày nữa? Có người được Thọ cho cả xấp bạc Đông Dương giải bí. Rồi mấy ông bị lậu. Đấy, cái nào thật nghe là thấy thật ngay. Bây giờ nhiều người nhận nhăng vai trò lúc ấy lắm. Nguyễn Khang, Trần Tử Bình, Trần Quang Huy chết rồi, còn Lê Trọng Nghĩa thì không được cất lời. Ừ, Trần Độ bảo một khi đã cộp vào mồm cái triện Mác-Lê thì cứ tha hồ mà nói văng tê. - Tôi vừa đọc tờ Time, số trích đăng ký lục phiên toà thẩm vấn Clinton về vụ nhăng nhít với cô Monica Levinsky. Nó công khai đến thế này, anh nghe nhá. Chánh án hỏi Clinton: ông quan niệm thế nào là tiếp xúc. (…) Vâng, như ông trình bày thì như thế là quan hệ chứ không là tiếp xúc nữa. Vậy ông trả lời đây, ông có quan hệ tính giao với cô Monica Levinsky chưa?… Ông trả lời có. Đúng, chúng tôi đã xét nghiệm thấy tinh dịch ông ở váy cô Monica Levinsky… (Đến lượt Monica Levinsky) Hỏi cô có tính giao miệng với Clinton không? - Có. - Mấy lần? - Hai lần. - Ở đâu? - ở Phòng Bầu Dục khi tổng thống điện thoại cho một thượng nghị sĩ.
Thế đấy, anh xem, dù bảo đó là các đảng phái bêu nhau thì cũng phải nhận rằng dưới cái chế độ được bêu tổng thống ấy, cái gì đã thắng? Sự thật thắng. Và giá trị dân, mặt dân cứ tự nhiên rạng rỡ theo. Với ta thì cái gì tôn giá trị đảng, làm cho đảng rạng rỡ lên mới là sự thật. Còn không là địch bịa đặt để bôi nhọ, hạ uy tín đảng. Vậy thì hãy thả cửa nói dối để có uy tín đi! Hồ Chí Minh đâu có dại đem sắc lệnh thành lập công an ra mở đường cho mọi sắc lệnh Nhà nước dân chủ cộng hoà? Tây du kí viết quá giỏi. Đấy, đi đánh đấm mở đường nhưng con bú dù lại chuyên pha trò hề. Nói là theo tư tưởng Hồ Chí Minh mà làm lại cứ…
Đỏ bừng mặt, Lê Giản ngắc ngứ một lúc mới bật ra: Còn cái này nữa. Bác nói quân đội trung với nước, hiếu với dân, đứa nào lãnh đạo dạo ấy mà chả nhớ thế, thế mà đem đổi nghiến ngay ra thành trung với Đảng, biến béng luôn quân đội thành của riêng đảng. Không biết nước với đảng khác nhau hay sao? Nước mất, đảng trốn ra ngoài, chạy sang Phòng Thành, Tịnh Tây náu nấp được chứ hỏi nước chạy đâu? Quân đội trung với Đảng thì để dân quân gái trung với nước à? Không còn Bác, họ cứ bừa đi. Mà… mà thật ra là ngu bỏ mẹ. Ngu chứ! Lính là con cái của dân, lương tiền nuôi lính là thuế của dân thế mà anh lại bắt dân ngủ với nhau để đẻ ra những thứ chỉ trung thành với riêng anh thôi. Anh lột hết của dân thế thì anh là cái… cái gì của dân? Vừa điên vừa ngu…
Lê Giản không biết sau mười lăm năm, một tân binh từ chối học mười lời thề của quân đội vì anh không thể trung thành với Đảng. Vừa giải ngũ, anh lính bị bắt luôn. Anh lên là Nguyễn Tiến Trung. Thạc sĩ. Chỉ thề trung thành với Tổ quốc Việt Nam là chống phá Nhà nước, cái Nhà nước chưa hề có mặt mũi, con dấu, chữ ký đã ra sắc lệnh lập ngành công an đàn áp. Thật ra Nguyễn Tiến Trung đã làm cái việc mà dân gọi là chiến sĩ đường phố: Lấy lại cái mà kẻ gian tà chôm chỉa mất của dân.
***
Sau đó, từ Nguyễn Thượng Hiền qua Yết Kiêu tôi đến Trần Độ. Kể chuyện Lê Giản rất cáu việc sắc lệnh lập công an khi chưa hề có chính phủ v.v… Sinh con rồi mới sinh cha, Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông cả chuyện dẫn đường thỉnh kinh, Tôn Hành Giả vừa diệt tà ma vừa pha trò. Và Lê Giản bực việc đảng đổ mọi bê bối cho dân trí thấp.
- Thấy dân không tin, không nghe nữa - đấy, tin lựa chọn của đảng đến độ cả nước nhất loạt một người đi bỏ phiếu hộ cho nửa phố - nên phải kêu dân trí thấp. Lại đổ tại vì tàn dư phong kiến, đế quốc. Nhưng này, cụ Giản gớm quá, nhận xét bú dù phụ trách bạo lực kiêm cả pha trò cười thì giỏi thật. Đấy, báo Quân đội Nhân dân có bài nói rõ “quân đội ta không phải là của nhân dân mà là của giai cấp”, hất luôn đi câu Trung với nước của cụ Hồ thì đích thị pha trò cười rồi còn gì!
- Đúng, chúa là sính hão huyền… Tối qua xem đá bóng với Thái Lan, tôi mới hiểu thế nào là “chảo lửa”. Đích thị một thứ võ mồm đấu hão. Chảo lửa là gì anh biết không? À, gào, hét. Việt Nam, Việt Nam. Đến khi bị Thái uy hiếp dữ thì kéo cả Bác ra sân, rầm rập hát “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng…”
- Và thắng? Và vui thật?
- Không, thua quay lơ. Nhưng vẫn cứ “trong ngày vui giải phóng” ầm ầm với cái gì “Hà Nội rực rỡ chiến công”. Tôi thấy thêm thế ra ở Việt Nam chỉ có mấy chục anh quần đùi áo số mới đáng được bước vào chảo lửa cho hàng vạn võ mồm ủng hộ. Còn trường không ra trường, lớp không ra lớp hay trật tự giao thông nát bét, trẻ con suy dinh dưỡng… bao nhiêu thứ đáng xấu hố thì không được phép mở “chảo lửa”để chiến thắng! Tôi sợ người ta mượn bóng đá để kích chủ nghĩa dân tộc lên, mong nó sẽ che lấp đi những lỗ hổng ghê gớm trong đời sống đất nước. Hôm rồi tôi vào bệnh viện Việt-Xô khám sức khỏe. Một anh y tá hỏi tôi có xem đá bóng với Thái Lan không? Tôi nói không vì mệt và cũng vì hét ghê quá. Anh ta nói danh dự dân tộc thì phải hét chứ bác! Tôi hỏi thế 1958 Sài Gòn vô địch bóng đá, bóng bàn, xe đạp châu Á thì có hét ủng hộ nó không? Anh ta nói ngay: “Cháu nghe các bác lão thành nói ngày xưa chúng nó muốn bêu cộng sản nên bố trí cho Sài Gòn thắng chứ nguỵ đá đâu hay bằng Hà Nội. Với lại theo cháu danh dự ở đá bóng vẫn cao nhất. Vì vừa có trí tuệ ở chiến lược chiến thuật lại có tinh thần chiến đẩu và sức mạnh quần chúng như vũ bão…” Tôi nhắm mắt vờ ngủ. Thấy hình như võ mồm này là võ tuyên huấn mở rộng sang quần chúng.
Xã hội được chính trị hoá toàn diện. Có thể anh y tá này đang sắp vào đảng. Sửa lập trường cho Trần Độ, anh ta sẽ có thành tích vượt bậc để báo cáo và dễ được kết nạp hơn. Càng nỏ mồm chính trị thì càng ăn nên làm ra. Chính trị hoá đến mù quáng thế này. Hàn Quốc đá với Bắc Triều. Tiêu chuẩn thể thao đã bị thay bằng lập trường phe nên phùng mang lên ủng hộ Bắc Triều mặc dù phe tan tành và Bắc Triều chửi Việt Nam xâm lược Campuchia và cả mạn phía tây Hà Nội nom sang trọng hẳn lên là nhờ toà khách sạn Daewoo của Hàn Quốc. Báo chí làm om xòm về bóng đá vì sợ tội không yêu nước. Lòng yêu nước xưa thể hiện ở đổ máu thì nay ở chân đá, miệng hô. Chúng ta là một cơ thể suy nhược nặng. Người ta bèn truyền cho chúng ta một liều moriamin hỗn hợp thứ giả đạm là lòng yêu nước sai lệch và tự do cá nhân thoả mãn ảo trong tường vây. Cái hay ở đây là lòng yêu nước và tự do này chỉ được biểu hiện ở một bãi cỏ có kiểm soát.
- Dân tì rõ là mượn sân bóng để xả bất mãn rồi. Nhưng sao không nổi “chảo lửa” lên đòi tự trọng? - Đây, báo hôm nay đây. Đang họp Hội nghị dân vận trung ương. Chữ dân vận anh thấy nghịch tai không? Ừ, nghịch vì nghĩa thực sự của dân vận chính là tớ vặn cổ chủ bắt làm theo ý tớ. Rõ vớ vẩn. Nếu dân thích thì việc quái gì dân cần anh vận với động. Có ai cần tỏ trưởng khu phố đến vận để tối nó động vào vợ nó không? Anh cấm chợ ngăn sông, dân nó phản đối thế là anh vặn cổ dân cho nó chịu ngồi nhà không chợ búa, ngáp vặt thay cơm rồi khen đường lối đảng. Vì sao cứ chơi võ dân vận hoài? Vì gần bảy chục năm cầm quyền vẫn không xây nối một chế độ được lòng dân và một nền nếp công nhân viên chức trọng dân! Đọc nghị quyết dặn “làm dân vận không phải là ngồi viết mệnh lệnh” đã đủ thấy cái dân vận của đảng là vặn cổ dân rồi. Dân mà làm chủ thật thì phải lập ban đảng vận để dân vận đảng cho động đậy theo ý chủ - đằng này tớ vặn cố chủ bắt làm rồi lại bảo dân tự nguyện, nhoong nhoong trên đầu dân lại nói tôi là đày tớ của dân, ăn đủ cả hai mang.
Tôi đùa: Bertolt Brecht (nhà thơ Mác-xít người Đức - BT) viết hai anh đố nhau cho mèo tự nguyện ăn mù tạc. Anh chủ con mèo dỗ nó ăn cứ bị nó cào, anh kia bèn ôm lấy con mèo rồi nhét một cục mù tạc bằng đầu ngón tay cái vào đít mèo. Thế là mèo ra một xó nằm tự nguyện liếm mù tạc. Hay nhỉ! Thế chúng ta thì được cho xơi gì?
- Xơi mù tịt!
- Đúng! À, nhân anh nói Brecht, tôi thấy Vũ Trọng Phụng còn sống không khéo sẽ thêm vào Cơm thày cơm cô một chương về hội nghị chủ vận của các cô vú, chị sen, anh xe, thằng ở… họp tìm cách làm sao cho chủ tự nguyện chấp hành nghị quyết của mình còn chủ thì nơm nớp chờ xem liệu tớ có cho mình cái quyền thưa thốt lại với nó không.
Tôi đã đứng lên, Trần Độ lại cười rất thú vị: Tiên báo một tầng lớp Xuân Tóc Đỏ ra đời, phải nói là Vũ Trọng Phụng quá giỏi. Ngang với Tây Du Ký cho bú dù đi mở đường mà pha trò chứ không có hầm hố cái mặt. Tôi nói: Vừa qua, tôi đến Hoàng Minh Chính, nghe Hồng Ngọc, vợ Chính bảo đi họp phường người ta nói hẳn ở buổi họp rằng bọn phản động dang hoạt động ráo riết. Kể tên phản động thì có Chính, Trần Độ, Dương Thu Hương và Trần Đĩnh v.v… Còn nói “sẽ trục xuất con Dương Thu Hương…” - Nghe mà lạnh gáy! - Trần Độ vờ rụt cổ lại.
***
Tháng 3 năm 2000, tôi gửi một thư lên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu. Đảng không giữ lời hứa “Mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng”. Đại ý: Ở nước ta không bình đẳng nên không dân chủ và khiến cả nước nói dối. Đảng nói dối để tỏ ra đảng giỏi, đảng sáng suốt. Dân nói dối để tỏ ra trung thành cho được yên. Đất nước dối trá khó lòng mà làm nổi cái gì tốt đẹp. Rồi một thư gửi Ban tổ chức trung ương. Từ lãnh đạo của đàng đến kết nạp đảng viên (“anh thợ khoá vỗ vai anh thợ vá xe bảo cậu làm đơn đi, vào đảng được đấy! Và hai công nhân hè phố liền lãnh đạo toàn phường”) rồi bầu trung ương đều là việc nội bộ bí mật của đảng mà dân không hề được bén mảng.
Vài hôm sau, Tiến và Đoan đến: Thư anh gửi các cụ đến chúng em rồi. Tôi bật cười. Kêu lên, công an sướng thật! Đọc thư riêng của Tổng bí thư. Hai anh nói vớt: Các cụ có nghiên cứu ý anh…
Không thấy nhắc đến chuyện tôi nói ở một cuộc họp tổ dân phố sau khi gửi hai thư trên kia. Bác Huy, tổ trưởng đến van tôi đi bỏ phiếu bầu tổ trưởng tổ phó. “Bác thì em vẫn không mời nhưng hôm nay thực hiện dân chủ cơ sớ, bầu cử phải đủ số người không thì quận bắt bầu lại, xin bác cố đi cho…” Thương ông, tôi dự. Khi phát phiếu bầu xong (giấy A4 in máy tính rất đẹp), tôi xin nói: Tối nay có anh Hùng bí thư chi bộ Khu văn công ta và anh Lê Hoàng Hải, công an khu vực dự, tôi xin hai anh báo cáo ý tôi lên trên là bầu tố trưởng dân phố, thì phải do dân bầu. Nhưng Trung ương, Thành uỷ mà dân hãi như cọp thì dân lại không bầu! Từ nay cũng phải để dân bầu như tổ trưởng.
Tan hợp, lúc túm tụm tìm giầy dép trước cửa nhà tổ trưởng Huy, các bà gần như đồng thanh khen: Bác nói hay quá. Làm như bác nói mới đúng chứ. Tôi không ngờ các bà các cô đồng tình sôi nổi thế. Trên đường về trăng suông len giữa các hàng rào cúc tần, tôi hỏi một bà: Sao các ông lại im, không như các chị? - Các ông ấy phải khấn vái đồng lương hưu. Chúng tôi đi chợ nên có lớp học riêng. Sáng qua một bà nói ở chợ đấy: Tôi yêu nước nhưng không yêu đảng thì tôi có tội gì, nói xem? Tôi đôi hồi lại có thư gửi đảng hay phát biểu ý kiến như trong hội nghị vừa nói. Không gửi ra ngoài vì tôi cần yên tĩnh để viết truyện tôi. Viết là cần cô đơn, cổ nhân đã dạy. Ầm lên thì chỉ cứ mải đối phó hàng ngày với nhà nước là đủ mệt. Tôi đã nói điều này với Hoàng Minh Chính, sợ anh cho tôi là trùm chăn.
***
Quê Hoàng Thế Dũng, xã Giai Phạm cũng là quê Nguyễn Bình, Nguyễn Văn Linh, được phong tặng Anh hùng vũ trang. Con trai anh bảo tôi: Các nước họ khoe GDP (Gross domestic product, Tổng sản lượng nội địa - B.T) ta khoe anh hùng. Chú ơi, bây giờ bộ mặt của đường phố là gì? Cửu vạn, xe ôm, ve chai và gái điếm! Xưa Tàu Chợ Lớn mua trinh hai cây (vàng) lận, nay được nửa cây là sướng ngất luôn. Chú có biết ông Thướng, phó ban tổ chức trung ương không? Mấy hôm trước chúng cháu vừa nhậu với ông ấy. Cuối bữa chúng cháu hỏi anh có thích nghe chuyện về tình đoàn kết chan hoà của dân ta không, ông gật. Chúng cháu bèn nói: Bây giờ thanh niên ngồi karaoke ôm, hát “Bác ôm phờ rồi Bác mới ra đi…”. Ông Thướng cười. Chúng cháu lại nói, còn chuyện nữa về đoàn kết. Cái nhà ấy có anh con lấy vợ rồi ra trận. Ít lâu nhận giấy báo tử. Sợ tuyệt tự, ông bố chồng đã cho cô con dâu tham gia phát triển dòng máu. Đẻ được thằng bé thì thình lình anh con về. Đại hội gia đình họp nhất trí từ nay cả nhà gọi thằng bé là đồng chí cho được đoàn kết hoà thuận.
Thế Dũng nói xã anh phải chi 100 triệu đồng mừng được anh hùng, tỉnh cho ba chục còn thì xã bán đất công. Các cụ nói hội hè là dịp tham ô, thời xưa chánh phó lý cũng hệt thế này. Nó thành truyền thống của đứa có quyền mất rồi. Theo nó, tiền ở trong tay mà không xà xẻo thì là đồ óc cứt. Có điều xưa ít tiền, chả chấm mút được như bây giờ. Dũng nói ở xã anh hùng Giai Phạm quê mình còn một “thôn Văn hoá” nhưng có đánh bạc với hiếp dâm. Đứa hiếp dâm là con một cậu xưa theo mình cướp Đồn Bần! Một lần tôi rủ Dũng đến Trần Độ. Anh im nghĩ một lúc mới nói: Tớ chưa tới được… Năm tớ mới bị bắt, Trần Độ bảo vợ tớ là cháu bỏ nó đi chứ cứ ôm lấy thằng phản động mãi ư? Phái nghĩ tới tương lai mấy đứa con. Vợ tớ coi Trần Độ như em mẹ mình, gọi Trần Độ là cậu. Tôi lặng, nghĩ thầm, trong dòng lũ cách mạng, mỗi chúng ta như một cái củi dều lúc chìm lúc nổi, hành động, nói năng có phải đều tự mình quyết định lấy được cho mình đâu? Những khi cây củi dều bềnh lên giữa sóng cuồn cuộn, nó lại mở miệng phát ngôn chả ra cái làm sao. May sao phần lớn đời nó là chìm. Chìm vào lại với dân.
Chương 34
Đ
úng sáng 30 tháng 4, Hương gọi tôi. Hẹn năm giờ chiều đến một khách sạn quen.
Đến đã thấy Hương ngồi ở sân cà phê ngoài trời. Lát sau một người nước ngoài đi đến. Khẽ nghiêng mình nói: Bà là nhà tiểu thuyết Dương Thu Hương? Xin chào bà. Tôi là nhà báo của BBC, đã liên hệ với bà và muốn được gặp phỏng vấn bà (Rồi liền đó băn khoăn). Nhưng chúng tôi không chỉ phỏng vấn…, chúng tôi còn… quay phim… Nghĩa là… như thế… có phiền gì bà không? - Ồ, không, sợ phiền cho ông thôi.
Nhà đài BBC mừng ra mặt. Khẽ khàng gật đầu: Vậy xin mời… Khẽ khàng quay đi, hai bàn tay buông úp xuống xoè ra hai bên hơi dập dềnh vỗ vỗ, như muốn nói xin yên tâm, vâng, chúng tôi xin rất cẩn thận, vâng, rất cẩn thận… ông biết rõ điều kiện hoạt động gay go như thế nào khi gặp những phần tử như Dương Thu Hương. Biết cả vụ phá Brian Eads phỏng vấn trước đây nữa. Gân cốt thả chùng, ông bước đi rón rén, một viên chức giáo vụ lành hiền ở một trường đại học cố kính. Tự nhiên tôi nghĩ đến Georgetown, ông sẽ dẫn chuyện. Kíp làm việc gồm ba người Mỹ, trong có một cô gốc Thái, cao, đẹp, hay im lặng cười. Mỗi lần cô cười, tôi lại ngỡ cô mới là người cầm trịch. “Sắc bất uy quyền dị khiển nhân” - Nhan sắc không có quyền uy mà dễ sai bảo người. Tôi chợt nghĩ ra.
Quay phim ở trong phòng ông trưởng nhóm và cửa đóng, rèm hạ lúc nào rất nhanh. Máy quay, đèn chiếu, máy ghi âm, micro lấy ra từ các bao các túi đồng loạt phát ra mấy tiếng kim loại va chạm e dè rồi tắt ngấm, kiều tiếng nhạc cụ lén thử trước buổi diễn tấu long trọng. Khung cảnh vừa có vẻ vui đùa vừa căng thẳng. Như không khí vừa trân trọng, giữ gìn lại vừa thì thào, thân kín ở các cuộc chơi của trẻ nhỏ. “Bà có thể cho biết cảm tưởng hay ý nghĩ của bà về ngày 30 tháng Tư, bà ngồi đây, vâng ở ghế ấy, xin bà cứ nói tuỳ thích. Vâng,… Tại sao bà là chiến sĩ lại quay ra chống đối? Sáng nay chúng tôi vừa phỏng vấn Đại tướng Văn Tiến Dũng, chúng tôi dành tối nay cho bà”. Ánh đèn dọi, những tấm rèm nhung mầu cổ vịt cao vút tự nhiên mang vẻ những hiệp sĩ nhân chứng đang thành kính tuyên thệ trong nhà thờ, tiếng camera rì rì êm và tiếng Pháp Hương vừa nghĩ vừa nói giật cục và mắt liếc về tôi chờ chi viện… Cô Mỹ gốc Thái ngồi xệp, hai gối gập lại về một bên kiểu lễ chùa ở cạnh chân ghế Hương, cầm micro ngước đầu lên nhìn chăm chú, cần cổ dài hơi gồ lên ở cuống gáy loa ioá sáng, điểm nhấn đặc tả kỹ trên công trình điêu khắc ngà trắng óng ả… Tôi thấy rõ mình là ông từ coi đền. Thỉnh thoảng ông từ lại thoáng nghĩ đến một cuộc đột nhập… Lúc chờ nhà đài BBC ở sân trời uống giải khát, Hương nói khi Hương sắp ra khỏi nhà thì Nguyễn Chí Hùng an ninh điện thoại đến, một điều rất lạ vì lâu lắm rồi không gọi. “Chào chị Hương, chị dạo này khoẻ không?” - “Cảm ơn, tôi đâu phải là các mẹ mệnh phụ phu nhân lắm tiền tập nhảy đầm, tập aerobic để giữ nhan sắc, giữ eo…” - Chắc Hùng báo cho hay là đi gặp ai chúng tôi biết đấy, tôi nói. Bụng nghĩ khéo hiện ở đâu đó trong khách sạn đã có “người” rồi.
Chín giờ tối xong, Hương gọi taxi đi Thuỷ tạ. Cà phê. Mưa thình lình rất to. Mượn hai áo mưa ra mép thềm Thuỷ tạ bước xuống sân trông ra hồ. Thu lu xem mưa trên mặt nước.
Theo tin tham khảo mật, ở Trung Quốc, Thủ tướng Chu Dung Cơ đã thổ lộ ở hội nghị rằng nhiều khi ông thấy xấu hổ với lương tâm, với chức vụ vì chỉ cứ nói ra những điều cũ rích, rỗng tuếch, sáo mép. Thú thật là bảo ông giải thích chủ nghĩa xã hội là gì, ông cũng chịu.
Mấy cụ cựu chiến binh cho tôi mượn Tin mật hỏi sao dám nói thật đến thế nhỉ.
- Bên đó đã tắm gột, tẩy uế phần nào, tôi nói.
- Tắm gột? Là nhận ra phần nào mặt mũi thủ phạm từng gây cho đất nước các bất hạnh thời qua. Bên ấy có nơi làm bia kỷ niệm những nông dân bị chết đói trong thời kỳ Đại tiến vọt.
- Thế nay… ba đại diện là… ? Nôm na là bỏ giai cấp đi mà nhảy trở về lại với thế giới, với nhân dân. Thí dụ đảng đại diện cho sức sản xuất tiên tiến nhất chứ không phải cho quan hệ sản xuất tiên tiến nhất là công hữu hoá, tập thể hoá. Rồi thôi xoá bỏ giai cấp mà trước hết là thôi xoá bỏ đế quốc Mỹ. Trong khi nghị quyết đại hội ta vẫn nói ta đấu tranh giai cấp. Ba cụ im lặng, ba bàn tay đồi mồi nhăn nheo tự nhiên cùng xoay xoay ba cái miệng tách nhựa trắng có chữ Vietnam Airlines - con dâu cụ chủ nhà làm tiếp viên ở đó. Tôi chợt thấy ba cụ đang như cố cọ bóng chính danh giai cấp vô sản chúng tôi từng xây đắp. Tự nhiên thương nhau bạc đầu cả rồi mà xem ra chính danh ngày một hụt, như miếng da lừa.
Tình cờ vài hôm sau, xếp lại giá sách, tôi thấy lại một số Tạp chí Kinh tế Viễn Đông (Far East Economic Review, gọi tắt FEER) trong đó một giáo sư khoa chính trị trường đại học úc đăng một bài về Việt Nam. Ông cho rằng năm 1991, Liên Xô và phe cộng sản sụp, Việt Nam trải qua một cuộc khủng hoảng ghê gớm về ý thức hệ. Bây giờ theo ông, Việt Nam đang ở vào cuộc khủng hoảng thứ hai có khi còn ác liệt hơn. Đó là khùng hoảng về tính hợp pháp của chế độ. Chế độ một đảng, đảng tự chỉ định mình độc quyền lãnh đạo chứ dân không bầu. Rồi sớm muộn dân sẽ nhận ra nghịch lý này.
Nhìn lại bài báo, trong chớp nhoáng tôi bỗng nhớ lại như in những ngày đầu năm 1960, viết kỷ niệm thành lập Đảng, tôi gặp Trịnh Đình Cửu hay Lê Đình, Trần Văn Cung, hai trong năm người của chi bộ cộng sản đầu tiên còn sống đến lúc đó. Trần Văn Cung tiếp tôi trong phòng hiệu trường Đại học Kinh tế trước Bệnh viện Bạch Mai (phòng hiệu trưởng đại học y hệt phòng bí thư huyện, không có giá sách, trên cái đinh thuyền đóng rất kiên định vào cây cột gỗ sau ghế hiệu trưởng treo một: xấp cà mèn men vẽ hoa và cá vàng mắt đỏ vây đỏ). Còn Trịnh Đình Cửu thì tại nhà ông sát chân sóng ì uồm Hồ Tây. Những nhân vật lẽ ra lẫy lừng… mà sao nay gặp, tôi lại cứ ngậm ngùi cho cảnh hiu hắt lủi thủi của họ, nói theo cách bây giờ là hạ cánh xuống phải bãi rác. Đến nỗi tôi chẳng hề phản ứng khi nghe lần lượt từng ông chê Trần Phú. (“Cậu này hắn chả biết gì đâu…”Anh này năng lực cũng thường”). Hay khi Trần Văn Cung nói: Bọn tôi lúc ấy chửi An Nam cộng sản đảng của Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn là “phản cách mạng”.
Thoáng nghĩ lúc lập đảng các vị mới hơn hai mươi tuổi, đánh giá người dễ cay cú cá nhân lắm. Sau này, thân phận cá nhân của hai ông như cái bóng mờ cứ ám ảnh tôi. Một chút se lòng. Như kiểu Nguyễn Ái Quốc bị cho “de” để Trần Phú lên.
Vài hôm sau, Cao Xuân Hạo đưa tôi đĩa “Cám dỗ cuối cùng của Chúa”. Martin Scorcese, cái tên đạo diễn đã cám dỗ.
Cõi thế đau thương, Chúa tìm lối giải thoát khổ nạn cho dân bằng lên đường rao giảng Tình yêu. Và Chúa đã thành cồng, giáo lý của Ngài đã được tin theo nhưng Ngài chịu tội đóng đinh câu rút, máu me đầy người. Lúc ấy, quỷ Satan hoá làm thiên sứ đến báo tin mừng Đức Chúa Cha trên trời cho phép Chúa đã hoàn thành sứ mệnh, từ nay được trở về với mẹ và vợ con mà Chúa lìa bỏ. Chúa liền tụt xuống cây thập tự, về nhà hú hí. May thay, thánh Pierre, thánh Paul và Judas đến tố giác Chúa bỏ cuộc! Chúa giật mình. Leo lại lên cây thập tự trở về vị trí cửu thế. Để xứng danh Đấng cứu thế, Chúa phải vĩnh viễn làm biểu tượng hy sinh đau khổ. Hưởng thụ vinh hoa, lên xe leo biệt thự là thôi, hết Chúa.
Bộ phim bất thần cho loé lên trong đầu tôi một câu chuyện Thợ Rèn kể. Thợ Rèn thường về quê Thái Bình ăn Tết. Mồng một Tết năm ấy, bí thư tinh Lương Quang Chất mời anh đi thăm mấy bà con cơ sở cách mạng. Ở nhà đầu tiên, ông chủ mừng quýnh lấy vội bao chè ba hào tiêu chuẩn Tết trên ban thờ xuống, cầm mảnh vải điều vừa lau vừa thổi thật kỹ đủ cả sáu cạnh rồi mới bóc nó ra pha mời đồng chí bí thư. Nhưng người bảo vệ đã gạt chén trà sang bên. Rồi nghiêng bình thuỷ bên hông rót vào nắp bình thuỷ ít sâm tiêu chuẩn thường ngày. Trên đường đến “cơ sở cũ” thứ hai, Chất kể năm ấy Chất làm liên lạc cho tỉnh uỷ thì bị lính và trương tuần đuổi gấp. Bí quá, ông chạy liều vào một nhà, tức là ông chủ nhà vừa rồi, nằm nép giữa hai bức tường đất nện ngăn đôi bếp với chuồng lợn. Rồi thì đói, bụng sủi ầm, có cơ lính chúng nghe cả thấy. Thò đại tay vào sau tường bếp sờ lần. Thấy cái vại bèn thọc tay thăm thú. Cà pháo! Vốc ra một nắm vừa nằm nấp vừa mút (cho im lặng và được hưởng thụ lâu). Một lúc sau, binh tình xem vẻ yên, toan lủi thì một người ở đằng sau chợt nắm lấy tay nói: Vào nhà đã, lúc anh vào tôi biết, tôi cứ chờ đây, nếu chúng sục thì dẫn anh chạy. Rồi thấy anh sủi bụng lại vét cà ăn thì biết anh đói. Nào, vào đây, tôi có ít khoai luộc đây… Bây giờ thì cách trùng! Ôi, vại cà cách mạng. Nhờ mày mà bao nhiêu lợi quyền đã qua tay tao! Một chuyện vui về Lương Quang Chất.
Một sáng chủ nhật ở tỉnh uỷ, nơi tôi đến làm phóng viên thường trú để lánh nạn Mao-nhều Hữu Thọ, Phan Quang đánh phá “xét lại”, anh em văn phòng đang đánh bóng bàn thì bí thư tỉnh cầm một cặp kính đi vào, xuýt xoa: Gớm, kính Đức có khác, đeo vào sáng choang lên ngay! X., phó văn phòng bỏ vợt cầm lấy kính đeo vào mắt: ôi chết thật, sao quăng quắc lên đến thế này cơ chứ lại! Bí thư thọc hai ngón tay vào hai mắt kính kéo cái gọng ra: Có sáng cái… cái… mép cậu. Chỉ gọng không thôi mà sáng à?
Tất cả cười rất vui. Như được thủ trưởng soi thấu ưu điểm trung thành nhất trí của mình vậy.
***
Năm 1960, ngồi xem lại bài sắp nói với đồng bào tỉnh Thái Nguyên trong mít-tinh sau đó, Cụ Hồ nói với tôi ở bên cạnh Cụ: Nói năm 1945 có 5.000 đảng viên là ngoa. 500 mới đúng. Thôi cứ cho ngoa thành 5.000. Năm ngàn người này từ đấy đã đoạt lấy quyền lực của 25 triệu đồng bào. Cụ nói câu kia trong gian nhà khách tình uỷ bằng gỗ mộc, hết sức thô sơ, cái nghèo lồ lộ, nhà khách nom cứ ngơ ngác như đang tìm một cái gì. Bây giờ nhà khách nào cũng đồ sộ nguy nga. Trong khi xóm dân khắp nơi biến thành khu ổ chuột đầy ắp trẻ con suy dinh dưỡng và ma tuý và HIV. Những ngày tháng Tám tưng bừng, đứa thiếu niên 15 tuổi là tôi chỉ thấy đảng tù đày, máu me, biểu tượng của hy sinh cao quý. Nó đã theo vị Chúa tân thời để được hy sinh, gian khổ chuộc lại những tháng năm nhớp nhơ của nó. Nó đã một thời đắm chìm trong cuồng ảo xoá bỏ chế độ tư hữu, dựng xây chế độ đại đồng cho loài người sung sướng với công hữu mà chuồng xí khi ấy cũng dát vàng. Nhưng rồi tôi bắt đầu thấy Chúa tân thời phát hành bạc giả. Chấp nhận bạc giả thì vinh hoa, từ chối thì tan nát. Hai ngả rõ như ban ngày. May sao có một thằng Đại lưu manh sẽ tóm cổ tất cả bắt đi theo nó. Tên nó là THỜI ĐẠI.
THỜI ĐẠI là sản phẩm của nhân quần. Mông muội hay văn minh, hỗn độn hay ngăn nắp, lặng lẽ hay ồn ào thì cái nhân quần đầy đại trí, đại đức, đại dũng này nó vẫn cứ là kẻ khơi dòng chảy của tiến hoá, cuốn trôi đi tất cả quân tử lẫn tiểu nhân. Nhưng chả lẽ quân tử tiểu nhân đều như nhau sao? Không, có khác. Trôi đi thì quân tử ngửa mặt nhìn trời xanh còn tiểu nhân thì úp mặt xuống nhòm bóng tối rồi lặn xuống hoà vào bóng tối.

Chương 35
R
ất cảm động, tôi xem Tổng thống Kim Đại Trọng của Nam Hàn ngồi cùng xe với Kim Châng In chủ tịch Bắc Triều Tiên ở Bình Nhưỡng. Báo Time đăng bài một giáo sư đại học Seoul đi theo: Hàng trăm nghìn con người đón reo hò, vẫy hoa và khóc. Người thì do tổ chức liên gia huy động rồi nhưng nước mắt thì tổ chức gì huy động, ông giáo sư hỏi? Đọc bài báo như thấy có một cái gì phi nhân cố cựu vừa nứt. Tôi chưa biết như báo chí thế giới sau này cho hay Nam Hàn đã phải lót tay hai tỉ đô la cho cuộc xum vầy này. Nhưng Kim Đại Trọng đã nhận giải Nobel Hoà Bình. Có điều giai cấp vô sản không thể xơi quả lừa ấy. Nếu cứ nhận Nobel Hoà bình thì cất đâu nguyên tắc chính quyền ra từ nòng súng, tức bạo lực cách mạng cũng như nguyên tắc chia đồng bào ra thành thù và bạn? Cho nên hoà hợp Nam Bắc Triều vẫn là chuyện mờ mịt và đôi hồi lại nổ một cơn khủng hoảng tương diệt nhau đến nơi. Cố nhiên ông giáo sư viết bài báo trên kia lúc ấy không biết rồi một nhà báo Pháp sẽ viết quyển Đất nước nói dối, cho hay liên gia ở Bắc Triều là năm nhà một tổ chức chịu trách nhiệm chung với nhau về mọi mặt. Tức là phải đục thông tường trong giữa năm nhà cho mọi người của liên gia tha hồ qua lại chan hoà trông nom đỡ đần đời sống tinh thần và vật chất của nhau. Nói theo chữ thế giới là dân phải tuyệt đối minh bạch, thấu suốt.
Nguyễn, chữa xe máy đường Cầu Giấy, hỏi tôi: Chú bảo nếu ngày nào Duẩn với Thiệu cũng ngồi chung xế cho dân Sài Gòn đứng đón như thế thì có hay không?
- Sao được, tôi nói à uôm qua chuyện, hơi ngại. Mỗi nước một cảnh,
- Không phải chú ạ, tại cộng muốn chỉ cộng được ngủ với Mỹ nên cố đá con vợ cả của Mỹ là Việt Nam quốc gia đi. (Tôi phì cười). Thì đúng quá. Đang dọn giường chiếu ngủ với Mỹ đấy! Dân nói nếu cứ cho Mỹ hưởng chế độ hai vợ như ông Duẩn, ông Sáu Thọ, một tư ở Sài Gòn một công ở Hà Nội để hai mẹ An Nam ghì chặt lấy lão Mẽo mà đẽo mà hút từ ngày ấy thì nay chú phải thượng con Toi-ót-ta (Toyota, xe hơi Nhật - BT) là ít, cháu thì con Ma-tịt (Matiz, xe hơi Hàn Quốc, giá rẻ - BT).
Hai anh bạn của Nguyễn sửa xe máy ở chợ xe Chùa Hà đến ngồi ở đó hỏi tôi:
- Bố là cựu chiến binh?
- Ừ, sao biết?
- Mặt đỏ thế mà. Máu đánh nhau làm gì bố, chơi với thằng giàu trúng quả hơn chơi với thằng nghèo lòi xắng địn chỉ giỏi xúi uýnh hộ! Mấy người buôn tận Lào, Campuchia nói hai xứ này rước Tàu vào ghê lắm. Mà chả có xác liệt sĩ Tàu nào ở đó, ngoài xác Việt. Thủ đô Lào toàn công trình Tàu, sân vận động, nhà máy điện, khách sạn toàn người Tàu. Nhà văn hoá hữu nghị Lào-Trung to như hội trường Ba Đình còn nhà văn hoá hữu nghị Lào-Việt thì bằng cái nhà trọ be bé cho thuê 50 nghìn hai giờ gần dốc Cầu Giấy kia. Có những cha giỏi nhờ xương máu người để bước lên mở mày mở mặt. Ta đổ máu cho suốt từ 1945 thế mà ta dạt xa nhường đứa khác đẩy. Tiền ria (riel) nay hơn cả tiền râu cơ mà. Sợ rồi đằng lưng đằng biển hai ngả đều kẹp vào thì là toi đấy. Tôi hỏi Nguyễn nghe đâu ra thế thì trợn mắt lên: Dân họ nói đầy. Dân là trường chính trị mở thường xuyên chả có niên khoá, học kì, giáo trình gì như Nguyễn Ái Quốc kia đâu. Mà hễ nghe là tỉnh ngay con sáo sậu nhà mình ra cơ, chú bảo. Tôi cười cái vẻ sừng sộ lên nước dân “ta đây” của Nguyễn. Tôi quay hỏi một anh có chiều nghiêng mặt Hy Lạp, thanh tú: Đất nước rồi khá ra chứ? Không khá được, anh ta cười, răng rất trắng. Đơn bạc lắm, ăn hết cả phần dân. Nguyễn nói luôn: Thì dân nó bạc lại cho trắng mắt ra. Dân bạc lại bằng gì, theo chú? À, bằng đểu, đúng, dân tự đểu hoá đi, một kiểu ăn vạ lại đảng… Đây, cháu nói chú nghe. Hồi sơ tán cả khu này bỏ đi hàng tháng, nhà cháu chỉ có sợi dây thép chằng cửa mà có ai mất gì đâu? Mà đều đói meo cả đấy. Đêm đạp xe tít mù khơi giữa đồng hoang tận Trung Hà, Hưng Hoá chả bị chẹt cổ. Thế mà bây giờ đểu thế chứ? Mới chip hôi đã dí dao xin xế đầy ra rồi! Còn cướp có ISO 9000 là quan, từ phường trở lên. Xơi từng điếu thuốc, đấy, ngăn kéo bàn làm việc quan mở sẵn, dân mời điếu nào là rung đùi gạt xuống, đem về cho vợ bán lẻ. Cháu nhớ ngày ấy chúa hay mất điện, nhưng lần ấy mất dễ chừng đến mười ngày liền. Bỗng nửa đêm đèn lòe sáng, ối giời, reo hơn sấm. “Co… ó điệ… ệ… ện!” Chưa lúc nào, kể cả hoà bình, reo như thế. Nhà nào cũng mở cửa bổ ra sân. Đêm ấy, cháu hiểu thế nào là mặt đồng bào. Hớn hở tưởng muốn ôm lấy nhau cả chứ không hầm hè như cuối tháng xếp hàng thịt phiếu mà trên sạp chỉ có mỗi mẩu khấu đuôi. Lão gì bảo những lúc ấy bụng cứ khấn thầm cho trong đám xếp hàng đằng trước có đứa vợ hay bố mẹ nó chết phải chạy về. Bộ mặt đồng bào ấy nay hiếm thấy lắm chú ơi, thôi, cháu nói một cái đểu mới toe đây chú nghe. Thằng Phi Kiêm Húc, nó thích cái biệt hiệu có vẻ Hàn này, cả nước đang mê phim Hàn mà, như xưa có tên Lông Chi Chít Ngồi xổm Không Ngồi Hẳn, thằng này lên giường là toàn phi với húc. Một trong số trai gọi cân boi (call boy, một dạng “đĩ đực” - BT) có hạng. À, chú lắm chữ, cháu hỏi. Có đứa nó bảo chính là côn bòi, xin lỗi chú, cái bòi nó như súng côn Mỹ, thế có đúng không? Ừ, thế chứ, trai gọi, cháu cũng bảo là nói nhăng! Nói nốt, các mẹ gọi lên xe, bắt cho duyệt đồ nghề, lấy cả bút nạm ngọc ra gẩy gẩy, lật lật. Không bắt mắt thì cho mười đô thả xuống tít tít gọi đứa khác. Nhưng thằng này quá siêu, vừa bày ra là giữa rừng Trường Sơn cột cao thế 500 ki-lô-vôn lão Kiệt chong chỏng lên ngay, có mẹ như điện giật, rên lên ô-khề (OK) cơ mà, nó bảo cháu. Nhưng thằng này sắp chết rồi. Một vé, một vé rưỡi một trận cậu trút bom thả cái các mẹ, một ngày nằm sáu phi vụ, nhiều nhất tám, nó khai thế. Hồng sâm Cao Li bằng ngón tay cái cháu nó nhá mỗi ngày ba khẩu. Chưa kể lòng đỏ trứng gà ngào với sâm banh, nước thịt bò ép, nước cam, dái bò, dái dê, dái hổ, dài gần bốn chục phân, tóp lại rồi mà vẫn bằng nửa cổ tay cháu, tóm lại các thứ trừ dái người…, toàn những mẹo các mẹ cho nó. Thế mà nó bảo hôm kia nó đến bệnh viện Đống Đa khám cứ đổ kềnh, không ngồi nổi cho bác sĩ đo huyết áp nghe tim phổi nữa. Người nhủn hoàn toàn, bảo đâu rỗng hết tuỷ trong ống xương rồi. Cái trò kia nó hút nhẵn tuỷ đấy nhá, chú nhớ để mà biết hãm cò chú lại. Vậy chú có nhận là đồ đểu thành đại trà rồi chưa? Nay nhà nào cũng phải đưa đón con đi học về học. Cạm bẫy, nguy cơ nhiều mà chú ơi! Cháu ngồi đấy ngày ngày thấy trẻ con đi học về, hễ ai đến gần hỏi gì chúng đều lùi xa. Thì bố mẹ dạy mà. Không cẩn thận nó bắt nó bán sang Tàu. Rồi cái gì bọn đồng ái, chuyên sờ mó hĩm với chim trẻ con. Đâm xe quanh đây là cơm bữa nhưng cấm có ai đỡ dậy giúp. Xuống giúp để đứa khác nó nẫng mất xe ư? Nghi nhau ăn cắp, đểu giả hết cả rồi. À, cháu nhớ hồi bom đạn, một ông bạn chú đến nói một câu cháu nghe thấy là không sợ Johnson đưa về đồ đá, chỉ sợ thành đồ đểu. (Tôi thầm nghĩ Vũ Cận. Hôm ấy chúng tôi tán đầu bảng của đồ đá chắc phải là tim gan đá trước rồi mới đến bát đá, đũa đá, hang động đá, công văn đảng cũng bằng đá rồi cuối cùng quá độ sang đồ đểu. Cố nhiên cậu Nguyễn này không biết Vũ Cận có hôm còn đọc rất to câu thơ nhắc người cầm bút với nhau: “Văn chương là thứ chùi thay giấy. Cũng nên vừa khẩu vị vua quan”). Tại sao đểu ra đông thế? Thì có được bài học lớn rồi. Cứ tin hoắng vào cái sự chung sức chung lòng và chung hưởng. Ai ngờ, tướng tấn, tá tạ, uý yến, lính lạng, lập tức chia nhau, nhiều cha chiếm mấy biệt thự. Đến đổi mới bỏ kha-ra-sô sang gút, ố-kề, con cháu các cha lại lấy tiền và cô-ta Nhà nước mở công ty phất nhanh hơn bố mẹ. Đám này nay thành chuẩn giàu cho xã hội noi theo rồi chú ơi. Bố mở triều chính, con mở kinh doanh, hai món ngon nhất nước bố con nắm tiệt quyền trong tay người ta cứ việc đánh thật lực vào cái cửa “vơ hết” mới ghê chứ! Đất nước thành cái casino của họ rồi. Bảo con ông gì Thọ trùm tư tưởng sang Mỹ kinh doanh vi vu lắm. Mắt ông tơ tưởng đã nhòm thì phải biết. Nhưng nay dân cũng nhòm trúng phải biết rồi. Lương tâm không bằng lương thực, đồng chí không bằng đồng tiền. Đồng chí còn bị đồng chí cho sài đẹn như thế - đấy ông Giáp sài đẹn quá chứ chú - thì dân ăn cám là phải. Thành ra tâm lý nay là thế này: tốt là thiệt, nhường là thiệt, nghe theo là thiệt. Mau mau mà bong sớm ra khỏi các tướng. Tôi câm đấy nhưng tình đời thì anh nhìn vào mắt tôi anh khắc thấy tôi với anh đã xa lắc cù tỉ. Cháu thấy y như ngày bé chơi vòng tay làm kiệu khiêng một đứa làm vua. Đang hết lòng đội vua lên thì bỗng rồi tay, vua ngã chổng vó. Vua đánh rắm thối quá, ăn rặt khoai lang với đậu mốc chua loét đem hấp lại. Bây giờ các vị bĩnh hẳn lên đầu mình chứ đâu chỉ xịt rắm. Mình không hê mình chạy thì chết à?
Thấy tôi nhấp nhổm muốn đi, Nguyễn hỏi: “À, gần đây có lão nom giống Minh Râu lắm, chú quen không?” - Minh Râu nào, tôi hỏi? Thế là ba bốn đứa bò ra cười. Coi tôi như quái vật tiền sử. “Chú ơi, không học ở cái trường Đỗ Lê La của dân nên chú mới mít đặc như thế đấy. cả nước biết, mỗi chú không!”
Nguyễn chìa một tờ bạc ra: Đây. Xin lỗi chứ, không biết Minh Râu là ai là chú còn mết cộng lắm. Mết nhắm cả mắt lại mà không biết. Chú ơi, lủi cộng cho thật xa đi. Dễ lắm à. Chịu khó dự hàng ngày lớp chính trị của dân. Đến lớp ở chỗ cháu đây không cần đăng ký, nộp lý lịch, phong bì. Này, vào Nguyễn Ái Quốc cũng phong bì đấy. Thứ hai nhớ rằng Không có việc gì khó, chỉ sợ bỉm không xìn, làm láo muốn trắng tội thì cứ xỉa xin mua. Tù biệt giam mà vẫn có ca-ve chân dài vào tận xà lim cho quạng ô-vơ-nai (overnight, ngủ qua đêm BT) nhá. Ca-ve ra còn tán nó tù kỹ thế mà dũi khỏe chả kém cái xe ủi. Thế là trong tù nó măm còn sướng hơn ối thằng. Mấy hôm sau tôi đến lấy xe, Nguyễn lại bảo: Cháu mà như Lào với Miên thì nay cháu xin Việt Cộng tí hoa hồng. Đấy, anh mượn đất làm đường nên nước tôi bị bom đạn lây. Chú cười à, bây giờ chú hỏi thăm nó đường, nó bảo chú xong mà chú đi là nó ka-ra-tê (karate, môn võ Nhật - BT) chú bắt nộp tiền hao mòn kiến thức địa lý đấy. Bây giờ hỏi nếu như ta xưa cho quân vào Lào với Campuchia lập căn cứ, Trung Quốc cũng tung quân vào ta mở đường mòn để đánh nhau với ai đó thì ta có chịu không?… A, có cái chuyện này phải hỏi chú. Có ông giáo sư đại học giao thông hay chữa xe chỗ cháu một hôm nói rồi đây sẽ lũ lụt dữ ở ta. Mười năm địch và ta thi nhau bạt trụi Trường Sơn, ta phá làm đường, nó phá đường ta làm, liên miên năm tháng thì đất om tơi phải biết. Lẽ ra xong chiến tranh đảng hãy để cho Trường Sơn ngáp hoàn hồn cái đã, thế nhưng lại vội làm thêm một con đường thứ hai để… ngắm nghía lại quá khứ thì thôi rồi, cầm bằng lũ lụt xà láng. Chứ lại không để ngắm ư, đứa nào dại cho tu-bin lạc vào đó để rồi hết xăng, hỏng máy thì chống mông lên đấy xe về à? Ông giáo sư ấy bảo muốn tôn vinh thì làm một quảng trường lớn 50 héc ta với một phức hợp liên hoàn bảo tàng lịch sử bày đủ cả các thứ hiện vật xẻng cuốc Tàu, dép râu Tàu, bình toong Tàu… và biển đề phải bằng cả tiếng Tàu không nó kiện là vô ơn. Vâng, làm ở Đèo Mụ Giạ, nơi ta bắt đầu xâm nhập đất Lào, chỉ thế cũng đã đủ khiến thế giới lác mẹ nó hết mắt lên vì cái lòng thờ lịch sử của ta. Còn khôn ra thì lấy tiền kia mà nâng cao con đường vốn có. Ghê quá, non nghìn cây số đường mới, tính rẻ trăm mét rưỡi chiều rộng, anh nhân lên xem là thấy đã đem bao nhiêu rừng cúng vào cho cái bãi hoang khổng lồ có tác dụng lớn nhất là mở toang toàng trận địa cho lũ đổ ngập khắp miền Trung! Hôm ấy có chú Lộc Bê, ca sĩ học Bun (Bulgaria - B. T) về, chú ấy đùa: Đúng quá, nếu để đời đời kỷ niệm chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo mà đem cắm cột lim lên rồi chỉ cho thuyền bè được thông thương lúc có thuỷ triều thì bỏ mẹ. Ông giáo sư giao thông nói một câu cháu thấy hay: Tự hào dân tộc cũng phải có đạo đức! Cháu hỏi là thế nào hả giáo sư, yêu nước là đạo đức rồi? Bảo đạo đức đây là không khai man, không ăn ké, không om xòm tốn kém. Cháu bảo giáo sư ra làm việc nước thì hay quá. Giáo sư nói tôi ra (làm việc nước) thi cũng lại nói như người tiền nhiệm thôi, thành khuôn đúc cả rồi. Anh thấy Honda này có cái nào khác cái nào không? Máy mà lại, kêu như nhau. Thì bộ máy cũng thể, nói y như nhau. Chợt mấy xe Hyundai chạy qua. Nguyễn nói: Giám đốc kỹ sư Hàn đấy. Đám này mới tự hào dân tộc này. Sang đánh người ta rồi nay lại sang làm chủ, làm thày. Chú nhớ ngày xưa phi công Bắc Triều vẫn từ Nội Bài về Hà Nội qua đường 32 đây. Đứa nào mặt cũng lạnh bỏ cha đi, trông phát khiếp. Mỗi phi công chết liệm ba chục mét vải (liềm bầu trắng cùng hàng chục cân cá chép. Bảo đâu rồi họ theo Bắc Kinh bênh Pol Pot chửi ta… Thế đấy! Nam Hàn xưa đưa cả sư đoàn Bạch Hổ sang đánh ta thì nay phóng trên đường 32 này.
Ngày ở đại học Bắc Kinh, học sử, đến đoạn quân Cờ Đen “viện Việt” nhưng do nhà Thanh nhượng bộ Pháp nên Việt Nam thành thuộc địa, chúng tôi phản ứng rất gay gắt. Cờ Vàng, Cờ Đen là thổ phỉ, Nhà Thanh tác động gì nổi đến chúng tôi. Vi giáo sư sử sau đó gặp vài chúng tôi nói ông giảng theo “sử liệu thành văn hiện tồn”. Hiệp ước Thiên Tân ký với Pháp, Trung Quốc bằng lòng cho Pháp lấy hầu quốc Việt Nam. Nhưng trước đó đã cử Cờ Đen sang giúp rồi. Tôi chợt giật mình. Thảo nào Pháp lấy lòng Nhà Thanh mới đặt cho phố Mã Mây Hà Nội cái lên Quân Cờ Đen, Rue du Pavilion noir, hỏi thổ phỉ thì sao được Pháp tôn vinh thế? Và nghĩ khéo chỗ rẽ vào Chùa Hà kia, nơi Hồng Linh san đất làm vườn rau, xưa không chừng Cờ Đen đã đóng quân ở đó. Biết ơn Trung cộng, chúng tôi lại ghét nhà Thanh “lùa thổ phỉ sang cướp bóc”. Chê nhà Nguyễn cho Cờ Đen trấn cửa ngõ Hà Nội (thì mới giết Françis Garnier và Henri Rivière ở Cầu Giấy - song theo sử liệu Pháp thì Garnier chết bệnh ở vùng Vân Nam trong chuyến thám hiểm sông Mê Kông sang Trung Quốc) nhưng im re việc Bát Nhất leo kín cầu Long Biên chống Mỹ. Khúc Thừa Dụ đặt ra mẹo hẫu quốc vờ, độc lập thật, ruột đỏ vỏ xanh. Có điều quỳ lạy (thời ấy, chầu thiên tử, vua hầu quốc phải quỳ lạy ba cái, khấu đầu chín cái. Ý hệ Khống đã định thiên tử là bố, vua hãu quốc là con thì không thể tránh được nghi lễ quỳ này) cống vật, tiếp chiếu chi thì không vờ nổi với nó. Đinh Tiên Hoàng cử Việt Vương Liễn sang xin thiên triều nhận cho là quốc vương nhưng thiên triều chi phê chuẩn Nam Việt Quận vương, quận huyện thế thôi. Tình hình lép vế triều cống ấy cố nhiên lưu lại trầm tích sâu rộng, và trên các trầm tích ấy nhiều mùa màng lép vế, kém phận đến nay cũng đã sinh sôi um tùm, xum xuê hiện lên mặt ra phết. Chả hạn luôn ca ngợi mối tình mười sáu chữ vàng tuy trong bụng thừa biết nói ra như thế là để hối lộ nó. Cố nhiên đối phương cũng có mảng trầm tích của nó. Ấy là nước hầu chưa ho he thì thiên triều đã biết tỏng trong bụng thích gì, hãi gì để mà có cách xoa hay nạt.
***
Tiến, nay đã phó phòng chính trị Sở công an và Đoan an ninh đến: “Ký với Mỹ rồi, anh biết chưa?”
- Tốt lắm, cái máy kéo này mới kéo ta ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu được.
- Thế nhưng liệu có lấn? Tôi vừa khẽ hử? Tiến đã nói luôn: Lấn được hay không là ở mình, anh nhỉ. sắp Đại hội anh nghĩ gì về nhân sự không? - Không! Muốn ai thì cũng chủ nghĩa xã hội, viết trong dự thảo rồi đấy, nghĩ làm gì.
Tiến nói: Chậc,… lỡ viết rồi chả lẽ lại bỏ? Đoan tiếp luôn: Để vì tự ái thôi ạ.
Tôi hơi ngạc nhiên. Thì ra đến sân, Tiến quay lại hỏi:
- Nhưng anh đánh giá các cụ cũng phải xét công nửa chứ? - Thí dụ ai? - ông Lê Duẩn - Hình như ông Duẩn không gương mẫu kính trọng Cụ Hồ.

Chương 36
Đ
ại sứ quán Cộng hòa Liên bang Đức chuyến tới Dương Thu Hương một thư mời họp một hội nghị quốc tế về dân tộc học tại Đức. Nhung Hương nói rất tiếc. Năm 1994, ở Pháp về, tới sân bay Nội Bài, Hương đã bị công an lục soát hành lý và tước mất hộ chiếu. Đại sứ quán nói sẽ lo hộ. Không những thế đại sứ còn thân đưa xe đến đón Hương đi nghe dàn nhạc giao hưởng Đức sang biểu diễn ở Hilton Opera. Ít lâu sau đại sứ quán báo Hương đến cơ quan cấp hộ chiếu làm thủ tục. Người ta nói với đại sứ quán Đức rằng không hề có chuyện tịch thu hộ chiếu, chẳng qua vì từ nay sửa thành hộ chiếu đục lỗ nên thu về thôi. Vậy xin mời bà Hương cứ việc tới liên hệ. “Bọn này trí trá mà ngu. Ai lạ gì chúng là tố sư tước hộ chiếu mà lại làm ra vẻ em trắng ngần”, Hương bảo tôi. Hương đến Cục xuất nhập cảnh, người ta đưa bản khai, dặn khai xong đến công an phường lấy dấu và chữ ký xác nhận. Năm sáu anh công an phường kiếm cớ lần lượt ra nhòm người có bán khai lạ lùng như thế này. Tên tuổi: Dương Thu Hương. Đã bị bỏ tù vi chống chủ nghĩa xã hội. Lý do ra tù: do sức ép quốc tế và sự sụp đổ của thành trì xã hội chủ nghĩa. Hai tuần sau, tới hạn lấy hộ chiếu, trước khi tới Cục xuất nhập cảnh, Hương hẹn tôi đến khách sạn Metropole. “Vào đấy cá không theo được. Các cậu ít xìn”. Cô giám đốc với mấy cô tiếp viên kéo đến trách yêu: Chị lâu nay bỏ chúng em nha. Gặp thấy Hương vui, tôi hỏi: Xong rồi?
- Không!
Tôi ngẩn ra thì Hương phì cười:
- Anh này không mới hay chứ! Thế này, nghe em kể đây!
Theo hẹn, Hương đến lấy hộ chiếu. Một người nhận là “đại diện Nhà nước” nói khi khai có lẽ bà nghĩ chưa kỹ vậy hôm nay đề nghị bà nghĩ lại. - Nghĩ lại sao? - Chẳng lẽ bà khai bị tù vì chống này chống nọ rồi đến lý do ra tù thì lại không có gì sao? (Làm như Hương không trả lời mục này). Vậy xin bà nghĩ lại.
- À, lý do vào ra tù, tôi nghĩ đến đã mười năm nay, sao còn phải nghĩ lại?
- Tôi biết khai chỗ này có khó thật. Chẳng hạn lý do trả lại bà tự do thì chúng tôi cũng không giải thích được.
- Chỉ là đinh vít của bộ máy thì ông hiểu làm sao được lý do thả tôi? Chế độ các ông dựa vào bất minh, trí trá mà! Thôi vậy, đã thế thì cho tôi lấy lại bản khai, tôi không xin nữa. Hai lão Cục xuất nhập khẩu lập tức hốt hoảng: Nếu thế bà phải để chúng tôi làm biên bản. Biên bản nói Nhà nước đã vui lòng cấp hộ chiếu cho bà Dương Thu Hương nhưng bà thiếu thiện chí đã từ chối vì hận thù chủ nghĩa xã hội. Hương cầm xem đoạn nói: Nhà nước viết rồi đến tôi viết. Viết: Tôi không hận thù chủ nghĩa xã hội như trong biên bản người đại diện Nhà nước viết bởi lẽ nó chỉ là một khuynh hướng ấu trĩ của tư tưởng nhân loại. Nhưng tôi chống nó tới cùng bởi lẽ nó đem hợp thức hoá chế độ độc tài, toàn trị lên đầu nhân dân.
Ờ Metropole ra, Hương đến bưu điện fax cho ngài đại sứ: “Như nhiều lần tôi đã nói với ngài rằng những người cầm quyền ở nước tôi là những người nói dối chuyên nghiệp, những chuyên gia lật mặt (Hứ, cái gì, cái gì… experts en volte - face à?) cho nên tôi đã làm đủ các thủ tục nhưng họ vẫn không cấp cho tôi. Một lần nữa xin cảm ơn ngài đã quan tâm đến tôi”.
Cuối tháng 6 đại sứ quán Mỹ gửi Hương giấy mời dự kỷ niệm Quốc khánh Mỹ mồng 4 tháng 7. Hương bảo tôi không muốn đi vì ngại chỗ đông người. Nhất là gặp anh em nhà văn, em thường khó bình tĩnh. Có lão sang Mỹ thì khen Mỹ nhưng về lại chửi. Lâu nay em không dự quốc khánh Pháp vì thế. Rồi Hương lại báo sứ quán Mỹ vừa hỏi có dự không. “Hỏi lạ thế? Không muốn mình đến à?” Lạ là dấu hiệu của hiếm. Mà hiếm thì thường quý. Có thể sẽ có một cái gì đáng chú ý. (Hương cười cho rằng tôi đang dỗ con nít). Từ ngày lập sứ quán nay họ mới mời, tôi nói. Không đến người ta lại nghĩ mình rét… Có lẽ phải tìm một chỗ khuất ngồi vậy. Mười rưỡi tối 4-7, tôi điện thoại gọi Hương:
- Sao? Có phải nặng nề với đồng nghiệp nào không?
- Không a… a… ạ. Chữ ạ kéo dài, vui.
- Có gì đặc biệt không?
- Không biết nữa… Mai, va… â… âng, tối mai anh đến chỗ ấy nhá.
- Nếu góp ý mà làm phiền gì thì xin lỗi…
- Các cụ nói đúng: gần mực thì đen.
Tôi hơi ngấn ra. Tối sau ở một nhà ăn, tôi mới biết trong giới văn hoá văn nghệ, đại sứ quán Mỹ mời chỉ một mình Hương.
- Sao nói cái gì gần mực thì đen, Hương?
- Không thích nói gần đèn thì rạng.
Lan man chuyện trong Thuỷ Tạ sau đó. Tôi nói Time phỏng vấn Hun Sen (thủ tướng Campuchia - B. T), hỏi bây giờ ngài đánh giá Mỹ thế nào thì trả lời xưa ta hiểu lầm nhau, nay chúng tôi thấy may mắn là không có kẻ thù. Chúng tôi vừa ký với Mỹ một hiệp định tình báo. Bắt được Tà Mok Đồ Tể, chúng tôi thông báo ngay đầu tiên cho đại sứ Mỹ Kenneth Quinn. Khác ta xa. Hương nói tối qua Trần Đức Lương đến đại sứ quán Mỹ, có giới thiệu và Hương trông thấy nhưng báo đài ta im. Sợ mất thể diện Nhà nước cộng sản à? Ở vùng này Thái Lan mở cửa sớm nhất ra với phương Tây. Cùng thời với Minh Trị Thiên Hoàng Nhật. Thế kỷ 17, vua Naraiđâ mướn Constantine Phaulkon, một người xứ Venise Ý làm tể tướng! 1833 Thái Lan đã lập quan hệ ngoại giao với Mỹ. Đầu những năm 30 thế kỷ 20 thì vua Thái Lan đến Nhà Trắng. Chắc là đọc “Thoát Á luận” của một học giả Nhật lúc đó. Quyển sách hay đến nỗi vua Nhật cho in 2 triệu quyển. Còn triều Nguyễn ta hầu quốc nên vẫn ngưỡng thiên không dám thoát khỏi châu Á để lấy ánh sáng phương Tây. Đến nay đối mới để lấy ánh sáng đồng tiền của chúng nó thôi. Có cái này hay: Nhà Thanh Trung Quốc khinh phương Tây nhưng tên các nước Âu Mỹ chuyển sang tiếng Trung Quốc lại đều hay đều đẹp. Mỹ, Hoa Kỳ, Anh Cát Lợi, Pháp… Có thể dùng chữ mai âm na ná mỹ để thay cho me trong america nhưng cứ phải là mỹ. Rồi cờ sao thì thành cờ hoa, Hoa Kỳ. Chắc tại kẻ dịch là trí thức Trung Quốc vốn trọng trí tuệ, khoa học phương tây, khác vua chúa. À, Bruno cởi truồng lẽn giàn hoả, khi cha cố rửa tội thì quay đi nói: Chân lý là vô hạn. Người đầu tiên nói ra bản chất vô hạn của chân lý. Khác chủ nghĩa Marx. Với anh này thì chân lý có hạn. Bởi anh ta là cái nút đóng kín chân lý lại mất rồi, không gì vượt được anh ta nữa. Einstein nói: chẳng có nhà bác học nào suy nghĩ bằng công thức. Theo ông, cái đẹp đẽ nhất mà con người được thể nghiệm là cõi bí ẩn. Einstein có nói đến Lão Tử, Đạo Đức Kinh, người 2.500 năm trước đã nói: bí mật là cửa dẫn đến hiểu biết. Quá giỏi! Bí ẩn chính là dạ con của trí tuệ. Coi mình giải thích được hết thì hết. Khốn khố là chân lý gần như đều phải ra đời trong nước mắt và máu. Bởi luôn là từ trong mù mịt ló ra nên dễ bị coi là cố tình cà khịa, quấy thối trật tự hiện hành. Nói ra thì đúng nhưng buồn: khi thoát khỏi lối suy nghĩ cũ lại thường thấy mình vô cố nhân, Tây xuất Dương quan vô cổ nhân, câu thơ Đường này quá hay.

Chương 37
V
ùng này dạo này đi lại nhộn nhịp. Clinton đến Việt Nam thì ngay sau đó Giang Trạch Dân đến Lào, đến Campuchia. Rồi Trần Đức Lương sẽ tới Campuchia, Sihanouk mời. Thế nhưng mai khách lên đường thì hôm nay chủ kiếu: “phản động Campuchia” nổ súng ở Pnom Penh, biểu tình đập phá phản đối Việt Cộng viếng thăm và đòi truất Hun Sen, “tay chân Việt Cộng”. “Phản động” Campuchia không chịu khép quá khứ, không chịu cho đông đà sang xuân. Có thế nhưng tôi e có lẽ còn có cả vị hàng xóm trên cao nữa xía vào. Từ thời đánh Pháp, vị giúp Việt Cộng để vừa phá vòng vây đế quốc vừa mượn Việt Nam làm thang leo lên trên trường quốc tế. Không chỉ thế, về lâu dài vị còn lôi Lào và Campuchia về quỹ đạo của mình. Năm 1981, trong phong trào vạch mặt âm mưu Trang Quốc thôn tính Việt Nam, Nhà xuất bản Thông tin Lý luận Hà Nội đã dịch bài Giải quyết chiến tranh Đông Dương 1954, của một nhà nghiên cứu Pháp và giới thiệu như sau: “Trong hội nghị Genève năm 1954 về Đông Dương, những người lãnh đạo Trung Quốc đã cùng với đế quốc Pháp thoả hiệp về một qiải pháp có lợi cho Trung Quốc và Pháp, không có lợi cho nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia. Họ đã hy sinh lợi ích của nhân dân ba nước Đông Dương để đảm bảo an ninh cho Trung Quốc ở phía nam, để thực hiện mưu đồ nắm Việt Nam và Đông Dương, đồng thời giữ vai trò là một nước lớn trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế: Trước hết là ở Châu Á”.
Lạ là chúng ta hay quên. Lạ nữa là ai nhớ dai thì bị đánh. Do ít quên, tôi bỗng nhớ đến Nguyễn Đức Thuận mà tôi mến. Một mình ông phó bí thư xứ uỷ từng giữ hai vai trò quan trọng: một nằm vùng ở miền Nam chỉ đạo đánh Diệm; một nằm vùng ở Campuchia trông coi Đảng cộng sản Campuchia và Sơn Ngọc Minh làm cách mạng, việc mà chắc chắn Sihanouk quốc trưởng hợp pháp, hay bất cứ nhà nước tự trọng nào, đều phản đối. Đảng cộng sản Đông Dương đấu tranh giải phóng dân tộc nhưng Campuchia độc lập rồi, đảng vẫn phải nằm vùng tại đó vì đảng còn cần đến Campuchia và Lào để giải phóng miền Nam và giúp họ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Y như Trung Quốc giúp Việt Nam. Vì “quốc tế” một mà vì mình hai. Hơn nữa, độc lập của Lào và Campuchia là Pháp cho, vẫn còn nhà vua, vậy đảng phải đánh đổ vua của họ để đưa họ tiến lên cùng chung lãnh thổ xã hội chủ nghĩa. Nên lướt lại một đoạn lịch sử. Năm 1920, Liên Xô chi tiền lập Đảng cộng sản Pháp, năm sau chi tiền lập Đảng cộng sản Trung Quốc. Đến lượt mình, Trung Quốc chi tiền lập rất nhiều đảng ở khu vực, trong đó đáng gờm nhất và cũng chịu ảnh hưởng của Bắc Kinh nhất là cộng sản Indonesia, Mã Lai, Philippines. Theo Lý Quang Diệu trong nhóm người lập ra Đảng cộng sản Mã Lai có Nguyễn Ái Quốc. Nhưng lúc ấy chưa có phe nên Cụ thiệt, đành nằm trong bóng tối không được tôn thờ như Che Guevara. (Và theo sách Ngô Kính Nghiệp nhất sinh của tỉnh uỷ Quảng Đông thì thư ký của Nguyễn thời đó là Ngô Kính Nghiệp, người đã bị Lê Đức Thọ sai giết ở Tuyên Quang đầu 1948 cùng một loạt đảng viên Trung Quốc khác). Fareek Zakaria, một nhà báo tên tuổi Mỹ nói Mỹ sai tầm miết khi cho rằng khối cộng sản keo sơn như một nên không thọc vào phá. Thật ra lục đục nhất hạng. Đó, xem Xô - Trung, Trung-Việt rồi Việt Nam - Campuchia…
Hãy trở lại việc Chủ tịch Trần Đức Lương bị kiếu thăm. Cách đây ba chục năm ai ngờ mối tình hữu nghị trong sáng, mẫu mực, thuỷ chung Việt - Miên - Lào có ngày vỡ. Ai trong đảng đã hất Sơn Ngọc Minh đi mà đưa Pol Pot lên thay để cho đảng bộ Campuchia vào tay Bắc Kinh? Tôi đã hỏi Nguyễn Đức Thuận. Anh nói lúc ấy anh bị Diệm bắt rồi nên không rõ. Có lẽ vì bí mật anh không bảo tôi ai thay anh bên đó và chịu trách nhiệm việc thay ngựa giữa dòng này. Một tài liệu nói Sơn Ngọc Minh sang Bắc Kinh chữa bệnh đã bị đầu độc chết. Nhất định phải có cốp Việt Cộng nào đưa ông sang bên kia làm lễ tế thần? Ở mặt nào đó, Việt Cộng đã cõng rắn cắn mất toi chí cốt Campuchia.
Giá như Đệ tam Quốc tế không bắt lập Đảng cộng sản Đông Dương để Việt Cộng phụ trách cả Lào Cộng lẫn Khmer Cộng, giá như 1950, Stalin không giao Việt Nam cho Trung Quốc phụ trách và giá như xưa kia Việt Nam đã ký cam kết như hiện nay là không cho nước khác mượn nước mình tiến công nước thứ ba? Dân người ta thích vua thì để người ta có vua, cớ gì nhân danh cách mạng hạ vua người ta xuống? Giả dụ có thằng bảo thủ mà mạnh nó nhân danh cái gì đó đến hạ cộng sản xuống thì sao? Trong chuyến tàu vét của đợt 300 ngày cuối cùng Việt Cộng tập kết ra Bắc năm 1955, có một chuyện đặc biệt: Lê Duẩn lên tàu, làm thủ tục đăng ký với Uỷ ban Quốc tế đày đủ đâu đấy nhưng tối đến, Lê Duẩn và một số người quay lại, tại Cà Mau, tất nhiên với sự giúp đỡ của thuyền trưởng và vài ba thuỷ thủ Ba Lan. (Và nếu họ nay lên cơn hồi ký ôn lại! Và nếu có điều kiện mà xem lại thời gian này có trùng với việc Võ Nguyên Giáp cùng đại sứ La Quý Ba vào tận sát vĩ tuyến nghiên cứu trận địa để đề ra phương án tác chiến tương lai không?) Cùng Lê Duẩn lên lại bờ hôm đó có một số lập tức đi Biên Hoà và bắt đầu một cuộc thám hiểm ra Bắc ròng rã sáu tháng qua nẻo Trường Sơn (nhưng lúc về mất có bốn tháng) tìm lối mở đường Nam tiến mà sau này gọi là Đường mòn Hồ Chí Minh.
Và Sài Gòn chẳng lạ gì sự kiện này. Những người từng ở trong bộ phận tìm mở đường sau này bị bắt đã khai báo đầy đù, không phải chuyện vu khống láo xược. Ngày nào ở Bắc Kinh Đại học, một sinh viên “phái hữu” đã nhờ tôi chuyển thư cho đại sứ quán ta phản đối chính phủ Hà Nội đưa quân vào chuẩn bị chiến tranh, vi phạm hiệp định Genève và tôi đã cự tuyệt thẳng thừng. Cho là Tổ quốc bị xúc phạm ghê gớm. Không thấy vì chủ nghĩa Mác-Lê mà một nửa tố quốc quyết táng chết nửa tổ quốc theo chủ nghĩa tư bản kia. Kỷ niệm 50 năm mở Đường Trường Sơn, báo chí rồi hội thảo hết lời ca ngợi động lực mở đường Hồ Chí Minh là “khát vọng tự do”. Vâng, khát vọng tự do của Việt Cộng là cao nhất nên để thoả mãn nó, đảng đã thoải mái bóp chết khát vọng tự do của nhân dân Việt, của hai hoàng gia cùng nhân dân Lào và Campuchia. Cũng thế, coi khát vọng tự do và giải phóng của mình lớn hơn khát vọng tự do và giải phóng của Việt Nam nên Trung cộng đã “giải phóng” Hoàng Sa rồi Trường Sa. Chắc có ngày Bắc Kinh sẽ hội thảo khát vọng tự do đã là động lực cho họ chiếm đứt Biển Đông? Ôi, tự do, tự do! Mi để cho những cái lưỡi độc tài lợi dụng mi nhiều nhất để gây tội ác. Biết bao bí mật bị giấu kín! Một thí dụ nhỏ: Lê Hoài Cận ở Cục chuyên gia, làm phiên dịch ở đại sứ quán Algeria bảo tôi: Ta cho Arafat (lãnh tụ Palestine - BT) mở mấy điểm huấn luyện đặc công… hình như là ở Hoà Bình! Những “chiến sĩ đặc công Palestin” ấy đã “đánh bom liều chết” ở đâu tại Trung Đông?
Tôi đùa: Do Thái nó biết nó cho biệt kích vào đánh thì lôi thôi. Buồn thay cho những nhân dân mà lòng yêu nước đã bị giam cầm vì mất tự do.
***
Tháng 10 năm 2000, Hà Nội liên tịch hội thảo với Bắc Kinh về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ trì, Nguyễn Đức Bình cho ra một bài dài về ngày mai ca hát của toàn cầu hoá xã hội chủ nghĩa. Trần tục hơn, đại biểu Bắc Kinh tóm tắt con đường ấy vào hai tay: Một tay mở rộng cửa đón tiền tư bản đế quốc đầu tư và tay kia đánh mạnh tham nhũng. Báo Nhân Dân đăng tham luận của Võ Nguyên Giáp. Ba ý: cách mạng Việt Nam “sớm nhất Đông Nam Á”, Việt Nam lập nước “cộng hoà dân chủ nhân dân đầu tiên” ở vùng này, bài học thắng lợi của kháng chiến là “gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”. Tóm lại ngụ ý độc lập của ta được chủ nghĩa Mác-Lê chỉ đạo thì không những danh giá mà còn vững chắc hơn độc lập của các nước quốc gia ở Đông Nam Á. Bất chấp vừa xin họ cho vào ASEAN! Tôi đã thư cho ông. Viết rằng:
1. Đại tướng nói “Việt Nam là nước thuộc địa đầu tiên đứng lên đấu tranh đưa cách mạng đến thắng lợi…” Xin nhớ cho là Indonesia nổi dậy trước ta, ngày 15 tháng 8-1945. Còn Philippines đã từng giành độc lập từ cuối thế kỷ 19. “Vả chăng đâu có nhờ cái đầu tiên này mà dân ta giàu mạnh đầu tiên ở vùng này? Cũng xin nhớ nước độc lập mà dân không tự do thì cũng chẳng nghĩa lý gì!
2. Đại tướng viết “ngày 2-9-1945, một nước Việt Nam độc lập đã ra đời, nước Cộng hoà dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á”. Xin thưa: Đại tướng thêm hai chữ nhân dân vào sau Cộng hoà dân chủ là sai. Quốc hiệu đầu tiện của ta là “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”. Người như đại tướng thì không nên nhầm quốc hiệu.
3. Đại tướng cho rằng “Thắng lợi lả do có đường lối chỉnh tri, quân sự đúng đắn và sáng tạo của Đảng cộng sản Việt Nam gắn độc lập với chủ nghĩa xã hội”. Xin thưa không phải như thế. Từ 1945 đến 1951, đảng đã tuyên bố giải tán. Hơn nữa, Hồ Chí Minh đã phải tự phê bình là coi nhẹ cải cách ruộng đất trên tờ Pour une paix durable, pour une démocratie nouvelle (Vì một nền hoà bình vững chắc, vì một chế đệ dân chủ mới) của phe cộng sản. 1954, đến khi đại tướng lệnh đào hào vây Điện Biên Phủ mới cải cách ruộng đất, tức là chưa làm xong cách mạng dân chủ thì lấy chú nghĩa xã hội ở đâu ra mà gắn?
Cuối thư tôi nhắc đến việc Văn Tiến Dũng hồi ký “Đại thắng Mùa xuân” đã bỏ tên Võ Nguyên Giáp, may mà đại tướng sau này ra được hôi ký “Trong tổng hành dinh”, người dân mới biết phần nào sự thật. Tôi kết bức thư: “Tôi nghĩ càng yêu nước càng phải tôn trọng sự thật”.
Thư tôi gửi đại tướng cũng biệt vô âm tín.
Tôi chợt thấy rõ hơn phạm vi ứng dụng khẩu lệnh “ba không” Việt Cộng cóp của Diên An: Không biết, không nói, không nghe. Tao làm kệ tao, mày nói kệ mày. Mấy ngày sau, Đài truyền hình Việt Nam lại có bài ca ngợi Việt Nam là “Nhà nước công nông sớm nhất Đông Nam Á”. Tôi lại thư: Tôi rất xấu hổ phải là công dân làm hết mọi nghĩa vụ ở một nước mà Nhà nước của nó chỉ biết độc có công nông mà thôi. Hai hôm sau, Tiến - lúc này đã phó phòng chính trị Sờ công an Hà Nội đến. Cười cười: Ngọc (ai?) Truyền hình nó bảo anh vừa có thư chửi chúng nó.
- Mách nhanh nhỉ. (Bụng ngạc nhiên thật).
- Không, tình cờ bia bọt nó gặp nó nói.
- Này hỏi thật, khoe là công nông mà lại ngóng đô-la Mỹ thì có… thối không?
- Anh ơi, chúng nó biết quái gì, chấp làm gì?
- Nhưng chủ chúng quái. Ngày mấy bận Tivi véo von rót vào tâm trí dân châm ngôn mới Nghìn triệu dân đứng bên Đảng cộng sản Việt Nam, Khối kết đoàn công nông bền vững Thế thì nên cho bọn phi công nông bị gạt ra rìa được học cụ Lạc Long Quân làm lại vở thuyền nhân (con) Rồng (cháu) Lạc ra khỏi biển quê. Khi Tiến đi rồi, tôi thấy tổ tiên tôi, Lạc Long Quân và bà Âu Cơ té ra quan niệm rất thoáng về tổ quốc. Chỗ nào nuôi được nhau thì đó là tổ quốc. Rồi lại thấy mình ú ớ. Tổ tiên nào? Theo sách Trung Quốc, Lạc Long Quân là con Lộc Tục, Lộc Tục là cháu sáu đời cửa Viêm Đế tức Thần Nông mà bản quán ở hồ Động Đình Hồ Nam, quê cụ Mao. Nhưng nghĩ đến đấy lại thấy lại cái cảm giác huyền bí và huyết thống phập phồng trong lòng đứa trẻ là tôi lúc nó ngửa cổ lên tìm ông Thần Nông trên vòm trời đêm mà người lớn chỉ cho: “Kìa, cong lưng ngồi bó gổi đấy, trông thấy mũ tròn cao có tai giống như mũ vua bếp không, à lưng rõ là tròn chưa? Cụ ngồi nghĩ đấy… ?” Lên bốn lên năm tôi còn bị doạ: “Có nín đi không thì Tàu ô kìa kia…!” Sao lại ô? Ô là đen. À, quân Cờ Đen phụng mạng Hoàng đế Mãn Thanh sang bảo vệ hầu quốc Việt. Đánh Pháp là chính nghĩa nhưng chắc có cướp bóc, hãm hiếp dữ thì dân Việt mới gọi giặc Tàu ô. Ngày bé vẫn lởn vởn trong tôi câu ca phảng phất một một chút gì buồn, tủi, đừng chờ mong. Ai ơi chớ vội làm giàu, Thằng Tây nó tếch, Thằng Tàu nó sang. Tây với Tàu thay nhau ở xứ này ư? Đến trường, thằng bé là tôi học: Thục Phán An Dương Vương, vị vua đầu ở Việt Nam nhưng mang máu Hán. Rồi lại học tổ tiên chúng ta là người Gô-loa. Khác ở chỗ Hán làm vua nước ta là ta tự nguyện nhận còn tổ tiên Gô-loa là kẻ xâm lược quàng vào cố.

Chương 38
H
ội nghị trung ương lần thứ 11 họp trước Tết Tân Tỵ chừng nửa tháng. Tin đồn lan rất nhanh: Lê Khả Phiêu về vườn. Không lâu lại đồn ầm là “vẫn giữ Lê Khả Phiêu”. Trong số người nói thế với tôi có Lê Tiến, phó phòng chính trị Sở công an Hà Nội: Bộ chính trị đề nghị giữ lại, anh ạ, Tiến khẳng định ở nhà tôi. Bật ra một câu khá hay của Trần Đức Lương ở Đại hội đảng bộ Nghệ An rồi không bao giờ nhắc lại nữa: “Phải thấy cái nhục về cảnh đất nước lạc hậu, nhân dân đói nghèo!” (báo Nhân Dân). Xưa Việt Minh luôn xoáy vào “cái nhục mất nước” để kêu gọi cách mạng. Nay không thể xoáy vào nhục lạc hậu, đói nghèo. Để kêu gọi đánh đổ ai đây? Nhân các dịp đại hội, lễ lạt, báo chí thường đề cao Đảng rồi tinh hoa dân tộc. Sắp Đại hội 8 (1996J một y sư lên truyền hình nói người Việt Thường, tổ gốc của Việt, đã sáng tạo ra châm cứu. Một giáo sư y học tên tuổi bèn bảo tôi: Nói phét không biết ngượng! Sáng tạo gì mà thuật ngữ toàn chữ Tàu, đấy xem, từ kim, di, ấn, huyệt đến cứu, châm… có phải toàn là tiếng Tàu không? Thế này chắc là Việt Thường hồi ấy sang phải đè cá đống Tàu ra hoa chân múa tay thị phạm cho nó nắm được nội dung khoa học châm cứu của mình rồi nhờ nó chuyển dịch sang ngôn ngữ nó để giúp ta lưu lại hậu thế.
Sau đó, một tờ báo lại viết người Việt là tác giả của Kinh Dịch. Vị giáo sư bác sĩ trên kia lại lắc đầu bảo tôi: Thế này rồi mai kia chúng ta sẽ nói chúng ta đẻ ra Internet. Rồi tờ Nhân Dân cuối tuần đăng một bài nói Phục Hy, cụ tổ nhân lên giống Trung Quốc chính là người làng cần Kiệm, huyện Thạch Thất tỉnh Hà Tây, ngay dưới chân núi chùa Tây Phương, nơi cơm thuần có một thức ăn là hẹ, nơi Cụ Hồ rút khỏi Hà Nội về Chùa Thày (tập lại xe đạp) rồi đến ở đó trước khi vượt Trung Hà lên Phú Thọ, nơi tôi đã đến sống mấy tháng khai cung. Đúng là linh địa, miếu địa.
Tôi bảo vị giáo sư trên kia thì ông thở dài: ông ơi, mất biển, đất, đảo cho thì ức nên ngồi tranh tổ tranh tông với . Bánh chưng là sáng tạo của ta mà hoàn toàn chữ Tàu, đúng chứ, tôi hỏi ông? (Tôi gật) ông có nhớ ngày mới xong chiến tranh, các ông ấy nói sao không? Nói Mỹ sẽ bồi thường cho một khoản đô-la mà quy thành vàng rồi đem đúc ra thì phải to bằng năm cái Nhà hát lớn. Hội Phụ nữ đã lên kế hoạch cho mỗi cán bộ nhân viên một sổ tiết kiệm 500 đồng ăn cả đời nhoè. Rồi lại còn thế giới tư bản đang thèm rỏ dãi ra với ta. Vâng, tất tần tật dầu lửa thế giới chúng nó so với trữ lượng dầu lửa của ta thế nào? Ta bằng con voi thì thế giới bằng cái tem 80 xu dán lên mông voi. Rồi thằng Nhật thèm khói nhà máy xi măng Hải Phòng lắm, lạy van ta bán cho nhưng ta đâu dại! Khói chiến lược cơ mà! Lại cả bãi cát trắng gì đó ở Khu 5, Nhật tơ tường đếch ngủ nổi. Cát ấy là cát chiến lược! Anh em bảo mèo vùng ấy cũng chiến lược. Mèo chiến lược mới được đào cát chiến lược lên mà giấu cứt chứ? (Ấy, đã đứa nào xin nhập cứt mèo chiến lược chưa, tôi đùa theo). Vâng. Xin lỗi, nói phét lắm! Theo y học, khỏe phét lác tự đề cao là vĩ đại cuồng, một chứng bệnh tâm thần. Có dạo anh Lê Duẩn nói lương tôi hơn lương cơ bản có mấy chục bạc, nghĩa là nếu sức sản xuất ta lớn như Liên Xô thì ta cộng sản lâu qua đi rồi vì quan hệ sản xuất ta ưu việt hơn Liên Xô, chỗ này nó kém ta vì nó bị xét lại.
Nhưng hãy trở lại Đại hội đảng. Đang chờ thì bỗng các thư động trời tới tấp quăng ra. Nguyễn Đức Tâm vạch tội Đỗ Mười, Lê Đức Anh vi phạm nguyên tắc vận động phế Lê Khả Phiêu. Vạch Lê Đức Anh khai man lý lịch. Mấy lão tướng như Hoàng Minh Thảo, Phùng Thế Tài, Đồng Văn cổng… cũng tham gia tố giác. Nêu tên cả ba cô bồ nhí của Tổng bí thư, hai cô là gián điệp mà một là gián điệp của Đức”.
Phiêu còn hay rớt? Nghe đồn bị dồn đến đường cùng, Phiêu đã vung lên một tờ giấy nói ai gửi tiền ở ngân hàng nào, bao nhiêu đô tôi biết hết, ít nhất 200 trương chủ, người nhiều nhất 2 tỉ đô. Tin đồn tóm lại nhiều vô kể. Có lẽ Đại hội 8 để lộ ra nhiều chuyện giật gân nhất. Cho thấy chất lượng nhân sự chóp đỉnh nay không ra thể nào và nội bộ chóp đỉnh đá nhau ghê quá. Vẫn còn lại bí mật sau: tại sao hai cố vấn từng đôn Phiêu lên thì nay lại quyết kéo xuống? Và: nếu Phiêu Tổng bí thư miết cho đến 2006 thì liệu có việc vào WTO không?
Tờ Người quan sát mới (Le nouvel Observateur) của Pháp viết: Ban chấp hành trung ương đã không nghe đề nghị của Bộ chính tri giữ Lê Khả Phiêu lãnh đạo một thời gian nữa (obtenir une reconduction). Báo này gọi Phiêu là người “siêu bảo thủ” và có xu hướng “độc tài”. Nhưng sao Bộ chính trị lại khác ý hai cụ cố? Và Ban chấp hành trung ương sao lại theo hai cụ?
Trung tuần tháng 4-1996, giữa lúc họp Đại hội 8, tờ Washington Post viết: Tàu sân bay Mỹ Kitty Hawk đi đến một vị trí ở biển Nam Hải để có thể từ đó phóng máy bay chiến đấu bảo vệ các chuyến bay thám thính Mỹ sẽ cho bắt đầu lại ở bên ngoài bờ biển Trung Quốc. Nghĩa là Mỹ gửi tín hiệu để Trung Quốc đừng can thiệp vào các vận động của Việt Nam nhằm giúp Việt Cộng giành kiểm soát quyền lực. Một báo Mỹ cho rằng Bắc Kinh ngãn cản tự do hoá của Miến Điện và Việt Nam, hai phên giậu bảo vệ cho chế độ độc đảng độc trị của Trung Quốc đứng vững. Việc hạ Phiêu diễn ra trên đầu dân ù ù cạc cạc. Đáng chú ý là một tài liệu chui của Nguyễn Chi Trung, thư ký riêng của Lê Khả Phiêu viết tố cáo Đỗ Mười. lộ ra quá nhiều bẩn thỉu, đê tiện trong khâu nhân sự cao nhất. Dù là cộng sản và đều ở lớp chóp bu nhưng anh xuống thì gọi anh lên là đê tiện và anh lên thì gọi anh xuống là bẩn thỉu. Mà toàn ngồỉ trên đầu dân. Sức mạnh tàn phá ở trong nội bộ lãnh đạo chóp bu của cộng sản ghê gớm thật! Dư luận trong thời gian Việt Cộng chuẩn bị đánh ngã nhau này xì xào rằng Lê Đức Anh đánh Phiêu 10 điểm: 1. Bán đất, bán biển cho Trung Quốc (thú vị là Phiêu đã chủ trương tranh chấp biển đảo chỉ song phương Việt - Trung, không cho ASEAN dính dáng, trúng phắp với chủ trương Bắc Kinh). 2. Lộ ý đồ bí mật chiến lược với Giang Trạch Dân (nói rõ Việt Cộng luôn coi Mỹ là kẻ thù). 3. Hoãn ký Hiệp định thương mại Việt - Mỹ. 4. Thành lập A10 nhằm lật đổ nội bộ. 5. Quan hệ với gái và gái gián điệp hẳn hoi (Đỗ Mười đưa cả ảnh Phiêu ngồi với Thị Dung, Thị Hà và một nữ gián điệp của nước ngoài nữa v.v… Chết cái Tổng bí thư vốn có tiếng háu gái… vớ vỉn, à uôm các cô “chị nuôi” trung đội từ thời còn làm giáo viên văn hoá trung đội ở sư 304). 6. địa phương chủ nghĩa: Thanh Hoá hoá, (một kết quà còn lại về lâu về dài là Tô Huy Rứa) vân vân và vân vân.
Trước đại hội, Tiến an ninh đến. Hỏi anh có định viết gì cho Trung ương không?
- Cũng có thể, tôi đáp.
- Anh viết gì?
- Cũng chưa rõ…
Đúng thế. Cuối cùng lại gửi Bộ chính trị qua ông Nguyễn Phú Trọng, người trông coi lý luận của đảng và nghe đồn cố vấn Đỗ nhắm cho làm Tổng bí thư, một thư nói về “độc lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội”. Thư tôi viết: Có một nét nên nhắc lại là trang lịch sử Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, các nước xã hội chủ nghĩa đều đã từng đánh nhau, lật nhau dữ dội. Hãy xem Việt Nam đã chiến tranh với ai? Dạ, với những bốn nước. Thi hai là đế quốc Pháp, Mỹ, và hai chủ nghĩa xã hội lả Khmer Đỏ và Trung Quốc. Tỷ số “xâm lược” Việt Nam của đế quốc và xã hội chủ nghĩa thế là huề. Nhưng khốn thay, đế quốc thua, vẽ không, xã hội chủ nghĩa thì lại vớ đất, hiển, đảo. Cuối thư tôi viết Đảng nói chủ nghĩa xã hội là con đường Bác Hồ đã chọn. Xin chưa xưa nay không có ai hiểu “chọn” là đồng nghĩa với đúng. Khi thư gửi đi rồi mới vớ được một tài liệu. Lời Goebels, trùm tuyên huấn quốc xã Đức kêu gọi dân Đức trên đài phát thanh ngày 28 tháng 2 năm 1944 mà nhà vãn Nga Vassili Axionov dẫn trong sách Trường truyện Mát-xcơ-va: “Kẻ thù của chúng ta (lời trùm tư tưởng văn hoá quốc xã) lôi kéo chúng ta vào cuộc chiến tranh này vì tấm gương của chế độ xã hội chủ nghĩa chúng ta đe doạ hệ chính trị lạc hậu của chúng. Nếu chúng ta thua chiến tranh này, nước Đức sẽ mất chủ nghĩa xã hội. Một khi chiến thắng được bảo đảm rồi, chúng ta sẽ cho phục hoạt trở lại các dự án xã hội chủ nghĩa chính yếu của chúng ta…” (Tôi nhấn và chú thích: Hitler là chủ nghĩa xã hội nhưng quốc gia - quốc xã phân biệt với chủ nghĩa xã hội quốc tế tức Cộng sản).
Nhân đà viết, tôi cũng viết cho Trưởng ban tư tưởng Hữu Thọ một thư, coi như lổng kết thời kỳ ông tênh tênh gánh tư tưởng đất nước trên đôi vai gầy. Kể ra các hài hước ở công tác tư tưởng, trong đó cái hài nhất là hễ mùa xuân đến thì đảng lại căng lên ở khắp nước khẩu hiệu “Mừng đảng, mừng xuân, mừng đất nước”. Tôi nói thế là rỗng. Chê cho một hồi. Ông Trưởng ban thư trả lời: “Ông chửi tôi nhiều lắm”. Tín hiệu miễn chiến bài: Tôi không cãi, tôi ghi nhận ông chửi tôi nhiều và ông hiểu cho thế là tôi đã biết.
***
Đây là vải râu ria hậu sự của nhân sự Đại hội 8. Nguyễn Hưng Định, nguyên tlur ký cao cấp của phó thú tướng Lẽ Thanh Nghị, người đã dự cuộc biểu dương lực lượng trong đó Hồng Vệ Binh Bắc Kinh đả đảo Võ Nguyên Giáp tay sai xét lại, bảo tôi: Tôi nói cho ông nghe chuyện này, chính Lê Đức Bình, nguyên Trưởng ban nội chính nói với tôi. Tổng bí thư mới đã yên vị, một hôm Đỗ Mười đến nhà Bình, gần nhà bà Thanh phụ trách Đời sống mà ông biết đấy, và chếch bên kia đường nhà Định, hỏi, “Này thằng Phiêu nó xin làm trợ lý an ninh quốc phòng cho thằng Mạnh, cậu thấy sao?” Bình đáp: Để anh ấy vào chỗ quan trọng ấy thì nguy to có ngày anh ạ. Ít lâu sau, Mười lại đến: “Này, không được làm trợ lý thì Phiêu lại xin cho nó dọn nhà đến ở gần Bộ chính trị?” - Dạ, không nên, anh ấy sẽ tung tin cho người của anh ấy nghĩ rằng anh ấy vẫn thao túng được Bộ chính trị. Ít lâu sau lại: “Này, tớ định cho thằng Hữu Thọ nó làm trợ lý thứ nhất cho thằng Mạnh” Bình vội gạt: “Chớ chớ anh ạ, cậu Hữu Thọ này là phần tử cơ hội số một của đảng ta đấy. Bài hắn phê phán chủ nghĩa cơ hội là hắn tự soi gương mà viết”. Nhờ Bình can, Hữu Thọ chỉ là một trong ba trợ lý của Mạnh - Hết đời cố vấn rồi mà vẫn thao túng, vẫn gọi xách mé nó với thằng này thằng kia ráo cả, như đùa. Lão coi cái nước này như nhà lão vậy. Đây, Thọ Oth đây này, Thọ Oth nói với tôi chứ ai? Đỗ Mười lãnh đạo là nghe mẹo Hữu Thọ. Tổng bí thư học đến lớp ba và quân sư Thọ thì lớp năm lớp sáu. Hay như mới công bố đấy: hơn một trăm vị về hưu đã hơn mười năm mà vẫn lĩnh nguyên lương như lúc tại chức. Không tha cả tiền ăn trưa và lương cần vụ! Trong đó có một ông nhà báo được mệnh danh là ông Phát Sáng đấy. Không biết Phát Sáng là ai à? Phan Quang! Tính ra thấy họ toàn là đùa với nước với dân thì đã quá muộn - đấy, ông xem, cha bố đến thế này. Đỗ Mười và Nguyễn Văn Trân không cho đặt tên phố Lê Thanh Nghị. Sau đặt được là phải nhờ Hội đồng nhân dân phường. Số là từ hồi Khu 3, Đỗ Mười dưới quyền Nghị bí thư khu uỷ hay bị Nghị “uốn nắn” mà. Tôi rất vui: Khối thống nhất của đảng xem chừng rạn nứt ghê gớm. Nơi nơi chê đảng, người người ngán đảng.
***
Sau Đại hội đảng của Việt Nam ít ngày, Trung Quốc tuyên bố cấm đánh cá hai tháng trong vùng biển Việt Nam. Nửa tháng sau ra lệnh bổ xung: Cấm thêm hai tháng đi lại ở vùng biển ấy vi Trung Quốc “tập bắn đạn thật” Việt Nam phản đối nhỏ nhẻ, tôi không lạ. Quen nết rồi. Lạ là sao “bạn” lại dữ ngay sau đại hội Việt Cộng như thế. May sao có “kẻ thù chung” để cho Việt Cộng lớn tiếng quát sang hướng khác: máy bay trinh sát Mỹ do thám Trung Quốc đụng máy bay chiến đấu Trung Quốc phải hạ cánh xuống Hải Nam. Tội này lớn hơn tội cấm ta ra vào biến của ta, nên báo ta cho một trận trợ chiến với “bạn” sôi sục dài ngày. Đòi Mỹ chấm dứt do thám, chấm dứt xâm phạm vùng biển vùng trời Trung Quốc. Ngày 5 tháng 6 năm 2001, có lẽ để kín đáo đáp ơn Trung Quốc hôm trước vừa lại cho Việt Nam được “tự do” ra vào biển Việt Nam, báo Nhân Dân đưa tin mừng Đảng cộng sản Trung Quốc đã phát triển tới hơn 64 triệu đảng viên kèm đầy đủ các thứ tỷ lệ công, nông, trí, thanh niên, phụ nữ. Vẫn cái nếp kính đệ, kính bẩm thiên triều: Giang Trạch Dân đến thì xã luận cả tới lẫn về, Clinton được một (xã luận) là phúc tổ! Bởi kính bẩm thiên triều nên trong thời gian Trung Quốc bắn đạn thật ở biến Việt Nam, soái hạm Mỹ ở Thái Bình Dương thì theo dõi mà Hà Nội dửng dưng. Hình như Trung Quốc là một vùng băng khổng lồ có sức làm tê liệt phản ứng của Việt Nam? Và để cho giá lạnh phương bắc nhẹ đi, Việt Nam phải luôn nóng mặt ngay lên với Mỹ? Một kiểu giải thích cần thiết về lập trường keo sơn vốn gắn bó Trung - Việt. Không, vâng, chúng tôi không nhị tâm, quyết không mà, có Mác-Lê, Mao Chủ tịch chứng giám. Trữ lượng dầu khí Biển Đông chiếm 35% trữ lượng dầu toàn thế giới. Ai sẽ nắm vùng này? Thế giới và nhất là các nước trong vùng đều bàn đến. Bắc Kinh im. Việt Nam cũng lặng thinh. Chắc muốn tỏ nhất tâm.
Chương 39
B
ùi Sơn, con trai Bùi Lâm, “người cộng sản Việt Nam thứ hai” - theo lời Hoàng Tùng, người thứ nhất là Nguyễn Ái Quốc - đến đưa tôi mấy bức ảnh sao chụp mấy trang số báo L’ Impartial ngày 4-5-1933 tường thuật tỉ mỉ các phiên toà Đề hình Sài Gòn xử mười mấy người cộng sản. Tờ báo, ở Thư viện Sài Gòn, vạch ra âm mưu xấu của chính quyền Pháp đem họ xử chung với hơn một trăm tên trộm cướp, mưu gây ấn tượng họ cũng chỉ là đám tội phạm hình sự tầm thường. Tôi trân trọng trách nhiệm của Bùi Sơn đối với lẽ phải và bố anh. Tôi thấy được đối tượng phản cảm của anh tuy anh không nói trắng ra và tôi không yêu cầu anh nói. Ở đây tôi kể lại chuyện này vì nó còn cho thấy hai điều đáng suy nghĩ. Tôi đã ngậm ngùi đọc mấy trang L’ Impartial. Có lẽ chả bằng chứng nào về một vụ án nào mà lại không rưng rưng một chính khí cảm nó khiến ta thấy xôn xao âm thanh và cuồng nộ. Một sợi giây nào đó vẫn nối liền lương tri và lẽ phải vào nhau. Đọc bài báo, tôi mới hiểu thảo nào trong Gửi Mẹ và Quốc hội, Bảy Trấn (Nguyễn Văn Trấn - BT) viết: Chỉ xin Đảng cho báo chí được hưởng tự do đôi phần của thời Pháp đô hộ. Té ra ngay ở xứ thuộc địa, báo chí cũng có lúc tự do như ở bên Pháp. Và tự nhiên tôi cũng thầm hỏi tại sao những người như Phạm Hùng, Lê Văn Lương sống sót được nhờ dân chủ Pháp mà lại sợ dân chủ ở Việt Nam? Báo chí Sài Gòn tự do đưa tin, vụ xử mười mấy người cộng sản động sang tận Pháp, gây ra làn sóng phản đối rộng rãi và chế độ thực dân phải nhận là nó cũng biết sợ dân do đó mà Phạm Hùng, Lê Vãn Lương thoát án tử hình và tôi có cái để viết Trong xà lim án chém (rồi bị ăn cướp cơm chim: xoá tên ở tư cách tác giả, điều mà hình như lúc xử ông Hùng, ông Lương không xảy ra ở xứ thuộc địa?) Một nét lý thú: Chế độ thuộc địa Sài Gòn cũng luôn phủ nhận nó có tù chính trị. Chế độ đẹp như thế này làm sao lại bắt tù chính trị. Không, chúng là tù hình sự, phạm pháp, phá rối an ninh trật tự. Bản chất giai cấp khác nhau nhưng độc tài nên lại cho ra những quyết định giống nhau. Phiên toà đầu tiên xử đày Côn Đảo Tổng bí thư Ngô Gia Tự. Ở Côn Đảo, ông cùng Tô Chấn - lẽ ra là Lê Duẩn - làm bè vượt biến bị bão mất tích do đó mà sáu bảy chục năm sau khổ thân Lê Giản phải lọ mọ tìm ra bằng được hai nhân chứng để xin cho Tô Chấn cái bằng liệt sĩ. Giá như Lê Giản có tờ báo này nộp đảng! Các nhà cách mạng lúc ấy đâu mà biết rồi có ngày các ông sẽ phải lọt các thứ cổng quan mới được thừa nhận tư cách chính trị. Bắn chết cò Legrand, Lý Tự Trọng bị tử hình, nhờ đó tôi cộp được vào ông mấy trang Kiều của ai đó để lại, làm nổi lên nết bản sắc đậm đà dân tộc: nhà thơ lớn của dân tộc vào xà lim án chém đề huề lưng túi gió trăng cùng chàng thanh niên cộng sản vốn là liên lạc viên của Ung Văn Khiêm và theo Khiêm thì hủ tiếu nó ăn hết veo hai tô bự, “mình vẫn mua cho nó mà”, Khiêm bảo tôi. Bị cáo thứ 33, Ung Văn Khiêm, mở đầu phiên xử ngày thứ hai. Nhận đàng hoàng là cộng sản, như một vinh dự, nói “không tán thành hành vi bạo lực” (chắc là chỉ việc ám sát mà luật pháp thế giới gọi là khủng bố) nên ông đã thôi chức bí thư xứ. Ban đầu phản đối bạo lực, cuối đời lại tiếp tục ủng hộ “hoà bình” nên mang án “xét lại”, bị khai trừ đảng. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt đời ông có lẽ là từ chối bạo lực. Trong phiên thứ hai này, sau Ung Vãn Khiêm đến các bị cáo Bùi Công Trừng, Bùi Lâm, Ngô Đức Trì. Trừng nhận mình cộng sản nhưng “cộng sản Pháp” đã học ở Pháp, ở Liên Xô, “không đánh nước Pháp” vì ông “chủ trương cách mạng tư sản dân quyền”. Cũng sợi chi đỏ không tán thành bạo lực xuyên suốt đời này làm cho vị “giáo sư đỏ” ở Côn Đảo cuối cùng đeo án xét lại và cũng như Khiêm, bị khai trừ khỏi đảng. Ngô Đức Trì khai hết, khai hết. Bùi Sơn nói tập báo quý như thế này nhưng ngoài cháu duy nhất lục tìm ra, tuyệt nhiên không một đảng viên, cán bộ, sử gia nào mó đến. Nó sắp nát mục rồi. Chú ạ, cháu nghĩ họ chỉ cần bỏ số tiền mua bốn chiếc vỏ xe hơi họ đang xài bây giờ là đủ phục chế như mới tập chứng tích này. Bùi Sơn đến tôi nhiều lần. Nhờ tôi viết hồi ký cho bố anh. Ở đám ma bà Tề, tức bà Vũ Đình Huỳnh; bà Hải vợ Bùi Lâm lại nhờ tôi hồi ký giúp. Gia đình Bùi Lâm cho rằng tôi viết Bùi Lâm tốt hơn cả. Tôi thật tình không thể giúp. Tôi đang bận viết về tôi mà không nói ra được. Ngay trước mặt Bùi Sơn, tôi đã phôn nhờ Hữu Mai giúp Bùi Sơn viết “người cộng sản thứ hai của Việt Nam”. Hữu Mai nể tôi từ ngày tôi không đến nói về viết hồi ký ở Viện văn học vì, như tôi bảo anh, tôi không thích nói dối lấy lòng họ rằng người kể bảo sao thì anh nhà văn cứ bào hao ghi theo y quân lệnh. Nhưng Hữu Mai nói đang viết Lê Quang Đạo với tên sách đâu như là Người lữ hành cô đơn. Nghe Hữu Mai nói tôi chợt nhớ Mao đã bảo André Malraux rằng ông là người lữ hành cô đơn với một chiếc dù. Tài thật ông nào cũng dạy người phải rèn luyện tính quần chúng nhưng đều thích đi la mát lẻ! - Bố cháu đến nay vẫn chẳng gì hết, nhà cửa, huân chương, mọi thứ v.v…, Bùi Son nói. Có người bảo cháu xì tiền là xong. Rất đúng, chú ạ, đúng thật mà, cháu không bịa, nhiều lão thành cách mạng đã làm rồi, chú ơi. Nhưng phải đấm mõm để lấy vẻ vang thì bố cháu ở dưới kia nhắm mắt thế nào được? Mãi khi về làm Mặt trận rồi ông Phạm Thế Duyệt mới đến xin lỗi, thế nhưng xin lỗi rồi vẫn đâu lại đấy, như không. Hồi đỏ chi bộ chưa biết lợi dụng cơ hội kết nạp đảng viên mới để nặn tiền. Đáng nặn quá chứ! Anh vào đảng lúc bí mật thì sau này chắc chắn anh lên to và quyền cũng như lợi của anh chắc chắn lớn, tức là anh trúng quả to thì phải lại quả trước cho chúng tôi mới phải chứ? Đùa thôi. (Thật ra tôi nói thế vì trong cán bộ đã xì xào phổ biến về chế độ nộp tiền mua quan, kể cả uỷ viên Bộ chính trị). Này, cụ Hoan kết nạp Trường Chinh vào đảng vẫn ở bên dưới nhà cháu chứ? - Vâng, Sơn nói. Bố cháu, người cộng sản thứ hai, người kết nạp Tổng bí thư cứ chui rúc hoài trong các hộ chung cư còn ông Duyệt thì biệt thự ngay gần đó. Nhưng Sơn ơi, những tên xưa “xấu xa” như Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố… nay đều lên tên phố cả rồi. Ông Phụng nằm mãi trong số đen vì từng viết “chửi Nguyễn Ái Quốc” mà ông già Hải Anh trong Giông tố là ám chỉ Nguyễn Ái Quốc đó. Rồi chống đảng. Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm nữa, cũng đã lên phố. Yên tâm đi, đảng không lờ bố cháu mãi được đâu. Vấn đề sớm muộn thôi. Vớt đứa “xấu” nhưng chết rồi lên chỉ làm cho đảng thêm tiếng đoàn kết, trọng hiền tài. Vài ba lần Bùi Sơn thắc mắc không biết sao sau này ông Sáu Thọ rất hay hỏi thêm bố cháu về Cụ Hồ. Bố cháu đều bảo các điều tôi biết về Bác tôi đã nói hết với anh rồi. Tôi bỗng thầm nghĩ: A, thế ra vẫn sưu tầm tư liệu về Cụ Hồ. Và nhớ đến Nguyễn Trung Thành từng nói với Kiến Giang đầu những năm 80: Anh Sáu Thọ như trời như biển, anh ấy nắm cả hồ sơ lý lịch Bác. Chưa là Tổng bí thư nhưng có khác nào Tổng bí thư. Hồ sơ lý lịch càng dầy dấu vết thì bàn tay khống chế, thao túng bộ máy càng dễ tung hoành. Ta nắm tổ chấy các người rồi mà! Bùi Sơn hay buồn rầu nói tới tình bạn của bố anh với Bùi Công Trừng. Hai gia đình thân thiết lắm, con cái coi nhau như anh chị em ruột, hai nhà gần như ngày ngày gặp nhau. (Tôi đùa chẳng thế Tây đánh số tù hai người liền nhau, ra toà cũng lần lượt kẻ trước người sau). Thế rồi cuối đời hai ông lại ốm và nằm Việt-Xô cùng nhà A1. Nhưng không tìm nhau. Mỗi khi ở phòng bệnh bố cháu đi ra, cháu đều thấy bác Trừng nấp sau khe cửa nhòm. Sau mới hiểu là bác ấy muốn xem bệnh tình bố cháu qua vẻ mặt cháu. Hôm bố cháu chết, phớt hết, chỉ mình bác Trừng nhào sang, phục xuống giường ôm lấy bố cháu khóc ghê quá.
- Chắc nhớ lại từ những ngày ở Paris, ở Côn Đảo, tôi nói.
Bụng nghĩ Trừng yêu thương bạn thân thiết thời xưa như thế nhưng không chịu được những cái lăng nhăng của đảng. Ông là người phê bình Cụ Hồ đã lập ra quan hệ bác - cháu trong đảng cộng sản. Và báo trước “cứ môi môi răng răng lắm cớ ngày răng nó cắn đứt hết mồi”. Cũng từng phản đối chính sách lương thực là chính, học theo dĩ lương vi cương, lấy lương thực làm cương lĩnh của Trung Quốc. Theo ông, căn cứ thổ nhưỡng trồng cây công nghiệp mà xuất khẩu được lời nhiều gấp bội lúa rồi đem lãi ấy mà mua lương thực. Cái “lấy lương thực làm cương lĩnh” đã đẻ ra phong trào “không để người chết chiếm mất đất của người sống” ở Trung Quốc. Là sao? Là dọn sạch các bãi tha ma đi để lấy đất làm nông nghiệp. Là như ở ta phá đàn Nam Giao để lấy đất trồng sắn! Có thể hiểu là không để cho vết tích phong kiến chiếm mất đất nuôi dân. Giống Kỳ Vân và một số anh em xét lại, Trừng không tán thành hợp tác hoá nông nghiệp. Bùi Công Trừng lén mò sang khóc trộm Bùi Lâm được vì Ban tổ chức trung ương chưa hay. Bùi Công Trừng chết, Ban tổ chức trung ương có lệnh chỉ được làm tang ở trong phạm vi gia đình, cấm ngoại thuỷ không ai được dự. Đã có lúc tôi định bảo Bùi Sơn: Thế ra ông Nguyễn Văn Thiệu cũng đã nói lên được một sự thật cộng sản “chớ nghe cộng sản nói, hãy xem cộng sản làm”. Nhưng không nói vì không muốn khoét sâu nỗi buồn của Bùi Sơn. Và cũng vì câu này thì nay ai cũng thuộc lòng hết cả rồi. Không biết chỉ có hoạ là giống ăn cơm chúa múa tối ngày. Nhân việc Bùi Sơn nhờ, tôi đã có mấy kết luận nhỏ. Đó là: 1. Báo chí thuộc địa được tự do bênh cộng sản. 2. Các đồng chí chí cốt luôn có khả năng biến thành phản bội, thù địch của nhau. 3. Và các lãnh đạo lớp đàn em, khi các vị Bùi Công Trừng, Bùi Lâm bí mật hoạt động thì dái mới bằng cái đầu đũa nhưng nay quyền to đến thế và lợi lớn đến mức choáng mất tầm nhìn nên đã quên đi tất cả. Ôi chao, đấu tranh cho công bằng, bình đẳng, xoá bỏ giai cấp, giải phóng loài người nhưng chủ nghĩa chúng ta kiên định lập trường, không cho tội phạm Bùi Công Trừng ôm khóc Bùi Lâm.
Ba nhận xét trên kia khiến tôi đưa việc Bùi Son nhờ tôi viết hồi ký cho bố thành một chương ở đây. Tạm coi như chương nói đến chuyện đảng đền đáp, yêu thương các bậc lão thành cách mạng ra sao. Xin cộng nó với cái đoạn về toa- lét của Lê Giản mà tôi nói đến ở một chương khác.

Chương 40
T
ôi đã từ chối viết hồi ký Lê Thanh Nghị, Nguyễn Duy Trinh. Sau khi xin phép “sát hạch trí nhớ” Lê Thanh Nghị, tôi đã xin lỗi là không viết giúp ông được, (ông ngồi đó, Nguyễn Hưng Định thư ký của ông thay ông nói và nếu ông gật tán thành thì tôi sẽ ghi lại - ông không nhớ và nói không hấp dẫn). Nhưng cũng trong dịp này Nguyễn Hưng Định cho tôi biết ra ngoài việc xin viện trợ, phó thủ tướng Nghị có một bảo bối rất lợi hại là rượu rễ cau, thứ làm cho đàn ông rắn rỏi. Mấy vị thủ tướng ngoài, nhất là vị Hungaria, vô cùng chuộng nó. Có rễ cau là các vị ký viện trợ nhanh lắm? Tôi đã đùa bảo Định: Thảo nào Mỹ cứ nhè vùng cau quăng bom dữ. Và khéo mỗi viên đạn ta cũng có sức mạnh của rễ cau ngâm rượu. Định than rằng nhiều thành viên trong đoàn chính phủ sang các nước thường thuổng đồ dùng trong nhà khách chính phủ sang trọng của họ. Thuốc đánh răng, khăn mặt, bàn chải răng, xà phòng… Ở các chỗ này hễ thiếu thứ gì người ta lại lấy bổ sung. Có những cha mà va-li ních toàn những thứ như thế. Tôi chắc, Định nói, nhân viên nhà khách họ thừa biết chúng ta lấy chứ chả lẽ ăn à, nhưng ai lại đè đoàn chính phủ chống Mỹ ra khám va-li? Có một người lúc ấy tôi ưng viết. Xét từ phía nguyên vật liệu. Người ấy từ 1966 đã đặt cọc với tôi. Ôm vai tôi đi vòng quanh sân nhà người ấy, mỗi vòng cứ đến gần cổng sắt tôi lại ngường ngượng thấy anh lính gác quần áo mới toanh liếc vào. Ông nói: Cậu viết giỏi lắm, không ở tù mà viết như thằng tù mà lại còn phải là thằng lõi đời tù cơ. Cậu viết hay hơn mấy thằng chúng nó (xin miễn kể tên). Tớ sẽ nhờ cậu viết thời kỳ tớ chuẩn bị tổng khởi nghĩa, hay lắm.
Tôi đinh ninh chuyện người ấy phải hay. Con người ấy đầy cá tính, nhất là quyền biến, sắc sảo cái nhìn khá độc đáo. Tôi đã chờ ngày ông gọi. Chờ hơn cả việc ông cũng đã đặt cọc với tôi: “Sang Paris đàm phán, tớ sẽ đưa cậu theo làm báo cho đoàn”. Người ấy là Lê Đức Thọ. Cần nói ngay: Lúc ấy, Lê Giản chưa cho tôi biết Sáu Thọ lệnh giết mười mấy đảng viên người Hoa, trong có bố vợ tôi. Tới Đổi mới, anh mới vén dăn lên màn bí mật. Lúc ngỏ ý kén tôi viết cho ông, Thọ cũng chưa dựng vụ án xét lại. Sau này, tôi “rễ thối”, chân đi Paris của tôi được Hồng Hà thay còn cái tay viết hồi ký thì Sáu Thọ nhờ đại tá nhà báo quân đội Phạm Phú Bằng. Sớm nữa Bằng đã được đại tướng Văn Tiến Dũng nhờ viết lại Đại thắng mùa xuân, cái hồi ký Hồng Hà viết từ 1976 và gây xôn xao trong cán bộ vì đá phăng tên Võ Nguyên Giáp đi. Một đại tá đến với hơn một chục quả hồng xiêm “cây nhà lá vườn” của đại tướng mời Bằng tới nhà đại tướng. Bằng nhận lời nhưng xin được hỏi lại từ đầu và ghi âm ra làm mười băng những gì đại tướng kể cùng hỏi đáp của hai bên rồi gửi tới nhiều nơi để nghe và góp ý, coi như một cuộc xây dựng tập thể cho quyển sách. Xúp! Hỏi tôi đặt kế hoạch chiến dịch thì cũng cần lấy ý kiến tập thể đấy hả? Còn vì sao muốn viết lại? Không ai biết. Định truy hồi cho Giáp chút công mọn nào chăng. Bằng cũng làm phật ý một đại tướng khác, đại tướng bộ trưởng công an Mai Chí Thọ. Bằng đề nghị một cách viết: Hết một phần đại tướng công an kể, lại xen một phần ý kiến của Bằng, kiểu lời bình và hồi ký sẽ đề cả tên Mai Chí Thọ lẫn Phạm Phú Bằng như đồng tác giả. Xúp là cái chắc. Để tên hai tác giả mà lại có bình Thánh Thán nữa, có mà điên. Các vị không biết anh bạn tôi rất trọng đường lối quần chúng. Trọng thật lòng. Cái hay là từ quần chúng mà ra. Cuối cùng Lê Đức Thọ gọi Bằng đến.
Đưa một quyển sổ tay nói cậu xem rồi căn cứ đó viết cho tó cái hồi ký.
- Thưa anh, Bằng nói, trước khi làm việc, tôi có một đề nghị, xin anh cho tôi được nói một số điều cán bộ, nhân dân bây giờ thường nói mà chắc anh và anh Lê Duẩn chưa nghe.
- Thôi, về đi, Thọ đỏ mặt xẵng giọng.
Phạm Phú Bằng là con trai cả cụ Phạm Phú Tiết, nguyên tổng đốc Quảng Nam - Quảng Ngãi và Bình Định - Phú Yên, người cùng với Khương Hữu Tài Việt Minh, anh của Khương Hữu Dụng, làm cuộc khởi nghĩa ở Quy Nhơn. Cụ đã lệnh anh em bảo an binh mở cửa đồn đón cách mạng. Trong đồn này, từ 1944, cụ tích được hơn 150 khẩu súng, gồm cả “súng cối xay” (tức súng máy, đạn nổ rào rào như xay thóc), với ý định dùng vào cuộc nổi dậy giành độc lập, một việc cụ đã bàn với mấy đại biểu Việt Minh và Cao Đài, một hai năm trước Cách mạng tháng Tám trong một hội nghị cụ triệu tập và chủ trì. Sau tổng khởi nghĩa, cụ làm chánh án Bình Định, rồi chánh án miền Nam, chánh án toà án quần sự miền Nam. Có lẽ vì thế mà Cụ Hồ phong cụ là đại tá đầu tiên, về sau, theo đà củng cố được chính quyền, hơi nhân sĩ hả dần, cụ ra Hà Nội, làm công việc soạn lại các sách Hán Nôm và dạy Hán Nôm, sống nghèo túng ở một gian phòng tập thể tại Mai Dịch, ốm thì đi bộ bên đường lầm bụi đến Bệnh viện E, Cổ Nhuế lĩnh hộp cao Sao Vàng, cơm toàn tép với rau muống. “Cụ cứ ngửa cổ lên nhai ngắc ngắc thế này, tội lắm, Nguyễn Khải kể với tôi. “Mình thấy cụ ăn mà thương quá. Cũng có đoàn kết đấy nhưng xem ra không bền”. Bằng nói sau khởi nghĩa mấy ngày, Khương Hữu Tài bị nội bộ thịt. Có lẽ vì đã cướp chính quyền cùng với tổng đốc. Lúc ấy “thịt” rất dữ. Ở Quảng Ngãi cả ngàn chánh phó lý bị giết nên Bằng rất chợn khi người ta cử bố anh “về thăm” huyện Nghĩa Hành, nơi cụ từng làm quan. Nhưng cụ trở về yên lành. Dân sở tại đem cả hương án ra đón từ đèo Mật trên đường vào huyện. Cảng Hải Phòng là cụ nội Phạm Phú Bằng lập ra: Phạm Phú Thứ, tổng trấn Hải Yên, tức bốn tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Yên, Hải Phòng. Lập cảng Hải Phòng mấy năm Việt Nam lập tức xuất siêu! Đi sứ sang Pháp, cụ từng nói - trước cả Minh Trị Duy Tân Nhật - nếu theo đường công nghiệp thì những phồn hoa như Paris, Luân Đôn đâu có là chuyện khó với Việt Nam! Ngài tổng trấn đã mở ở Hải Dương một trung tâm phát hành sách khoa học kỹ thuật gọi là Hải Dương học xã.
Trong thời kỳ chiến tranh với Pháp, khi cụ Phạm Phú Tiết và Phạm Phú Bằng ra chiến khu tham gia kháng chiến thì bà Phạm Phú Tiết và các người con gái đều ở lại Huế. Bằng có một người chị là Xuân Thọ (thường gọi thân mật là Souris Thọ) rất giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh vào giữa thập niên 1950 làm việc trong ngành Ngoại giao của chính quyền Quốc gia, nhiệm sở sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản. Cuối thập niên 1950 chị Xuân Thọ thôi làm việc, về nước lập gia đình với kỹ sư Ngô Trọng Anh. Hiện nay cư ngụ tại thành phố San Francisco, California, Hoa Kỳ.
Xét về mặt chính trị, gia đình Bằng có đi thụt lùi: Cụ Phạm Phú Thứ có khuynh hướng canh tân đất nước theo nền văn minh Tây phương, trong khi người cháu nội là Phạm Phú Tiết lại tin theo cộng sản.
Tôi dịch Máu lạnh của Truman Capote nhà văn Mỹ nổi tiếng vì muốn đưa ra loại “tiểu thuyết không hư cấu” (non-fiction novel, Pháp gọi là tiểu thuyết - sự thật, roman-vérité) do ông rồi Norman Mailer sáng tạo để ở ta có ai tính ý đem so sánh nó với thể loại “người thật việc thật” đảng đề xướng mà theo đó thì “người kể” hay “người thật” - như mấy tử tù kể lại với Truman Capote - mới là gốc của sự viết; còn nhà văn như Capote chẳng qua chỉ là cây bút rỗng ruột ghi hộ. (Cần bổ sung: đến 2011-12, bên Pháp gọi cả hồi ký 100% - như truyện yêu đương của cháu gái nhà văn lớn kiêm viện sĩ hàn lâm Francois Mauriac với nhà điện ảnh Jean Luc Godard - là “tiểu thuyết”. Rồi Biệt tích ở Shangri-La (Lost in Shangri-La, của Mitchell Zuckoff) cũng tiểu thuyết. Cái quy tắc kinh điển về điển hình hoá dành cho thể loại tiểu thuyết xem ra trụ không nổi nữa rồi. Văn học “người thật việc thật” đã ra đời ở xã Điềm Mặc, huyện Quảng Nạp trong căn cứ địa như thế nào? Giữa tiếng ve rừng ran ran, tháng 5-1950, Thôi Hữu viết Những ngày cuối cùng của Hoàng Văn Thụ. Đăng nó lên Sự Thật, thấm nhuần tư tưởng văn nghệ phục vụ chính trị, linh hồn của Nói chuyện ở Diên An (Mao Trạch Đông), Thép Mới đã thêm cho nó lạc khoản “Trần Đăng Ninh kể, Thôi Hữu ghi” định hình từ đấy một thể loại văn học thể hiện trung thành tinh thần văn nghệ hầu hạ chính trị, văn nghệ sĩ bưng bê nhà chính trị. Trong khi Stendhal, tác giả của Đỏ và Đen (Le rouge et le noir) nói: Chính trị là gông cùm của văn học. Tồ Hoài đã rất đúng khi cho rằng tôi viết hồi ký hay là do tôi đã kéo tai các cốp lên cho ngang với tôi, “chứ viết của này mà dạ bẩm, em kính ghi anh đây… là ngỏm.” Thật ra sáng tạo đều là lên tầng, nâng cấp cho khách quan hay “kéo tai”. Khách quan luôn là cái mà nhà văn mượn để gửi gắm tâm sự và tài năng mình vào. Tóm lại kẻ sáng tạo có thao túng, uốn nặn hiện thực thì mới hòng sáng tạo. Gabo, một trong những tổ sư hội hoạ hiện đại nói: sáng tạo là áp đặt độc tài của trí tuệ. Picasso còn ghê đến thế này: Tôi vẽ cái tôi nghĩ. Đối lại, Matisse nói: Tôi vẽ bằng buồi. Chơi chữ - vẽ, peins hay cái của nợ kia, - penis ở tiếng Pháp đều gồm năm chữ cái giống nhau, khác ở xếp đặt. Vả chăng, trong sáng tạo, hai mặt thanh tục này cùng tác động qua lại không nhỏ. Điều này mỹ học cộng sản tối kỵ! Cách mạng một dạ sắt son ấy mới… con nhà! Những năm còn phải bỏ tên, tôi dịch các chuyện hình sự Pháp, cao bồi Mỹ trong đó có chuyện của Louis l’Amour, vị tác giả đòi ta phải đấu tranh giành lấy nhân quyền, dân chủ. Tôi thích chuyện hình sự, chuyện miền Viễn tây cao bồi từ niên thiếu. Tôi dịch Những con chim hồng hộc của Trương Nhung và không ngờ được xuất bản. Tôi đã lên án được Mao ở quy mô cả nước, không chỉ có ở báo đảng rồi phạm tội khi quân mà bị xô đổ như hồi nào. Trương Nhung - Jung Chang và chồng - John Halliđay, sau đã viết quyển sách dày hơn 800 trang “Mao: Câu chuyện không được biết”. Giới thiệu quyển sách ngay bìa, báo Time viết: “An atom bomb of a book”. - Một quả bom nguyên tử của một quyển sách. Trong đó âm mưu của Mao đã được vạch vòi khá tì mỉ. Chẳng hạn với Việt Nam. Mao chả coi cái xứ sở này ra cái gì. Ngoài tham vọng bành trướng còn tính cách khát máu của Mao: Mao coi chiến tranh khi kéo dài thì giống như thiên đường. Đọc sử, đến lúc hoà bình thịnh vượng thì Mao ớn. Có một việc có lẽ nên nói. Phê bình giới thiệu sách là cần và đáng trân trọng. Song hình như nhiều nhà phê bình hơi vội. Nguyên văn tiếng Anh của Chim hồng hộcThe Wild Swans nhưng có báo khen tắc phẩm xong đã ngạc nhiên sao người dịch lại dịch thành chim hồng hộc. Bỏ qua mất chi tiết sau: trong truyện, tác giả nói rõ mấy mẹ con bà đều được đặt tên Hồng, tức chim hồng hộc tức thiên nga. Viết bằng tiếng Anh, Trương Nhung thêm chữ “hoang dã” - wild vào “thiên nga” để lột hết ý chữ hồng hộc cổ, cái chữ vốn đã vào thơ Việt từ lâu - “Cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt chân trời đâm đăm”, nó có lẽ còn chuyển sang làm tượng thanh tuyệt vời cho phó từ hồng hộc, hùng hục không chừng nữa. Và bản thân tôi lại muốn nhân dịp này tái bản câu Đức Thánh Trần có lẽ đã bị con cháu quên: Các tuỳ tướng Yết Kiêu, Dã Tượng của ta giống như chim hồng hộc bay được cao được xa là nhờ cánh nó có chín giẻ xương. Nếu tôi dịch là hoang dã thì hoá ra thừa nhận có nhánh thiên nga nhà lành nuôi trong ao hồ, khiến nhớ đến Hồ thiên nga “la la ìa la sol la si la soỉ” của Tchaikovski? Một nhà phê bình nêu ra ở trong bài: Nhà văn Phạm Toàn dịch là “thiên nga hoang dã” cơ mà! Tôi thư cảm ơn và nói: Phạm Toàn là bạn tôi, giỏi hơn tôi thập toàn, trừ một chỗ chưa toàn anh ấy phạm phải là tiếng Tàu kém tôi gần như hoàn toàn. Linh Sơn cũng thế. Một vài báo khen nó nhưng cho tôi dịch Núi Hồn là sai. Phải dịch là Núi Thiêng. Sách mới mờ mấy trang, hai nhân vật đối thoại đã nói rõ: “Chữ linh ở Linh Sơn là linh trong linh hồn”, nhưng nhà phê bình đã bỏ qua. Và cả Pháp lẫn Anh đều dịch Núi Hồn (La montagne de l'âme, Soul Mountain), không đâu ra Núi thiêng hết. Mà họ thì không duy vật quá đến nỗi thiếu khái niệm thiêng. May chứ nếu là thiêng thì tôi không viết được lời tựa cho bản dịch: Linh Sơn, Núi Hồn ở đâu? Có lẽ ở trong ta. Nhưng ta ở về phía nào của Núi Hồn? Phía cộng hay phía trừ? Dịch thì khó tránh phạm toàn, tôi xin nói, nhưng người phê bình cũng nên nắm toàn nội dung tác phẩm. Dịch Linh Sơn, tôi đã fax cho tác giả: Tôi với ông là ba cùng, tam đồng. Cùng học Bắc Kinh đại học, cùng hội cầm bút và cùng thuyền gian truân chính trị. Cao Hành Kiện fax lại cám ơn.
Năm 2004, Trung Quốc mở một Hội sách ở Pháp. Cao Hành Kiện không được mời, báo chí Pháp bèn rủa thậm tệ chính phủ họ - ti tiện, nịnh thị trường Trung Quốc nên bày sách theo ý Bắc Kinh. Xã luận tạp chí Lire của Pháp đổi tên hội sách, Le Salon du livre ra thành Le Salaud du livre, Sách xà lù (khốn nạn, bẩn thỉu). Sang Pháp chuyến “sách bẩn thỉu” ấy có mấy nhà văn Trung Quốc nổi tiếng như Mặc Ngôn, tác giả của Cao lương đỏ, Vú mẩy mông dầy. Mặc Ngôn là “Không Nói” nhưng l'Express cho hay cuối cùng trong bản tự kiểm thảo làm theo yêu cầu đảng rồi cho đăng báo, ông nói và nói lớn: một, tôi đã vi phạm chủ nghĩa duy vật lịch sử; hai, tôi đã bị tiêm nhiễm nọc độc văn hoá Tây phương. Và bằng lòng cho thu hôi Vú mẩy mông dầy. Làm nhà văn ngoan vẫn sướng! Tôi cũng dịch Ngẫm của Huraki Murakami viết về vụ giáo phái Aum đánh hơi độc ở Tokyo chấn động thế giới. Thoạt đầu chưa nhận dịch. Mở xem thì đúng chỗ Murakami đặt câu hỏi “chẳng lẽ chúng ta lại chưa từng trao phó con người chứng ta cho một Hệ thống hoặc Trật tự to lớn hơn nào sao? Và… ) chẳng lẽ cái Hệ thống ấy lại chưa từng đòi hỏi chúng ta làm một vài kiểu “điên rồ” nào ư?… Các giấc mơ của bạn có thật sự là giấc mơ của chính bạn không? Phái chăng đó chi là cái nhìn của một ai mà rồi sớm muộn sẽ hoá thành ác mộng?” Nhận ra đúng bản mặt mình từng bị một cái ý xằng nó sai khiến đi theo nó thả khí độc, tôi dịch. 2008, với tên Bản Quyền, tôi dịch Đạo Đức Kinh thông qua quyển Thay đổi tư duy, thay đổi cuộc sống của Tiến sĩ người Mỹ Wayne Dyer. Phần nào muốn chuộc tội với bậc vĩ nhân mà tôi đã từng bở qua. Sao tôi lại cam “sống mềm dẻo”, “sống yên bình”, “sống khuất phục”? Phải cải tạo tất cả đi mà sống chứ! Và Thiên niên kỷ (Millennium) của nhà văn Thuỵ Điền Stieg Larsson có lẽ là quyển cuối cùng mà tôi dịch chăng? Đọc tiểu thuyết trinh thám Pháp, Anh, Mỹ từ 14, 15 tuổi, tôi kính trọng tác giả đã nâng cao ghê gớm thể loại này lên, phân tích, suy luận và chiếc kính lúp quen thuộc đã bị thay thế bằng trí nhớ siêu đẳng như máy ảnh và tài xông pha trong cõi Internet như trong chỗ không người. Kể cả tội ác cũng dữ dội hơn trước. Cầm bút, tồi càng hiểu Aragon: “Cô đơn là một tiến bộ so với im lặng”. Nhà văn! Hoặc mi im bặt! Hoặc hãy cô đơn như Camus nói: “Viết là phản loạn nên nhà văn phải bằng lòng với cô đơn”. Cô đơn thì không theo đuôi. Thảo nào Nguyễn Trãi đã thơ: Nguồn im ấy cố nhân và Hoa thơm thường héo cỏ thường xanh. Thường héo vì hay bị vặt bỏ. Thường xanh vì cứ vờn múa với tập thể, với hội nghị. Nguyễn Du nói: “Chân kinh, kinh chân chính, là kinh không lời”. Joseph Brodski thà chịu tiếng lưu manh để chân kinh chứ không cố ngoan để vào Hội nhà văn viết nguỵ kinh cho chính quyền Xô-Viết. Bulgakov, nhà tiểu thuyết vĩ đại nhất thế kỷ 20 của Nga bị trừng phạt thế nào cũng không quỵ. Và Henri Michaux, nhà thơ lớn của Pháp khi nhà xuất bản xin in tác phẩm thì nói ông bằng lòng nếu họ chỉ in 50 bản. Cioran, nhà văn Pháp gốc Rumania như Ionesco (và từng hâm mộ Hitler) đã viết những bảng đề như sau lên cửa: “Mọi viếng thăm đều là gây sự”, “Tôi ghét những ai đến thăm”, “Xin hãy nhân từ, đừng vào”, “Người điên nguy hiếm ở đây!” “ Chúa nguyền rủa kẻ bấm chuông…”
Từ những năm 1962 tôi không đọc văn học Xô-viết nữa. Ngay cả Một ngày của Dyonisevitch của Soljenitsin làm xôn xao dư luận thế giới dạo ấy. Cũng không ghé qua một giây vào Triển lâm Liên Xô mở to lớn ở Vân Hồ hồi đó. Không đụng đến Aimatov, sách của ông được người Việt thích thú truyền tay nhau. “Tấy chay” văn hoá Liên Xô, tôi muốn cho người ta thấy tôi chống Mao là theo chính kiến của riêng tôi. Hình ảnh Mao đã sứt mẻ nhiều ở tôi từ ngày đang ở Bắc Kinh. Phải nói là do được thể chế hoá chặt chẽ và che đậy tinh vi mà thói háo danh ngày một nặng. Đi kèm thói bốc thơm nhau quá thôi.
Trong một tiệc cưới, sắp tàn, Hoàng Cầm đến ngồi cạnh tôi hỏi: Có nghe tớ trả lời Thuỵ Khuê đài RFI phỏng vấn không? Thấy thế nào?
- Được… Nhưng hồi Nhân Văn, Z. đã làm thơ đâu mà cậu nhận nó là nhà thơ Nhân Văn?
- À, nó bảo khi trả lời (phỏng vấn), anh nói là tôi đã làm thơ với các anh từ dạo Nhân Văn nhá, nhá.
- Họ khai man lấy lão thành cách mạng, các cậu cũng khai man lão thành phản động cho nhau. Cậu lấy tên tớ ký vào điện gọi D. T. ra thăm cậu ốm vờ còn được chứ việc này thì dở. Albert Einstein nói đại khái: Ta có được giá trị thật khi ta thoát khỏi cái tôi cỏn con của ta. Các vị lão thành cách mạng có thấy vơ lấy hết về mình cho cái cá nhân mình to lớn ra là tự tước bỏ đi giá trị thật của mình không?
***
Trong một bữa sinh nhật Kiến Giang, một giáo sư tên tuổi đến cạnh tôi, nói, tôi chào anh, anh không trả lời. - We have not the same fame Che same fate, số phận và tiếng tăm chúng ta không giống nhau, tôi nói tiếng Anh cho được nhẹ nhàng.
Niels Bohr nói: Tôi không cường điệu tôi, tức là bịa đó, thì tôi diễn đạt tôi sao được? Einstein nói tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức. Nên cụ đã bịa mô hình về thuyết tương đối hay Stephen Hawking bịa ra hố đen! Nào là có 30% vật chất đen và 70% năng lượng đen hay lực phản hấp dẫn. Nguyễn Du thì bịa ai xẻ vầng trăng.
- Ờ thế sao đã chống đảng anh lại còn viết Bất khuất?
- Tôi viết vì không muốn lỡ dịp thử sức mình. Cũng là vì đang bị chìm tàu mà thấy vẫn được tín nhiệm, một thứ hám nhăng. Rồi vì thương tù Côn Đảo… Còn chống đảng thì sự này nó lớn dần lên chứ không đùng một cái to ngay. Anh liền bảo tôi viết bịa. Đứng đèn 500 oát, nhịn khát mười tám ngày. (Ý là bịa mà dốt). Tôi nói hai chỗ này là theo lệnh ông Sáu Thọ, nhưng ngoài việc đó ra, tôi cũng đã bịa. (Giáo sư nhíu mày). Tôi nói: Bịa cảm xúc, bịa hình ảnh, bịa chữ, bịa lời chứ tuyệt đối không bịa chuyện, bịa tình tiết Người kể bảo bị tra tấn đau lắm thì bịa ra đau thế nào. Và mười lần đau thì mười lần bịa đau ra sao. Văn học và khoa học cần bịa. Phan Đình Diệu ngồi cạnh tôi nói: Anh Đĩnh nói đúng đấy. (Bụng muốn nói có một điều tôi rất thật thì các anh không khen: Đó là tôi đã bất khuất ở trong đời). Một người khen bút ký tôi mà tôi không ngờ là Dương Bích Liên, người hoạ sĩ mê đọc và sành đọc. Một chiều chúng tôi làm một lèo hai vòng Hồ Gươm nói không thôi về cuốn sách cuối cùng của André Malraux: Lazare. Bỗng Liên khen các cái ký tôi viết nhưng không thích tôi viết cứ buồn buồn. “Này, (hơi gắt giọng) giết kỷ niệm thơ ấu đi, tuer les souvenirs d' enfance. Anh muốn động viên tôi: Việc gì mà buồn? Nhưng tôi đâu có buồn cho tôi? Tôi muốn cho vào văn học đang bay tít một chút se lòng, một chút andante, lento, thậm chí requiem.
Trên rừng, Liên kể với tôi: Một lần tớ đang vẽ thì ông Cụ đến đứng xem ở đằng sau. Rồi hỏi: “Chú yêu chưa?… Yêu thì không vẽ mắt như thế này”. Buổi chiều, cơ quan tổng vệ sinh, lá gom lại thành nhiều đống, ông Cụ đến một đống nói chỗ này của Bác rồi ngồi xổm xuống châm thuốc hút và đốt từng chiếc lá. Tự nhiên tớ muốn đến hỏi thế Bác đã yêu chưa. Cụ hỏi sao hỏi thế, tớ sẽ bảo yêu thì mắt mới nhìn xa đi như mắt Bác lúc này. Ông Cụ buồn mà. Vẽ ông Cụ buồn nhìn khói mới thích. Biết Cụ buồn cái gì vẽ lại càng hay. Thật ra tranh của Liên luôn như cố một màng sương khói hiu hắt phủ ở trên. Bức Hoa Lau chẳng hạn. Hành quân lên biên giới mở đường số 4, Dương Bích Liên, Vũ Cao và tôi đi tới giữa Đèo Gió thì bỗng đừng sững. Một dải lụa ngũ sắc chăng bên dưới vực chợt vút dâng lên rực rỡ sát mặt chúng tôi. Chim các màu. Đỏ, vàng, xanh, tím… hàng chục nghìn con… Chúng đổ nhào xuống lòng vực rồi lại tung mình lên ở sườn núi đối diện thả xoà ra bức trướng lụa hoa như bầy cung nữ ướm xiêm áo cho một nữ chúa ẩn mặt. Hay một triển lãm di động luôn biến đổi màu và bố cục. Tôi hỏi, chim gì, đẹp quá? Liên nói, chim lửa. Tôi ngợ nhưng im. Hội hoạ ấn tượng có tên đâu? Chợt thấy Liên đứng như bức tượng im lìm đối lại bức rèm hoa phấp phới một góc trời. Bức tượng này đang bị quấn vào tấm mạng màu hết thu vào lại toả rộng. Ở Liên vẫn có nét lầm lì bí ẩn. Đồn là anh tự thiêu với tất cả tranh ở trong buồng. Tay nắm ở cửa buồng Liên hình thoi bằng đồng, mỗi lần nhìn nó, tôi cứ nghĩ đó là con dấu đồng của một vị thần nào gửi giấu ở đây có mang ý nghĩa kỳ lạ mà tôi không sao đọc ra nổi. Có khi tôi run run tay nắm lấy nó. Cầu thang gác lên buồng Liên luôn tối. Tôi nghĩ nó muốn làm một tiền sảnh âm u để cho vài bước nữa thế giới màu bùng nổ.
Đến nay khi viết các trang trước mắt đây tôi mới thấy thêm một lý do viết Bất Khuất. Nên nói ra cho được thật trung thực. Đó là tôi vẫn muốn chứng tỏ với đám Mao-nhều rằng tôi đâu kém họ về tình thần cách mạng. Thật quái gở. Bị đánh tơi tả cả đời vì chống chiến tranh mà trong vô thức vẫn thâm muốn đọ tài với Mao-nhều ở chuẩn bạo lực cách mạng! Song cũng cần nói, trong quyển Bất Khuất tôi không chửi Mỹ một lời, điều cực hiếm trong văn chương cộng sản thời chiến. Tôi đã thấy ở Mỹ cái nẻo đi vào sáng sủa hơn cả!
Sau này nhận ra những hồi ký tôi viết cho thiên hạ chỉ là bưng bê hầu hạ chính trị, chính cái chính trị nó tàn hại đời tôi, anh tôi, vợ tôi…, tôi vẫn thỉnh thoảng mượn Diderot ra để tự bào chữa, ồng tổ sư Bách khoa toàn thư, tức là trùm về định nghĩa, tức là sáng láng mọi mặt, đúng không? Thế mà đã bị ngôi làng Potemkin của nữ hoàng Nga Catherine II bịp, đã yến tiệc linh đình với nữ hoàng và rồi viết tán dương nữ hoàng lên chính ngay trong khi quân lính của nữ hoàng đang tàn sát dã man cuộc nổi dậy của nông dân Pougatchev. Phải chăng cái viết tự thân nó dễ dụ người? Như đàn bà con gái với đàn ông hay như ma tuý vậy. Phải chăng trí thức đễ mù loà chính trị? Giữa lúc nạn đói đang làm chết hàng triệu triệu người Trung Quốc, Tổng thống Pháp Francois Mitterrand bị Mao lừa ngay nhãn tiền đã ca ngợi đời sống dân nước này được nâng cao. Picasso, Sartre cũng từng say cộng sản. Thêm Diderot vào đây để hiểu chỗ bất toàn của danh nhân văn hoá. Huống gì tôi, kẻ xoàng!
Một hôm Hoàng Ngọc Hiến đưa tôi quyển Người hiền không có ý của Francois Jullien, mời dịch. Hiến dịch Xác lập cơ sở cho đạo đức. Tôi từ chối. Vì không đồng ý Hiến gọi “người hiền không có ý” thành “minh triết là vô ý”. Người hiền ở tiếng Trung Quốc là trí nhân, hiền nhân - kẻ hiểu lẽ trời và lẽ đời - cái hiểu này tự nó đã không dám “minh triết” do đó người hiền khôn, không chảnh chọe để rồi biết phận mình mà ngoan, mà lành, không ra khỏi vị trí mình, tức là không vi phạm quy luật tự nhiên và quy luật xã hội. Nên biết Trung Quốc có thành ngữ “tam ngu thành hiền”: Ba anh ngu cộng lại thành anh trí thức. Chúng ta quen hiểu hiền là lành hiền, thậm chí ú ớ nhưng cơ mà cái bụng tốt. Nên nhớ bụng dạ tốt ở đây đúng ra là anh đừng phá quấy vũ trụ và xã hội. Theo tôi, chia minh triết của phương Đông ra với triết lý của phương Tây là giả tạo. Tôi cho rằng đã mò vào triết học đích thực thì phải ngại chữ minh triết, cái khái niệm mang đầy tính thần quả đoán, ngạo nghễ chủ quan dễ sa vào sai lầm đặc thù của người cộng sản - vỗ ngực nhận mình nắm hết mọi tri thức để mà đứng ở đỉnh cao chân lý. Hoàng Ngọc Hiến dịch Fonder la morale là “Xác lập cơ sở cho đạo đức” chính là đã nhuộm cho chữ dựng (fonder - chỉ đơn thuần là dựng lên) một màu sắc quá minh triết! Sao lại xác? Chính xác, chân xác, xác thực rồi ư? Trong khi chúng ta mới tạm “xác lập” được có nửa móng chân vũ trụ, vũ trụ sụp vào hay nở mãi, trọng lực lại có cả sức li tán nữa? Một tối Dương Thu Hương mời ăn nhà hàng, Hiến nói anh đã dịch sách Jullien và sắp đi Pháp, tác giả mời. Tôi mừng Hiến và nói tiếng Pháp: Tôi từ chối dịch vì muốn dành cho ông sự độc nhất - je veux te résetver l' unicité. Độc nhất đã dùng chữ minh triết, rành rọt, chân lý giải quyết đâu ra đấy hết cả rồi nhưng dĩ nhiên tôi không nói.
***
Một chuyện lý thú khác cũng dính đến viết. Đầu những năm 70, Như Phong nhờ tôi sửa giúp (thực tế là gần như viết lại) hồi ký của Trần Cung, phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ông là người đang nằm bệnh viện mà nhảy xích lô đến gặp Nguyễn Trung Thành nói đừng thiết kế cho Đỗ Mười vào Trung ương, Đại hội 4. Hồi ký Đệ tứ chiến khu khá dầy viết về căn cứ du kích ở vùng Đông Triều, Quảng Yên. Tôi giúp nhưng rồi Như Phong bảo tôi là “trên” đếch công nhận chiến khu này. Chúng tôi rất ngạc nhiên. Mãi mới chú ý đến cái tên Đệ tứ - Ôi, Đệ tứ thì phạm huý to quá! Hoặc dính đến Tờ-rốt-kít (Leon Trotsky, người Nga, lãnh đạo phe Đệ tử Quốc tế - BT) hoặc Đệ tứ chiến khu của Trương Phát Khuê ở Quảng Tây. Chính Khuê cho Cụ Hồ ra tù rồi được ngày ngày đến sở thông tin Mỹ đọc báo. Thêm một tình tiết: Đầu năm 1945, Cụ Hồ đã nhờ OSS (Tình báo Mỹ hồi Thế chiến 2 -BT) điện cho Santeny, đại diện của de Gaulle năm điều (một nghị viện của Đông Dương qua phổ thông đầu phiếu, một toàn quyền Pháp cho tới ngày công nhận độc lập của Đông Dương trong vòng năm đến mười năm, chương trình cùng phát triển kinh tế, tự do theo Hiến chương Liên hợp quốc và cấm buôn bán thuốc phiện) và đề nghị đàm phán. Rồi Messmer nhẩy xuống Đông Triều để bị Nguyễn Bình giam mãi. Theo Duiker, Sainteny không đi gặp Cụ Hồ vì lụt lớn lúc đó. Nhưng lạ một, ai cho Messmer nhảy và lạ hai, lại nhảy sai địa điểm để không gặp được Hồ Chí Minh? Và phải chăng Messmer bay từ Đệ tứ Chiến khu của Trương Phát Khuê? Theo David Marr, Đệ tứ và Việt Minh không tiếp xúc và từng đụng độ. Nhưng Lê Trọng Nghĩa cho biết Tổng khởi nghĩa vừa xong, Nguyễn Bình tìm ngay Trung ương. Và tư lệnh Đệ tứ đã được cài cho lá cờ soái Nam tiến đánh Pháp sớm nhất, lúc quân Tưởng đầy ngoài Bắc.
Các nhân chứng đã chết, cái chiến khu có tên lập lờ Tờ- rốt-kít và hơi hướng Trương Phát Khuê cuối cùng được đảng thu nhận và đổi thành Chiến khu Đông Triều. Rồi có ngày sẽ mất hẳn Đệ tứ chiến khu. Tất cả lịch sử đều qua viện giải phẫu thấm mỹ, dù tay nghề dao kéo chỉ là ở cấp thị trấn nhỏ. Một tối đọc báo Pháp, một làng ở Algeria bị lụt, chết mấy nghìn người. Tổng thống Bouteflika, người lãnh đạo dân giải phóng đất nước ngày xưa đến uỷ lạo nhưng dân ném đá, la ó, chửi, ông phải vội lên máy bay đi. Nửa tháng sau, thủ tướng Pháp, kẻ đô hộ cũ đến. Dân hoan nghênh, reo mừng, tới tấp đề nghị chính phủ Pháp nới luật định cư để cho họ được sang làm công dân Pháp. Nhà báo nổi tiếng Delfeil de Ton viết: Tôi thuật lại chuyện này mà buồn vô hạn. Đứng lên đuổi Pháp để giải phóng tổ quốc thì nay lại đứng lên xin cho đổi lấy tổ quốc Pháp. Rồi lại xem một bài về nhà văn Đức Gunther Grass (giải Nobel văn học 1999). Ông không muốn tổ quốc Đức thống nhất, tức là muốn xén bé tổ quốc đi. Có lẽ ông nghĩ thà bé tổ quốc còn hơn to mà phải đeo cái u cộng sản. Gấp báo lại, thở dài. Người ta muốn co lại, thậm chí cả với cái giá đất nước bị bé đi thì tôi đã từng muốn nó lớn tràn ra khắp thế giới. Để cho bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình.

No comments: