Tuesday, June 13, 2017

SƠN TRUNG * ĐÈN CÙ


 

CỐT LÕI TRẦN ĐĨNH
SƠN TRUNG  


CÔT LÕI ĐÈN CÙ I
ĐÈN CÙ I 


CHƯƠNG I




AN TOÀN KHU





LÃNH TỤ HỦ HÓA
Một dạo Phan Kế An ngày ngày đến vẽ Cụ Hồ. Một chiều về sớm hơn, An nói: “À, cái Z tự nhiên mang ba lô, chăn chiếu đến chỗ Ông Cụ, tớ được xua về sớm. Vài tháng sau, An lại về muộn. Hỏi vì sao thì An nói không thấy Z. đến nữa. “Chắc máy Cụ yếu!”, giải đáp thuần túy sinh học. Không tính đến sở thích, gu của cụ.
Hồi đó, nhiều cộng tác viên tên tuổi như Nguyễn Khánh Toàn, Trần Văn Giàu, Xuân Thuỷ, chủ nhiệm báo Cứu Quốc. v.… hay lui tới Sự Thật. Cái tiền sảnh kề bên Tổng bí thư này là nơi các vị được nói năng thoải mái nhất, không sợ lộ bí mật, bô báo. Có mấy vị thường kể chuyện học ở Liên Xô.
Một hôm đi tắt về báo, qua sau dẫy chuồng xí của Văn phòng Tổng bí thư, tôi nghe thấy tiếng Lê Đạt, thư ký văn hoá văn nghệ của Trường Chinh láu táu nói rất to ở trong đó. Lát sau, tôi hỏi Đạt: “Cao đàm khoát luận gì trong chuồng xí thế mày?”. Đạt cười: “À, ngồi cạnh ông Thận, ông ấy hỏi ý kiến về bài Trần Văn Giàu viết về nhất nguyên, nhị nguyên trong triết học ở trên báo chúng mày…”
Nên chú thích: chuồng xí là một dẫy ba ngăn có liếp nứa che chắn từ vai xuống cho nên nếu ai đó cần “lên gân” thì thường phải quay mặt đi cho người ngồi bên không thấy mình đang quá vất vả vận dụng nội lực. Ít nhất đó cũng là chỗ không dung túng cho người ta che giấu hẳn thái độ. I
*


Trở lại chuyện mấy vị lý luận sừng sỏ Trần Văn Giàu, Nguyễn Khánh Toàn… của đảng hay tạt Sự Thật tán. Cán bộ nói chung thường độc thân, vấn đề sinh lý nổi lên ám ảnh.
Một bữa, một vị (cho miễn nói tên) nói chuyện khi học ở Liên Xô cua gái Liên Xô thế nào. Này, tóc màu gì thì lông ở chỗ ấy cũng mầu ấy, thế chứ, có đứa như nghịch đem cả một cái mai cua bể luộc đỏ au úp vào… Rồi lại nói Ông Bác chỉ tìm nạ dòng. “Sao lại thế?” Thấy bác dại, chúng tôi kêu lên. Thì được giải thích: “Thế là Bác khôn, nạ dòng thì đỡ rày rà hậu sự …”
Nhiều vị thèm lấy vợ bé. Nêu cả danh tính các đối tượng trong mơ ra. Rồi kể tiếu lâm. Những chuyện làm giậm giật hết chân tay đã thành một mục giải trí công cộng. Hội nghị hễ nghỉ giải lao lại tán chuyện tiếu lâm. Ngay tại hội trường.
Họp Quốc hội, đại biểu mắc màn ngủ liền nhau trên sạp nứa dài chừng mươi mười lăm mét, khuya Nguyễn Hữu Đang vào lầm màn linh mục T., thân sĩ kháng chiến nổi tiếng. Nguyễn Hữu Đang kêu lên: “Ối giời, thảo nào mời ra làm cố vấn tối cao. Cao quá kìa!” Linh mục cười: “Mấy hôm họp Quốc hội được 'văn hoá cao' có cá thịt vào bụng nó mới vô kỷ luật thế”.
“Văn hoá cao” nghĩa là ăn có thịt cá. Đến mức khốn nạn nào đó, cờ soái văn hoá nhảy sang cắm vào miếng thịt.
Tố Hữu một trưa dậy ra suối giặt quần đùi. Ca cẩm với Kim Lân:
- Xuân Diệu nó mó máy mà tuột bu nó mất xích, mệt quá! Mà hai hôm nay lại cơm ăn toàn với măng.
Hai chuyện trên đây nằm trong danh mục tiếu lâm có thật.Ch. I
*
 CHƯƠNG II
KỲ VÂN -CỘNG SẢN SỢ CỘNG SẢN 
Tù ở Sơn La quá đông, Pháp giãn một số trong có Kỳ Vân về căng Bá Vân, Thái Nguyên. Đến đây, phớt lờ chi bộ, anh vượt ngục về Hải Phòng, sống ở Lạch Tray - mẹ anh có hàng dẫy nhà ở Hải Phòng và nhiều ruộng ở Kiến An - dặn mẹ ai hỏi thì bảo anh vẫn bị tù. “Vì sao?” Mẹ hỏi. “Vì không thì người ta giết con”, “Ai giết?”. “Các đồng chí của con… Con tự ý trốn tù mà…” (Tôi hỏi ngay: “Biết thế sao còn trốn?”. Kỳ Vân cười: “Thế triệt để tôn trọng pháp luật Tây mới là cách mạng à? Có thể trốn thì cứ trốn chứ. Cách mạng cần người hay cần tù?”)
Được ít lâu, bà mẹ tìm nói có người tên là Tự nhiều lần đến khẩn khoản xin gặp anh Đông, có chuyện rất cần. Nhận ra là Hoàng Quốc Việt, Kỳ Vân bèn gặp. Theo lệnh Trung ương, Việt tìm Kỳ Vân để bảo Kỳ Vân biết cùng sang Hoa Nam tham gia đại hội thành lập Việt Nam độc lập đồng minh hội do Quốc Dân Đảng Tưởng (Giới Thach) triệu tập cuối năm 1942. Họ muốn thống nhất các tổ chức chính trị Việt Nam ở Hoa Nam lại để đánh Nhật ở trong nước và cung cấp tình báo cho họ.II
*
 CỘNG SẢN HẠI QUỐC GIA

Một chuyện nghe anh kể mà tôi rất phân vân. Lúc đó ở Sơn La giam mấy chục lính khố đỏ ủng hộ Trần Trung Lập theo Nhật nổ súng chống lại Pháp khi Nhật tiến công vào Lạng Sơn cuối 1940. Thua, Pháp đành ngừng
việc Đồng Minh chuyển vũ khí, trang bị cho Tưởng qua đường Hải Phòng - Vân Nam cũng như để Nhật đóng vài trăm quân trên mạn bắc sông Hồng và ở cảng Hải Phòng. Đổi lại, Nhật trả tù binh gồm cả những lính khố đỏ này cho Pháp. Ở nhà tù Sơn La, họ đặt kế hoạch vượt ngục để sang Trung Quốc. Nắm được tin này, chi ủy cộng sản liền chủ trương báo cho Pháp biết, phá không cho các tổ chức quốc gia “phản động” có thêm lực lượng, nhất là binh lính nhà nghề. Là chi ủy viên, Lê Liêm báo Kỳ Vân về quyết định này. Ai ngờ Kỳ Vân chất vấn luôn bí thư Lê Thanh Nghị. Trong tù, kỷ luật sắt, phổ biến vô nguyên tắc, biết vô nguyên tắc nghị quyết tối mật của chi ủy mà lại còn chất vấn và bất bình phản đối như thế này nữa thì cầm bằng toi. Kỳ Vân thế là lại thêm vết. Đám lính khố đỏ sau đó bị Pháp chuyển đi nhà tù khác… Vì sao thì bố ai biết, Kỳ Vân bảo tôi. Chắc họ bị lộ.
Tôi phục Kỳ Vân ngay thẳng nhưng không tán thành việc anh bênh lính khố đỏ!
- Nhưng sao phải phá họ? - Anh cười hỏi vặn lại.
- Phản động mà!
- Phản động mà chống Pháp! Đã mắc lừa Nhật cú vừa rồi thì lẽ nào vượt ngục ra họ lại tự đem họ nộp cho Nhật nữa? Vậy vượt ngục là để họ chống Pháp và Nhật. Còn với ta thì lấy gì bảo họ chống ta? Hay là vì đảng phải dẹp các đảng phái quốc gia để giành lấy độc quyền lãnh đạo? Trước khi hợp nhất, ba tổ chức cộng sản chẳng chửi nhau là phản động và đều muốn xơi tái nhau cả đấy thôi.II
*
 CHƯƠNG III

BÁC TẶNG DÂY CHUYỀN

Yêu cộng sản Pháp, Cụ Hồ gửi Léo mang một sợi dây chuyền vàng về tặng con gái Tổng bí thư Maurice Thorez. Ai ngờ, dây chuyền bỗng không cánh mà bay. Tin tối mật nhưng cũng đã lọt tai mấy đứa ở báo đảng sống kề bên Tổng bí thư.III
*
NGÔ TẤT TỐ

Và Tố đã lỡ khai rằng hồi ở báo Cứu Quốc, trong một lần rượu Tết quá chén, Tố có nói một câu bậy bạ nghiêm trọng như sau: Tôi là con chó, con chó thời Tây rồi thời cộng sản. Cho thời Tây còn ủng oẳng sủa dăm ba tiếng chứ chó thời cong sản thì cúp đuôi nằm im re…[...].
đoàn kịch Chiến Thắng gồm có Song Kim, Hoàng Tích Linh và anh. Hai nhà lãnh đạo tài ba cũ Thế Lữ và Võ Đức Diên, nhà kiến trúc sư kiêm kịch tác gia và anh ruột của Trần Quang Huy đã bị Tố Hữu phế bỏ. Tố Hữu chỉ thị cho Tích Linh và Mạc Phi, hai đảng viên:
- Đảng đưa hai anh vào đây để làm gì? Để lọc hết máu tiểu tư sản cho đoàn kịch. Lọc rồi thì chuyền máu gì cho anh chị em? Máu công nông binh! Nói cụ thể là phải quần chúng hoá, tập thể hoá, quân sự hoá đoàn kịch… Tập thể hoá là thế nào? Nói cho dễ hiểu là không cần sân khấu, bục diễn, hậu trường, cánh gà, son phấn chi cả. Diễn lửa trà… à… trại… giữa trời, lưa.. trà… à… trại là đi thẳng từ quần chúng đến quần chúng. Tư tưởng tập thể còn là gì nữa? Là việc sao chỉ cần một người hát giọi? Đúng, ta cần là quần chúng đều biết hát, đều tự hát để tự nghe, tự nâng cao tình cảm cách mạng lên. Làm sao phải xòn phe cho rối mắt quần chúng? Bên Trung Quốc vì quần chúng, người ta thay đồ, rê bằng 1, 2, 3, quần chúng nhìn vào hát ngay được.
Theo Mạc Phi thì cụ đồ Tố và Tuân xung khắc nhau. Tố cho là Tuân kênh kiệu vờ để hách lác thật. Điệu bộ sang cả chuyện” lột xác “cho khác người. Tố mách Phi lật cái ảnh con trai Tuân, đại đội trưởng Trần Xuân Trường mà Tuân để ở trên bàn nứa của Tuân ra mà xem mặt sau. Phi xem. Thấy Tuân đề ở sau bức ảnh dòng chữ: “Je suis le fils de mon fils”. (Tôi là con của con tôi). Tố hỏi Phi: III
*


CHƯƠNG IV


CHUẨN BỊ CCRD 


Chuẩn bị cải cách ruộng đất, từ giữa tháng 7 đến cuối tháng 9 - 1953, Trung ương mở một lớp chỉnh huấn cho trí thức trong và ngoài đảng làm việc ở chính phủ và các đoàn thể trung ương. Nhiều tên tuổi như Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên, Thế Lữ… đã dự học. Mục đích sâu xa là xây dựng lập trường giai cấp, đề cao công nhân, bần cố nông, hạ uy thế chính trị và tư tưởng của trí thức và các giai tầng không lao động chân tay khác. Sau đó, bắt đầu triệt để chỉnh đốn tổ chức, theo phương châm mạnh mẽ đề bạt công nông, gạt bỏ các thành phần “không trong sạch”.IV


*
HCM


Tố Hữu là bí thư học ủy. Cụ Hồ cách nhật, có khi liền ngày, đến xem điện ảnh, liên hoan với học viên. Cụ có mấy câu nổi tiếng trong hội trường: “Bác Hồ muốn nằm” khi mọi người hô “Hồ Chủ tịch muôn năm”. Rồi tay chỉ vào đầu: “Từ đây thì Bác già, nhưng từ đây (tay chỉ vào bụng) thì Bác trẻ”. Một hôm, Bác nói: “Các chú các cô không sợ người ta kêu mình kém tri thức, ít lý luận. Họ kêu thì bảo họ rằng tôi lú nhưng chú tôi khôn. Chú tôi là Stalin, Mao Trạch Đông…”IV


*
CHỈNH HUẤN 


Người đầu tiên tự sát trong chỉnh huấn là Thân Mỡ, người đảng viên do Kỳ Vân kết nạp đầu tiên ở Đình Bảng, lúc học ở trường Mác-Lê Bắc Kinh rồi treo cổ chết khi tổng kết tư tưởng.
Ở lớp chỉnh huấn Lưu Động, Chính Yên báo Cứu Quốc dự, có Thướng, biên tập viên cùng báo với hai anh. Thướng treo cổ bên ngòi Thia, sông Đáy. Hai anh đã phải lặn lội tìm xác kẻ “phản bội,” lời của bí thư học ủy Nguyễn Chương. Học viên phải họp mít tinh ở hội trường rầm rầm hô đả đảo tội ác của tên Thướng mưu phá hoại chỉnh huấn, một phương thức quan trọng của xây dựng đảng. Chính Yên bảo tôi là trước đó Thướng ngồi trong hội trường một mình rất lâu. Bước ra thấy Chính Yên, Thướng quay đầu lại sau chửi:
- Mẹ chúng nó cao cao tại thượng. Trên cao chỉ có ảnh Mác, Ăng-ghen, Lê-nin, Stalin, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh.
Chính Yên nói anh không nghĩ Thướng chửi mấy cụ đó.
Động cơ nào khiến một số anh em tự thủ tiêu. Nhục rồi tự xoá bỏ? Hay mượn diệt bản thân mà hy vọng diệt chính cái kẻ đã đưa mình tới nông nỗi tuyệt vọng này?
Tự sát biết đâu chẳng phải là muốn lẩn trốn một cách sống kinh hoàng? Đời thuở nào ngồi trước chi bộ lại lôi việc bố đi nhà thổ, mẹ ngủ với đày tớ ra trình báo?
À, lại còn tế nhị cho phép là nếu việc xấu xa quá thì sẽ được báo cáo riêng với học ủy. Tại lớp học tôi theo có người đau đớn khai ra việc mình ngủ cả với mẹ vợ và em gái vợ, có khi một đêm riêng rẽ với cả ba người. Khai rõ đủ thủ đoạn dụ dỗ, lừa bịp và cách tiến hành “tội ác” để lôi được tận gốc rễ của tư tưởng địa chủ nó ích kỷ, đểu giả, tàn bạo đến thế nào.
Chăm chú ghi từng câu hỏi của tập thể để trình bày cụ thể động cơ, địa điểm, thủ đoạn phạm tội. Có đồng chí khai mắc sai lầm thủ dâm. Năm chục tuổi mà còn mắc cái đó thì tư tưởng chiếm hữu và hưởng thụ của địa chủ ở đồng chí lớn quá thật. Nào đồng chí nói cho biết khi phạm tội đó đồng chí nghĩ chiếm hữu ai?
- Báo cáo (người trong chi bộ tôi và Nghiêm vừa tự thú bỗng nghẹn ngào) … báo cáo, tôi… Báo cáo…, cả chi bộ lắng nghe. Báo cáo tôi nghĩ đến cô con gái nhà chủ ở địa phương.
“Thành phần gia đình?”
“Có lẽ phú nông…”
“Đấy, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, tư tưởng bóc lột gặp nhau đấy”.
Cứ thế nghiêm chỉnh xây dựng tư tưởng vô sản cho nhau. Đấu tranh tư tưởng là phải truy lùng triệt để như thế!
Nhưng có những người khóc vờ cho qua cầu. Thí dụ Dương Bích Liên. Anh bảo tớ có cách. Tớ nghĩ đến thuở bé tớ lấy lửa đốt các tổ kiến cho cháy xèo xèo thế rồi tớ chảy nước mắt thật. Sau này đi cải cách Liên luôn thủ một hộp sữa bên mình, đêm mút trộm. Tự bào chữa: cái này mình có mời thì nông dân cũng lắc.
Xin trở lại chuyện Nguyễn Tư Nghiêm.
Thương anh, kẻ bị Tố Hữu “uốn nắn thái độ” không yêu thương đồng chí là tôi đã xui bậy anh khai bừa đi là căm thù cho xong chuyện. Bảo anh là nói vâng, tôi căm thù trống không như kiểu Galilée nhận quả đất đứng nhưng miệng lẩm bẩm cho một mình mình nghe là nó vẫn quay ấy!
Nhưng Nghiêm cứ đau khổ lí nhí bảo tôi:
- Không…, không căm thù mẹ được.
Nghiêm cũng không căm thù được cả các địa chủ khác.
Một xẩm tối, chờ lên hội trường nghe giải đáp, Nghiêm bảo tôi:
- Tớ biết thế nhưng tớ không theo nổi. Tớ đọc Marx-Engels thấy nói Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với chế độ tư hữu; như thế tất nhiên nó phải đoạn tuyệt triệt để nhất với các tư tưởng truyền thống “Table rase” cơ mà, xóa sạch… Tớ biết thế nhưng tớ không theo thế được…
Lúc ấy cố nhiên Nghiêm chưa nghe Cụ Hồ nói đại ý giữa nhà to là nước với nhà nhỏ là gia đình riêng thì cái to là nặng, cái nhỏ là nhẹ, vậy nên người cách mạng chọn gia đình to.
Nhưng có nghe thì Nghiêm cũng không theo. Marx còn chả làm gì nổi được Nghiêm mà.
… Lần tham gia cải cảch ruộng đất ở Đức Lân, gần kè Úc Sơn, Thái Nguyên, sau một cuộc phát động quần chúng đấu tố địa chủ, Nghiêm mất tích. Tiêu tan đi như một cái bóng. Đội đã nghĩ tới phản động thủ tiêu. Ai hay quá kinh hãi về sự độc ác của con người với con người, anh bỏ trốn đội. Lủi ra ẩn ở giữa đồng lúa đang cữ trổ đòng. Bạch Mao nữ trốn địa chủ còn có rừng sâu, Nghiêm trốn đội cải cách chỉ còn có cánh đồng và những đòng lúa non cho anh bứt nhá thay cơm nhiều ngày. Phát hiện ra anh, người ta chỉ có thể kết luận là anh điên.
Và Nghiêm đã vào nhà thương điên Bạch Mai. Chung phòng với một anh lính điên. Kim Lân lúc đó là chi ủy viên phải đến thăm Nghiêm.
- Chả hiểu sao lại cho mình chui vào cơ quan lãnh đạo như vậy chứ? - - Kim Lân lè lưỡi bảo tôi
Cậu lính khen Nghiêm tốt lắm nhưng hễ lên cơn anh ta lại cứ nhè đầu Nghiêm mà nện. Tài, - Kim Lân nói, đau thế, ngày hai ba trận đòn điên thế mà nhất định không chịu ra nhá. Sau nhiều lần vào, tớ cứ dỗ cu cậu. Nào về với anh em đi, Nghiêm… Về…, về vẽ với anh em cho vui nhỉ…
Về một thời gian được đặt hàng minh hoạ Truyện Kiều.
Trường Chinh cho xổ toẹt. Phê rằng truyện Kiều là của Trung Quốc mà lại vẽ ăn mặc kiểu Việt Nam? Thật ra ông ấy không xài được những nét vẻ run rẩy mà mọi người kinh hãi lên vì đẹp và gọi là phong cách “thời kỳ điên”.
Sau đó, Trường Chinh muốn an ủi Nghiêm, ba lần mời Nghiêm đến
gặp. Nghiêm từ chối. Rúc vào đồng im lặng. Nay những bức vẽ Kiều được săn lùng ngang đồ sứ Minh - Thanh…
Bây giờ, thế kỷ 21, Nghiêm vẫn hoàn toàn rúc vào tranh và im lặng. Tây Tàu đến tìm gặp người đàn bà sống chung với anh nói anh đi vẽ xa. Bao giờ về? Không biết… Mà có khi chết giữa đường, ông ấy dặn trước như thế.
Khoảng 2009, 2010, một tối ở nhà Trần Lưu Hậu tôi gọi cho Nghiêm. Vợ anh, người đàn bà hay từ chối khách nói ông ấy ốm. Tôi nói xin bà nói giúp với ông ấy tôi là thế này. Ba phút sau Nghiêm ra.
- Ốm thật… Ừ, đến chơi nhé… Nhớ đến nha. Có tránh nhưng tránh ai thôi… Vẫn thoáng cái giọng Nghệ từ tốn, thấp trầm.
Tôi hài lòng. Có thế chứ. Rủ tôi bỏ cộng sản từ rất sớm cơ mà. Tết Quý Dậu, 1957. Giữa thoái trào dữ dội của phong trào cộng sản trên toàn thế giới…IV
*
 CHƯƠNG V


CCRD-CAT HANH LONG


Cải cách ruộng đất chính thức nổ pháo hiệu đầu tiên ở xã Dân Chủ, Đồng Bẩm, Thái Nguyên, trên quốc lộ 1 lên Lạng Sơn. Đối tượng: Nguyễn Thị Năm, tức Cát Hanh Long, nhân sĩ tên tuổi trong Trung ương Hội Liên Hiệp Phụ Nữ cũng như Trung ương Mặt trận Liên Việt, người thường cùng họp long trọng với Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Hoàng Quốc Việt. Nay bà trở thành địa chủ phản động, cường hào gian ác lợi dụng tiếng thân sĩ để phá hoại cách mạng và kháng chiến, có nhiều nợ máu với bần cố nông. Quản lý đồn điền Nguyễn Lân, nguyên vô địch võ sĩ quyền Anh trước kia nổi tiếng khắp Đông Dương cũng là đối tượng đấu tố và xử bắn. Đặc biệt Công, con trai bà Nguyễn Thị Năm, Việt Minh bí mật, nay là chính ủy trung đoàn pháo 105 li đang học ở Côn Minh, Trung Quốc cũng bị gọi về, treo giò.
Một tình tiết thú vị: khi tướng Pháp Cogny lập tập đoàn cứ điểm đầu tiên ở Nà Sản mà ta không công phá được vì thiếu đại pháo bắn cầu vồng, đơn vị pháo 105 ly của Công đã chuẩn bị về nước tham gia chiến dịch thì Cogny rút, pháo ta bèn nán lại học tiếp. Ai ngờ việc đó đã khiến tướng Navarre kết luận Việt Minh không có đại pháo do đó hăng hái nhảy lên Điện Biên Phủ và Piroth đại tá pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ đã giật lựu đạn tự sát ngay khi pháo Việt Minh lên tiếng.
Để có phát pháo mở đầu cuộc cải cách ruộng đất, Trường Chinh chỉ thị báo Nhân Dân tường thuật vụ đấu Nguyễn Thị Năm - Cát Hanh Long. Tôi nhận nhiệm vụ. Trường Chinh nói phân công tôi vì cần một bài báo viết nổi bật lên khung cảnh sôi sục, sinh động của cuộc đấu tố để ca ngợi sức mạnh của bần cố nông được phát động, còn tội ác thì tôi cứ theo tài liệu, cáo trạng của đội. Tôi nói tôi không dự đấu tố thì anh bảo tôi khai thác Văn, người cấp dưỡng theo anh tới tận Đồng Bẩm và đã chứng kiến các buổi đấu tố. Sở dĩ báo chí không dự đấu là vì giữ bí mật, ngại Đồng Bẩm cách Hà Nội có vài chục cây số đường chim bay, Pháp có thể nhảy dù xuống đó. Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm suốt.
Thế là tôi viết bài khai hỏa cải cách ruộng đất theo sự pha phách thêm nếm khó lòng tránh khỏi của người cấp dưỡng đáng yêu của tổng bí thư.
Sống trên rừng buồn, Văn nuôi một bộ râu dài rất đẹp. Cả vùng có lẽ chỉ có hai bộ râu tiên cốt là của Cụ Hồ và của Văn.
Nhưng Trường Chinh đã bắt anh cắt. “Anh để râu, dân cứ lầm anh là Bác, mà chào anh Bác ạ, thì anh lại cười”.
Văn mất râu nhưng còn đôi mắt cũng quăng quắc song mục đồng trùng. Dân lại kháo nhau: “Ông Ké dạo này giấu râu, ta chào thì quay đi”. Tôi bảo Văn khéo phải đeo kính thày bói chứ không khó lòng giữ nguyên được mắt. Xuống chợ Nỉ mà mua kính đi.[...].
Có lẽ để phối hợp với bài báo của tôi, CB (Bác Hồ) gửi đến bài “Địa chủ ác ghê”.
Thánh hiền dạy rằng: “Vi phú bất nhân”.
Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khóa - thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:
Mụ địa chủ Cát - Hanh - Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã kể các tội cụ thể và con số cụ thể”.
(Trong hồi ký nói về mười nỗi buồn của Bác Hồ, viết Bác không tán thành đấu Nguyễn Thị Năm nhưng phải nghe cố vấn Trung Quốc, Hoàng Tùng vô tình hay cố tình quên bài báo Bác gây căm thù cao độ này. Đâm ra lại đổ cho Bác cái lỗi không kiên định - nghe cả điều sai vốn trái với ý mình)
Dăm bữa sau bài “phóng sự nghe kể lại,” tôi xuống Đồng Bẩm. Tình cờ Tiêu Lang, báo Cứu Quốc, trong đội cải cách về đây còn ở lại lo hậu sự. Tôi hỏi chuyện bắn, anh lè lưỡi lắc đầu mãi rồi mới kể lại.
“Sợ lắm, tội lắm, đừng có nói với ai, chết tớ. Khi du kích đến đưa bà ta đi, bà ta đã cảm thấy có gì nên cứ lạy van “các anh làm gì thì bảo em trước để em còn tụng kinh”. Du kich quát: “Đưa đi chỗ giam khác thôi, im!”. Bà ta vừa quay người thì mấy loạt tiểu liên nổ ngay sát lưng. Mình được đội phân công ra Chùa Hang mua áo quan, chỉ thị chỉ mua áo tồi nhất. Và không được lộ là mua chôn địa chủ. Sợ như thế sẽ đề cao uy thế uy lực địa chủ mà. Khổ tớ, đi mua cứ bị nhà hàng thắc mắc chưa thấy ai đi mua áo cho người nhà mà cứ đòi cái rẻ tiền nhất. Mua áo quan được thì không cho bà ta vào lọt. Du kích mấy người bèn đặt bà ta nằm trên miệng cỗ áo rồi nhảy lên vừa giẫm vừa hô: “Chết còn ngoan cố này, ngoan cố nổi với các ông nông dân không này?”. Nghe xương kêu răng rắc mà tớ không dám chạy, sợ bị quy là thương địa chủ. Cuối cùng bà ta cũng vào lọt, nằm vẹo vọ như con rối gẫy vậy…”
Rồi tôi được nghe truyền đạt rằng các nước anh em ở Đông Âu, không phải Bác Hồ, tỏ ý không tán thành cải cách ruộng đất mà còn bắn đầu tiên một phụ nữ.
Chính ủy Công (được vinh dự CB nhắc đến trong bài báo trên kia) bị điệu từ Vân Nam về và ngồi cùng mẹ chịu đấu tố nhưng nghe nói không được dự buổi chôn cất mẹ. Nhưng đầu những năm 90, anh đã cải táng được cho mẹ rồi sau đó anh chết, lúc chỉ còn là một người bạc nhược, sợ sệt, lú lẫn.
Khoảng 1980-81, Minh Việt bị cổ chướng nằm bệnh viện, tôi ngày ngày đến trông nhà cho anh chị và nhân tiện hiệu đính “Gia đình Ti-bô” cho Nhà xuất bản Văn học. Một sáng nọ, một người trung niên đến. Rụt rè sợ sệt hỏi chị Minh Quang (vợ Minh Việt). Tôi nói chị ấy đi làm. Thì anh nói tên anh là Công như thế như thế muốn đến xin chị Minh Quang chứng nhận cho những ngày đầu kháng chiến anh có chiến đấu ở Khu Thành Công. Ái ngại bảo anh chỗ tìm chị Minh Quang xong, tôi thăm hỏi. Anh nói quên hết cả rồi.
- Còn nhớ tiếng Trung Quốc không?
“Kai pao, khai pháo, da tung xi xiang, đả thông tư tưởng, nhớ chứ?”
Lắc.
- Có 105 thì còn chỉ huy được không?
- Quên hết rồi. - Lắc, cười hiền lành.
Những chữ “quên mất rồi” ở anh nghe thê lương, kỳ lạ như từ nguyên thủy hoang vắng.
Thì chợt nói:
- Cũng còn nhớ được một ít.
Mặt Công hơi rạng sáng lên, nói:
- Cái ngày 20 tháng 8 năm 1945, báo Đông Pháp nhà tôi mua tháng gửi lên thì lại đổi thành Đông Phát, cả trang nhất đưa tin Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Tôi vội chạy đưa cho Hoàng Thế Thiện để hắn chuyển ngay tới hai ông Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đang chỉ huy đánh trại lính Nhật ở thị xã Thái Nguyên. Hai ông lúc ấy ở đồn điền ông Nghiêm Xuân Yêm ở Cù Vân. Nhờ tờ báo này Trung ương mới biết Hà Nội đã tổng khởi nghĩa…”[...].
Bà Năm không thể biết người con trai là cựu chính ủy pháo rồi mắc chứng quên. Nhưng dân Đồng Bẩm thì không quên. Ở xã này có một quả đồi được dân tự động đặt cho nó tên một nạn nhân lớn: đồi Nguyễn Thị Năm. Đồi A1 Điện Biên Phủ thì Nhà nước đặt. So tên hai quả đồi thấy xem ra dân chuộng công minh hơn tự ca ngợi công tích.
Sau Nguyễn Thị Năm một tháng đến lượt xử Cử Cáp. Phát khai hoả thứ hai. Lần này tôi đến dự buổi thi hành án: bắn.
Mít tinh tuyên án vào buổi tối. Bãi đất thuộc xã Phú Xuân, vùng chè Tân Cương. Vài trăm con người ngồi vây kín lấy một khoảnh đất trống. Khai mạc rất thình lình.
Cũng thình lình chánh án Lê Giản xuất hiện.
Lại cũng rất thình lình mấy người lính giải hai đối tượng đi ra. Cử Cáp, hơn bảy mươi tuổi, nguyên huấn đạo, ủy viên Mặt trận Liên Việt, cũng địa chủ kháng chiến, thân sĩ như Nguyễn Thị Năm, tức là thuộc diện bị chính sách cải cách ruộng đất chiếu cố. Ấn tượng mạnh nhất ở ông già là chỏm râu bạc trắng. Cạnh cụ, bí thư chi bộ nhưng nay đã thành “Quốc dân đảng” thông đồng với Cử Cáp phá hoại kháng chiến. Thấp nhỏ, chạc bốn chục tuổi, anh có cái dáng quen thuộc của cán bộ xã ta thường hay lui tới nhà cùng cơm nước, ngủ đêm…
Không như Cử Cáp nom lớ ngớ - diễn viên chưa quen vai - anh có bộ dạng phức tạp: vừa sợ vừa khấp khởi. Đến phút cuối cùng thế nào đảng cũng hiểu bụng dạ trung thành của anh mà tha anh. Hai bị cói lép kẹp dưới nách, hai bị cáo đứng rúm ró. Duy một vật sống động, phiêu diêu tự tại: chòm râu cụ Cử Cáp. Nó cứ thanh nhàn vờn múa trong cái không gian và không khí rùng rợn, căng thẳng như đông cứng lại này. Tôi thấy nó như đang muốn thị phạm một cách giao tiếp dễ nghe, dễ hiểu, dễ tin cậy, không phải cái lời lẽ từ nay khó lọt tai nhau.
Chánh án Lê Giản tuyên bố Chủ tịch nước bác đơn xin ân xá. Lim, lệt sệt đôi ủng ra hô:
- Giải chúng đi!
Vọt ra năm sáu người lính đẩy hai người tù quay lui. Tôi thấy thô bạo quá. Nhưng kìa, họ vừa mới quay người, tốp lính đã quỳ rộp một cái xuống, đưa tiểu liên lên bóp cò. Lửa nhằng nhằng. Hai cái thân đổ vật. Chị cốt cán trẻ đứng bên tôi ôm chặt lấy tôi líu lưỡi lại:
- Anh có dầu… dầu Con Hổ, cho em…?
Đúng là phải dạy và nạp căm thù vào. Không thì khó có thể tự nhiên đùng đùng bạo lực.
Hai xác người nằm thẳng mềm mại. Bộ quần áo Cử Cáp xòa trắng tôn thêm mầu ánh bạc của chòm râu lên - cái vùng trắng duy nhất tinh khiết ở đây. Lịch phịch đôi ủng nặng, Lim đến bên từng người bắn vào thái dương phát súng “ân huệ”.
Thương, sợ và cả bất bình lẫn lộn trong tôi. Một sức mạnh nào đó không biết đã kéo tôi là đứa vốn nhát máu đến đứng trước cụ Cử Cáp.
Vô thức muốn nói với cụ một lời phân vua: “Thưa cụ, tôi không muốn thế này cho cụ…” Hay đúng hơn, chính chòm râu ông nội chợt hiện lên gọi tôi đến với nó?
Cái bị cói vẫn trung thành lép kẹp dưới nách gầy. Cạnh nó, một quả chuông to tướng, đỏ sậm, mầu ấm Mạnh Thần, quả tim bật ra như một chồi thịt nhầy nhụa, thon thót trên ngực người chết: cái chồi thịt, cái nụ sống ấy đang lén leo ra tìm gấp một nẻo trú ẩn riêng, xa khuất hẳn cái nơi đáng sợ này.
Sáng sau, cùng một cán bộ đội - “nhất đội nhì trời” - tôi vào nhà Cử Cáp. Một dãy nhà trình cổ, sơ sài trên một thềm đá ong quá cao, ngang eo tôi, nứt toác, sứt sẹo. Một mảnh sân đất đỏ quá rộng tưởng đi mãi không hết. Một bà già ngồi xổm trên thềm hai tay quàng ôm một đứa bé. Nhác thấy chúng tôi, bà cụ vội buông hai tay đứng lên để chắp lại vái. Con mắt cháu bé lập tức trợn lên kinh hoàng. Nó kêu “E!” Một tiếng rồi chạy. Rồi ngã ịch một cái từ trên thềm cao xuống sân.
“Sợ lắm, tội lắm, đừng có nói với ai, chết tớ. Khi du kích đến đưa bà ta đi, bà ta đã cảm thấy có gì nên cứ lạy van “các anh làm gì thì bảo em trước để em còn tụng kinh”. Du kich quát: “Đưa đi chỗ giam khác thôi, im!”. Bà ta vừa quay người thì mấy loạt tiểu liên nổ ngay sát lưng. Mình được đội phân công ra Chùa Hang mua áo quan, chỉ thị chỉ mua áo tồi nhất. Và không được lộ là mua chôn địa chủ. Sợ như thế sẽ đề cao uy thế uy lực địa chủ mà. Khổ tớ, đi mua cứ bị nhà hàng thắc mắc chưa thấy ai đi mua áo cho người nhà mà cứ đòi cái rẻ tiền nhất. Mua áo quan được thì không cho bà ta vào lọt. Du kích mấy người bèn đặt bà ta nằm trên miệng cỗ áo rồi nhảy lên vừa giẫm vừa hô: “Chết còn ngoan cố này, ngoan cố nổi với các ông nông dân không này?”. Nghe xương kêu răng rắc mà tớ không dám chạy, sợ bị quy là thương địa chủ. Cuối cùng bà ta cũng vào lọt, nằm vẹo vọ như con rối gẫy vậy…”
Rồi tôi được nghe truyền đạt rằng các nước anh em ở Đông Âu, không phải Bác Hồ, tỏ ý không tán thành cải cách ruộng đất mà còn bắn đầu tiên một phụ nữ.
Chính ủy Công (được vinh dự CB nhắc đến trong bài báo trên kia) bị điệu từ Vân Nam về và ngồi cùng mẹ chịu đấu tố nhưng nghe nói không được dự buổi chôn cất mẹ. Nhưng đầu những năm 90, anh đã cải táng được cho mẹ rồi sau đó anh chết, lúc chỉ còn là một người bạc nhược, sợ sệt, lú lẫn.V
*
 CHƯƠNG VI


  VC DÂM Ô-PHÂN BIỆT GIAI CẤP


Hôm đến lấy giấy tờ để trở về báo đi học nước ngoài, chờ mãi không có ai, tôi lăn ra giường ngủ mất. Tỉnh giấc mà phải nằm im: câu chuyện khám phá đàn bà của từng vị ủy viên đang hồi mặn mòi nhất. Nghe ké ngoài rìa mà chân tay cũng rậm rựt lên.
Học viên là cán bộ, cốt cán tứ xứ đến lớp cũng ra sức nam nữ khám phá nhau. Gần như cuồng loạn. Cao trào phóng tay phát động bần cố đã tạo dịp cho con dục quậy. Bí thư đoàn ủy Hoàng Quốc Việt phải bỏ hẳn một buổi gọi tất cả lên hội trường rủa: “Ở đây có những con đĩ…, con đĩ… Ai đời đến độ ở lán nữ với nhau mà hễ tối có ai đi đâu về là cả lán lại nhòm đũng quần xem có gì? Đảng viên như thế à? Cốt cán như thế à?”
Nguyên Hồng, Kim Lân và tôi thường ngồi ngoài sân, giáp hông hội trường. Kim Lân lè lưỡi:
- Dạ, đấy là em còn bận đấu tranh với căm thù đấy ạ!
- Nông dân, nhất là nữ rất phong tình, nay được giải phóng thì khó tránh cái chuyện lang chạ. Nhưng sao không chửi cả những thằng đĩ? - Nguyên Hồng nói.
Chia đội và rồi cứ đội hình biên chế như thế xuất phát đi công phá giai cấp địa chủ. Nhưng trước hết phải chỉnh huấn, trình bày kiểm tra lý lịch trong đội đã. Tôi cùng đội với Thanh, vợ Tố Hữu, Ninh và Tâm, hai cán bộ phụ nữ vóc dáng to lớn huyện Lâm Thao.
Lại nhớ đến lớp chỉnh huấn trí thức xây dựng lập trường cải cách ruộng đất năm ngoái, Thanh phàn nàn với mấy chúng tôi rằng trong nhà ăn lớp học từ nay anh và chị phải ăn riêng. Vì? - Tôi lạ quá.
- Anh ấy ăn chế độ tiểu táo, bếp bé, tôi đại táo.
Rồi chị giải thích, tiểu táo là cơm có ba món đặc và một canh… Tôi nhớ nhiều phần là Vũ Đình Khoa, nguyên tri huyện sau đó khẽ thì thào bảo tôi:
- Chế độ tế nhị này rắc rối đây. Ăn thế rồi, ngủ sao? Về khoản này tiểu đại chắc ngược lại, vợ giường tiểu, chồng giường đại, có hẹn cho vợ ngủ ở giường đại được bao lâu không? Mà ai bảo vệ diện tích giường to nhỏ tiêu chuẩn, ai giục ai về giường ấy? Ừ, mà còn khoản thống khoái của mỗi bên trong cuộc nữa, có chia tiểu đại không?
Lúc ấy chúng tôi mới chỉ pha trò cười thứ chế độ lố bịch này chứ chưa biết qua phát động cải cách ruộng đất ở Việt Nam (Hoàng Tùng hồi ký rằng Mao đã “gọi” Hồ Chủ tịch sang bảo phải làm cải cách ruộng đất), Trung Quốc đã rắp đưa Đảng cộng sản Việt Nam vào quỹ đạo của Trung Cộng như bóng với hình. Chẳng hạn chế độ phân biệt đối xử chi li đến gần như tàn nhẫn về hưởng thụ vật chất nói trên. Hay quan trọng hơn nữa, những thay đổi nhân sự dựa trên giai cấp xuất thân. Chẳng thế mà ở Điện Biên Phủ, Giáp dặn khẽ Lê Trọng Nghĩa, Hoàng Đạo Thúy… cần nói năng cẩn thận về lý lịch, các cố vấn đang xem xét, kể cả tôi (Võ Nguyên Giáp). Đánh mọi kẻ thù, Giáp chỉ thua kẻ thù giai cấp đang được cố vấn Trung Quốc trình làng mà nguy nhất là nó có thể nằm ngay ở trong người Giáp.
Tháng 2-1954 nổ súng ở Điện Biên thì tháng 11-1953, Hoàng Văn Thái xuống làm phó tổng tham mưu trưởng, Văn Tiến Dũng lên thay. Dũng thợ may gần công nhân hơn Thái. Hay sau này Đỗ Mười thợ sơn, thợ hoạn lợn thì ưu tú hơn đứa được học cao…
Rồi sau này đi đến phương châm nhân sự kinh hoàng của Song Hào, Phạm Ngọc Mậu: đề bạt bần cố nông một năm một cấp là chậm, đề bạt tiểu tư sản mười năm một cấp là nhanh.
Tất nhiên lúc ấy càng không biết đảng thay đổi nhân sự theo sự chỉ trỏ khôn khéo của cố vấn Trung Cộng cũng có nghĩa là đảng phủ nhận những thành tích đảng đã thu được trong quá khứ. Đúng thế, không thì thay người làm gì cho rách chuyện…? Chỗ thâm hiểm ở đó. Quá khứ của anh chưa có tôi “phụ trách” nên không ra sao, nay có tôi, anh phải thay đổi theo ý tôi. Thực chất đó là gì? Là diễn biến hung bạo, không hòa bình, của nước ngoài nắm vững Mác-Lê hơn Việt Cộng.VI
*


Đội trưởng của tôi người Diễn Châu hễ nói là tôi ù ù cạc cạc. Không quen tiếng. Khi đội trưởng tố khổ, mọi người đều khóc, mình tôi ngơ ngác. Cổn, đội phó, bé gầy, mặt rỗ, láu lỉnh, mắt liếc loang loáng. Đã làm bồi săm, “bị chúng bóc lột, khinh, nhục lắm, đi mua thuốc phiện này, gọi gái này, bắt cho nhòm lỗ khoá này, khổ cực lắm…”
Nguyên bồi săm chuyên cho nhòm khách chơi gái qua lỗ khóa lấy tiền, thực chất là lưu manh thì nay thành đại cốt cán của đảng (vì bồi là hạng tôi tớ bị bóc lột, thành phần cơ sở của đảng). Cổn đã bắt tôi ngừng báo cáo lý lịch. Nghe tôi nói bố viên chức, không nhà đất, anh giơ ngay tay lên:
- Đến bần cố nông còn có mảnh đất cắm dùi mà viên chức trong bộ máy đế quốc dựng ra để đàn áp nhân dân như bố đồng chí mà lại không? Thôi, đồng chí cố đào sâu đi, hãy gắng một lần thành khẩn với đảng, với giai cấp nông dân.
Thanh minh không lại.
Cứ một lời: “Ở đây là vấn đề thái độ, lập trường. Đồng chí không tin là đồng chí khai ra tài sản gia đình nhờ bóc lột mà có thì nông dân sẽ khoan hồng cho đồng chí sao? Thế là chưa tin cách mạng, chưa tin nông dân”.
Ức muốn khóc. Đã toan khai văng tê đi.VI
*


 CON NUÔI CỦA BÁC


Năm ngoái, trên đỉnh Đèo Re tôi gặp một cô gái khá đẹp từ Tân Trào sang mà sau đó về cơ quan tôi đã phải sang ngay Văn phòng trung ương hỏi dò Vũ Đường, sau này là chủ tịch Hà Đông, để được biết tên cô là X., con nuôi của Bác, bố mẹ trên Cao Bằng, cơ sở của cách mạng. Thế rồi tôi đã có mấy bài báo nhỏ ký tên cô cặp với họ Hoàng tôi đặt ra - hoàng phái, đẹp và sang thế cơ mà. Cái nhìn của tôi trên lưng đèo năm ngoái nặng như một cái neo chăng mà cô gái nhớ khiến chúng tôi đến lớp này liền dễ thân nhau, dù hai người hai chi bộ.
Đến bữa ăn, mặc dù cả nghìn con người chen chúc khắp xung quanh, thế nào hai đứa cũng dềnh dàng để cho cùng dạt vào một bàn, hoặc bên cạnh, hoặc đối diện. Để lại cùng xuống suối rửa bát đũa và để lại nấn ná hai đứa ở bên suối cho tới khi đám lau bên kia suối đã sầm tối và sau lưng đèn trong các lán cao thấp dọc sườn núi đã bắt đầu sáng lên, tất cả chợt nom như đêm hội Chùa Hương, điều khiến tôi thấy có thêm cả chiều kích thiêng liêng trong quan hệ hai đứa.
Cho tới một hôm, sau khi khai mạc lớp chừng hơn một tháng, Cụ Hồ đến. Nói chuyện với học viên chật ních nhà ăn. Tôi đứng đối diện Cụ, cách một bàn ăn bằng nứa rất dài. Lẽ thường thế nào cũng phải chạy đến đứng bên Cụ thế nhưng hôm nay tôi… kính nhi viễn chi. Bởi lẽ tôi muốn ngắm nhìn cô con nuôi của Bác đang đứng cạnh Bác. Lần đầu trong đời tôi nhìn Bác ít mà bận nhìn người bên Bác nhiều.
Và thú thật, có thể tôi đã lầm, tôi thấy cô gái cũng chỉ cười nhìn tôi. Nụ cười bỗng thân thiết hơn, táo bạo hơn. Con mắt bỗng rực rỡ, tưng bừng như đang tán thưởng sắc đẹp của chính bản thân. Và trên tất cả, cái nhìn đang ướm hỏi tôi: “Em giới thiệu anh với Bác nhé… nhé… “
Tôi quả đang vút lên chín tầng mây.
Hết hồi thăm học viên, Bác quay sang cô gái:
- Cô bé này về chứ biết gì mà đi?
Tôi như ngã sụp. Thoáng oán Ông Cụ.
Mới hôm qua ở suối lên, dốc trơn, tôi giơ tay ra đỡ X. Bàn tay con gái tôi lần đầu nắm lâu trong đời. Và cảm giác rạo rực theo tôi mãi. Cho tới khi X. ở bên cạnh cụ cười như bảo em mách nhé, tôi đã ngỡ mách chuyện hai đứa nắm tay nhau mà vừa mong X. mách vừa sợ. Và mới chiều nào bên suối, tôi bảo cô gái: “Sau khi gặp X. ở đỉnh Đèo Re từ năm ngoái, mình có ký tên là Hoàng X. lên báo…” thì X. đỏ bừng mặt. Có lẽ chưa ai ở chỗ Bác nói với cô gái như thế. Tay X. chợt lóng ngóng không đút nổi chiếc thìa vào trong chiếc túi dài, hẹp chừng ba ngón tay màu tím than có đường thêu tím hoa mua trên miệng túi. Chiếc thìa rơi xuống cỏ.
Tôi cúi nhặt, nghĩ: giống một chìa khoá bạc? Mở gì? và ngước lên, mắt hỏi: Cho nhá? Cô gái cúi đầu và sau đó cái thìa tôi cất ba lô, không dùng…
Về báo, tôi bảo tổng biên tập Vũ Tuân là không muốn đi học. Anh nói anh Trường Chinh đã nói cử anh đi. Tôi tạt qua bên Trường Chinh, hy vọng có thể trình bày nguyện vọng nhưng tới cây vả rừng đầu nhà sàn bà Cái, người địa phương thì Trường Chinh và người bảo vệ dắt ngựa tới đó. Anh tươi cười nói ngay:
- Tôi đồng ý anh đi học. Cần đào tạo chính quy. Vừa im súng liền ra ngoài học ngay, phấn khởi chứ?
Cây vả này tôi hay leo lên hái quả ăn. Đôi lần Trường Chinh đi dưới, tôi gọi xuống: “Ngọt lắm, anh Năm, anh có ăn tôi hái?” Trường Chinh lại ngửa cố lên cười:
- Khéo gẫy cành mà ngã đấy nhá…, cẩn thận…VI
*
 CHƯƠNG VII

CẤM YÊU

Ngay lập tức vi phạm kỷ luật luyến ái thế này chúng tôi đã láo xược thách thức toàn thể. Cả năm học ấy, chúng tôi là đối tượng giáo dục, phê phán, ngăn chặn và ép cắt đứt. Đến nay tôi cũng không hiểu tại sao tôi, nhất là Linh non nớt như thế, lại có gan ghẹo ngay vào giới luật thiêng liêng hàng đầu của đảng.[...], Trong cuộc họp lưu học sinh Việt Nam ở toàn Trung Quốc, đại sứ Hoàng Văn Hoan lớn tiếng chửi vụ hai chúng tôi. “Mới sang đã tung hê ngay kỷ luật của Đảng, chân ướt chân ráo luyến ái ba lăng nhăng ngay. Người chứ đâu phải trâu với ngựa mà cứ gặp nhau là nhảy”.VII

NHÀ HÀNG BĂC KINH

Thình lình Thép Mới đứng bên bàn ăn của tôi ở Bắc Kinh đại học. Anh theo Cụ Hồ đi cảm ơn mười hai nước xã hội chủ nghĩa giúp ta thắng Pháp. Ngay tại nhà ăn, anh bảo tôi:
- Về Việt Nam tao sẽ phải tranh thủ ăn chứ chủ nghĩa xã hội ăn như thế này thì kém bữa bánh cuốn thịt quay cà cuống của tao mỗi sáng.VII
*
 CCRD-CON ĐẤU TỐ MẸ


Chu Văn Biên, bí thư đoàn ủy cải cách ruộng đất Nghệ - Tĩnh, bắc ghế ngồi trên thềm cao chỉ tay vào mặt mẹ đẻ chắp tay đứng ở dưới sân dằn giọng:
- Tao với mi không mẹ không con mà chỉ là kẻ thù giai cấp của nhau. Tao có phận sự tiêu diệt mi mà mi thì nhất định sẽ chống lại…
Bà mẹ cắn lưỡi không chết. Ít lâu sau, nhảy giếng tự tử thành… Chu Văn Biên ký lệnh xử tử bất kỳ ở đâu. Chính hắn sai trói gô bố đẻ của Phan Đăng Lưu là Phan Đăng Tài, lùa ông cụ vào đòn ống khiêng lên trại tù rồi sau cụ chết mất xác.
Khi bị khiêng đi, cụ cứ chửi chúng mày khốn nạn, thằng Lưu kia, mày theo cộng sản để cho đàn em cộng sản của mày đối xử với tao thế này à? Du kích khiêng ông cụ lại đánh đá ông cụ… À, trong Nghệ có câu ca:
“Phá đảng lừng danh quân Đặng Thí,
Giết người khét tiếng gã Chu Biên”…
- Biên nay làm gì?
Đề bạt thứ trưởng nông nghiệp. Dù sao cũng giàu nhiệt tình cách mạng.VII
*


CHƯƠNG VIII


  NHÀ CÁN BỘ
Đến Hà Nội, về nhà Trần Châu, vẫn làm ở Việt Nam thông tấn xã. Một buồng ba chục mét vuông phanh đôi, nửa bên phải của Vũ Khiêu, nửa bên trái của vợ chồng Trần Châu.Cách nhau một ván gỗ dán cao chừng hai mét .  [...].Trong nhà Châu, một bộ ván ngựa cũ kê trên hai niễng gỗ gầy mảnh tạo thành vật đựng duy nhất trong nội thất: đựng người ngủ, đựng mâm đũa khi ăn, đựng khách khứa, đựng quần áo chăn màn, sách báo khi không dùng đến. v.v…, tóm lại rất vạn năng. Tối tối, đứa bé lớn lên ba phụng phịu vần gối xuống “kềnh cang nào kềnh cang” ngang dưới chân giường - chiều dọc giường dành cho bố mẹ và đứa em bé mới đẻ. Với nó, ngủ một mình buồn như lính thú lưu đồn. VIII
 *
 HỒ VÀ MỸ


Đề nói Ông Cụ có một khẩu súng lục tướng Mỹ tặng. Và một ảnh chân dung viên tướng này, có chữ đề tặng cẩn thận, Đề không nhớ tên. Thật ra là sáu khẩu Colt. Giáp làm một khẩu thay cho quả lựu đạn trước kia ông vẫn vũ trang ngay cạnh nách. Có nghĩa là hễ chiến đấu vời đến nó là tự sát luôn.
Thú thật nghe Đề, tôi không tin lắm. Ngỡ là cách Việt Minh thời đó tuyên truyền cho uy tín Ông Cụ “thân với Mỹ”. Sau này đọc “Historia và Tại sao Việt Nam” của Patti mới biết có chuyện ấy thật. Cụ còn khen “tướng quân đẹp như tài tBố tôi làm ở L’ Action - báo Pháp, một hôm rất vui nói máy bay Lightning P38 vẫn bay trên chiến khu Việt Minh, lính Mỹ dạy Việt Minh quân sự… Tôi sùng bái chiếc máy bay hai thân óng ánh bạc, hai mũi đỏ chói lao qua Hà Nội như một tia chớp phô ra cái đẹp soi đường kỳ diệu của khoa học kỹ thuật. Bay khỏi rồi cao xạ Nhật mới uỳnh uỳnh vuốt đuôi mà tôi nghe thành “ông thua… ông thua…” Thế nên với tôi, Việt Minh thế là tất cả.ử xi nê”. Khẩu súng và bức ảnh đã thành vật phẩm triểnlãm lưu động khiến cho Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh ngấm ngầm tị và nể. Lúc đó đi với Mỹ là dấu hiệu của tốt đẹp.[...]. VIII
*
 PHAN KHÔI


Năm ngoái, Phan Khôi, Tế Hanh sang dự lễ kỷ niệm Lỗ Tấn có gặp một số chúng tôi tại Đại học Bắc Kinh.
Phan Khôi phê phán gay gắt sai lầm của Đảng. Như bản thân bị xúc phạm, tôi đã quạc lại. Và gửi bài thơ đăng trên báo Nhân Dân “Ánh sáng không đi đường gẫy, vinh quang xưa bắt ta đi con đường ngay thẳng”.VIII
*
 CS QUAN LIÊU


Hôm tôi gặp đoàn báo, Như Phong gọi tôi ra một chỗ than thở:
- Tớ bị Hoàng Tùng với đoàn riềng một mẻ đau quá… Tổng biên tập báo Pravda tiếp đoàn. Tớ thèm thuốc lào từ lâu nhưng không có điếu bèn hút một điếu thuốc lá họ mời khách. Thế là Hoàng Tùng bảo chi bộ họp phê phán. Vô lễ với cấp trên là đồng chí tổng biên tập Liên Xô. Ai lại đồng chí ấy đang chỉ thị với đoàn ta mà lại phì phà phì phèo điếu thuốc ở mồm, làm như đồng cấp vậy…VIII
*
MAO
 Tôi không biết gần cuối thập niên 50, trong Đảng cộng sản Trung Quốc bắt đầu tuyên truyền “thuyết trung tâm cách mạng, chuyển dịch”. Tức là gần như quy luật, chủ nghĩa Mác chuyển dần sang phía Đông. Thế kỷ XIX chủ nghĩa Mác ra đời ở Đức, nửa đầu thế kỷ XX chuyển dịch sang Nga, sau khi Stalin qua đời thì sẽ chuyển dịch sang Trung Quốc. Lãnh đạo giương cao ngọn cờ Mácxít - Leninnít, phê phán chủ nghĩa xét lại Khrushev là đồng chí Mao Trạch Đông sẽ hoàn thành sự chuyển dịch này. 1963, Lê Duẩn chính thức thành văn chuyển Mao lên thành Lê-nin.
VIỆN TRỢ VN
Sinh viên Trung Quốc đòi chấm dứt viện trợ cho Việt Nam trước đông đủ các nước, nhất là trước sinh viên Hồi Giáo sáng sáng bốn năm giờ ra hành lang tụng kinh giập đầu thình thình xuống đất không ai ngủ nổi. Mà sao Chu Ân Lai không ỉm đi? Tôi hơi ức.
Chu Ân Lai giải đáp ngắn gọn, thẳng thắn. Viện trợ cho Việt Nam là nghĩa vụ quốc tế nhưng có lợi cho Trung Quốc: nên đẩy chiến tranh và đế quốc ra xa Trung Quốc hay để cho chúng nó áp sát bên cạnh?VIII
Bắc Kinh đại học lại đi đầu trong cao trào thiêu đốt đảng. Một sinh viên vật lý chứng minh bằng phương trình x, y, z sự phá sản không thể cứu chữa của chủ nghĩa Mác-Lê…
Nhân Dân nhật báo “không” kém ai. Dành hẳn trang nhất cho các ý kiến đòi đa đảng, chia quyền lãnh đạo đất nước như ý kiến của La Long Cơ, Trương Bá Quân, người đứng đầu một đảng dân chủ. Bảo giai cấp công nhân có sứ mạng lãnh đạo là vô căn cứ, giai cấp tư sản cũng phải được lãnh đạo… Một bài báo nói trắng ra ngày xưa Quốc Dân Đảng bỏ tù, xử bắn cộng sản Đảng là đúng vì luật pháp đề ra là phải trừng trị những người phá rối trật tự xã hội. Đáng chú ý bài “Tôi căm thù, tôi lên án” của nhà viết kịch Ngô Hàm đả Chương Bá Quân, La Long Cơ, ông này trí thức ở Mỹ về từng nói chúng ta đại tri thức đã bị đám ít trí thức lãnh đạo. Tám năm sau, hiểu chân tướng đảng, Ngô Hàm viết kịch bênh Bành Đức Hoài, chống Mao và bị thủ tiêu vì tội ở trong nhóm phản cách mạng “Thôn ba nhà” gồm Đặng Thác, Liêu Mạt Sa, nhà thơ và ông.
Báo đảng đăng một bài của Trần Kỳ Thông, cục trưởng tuyên huấn Giải phóng quân, tác giả của vở kịch “Thiên sơn vạn thuỷ” đang nổi tiếng phản đối các ý kiến đòi đa đảng, chia quyền lãnh đạo. Thì hôm sau báo đăng ngay một bài bác lại. Đồng thời thông báo nghị quyết phê bình Trần Kỳ Thông đã dội nước lạnh vào hùng khí quần chúng đấu tranh thiêu đảng. Ông đã bị giáng cấp xuống còn thiếu tướng. Ai dám nghĩ ông là chân gỗ?
Cả tháng sôi sục thiêu đảng như vậy. Xem vẻ ngọn lửa này không bao giờ nguội được nữa. Một báo chữ to ở Bắc Kinh đại học viết: Chỉ cần Lão Vương hạ đài là Trung Quốc lại thanh thiên bạch nhật. Thanh thiên bạch nhật còn hàm ý chỉ lá cờ của Trung Hoa Dân Quốc.
Tôi thật sự sống những ngày hội tưng bừng dân chủ.
Không ngờ là một canh bạc bịp quy mô quốc gia. Cú lừa lịch sử… Nhưng cú lừa đập vào mặt tôi và giúp tôi dần tỉnh lại. VIII
*

CHƯƠNG IX


 TRĂM HOA ĐUA NỞ


Đúng! Mưu thật. Nhưng không phải âm mưu mà là dương mưu vì mưu này bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Không có mưu sao nhử được rắn độc, cỏ dại chui ra, ngóc lên mà tiêu diệt chúng chứ?
Đảng đề tỷ lệ 5 % đảng viên là phái hữu. Họ là những người lãnh đạo đã chấp hành nghị quyết chỉnh đảng mà cho mở báo chữ to, diễn đàn dân chủ để “thiêu đảng”.
Họ là những người đã bắt đầu do dự thì giật mình thấy Trần Kỳ Thông bị kỷ luật giáng cấp vì dội nước lạnh vào tinh thần đấu tranh của quần chúng cho nên lại vội ra sức lãnh đạo quần chúng đẩy mạnh thiêu đảng lên một nấc nữa.
Hàng triệu người đã bị chết, tù, lầm than trong cuộc đàn áp. Biết bao gia đình tan nát.
Sóng thần nổi lên dữ dội trong giới văn học nghệ thuật. Điêu linh những Ngãi Thanh, nhà thơ theo trường phái Apollinaire với tập thơ “Đuốc” cùng thời “Nữ thần” của Quách Mạt Nhược, Đinh Linh, Phùng Tuyết Phong, Ngô Tổ Quang…
Một chuyện làm xúc động và kính phục: Tân Phụng Hà, nghệ sĩ lớn Bình kịch, ngang tầm với những Mai Lan Phương bậc nhất Kinh kịch và Hồng Tuyến N, bậc nhất viết kịch tuyên bố từ bỏ hết các danh hiệu đảng đã khoác lên bà như đại biểu Quốc hội…, từ bỏ hết để cam chịu cùng tội hữu phái với chồng bà, nhà lý luận sân khấu lớn Ngô Tổ Quang. (Nhưng một tài liệu sau này tôi đọc lại nói Trương Khiếm, người đóng Hồ Điệp phu nhân trong vở ca kịch cùng tên lừng tiếng là vợ Ngô Tổ Quang).
Mao vạch mặt tổ chức “chống đảng Chương Bá Quân - La Long Cơ”. Chương Bá Quân, bộ trưởng Giao thông, chủ tịch Đảng Dân chủ Công Nông; La Long Cơ, bộ trưởng Lâm nghiệp, Phó chủ tịch Đồng Minh Dân Chủ, lãnh tụ tinh thần của trí thức ở Âu Mỹ về nước. La Long Cơ có một câu làm Mao tức tối: “Tiểu trí thức của chủ nghĩa Mác-Lê lãnh đạo đại trí thức của tiểu tư sản. Thằng mù dắt thằng sáng đi”.
Phải nói tôi thích ông trí thức này không bằng các đảng viên cộng sản thiêu đảng. Vẫn ngờ động cơ các ông.
Mã Dần Sơ, nhà kinh tế học tên tuổi và hiệu trưởng của chúng tôi cũng bị lôi ra là “rắn độc”. Ông đã phê phán lời kêu gọi của Mao cho rằng Trung Quốc càng đẻ nhiều càng tốt vì người là tư bản quý báu nhất, vì Trung Quốc phải tiến lên bằng các đại công trường thủ công nên càng ăm ắp người càng tốt. (Những năm 70, Lê Duẩn đề ra đại công trường thủ công và hợp nhất tỉnh, huyện cho đông sức chân tay là dựa vào ý Mao). Ông già Mã Dần Sơ bị đưa đi cải tạo ở đâu tôi không rõ.
Qua mấy tháng vờ dân chủ để khều rắn kể trên, tôi dần thấy thì ra mình cũng “rắn độc”. Chỉ là không bị nhử và không có chỗ chui ra thôi. Phải chờ sau khi về nước nó mới lôk mặt.IX


*
 VC CÀI NGƯỜI


Lúc ấy thật tình tôi không biết đảng có phương án kế hoạch cài cán bộ và quân lính ở lại miền Nam cũng như tiến hành nghiên cứu ngay từ đầu hình thế bờ biển để sau này lập “đội thuyền không số” có cơ sở ở huyện Thuỷ Nguyên. v.v…
Lúc ấy đâu đã đến ngày, thí dụ 24 tháng 5 năm 1962 để tôi họp trưởng phó ban của báo Nhân Dân mà ghi vào sổ tay sự việc dưới đây: Chính phủ Diệm gửi công hàm đi 72 nước đề nghị lên tiếng phản đối Việt Cộng ngày một mở rộng hoạt động lật đổ (lúc đó Cà Mau đã thành vùng giải phóng) thì Anh quốc và Sihanouk hưởng ứng sớm nhất. Anh quốc quy trách nhiệm cho Hà Nội vi phạm hiệp định Genève, Sihanouk thì yêu cầu mở hội nghị quốc tế giải quyết vấn đề miền Nam để đất nước ông được yên. Nhưng Liên Xô, uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và nước ký vào hiệp định Genève, lại đổ hết trách nhiệm cho Ngô Đình Diệm, quyết giữ hình thái hai bên Quốc-Cộng “trùm chăn đánh nhau” chết thôi bên trong lãnh thổ miền Nam theo đúng ý đồ miền Bắc. Canada và Ấn Độ trong Uỷ ban Kiểm soát Quốc tế đã ra nghị quyết riêng lên án Hà Nội vi phạm hiệp định Genève.
Thế là báo Nhân Dân nổ xã luận đả kích dữ dội họ. Phản ứng lại, Canada doạ rút khỏi Uỷ ban vì ta bảo họ “đứng đằng sau Mỹ” vu cáo miền Bắc. Ấn Độ thì bị xã luận bôi cho một câu lăng mạ: “không xứng đáng là Chủ tịch Uỷ ban quốc tế…”. Sau đó, hưởng ứng xã luận, dân nhiều nơi mít tinh đả đảo Canada, Ấn Độ.
Lê Duẩn phải dặn dò nên chú ý lời lẽ đả kích Anh và Ấn Độ. Cung bậc theo ông đại khái là chính phủ thì ôn hoà, báo đảng có thể cao giọng đôi chút còn ngoài ra, các báo khác tha hồ được nặng lời với hai uỷ viên quốc tế “bênh Mỹ - Diệm”. Liều lượng phân bổ đòn ngôn luận này đã vào cẩm nang.IX
*
 KHOA HỌC LÊ DUẨN


Ban văn hoá của báo cho biết anh Lê Duẩn quan tâm đến đời sống dân lắm. Anh đã hỏi kỹ anh Phạm Ngọc Thạch rằng một bát cơm ăn với rau muống luộc có khác một bát cơm ăn với rau muống xào không. Khi nhờ phân tích khoa học cao siêu, (tôi ngứa tay thêm mấy chữ này vào đây) biết là có khác nhau… “cơ bản” thì anh Duẩn đã chỉ thị hãy cố sao cho “về cơ bản” dân ta được ăn nhiều rau muống xào mà “cơ bản” bớt luộc đi. Nói “về cơ bản” vì phấn đấu cho có thêm mấy triệu thìa mỡ mỗi ngày “về cơ bản” không dễ!… Tôi nghĩ ngay việc gì phải Phạm Ngọc Thạch nghiên cứu, cứ bày lên bàn ông Duẩn hai dúm cơm, một rang mỡ, một không là kiến nó cho ý kiến nó ngay không phải chờ Phạm Ngọc Thạch chỉ thị cho ngành y tế.IX


*
 CHƯƠNG X


LX ĐÁNH NAM HÀN


Tất nhiên Kim Ki Hoan và tôi đều không biết Stalin đã bật đèn xanh cho Bắc Triều đánh. Tăng tiền viện trợ lên, cử cố vấn sang đông gấp bội - tính cứ 45 lính Bắc Triều là có một cố vấn Liên Xô. Tướng Liên Xô Vassiliev đã đặt kế hoạch chiếm gọn Nam Hàn trong vòng một tuần, từ 22 đến 27 tháng 6-1950. X


*
 HÁN VĂN


Lên lớp Hán ngữ hiện đại, nghe giảng tiếng Trung Quốc hay, đẹp, ảnh hưởng tới nhiều ngôn ngữ, thí dụ (ảnh hưởng) Việt Nam 70 %, Triều Tiên, Nhật Bản 75 %, Hoan ngồi cạnh tôi cứ khua cá giầy loẹt quẹt, mắt lừ lừ liếc nhìn tôi (tranh thủ đồng minh) còn mồm thì lạu bạu:X




*
TRUNG CỘNG-VIÊT CỘNG


Lộ dần ra hình thái hai biên đội Trung - Việt chắp cánh bay cùng nhau trong vòm trời chuyên chính. Hai biên đội bám nhau như bóng với hình. 1957, Bắc Kinh chống phái hữu, Hà Nội chống Nhân Văn - Giai Phẩm. Mười năm sau, 1967, Bắc Kinh Cách mạng Văn hoá, tiêu diệt bọn xét lại đi đường tư bản, tống giam Chủ tịch nước và Tổng bí thư hay Khruschev thứ nhất và thứ hai của Trung Quốc, Hà Nội chửi xét lại Liên Xô, bỏ tù xét lại nội địa. Chưa đến mức tống giam hại chết nhan nhản như nước anh em nhưng cũng làm lao đao liểng xiểng khối người.
Tả khuynh duy ý chí là bệnh gốc của cộng sản, đặc biệt cộng sản kiểu Mao. Cải cách ruộng đất là lần tả khuynh duy ý chí ở quy mô kinh hoàng ở Việt Nam thế nhưng hình như chúng ta không rút bài học. Nếu rút thì sau những Chống phái hữu, Tiến vọt, Gang thép, mâu thuẫn Trung - Xô…, đến 1963-1964, Lê Duẩn đã không viết “Mấy vấn đề quốc tế và Đảng ta”, coi Mao - chứ không phải Hồ Chí Minh - là Lê-nin của thời kỳ ba dòng thác cách mạng Á - Phi - La toàn thế giới tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội…X
*
TRUNG CỘNG-LX


Lý kể như thế trong hồi ký “Đời tư Chủ tịch” ông viết cuối những năm 1980 vén lên biết bao bí mật xấu xa của lãnh tụ.
Cây kim thật dài cắm ngay lập tức khi Khruschev đến. Trái nghi thức thông thường, Mao đón ông ta ở bể bơi có mái của Mao trong Trung Nam Hải. Sai lấy xịp (quần tắm) cho Khruschev rồi cả hai bồng bềnh dưới nước chuyện trò đại sự. Khác hẳn Khruschev đón tiếp Mao linh đình trọng thể ra sao năm 1957. Lần này Khruschev sang vì ngại Mao đánh Đài Loan sẽ nổ chiến tranh với Mỹ. Biết thóp, Mao cân não lại.
Trước một đồng minh háo đánh Mỹ như Mao, Liên Xô bèn cố thuyết phục bằng vi thiềng lợi ích vật chất. Đề nghị: 1) Lập một đài phát sóng cực mạnh hai nước cùng dùng nhưng đặt ở trên đất Trung Quốc; 2) Lập một hạm đội hỗn hợp Xô - Trung cùng bảo vệ vùng biển hai nước; 3) Trung Quốc khoan giải phóng Đài Loan.
Mao nhận hai khoản trên nhưng không chịu hoà bình với Đài Loan:
- Các đồng chí chớ can thiệp vào sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân Trung Quốc.X



MAO-KHRUSHEV- LÊ DUẨN BỐC PHÉT


Khruschev cũng khuyên chớ nên làm công xã nhân dân nhưng Mao bảo đó là con đường tiến lên chủ nghĩa cộng sản đặc thù của Trung Quốc. Ý nói con đường các cậu sai rồi không lên được chốn đó đâu. Một dạo ở ta, chiểu tinh thần Mao, Lê Duẩn nói nếu Việt Nam có sức sản xuất như Liên Xô thì đã cộng sản đứt đuôi từ lâu. Ở Liên Xô, chế độ lương cách xa nhau quá đã ngăn cản tiến lên cộng sản. Duẩn khoe ở Việt Nam lương Tổng bí thư với lương cơ bản hơn nhau có mấy chục đồng! Có sức sản xuất như Liên Xô, Việt Nam đã cộng sản từ tám hoánh!X
*
 CONG XÃ
Ba ngọn cờ hồng là: đại nhảy vọt, gang thép nhân dân và công xã nhân dân. Mao có ý bao cấp cả cho toàn dân, xoá bỏ chế độ lương bổng - trong quân đội xoá bỏ lon gù, nhất loạt một mẩu phù hiệu đỏ - đúng như chế độ cộng sản các tận sở năng các tận sở nhu, cái mà Khruschev gọi là “chủ nghĩa cộng sản mặc quần đùi”.
Công xã nhân dân công hữu hoá búa xua hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, nồi niêu, xoong chảo, thau chậu, phích nước nóng… Ra đồng làm, tới bữa tối thì đến nhà ăn tập thể lĩnh phần cơm và phần nước nóng ngâm chân rồi toàn gia ăn uống, bế bồng, ôm ấp, mai lại ra đồng từ sớm. Trẻ con vào nhà trẻ, người già vào nhà dưỡng lão. Có công xã lập trại con gái riêng, con trai riêng, vợ chồng tháng tháng gặp nhau ăn nằm theo lịch công
xã đặt, tuỳ theo độ tuổi mà dầy thưa khác nhau. Báo đăng câu Mao ca ngợi: cái ưu việt của công xã là nắm được hoàn toàn dân chúng trong tay.
Ông đã nuôi ý định công xã hoá cả thành thị. Để nắm cho không sót thằng dân nào.
Tôi đã thăm mấy nhà dưỡng lão trong đó một nơi làm cho tôi buồn hơn cả là của công xã nhân dân tại nhà máy thuỷ điện Mai Sơn, tỉnh An Huy. Một lán nứa dài trong một rừng nứa rậm, một dẫy sạp nứa dài và cao lênh khênh, ọp ẹp làm giường (có lẽ sạp cao thế này là để các cụ không thể tụt xuống trốn đi). Khoảng ba chục cụ ngồi ngơ ngẩn nhìn khách tham quan đến chiêm ngưỡng “hạnh phúc” của các cụ. Tất cả đều ủ dột, đều con mắt vô hồn dửng dưng và đều co chân cao đến ngực và đặc biệt đều tăm tắp mấy chục cẳng chân phù to tướng, căng bóng, những mặt hàng chĩnh bày trong triển lãm.
Tôi bỗng thấy chúng là những cái bình đựng thư cầu cứu mà trong bão tố, thuỷ thủ đem vất cầu âu vào sóng… Già quá, không lê nổi đến nhà ăn, mà có đến nổi nhà ăn thì hết sức chen hàng, nhiều cụ đành chết đói.
Phải có bằng chứng về tính ưu việt của công xã chứ! Bằng chứng dễ thuyết phục và dễ kiếm nhất là năng suất lương thực. Lập tức báo chí đăng không kịp “sản lượng vệ tinh” - ở nghĩa lên cao vút - ầm ầm vượt nhau. Bắp cải nặng một tạ ba, muốn xài thì phải lấy cưa mà kéo cưa lừa xẻ chứ dao nào chặt cho lại? Lợn một con đứng chật cả thùng xe cam nhông cỡ nhỡ. Một mẫu ruộng (bằng một phần ba mẫu Việt Nam) 500 tấn khoai. Lúa mì 60 tấn… Một nhát các thứ cây trồng biến ra thành toàn là Phù Đổng Thiên Vương hết. Một hôm báo đăng ảnh một tràn ruộng lúa chín với những đứa trẻ nô nhảy ở bên trên. Và Mao Chủ tịch liền nổ lệnh: Ta cho các người từ nay ăn hẳn năm bữa một ngày!
Phóng viên Việt Nam thông tấn xã kiêm tình báo Lê Phú Hào đi tham quan đồng lúa kiêm “sân chơi trẻ con” về đến ngay trường bảo tôi đó là trò bịp. Anh theo nhà báo nước ngoài tụt xuống thì ngỡ anh là đồng bào, người ta giữ anh lại sợ đông quá sập liếp độn ở bên dưới: cắt lúa chín ở nơi khác về cắm chi chít lên trên.
Tôi nói chuyện này với anh bạn “bà sói răng to”. Anh nói anh biết. Dân Trung Quốc bây giờ có hai điều dặn nhau. Một là sau Tam phản, Ngũ phản thì sợ tiền. Tiền là nguồn của tội ác. Nghèo đói mới sạch sẽ, vẻ vang. Thà ăn cỏ xã hội chủ nghĩa chứ không thèm ăn cơm gạo tư bản. Nay sau chống phái hữu, người Trung Quốc sợ thêm sự thật. Sự thật là nguồn gốc của bất hạnh, chết chóc. Đã muôn người đều sợ sự thật thì cũng lại muôn người thi nhau nói phét. Có người nói ở Trung Quốc bây giờ chỉ phản cách mạng mới còn cái đức nói sự thật, nghe sự thật. Còn toàn là hoan nghênh vờ, tin tưởng vờ, hăng hái vờ. Toàn dân nói phét, chui niu, thổi trâu, mà biết tỏng nhau là nó đang nói phét, vui phét hệt như mình…
Tôi lạnh người. Anh nói tiếp:
- Mình có một ông chú họ làm đội trưởng ở công xã. Trên bắt ông khai vống lên lấy sản lượng vệ tinh. Ông không nghe, sợ khai man nộp hết thì đói. Thế là bị đánh gẫy hai hàm răng. Cứ nhè mồm đánh bắt nhận “vệ tinh”. Cuối cùng đầy mồm máu khai man. Nhờ đó được chữa không tiền cái tay bị đánh què nhưng răng thì đắt quá thành ra từ nay ông chú chỉ nuốt không nhai. Sự thật phải nuốt, nhai gẫy răng ngay. Cứ thả cửa nói phét rồi bạo lực giáng xuống cho thật khoẻ vào là cái giả toàn thắng.
Tôi bắt đầu “hư hỏng” vì đã nhận ra chân tướng đại bịp. Người ta lừa bịp đại trà được là nhờ khai thác những bản năng thấp hèn trong con người: sợ và tham lam. Sợ thì thoả được lòng tham. Tham danh, tham lợi, tham tước. Mà sợ rồi thì dối trá nào cũng thành sự thật, bồ hòn nào cũng ngọt, đồ tể nào cũng Đức Phật Như Lai.
Nên nói tiếp đến phong trào nhân dân luyện gang thép. Công đầu là Tăng Hy Thánh, uỷ viên trung ương, bí thư tỉnh An Huy. Ông đã tiếp đoàn báo Việt Nam chúng tôi ở Hợp Phì, nơi Hàn Tín điểm quân và tôi đã đến đó. Ông cho dựng dọc đường xe lửa Mao sẽ đi qua các lò cao luyện thép. Lò rừng rực lửa như hội hoa đăng, dân gang thép múa ương ca tưng bừng bên cạnh. Lãnh tụ hả cái bụng quá. Bèn đề ra mục tiêu gang thép vượt Anh, vượt Đức, vượt Nhật rồi Mỹ cuối cùng.
Từ Thuỷ Tỉnh - Hà Bắc, một huyện có 31 vạn dân đã đề ra mục tiêu “tiến lên chủ nghĩa cộng sản trong ba năm”, vụ hè vừa thu hoạch được 45.000 tấn lương thực, đã đề ra mục tiêu sản xuất 1,1 triệu tấn ngay trong vụ thu tiếp theo (tăng gấp hơn 24 lần, bình quân đầu người 1,8 tấn). Phải ra sức thu gom sắt phế liệu, có thể tháo dỡ các đường sắt tạm thời không có giá trị kinh tế như đường sắt Ninh Ba, đường sắt Giao Đông.
Tôi không tham gia, tuy sinh viên phải nghỉ học làm gang thép đầy trong campus. Tôi mơ hồ thấy chẳng khác nào lột áo quần ra xé tơi rồi đem bật lại thành bông, xe lại thành sợi để dệt nên thứ vải chất lượng khốn nạn hơn nhiều. Không hiểu sao nhìn các quả đấm cửa bằng sứ trắng có lõi sắt người ta quẳng vào chảo quấy, đảo, tôi cứ nghĩ đó là những con ngươi mắt mỗi hộ dân gửi đến để trừng trừng nhìn mà đặt ra câu hỏi đơn sơ: các người làm trò gì đây?
Màn bịp gang thép rồi cũng xếp xó. Nhưng để cho Mao chủ tịch vui lòng vẫn phải giữ lại 60 triệu lao động túc trực bên cạnh các lò cao hao tài hại của…
Lại trở về Hội nghị trung ương Bắc Đới Hà. Ngoài Tổng lộ tuyến, hội nghị còn cho ra một cách khiêu chiến mới đối với Mỹ cốt phá hoà hoãn của Liên Xô với Mỹ. Hội nghị bế mạc được một tuần, lục địa bắn luôn đại bác vào hai hòn đảo Kim Môn, Mã Tổ của Đài Loan nằm ở gần bờ biển Phúc Kiến. Kim Môn chỉ xa chừng hai cây số, trong ngày đầu nhận 89.000 quả pháo. Ngày hôm sau thêm lên 40.000 quả nữa. Căng thẳng cực độ. Chiến tranh như sắp nổ ra từng ngày.
Mỹ cho hai tàu sân bay tới, cộng vào bốn chiếc đã có sẵn. Và trên một chiếc có đậu một máy bay ném bom A3D. Khi cần, boong tàu sẽ mở ra và
một thang máy liền dâng một quả bom nguyên tử để gắn vào bụng chiếc A3D kia cho nó bay đi quẳng xuống Bắc Kinh hay Thượng Hải, Nam Kinh, Hàng Châu, Quảng Châu gì gì đó. Phóng viên báo Time lộ ra như thế.
Liên Xô liền phải đánh tiếng nếu Mỹ dùng nguyên tử với Trung Quốc thì Liên Xô buộc cho lục địa Mỹ xơi bom nguyên tử.
Phần nào đã thoả mãn về cục diện gay gắt do mình gây ra, Mao bèn đổi sang một kiểu bắn mới: nếu Mỹ không can thiệp thì chỉ bắn hai hòn đảo kia vào ngày lẻ.
Thế giới tưởng Mao phất cờ giải phóng Đài Loan đến nơi nhưng ông bảo Lý Chí Toại, bác sĩ riêng:
- Ai đánh làm gì? Còn Đài Loan đó thì còn đoàn kết nội bộ chứ giải phóng nó rồi thì kiếm đâu ra cái gậy nào để múa lên cho yên nội bộ được đây? (trong hồi ký “Đời tư Chủ tịch”, The President’s Private Life của Lý Chi Toại).X
*
BA LAN XÉT LẠI
Vừa bỏ mũ xét lại cho Nam Tư trở về với phe xong thì sao nay lại xét lại?
- Ba Lan, nước tôi vừa mới đến đó.
Kể ra một lô những tệ nạn xã hội, ăn chơi, nhảy đầm, thoát y vũ, thoát ly chính trị, sùng bái phương Tây… Cảnh giác các đồng chí, mất cách mạng, mất đảng vì cái xét lại này. Hở tay hở đùi là nguy cho chế độ rồi đó…
Với tiêu chuẩn chia ra trại đàn ông với trại đàn bà thì ăn nằm xả láng với nhau đúng là phản cách mạng thật.
Tôi không ngờ đời tôi bắt đầu bị yểm chính là từ hôm nghe thấy hai chữ xét lại ấy.X
*
CHUONG XI


CMVĂN HÓA 

Lão Xá bị Hồng Vệ Binh đánh chết quẳng xác ra ven một cái hồ ông hằng yêu mến. Ông nằm bên hồ, phủ một tấm chăn. Người ta mời vợ ông ra. Bà toan vén chăn nhìn mặt chồng lần cuối thì người ta đẩy bà ra:
- Xem có phải đúng là giầy chồng bà không? - Đúng! Thế hả, được rồi.
Nhìn chồng lần cuối không được, chôn cất chồng không xong. Ai ngờ được, trong mười năm giam cầm, hành hạ, Ba Kim sẽ nhảy tưng tưng, giơ tay hét “Đả đảo Ba Kim” để rồi sau này, hồi tưởng lại, ông phải kêu lên rằng ông có ăn cháo lú đâu mà có thể há mồm hô đả đảo ngay chính mỉnh, có thể cam tâm để cho kẻ khác tước đoạt mất quyền làm người của mình mà không hề có chút mảy may nào phản ứng…
Diệp Quần, một nữ biên tập viên coi mảng điện ảnh, hay tha tôi đến đại sứ quán Liên Xô xem phim chiếu nội bộ và chả thứ gì lưu lại ấn tượng mạnh bằng bà biên tập viên văn nghệ hết sức Tây phương. Tân kỳ, trẻ, xinh xắn và rất diễn viên, rất diện. Toàn giầy da kiểu escarpin đế mỏng mầu sô cô la, đỏ, nâu, trắng… Sau này nghe vợ Lâm Bưu là Diệp Quần, tôi giật mình: ngay ngày ấy tôi đã ngờ chị là vợ một cốp to lắm. Cung cách sang trọng, điệu đà một cách hào sảng và tự tin như vậy ở Bắc Kinh là phải có một bối cảnh chính trị lớn như thế nào.XI
*
MAO KHÔNG SỢ NGUYÊN TỬ
Chủ tịch nói chúng nó cứ doạ bom nguyên tử. Hòng buộc chân trói tay chúng ta lại mà. Việc gì phải sợ? Vì Mỹ dẫu cho có ném xuống một nghìn quả bom nguyên tử, dẫu trái đất có bị tan hoang đi nữa thì ít nhất cũng còn sót lại một huyện dân Trung Quốc, huyện dân ấy sẽ đi ương lại giống người trên quả đất này…
Tôi rợn người. Sợ cái tính toán chi li này hơn cả sợ bom nguyên tử. Cũng thoáng một chút ghen tị: thế ra Trung Quốc sẽ được đi cấy tái giá lại giống người trên quả đất. Trong khi những Lào, An-ba-ni thì trống huếch trống hoác còn Việt Nam may lắm trời cho sót lại vài ba anh đực rựa vô dụng vì teo hết nhẵn hai hột tinh hoàn.XI
*
 THƠ CÔNG XÃ


Lúc bấy giờ công xã nhân dân đã mạt kỳ. Nhưng “phong trào thơ xã viên” vẫn được nuôi. Mỗi lao động mỗi sáng ra đồng đều phải nộp đủ chỉ tiêu bao nhiêu bài thơ (tuỳ đảng uỷ mỗi công xã đặt). Không nộp đủ thì về, ngày ấy không công điểm. Các báo ra xã luận ca ngợi thiên tài thơ ca của nông dân. Thi nhau đăng thơ xã viên mà đặc điểm là rất giống nhau. Ta là Ngọc Hoàng, Ta là Đại địa, Ta làm nên tất cả… Ta là Lão Thiên, ta là Long Vương, ta đào núi, ta lấp biển. Ta là Đại hải, ta là Thái dương, ta không sợ thánh thần cùng ma quỷ… Nếu là nhà thơ nhóc con thì Ta là Na Tra…
Tức là một tập hợp bách khoa toàn thư văn vần dành riêng cho một từ TA để cho toàn dân định nghĩa. Ta là tinh tú, ta là sao chổi, ta là nguyên tử, ta là sấm, ta là sét… Tựu chung vơ lấy mọi sức mạnh tự nhiên, siêu nhiên. Có một nét không ai dám ví tới. Đó là không bao giờ nhận mình là đảng, là Chủ tịch, là ta bảo đảng tiến, ta vẫy đảng đi. v.v… Còn được một chữ sợ làm trần cho mọi vi vu bay bổng. Nhận mình là thiên địa rồi tự hào vì sức mạnh đó, ấy là lãng mạn cách mạng. Còn sau đó ta theo ngọn cờ đào, ta theo Chủ
tịch, ta san núi, ta dịch sông, ta là người lính tốt của Mao Chủ tịch thì đó là chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Mao để ra phương pháp sáng tác chủ nghĩa hiện thực cách mạng kết hợp với chủ nghĩa lãng mạn cách mạng là nhằm phang chết tươi chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa Stalin bắt Gorki soạn thảo.XI
 *
CHƯƠNG XIV
*
 NĂM SINH HCM


Cụ sinh năm 1891! Cụ Khiêm, anh trai Cụ nói thế, có bằng chứng hẳn hoi trong gia đình và họ hàng. Báo cáo với Cụ thì Cụ nói của người ta thế nào thì cứ để thế không sửa gì hết. Hai nhà văn và tôi bảo nhau: Bác muốn dân dễ nhớ nên lấy tròn 1890. Vả chăng năm nay đất nước mở đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, tam hỉ đồng niên mới quan trọng, nếu chỉ còn nhị hỉ thì không quý bằng.
Vũ Kỳ cho tôi mượn “nhật ký” như anh giới thiệu khi trao tôi quyển sổ tay nho nhỏ, trong có những việc anh ghi của mấy năm 1945-1948 gì đó. Tôi đọc và nhớ hơn cả đoạn Cụ bỏ phiếu lần Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội đầu tiên ở đơn vị bỏ phiếu Khai Trí Tiến Đức sáng 6-1-1946, vì tình cờ chính sáng đó, chưa được bầu cử, tôi qua đấy đúng lúc Cụ và hai ba người vừa tới đang sắp leo mấy bậc tam cấp. Nhác thấy một em bé bán báo, Cụ dừng lại hỏi, giọng tần ngần:
- Em có đi học chứ? Biết chữ không?…
Đó là lần đầu tiên tôi giáp mặt Cụ. Bên Cụ chỉ có hai người, một chắc là Vũ Kỳ, một là bảo vệ.
Không một công an viên. Và gọi chú bé kém tuổi tôi chút ít là em. Trong lần bỏ phiếu ấy - theo nhật ký Vũ Kỳ - Cụ giập tên mình đi, để Nguyễn Văn Tố.
(Lúc ấy tôi đâu ngờ chỗ tôi thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh bỏ phiếu tổng tuyển cử đầu tiên lại là ở ngay trước cửa nhà Hồng Linh, vợ tôi sau này và cách báo Nhân Dân chừng trăm mét!)
Cũng theo nhật ký Vũ Kỳ, Tết kháng chiến đầu tiên, mạn Chùa Thày, xe hơi Cụ bị hỏng, anh em phải xúm vào đẩy, Cụ tập đi xe đạp (lại cũng ở Chùa Thày…)
Tôi kể với Tố Hữu việc xem nhật ký Vũ Kỳ. Mấy hôm sau Vũ Kỳ trách tôi đã làm cho anh phải nộp nó cho Tố Hữu, mặc dù anh ra sức từ chối vì trong có những đoạn anh “tán” - như anh bảo tôi - người con gái sau là vợ anh. Tố Hữu đã nhân danh Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương bắt anh nộp(!).
Thú thật tôi không thấy chỗ nào tình cảm ướt át nên mới bảo Tố Hữu. Thời gian này vài lần Vũ Kỳ bảo tôi sẽ cộng tác với anh viết hồi ký về Bác “khi Bác hai năm mươi”. Viết xong tiểu sử, tôi gửi lên Cụ một bản để duyệt. Cụ chữa từng trang. Có những đoạn viết ra ngoài lề: Xem lại? Hỏi lại?
Bản thảo này tôi giữ. Nhà cửa tồi tàn, ẩm mốc, chuột bọ, đến nay nó chỉ còn lại già một nửa trên và vẫn còn những chỗ Cụ ghi chú hay chữa giập bằng mực đỏ.
Thí dụ tôi viết Hồ Chủ tịch là “linh hồn và là người tổ chức của thắng lợi” thì cụ giập “linh hồn” đi. Hay xoá bỏ cả dòng “Hội nghị hợp nhất ba nhóm cộng sản vừa bế mạc thì đồng chí Nguyễn Ái Quốc lại đi Xiêm và Mã Lai. Rồi đồng chí lại về Hương Cảng theo dõi chỉ đạo phong trào trong nước”. Tố Hữu bảo tôi: “Bác không muốn lộ ra là Bác có tham gia tổ chức phong trào cộng sản ở vùng này”. Vì sao Bác không muốn lộ việc đó ra thì tôi không tiện hỏi và có hỏi chắc Tố Hữu cũng chả nói.
Tôi đã ngồi xem Tố Hữu duyệt trước bản thảo. Ở phòng ngủ trên gác. Bộ xa lông Tàu thấp lùn - có thuốc lá Trung Hoa Bài - kê sát chiếc giường Hồng Kông với những quả bóng bằng đồng vàng choé và hai hàng lan can tua tủa những mũi tên đen. Giường đặc biệt cao, ngồi bên nó mà vai tôi tựa vào sàn gường, nhiều khi tôi phải thầm hỏi Tố Hữu làm thế nào mà lên được? Trong khi Tố Hữu huýt gió vu vu vi vi theo cây bút giơ lên hạ xuống điểm nhịp đều đều trên trang giấy.
Trưa ấy, về cơ quan, tôi bảo Thép Mới:
- Ông Lành tổ sư điệu. Tôi tả cách huýt gió và đánh nhịp bút suốt buổi đọc bản thảo. Ông ấy muốn tỏ ra trẻ.
Thép Mới nói:
- Vâng, anh nhớ thêm cho là còn tổ sư hờn nữa cơ đấy, anh ghẹo vào xem…
Nói công bằng thì Tố Hữu mến tôi. Có lẽ ít ai được anh đưa lên làm việc với anh ở phòng ngủ. Tôi khổ nỗi lại không thích anh. Anh quá ngặt với văn nghệ, nhất là thơ. Tết ta đầu năm 1961, Tố Hữu có bài thơ “Đỉnh Cao 61” đăng trên Nhân Dân số Tết. Sáng 29, anh đến toà báo, tìm tôi và bảo tôi “lùng mấy anh em sáng tác đến tán với nhau hè”. Tôi gọi một lô những Hà Xuân Trường, Như Phong, Thợ Rèn… năm sáu người ngồi đầy phòng khách lớn trên gác. Tố Hữu đọc “Đỉnh Cao 61” rồi bảo anh em nhận xét. Đều khen hay. Sáng tạo. Mới… Cuối cùng Tố Hữu quay sang tôi đang đứng dựa tường hỏi:
- Trần Đĩnh?
Tôi nói:
- Cái đoạn kể các mặt hàng mới sản xuất nghe như quảng cáo.
Tố Hữu hơi sầm mặt. Vừa lúc anh em báo tin mời anh Tố Hữu xuống, chị Thanh đã đến đón.
Ở Đại hội văn nghệ năm 1961, có mục Bác Hồ tặng hoa những văn nghệ sĩ có thành tích. Đến lúc gọi mời một nghệ sĩ người Hoa, hội trường lắng đi mất một lúc rồi Hồ Dzếnh chạy lên. Giờ nghỉ, Tố Hữu tìm tôi lắc đầu chán ngán:
- Chuẩn bị để Hồng Linh lên nhận hoa của Bác thì lại thành Hồ Dzếnh!
Tôi nói có ai báo Linh biết đâu; với lại, tôi đùa, cũng là người Hoa cả mà anh. Tố Hữu nghiêm mặt: Hồng Linh kháng chiến, Hồ Dzếnh trong thanh, sao lại “cùng” được? Bác mà biết thì ra làm sao?
Tiểu sử Bác phát hành đầu tháng 5. Nhuận bút 900 đồng. Một món tiền rất to. Ai có một chỉ vàng khoảng mười sáu đồng đã ghê. Tôi được nhiều nhất: 400 đồng. Phạm Bình tìm tài liệu được 300 và Tố Hữu hiệu đính, thật ra là công đọc, 200. Huy Tưởng, Hoài Thanh chả tẹo nào. Trừ công tác phí đi Nghệ An chắc là lỗ. Chiêu, thư ký Tố Hữu đứng giữa chia. Không biết có hỏi thủ trưởng tỷ lệ chia không.
Mừng tiểu sử chính thức đầu tiên của Hồ Chủ tịch ra đời, Tố Hữu khao một bữa thịt chó thịnh soạn tại nhà Tố Hữu (Lành). Ngoài nhóm (Tố Hữu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh, Phạm Bình và tôi) Tố Hữu còn mời Nguyễn Chí Thanh (Thao), Hoàng Tùng. Rõ rệt hai tầng khí quyển trong bàn tiệc. Một của Thao Thao, Lành Lành rất riêng và rất bồ bịch trên cao. Thao Thao, đưa Lành chai dấm… Lành, Lành, đưa Thao chai vang… Thì quê hai ông cách nhau có một con sông mà. Một của chúng tôi ý tứ, chầu rìa bên dưới. Chưa Trung ương, Hoàng Tùng chân cao chân thấp không mấy thoải mái.
Thao đã luận thuyết hào hứng về thiên tài bếp núc dân tộc - đã thịt chó thì nhất định phải thằng bún đi với thằng mắm tôm! Ngoài bún, ngoài mắm tôm, chẳng thằng nào “phối kết hợp” được với thằng thịt chó. Tính hay đùa, nghe Thanh phán hay thế, tôi nghĩ khéo Thanh vừa nghe cố vấn Trung Quốc
lên lớp cho vè hợp đồng tác chiến trong vận động chiến, phối kết hợp pháo, xe tăng và không quân.
Vài năm sau anh Thao sẽ đụng đến “thằng bún” trong thiên tài dân tộc nhưng xin chờ đến lúc ấy.
Tôi dừng lại ở đây một chút. Đảng đề cao vũ trang bạo lực nhưng đảng lại ngại anh tướng thống lĩnh ba quân nên đảng hay đưa anh chính trị sang kèm sát. Trần Đăng Ninh đã được cử sang kèm Giáp - Vũ Đình Huỳnh nói với tôi. Ninh chắc không được việc nên Nguyễn Chí Thanh đã đến ốp Giáp. Sau chiến thắng lớn trên biên giới, tức là sau các cuộc cọ sát giữa tướng lĩnh ta và cố vấn Trung Quốc, phải chăng Bắc Kinh đã nhắm Nguyễn Chí Thanh? Thanh nghe Bắc Kinh nồng nhiệt hơn Giáp? Và ít ra lý lịch không dính đến đại học. XIV
*
CHƯƠNG XV


 BAC GỐC NGƯỜI HẸ MÔNG CÁI


Tôi ngợ ngay. Có quan hệ tình cảm gì với Bác? Thầm mong là có. Đồng thời nghĩ: Thế ra Cụ đã từng ở Móng Cái? Năm nào? Chị bí thư kia phải là của chi bộ Đảng cộng sản Trung Quốc? Vì đến 1930 mới lập Đảng cộng sản Việt Nam. Cụ qua đây bao giờ? Dạo đến Macao thống nhất Đảng? Bao nhiêu thắc mắc nhưng không dám hỏi. Một chi tiết nữa: không như ở nơi khác, tại sao đến đây Cụ đi chơi phố nhiều thế? Xem vẻ Cụ có đặc biệt với Móng Cái hơn? Khéo đã ở đây thật?
Ông Cụ rẽ lên cầu Bắc Luân. Đến giữa cầu có một vạch sơn đỏ cắt giữa cầu. Hoàng Chính, bí thư Quảng Ninh nói:
- Thưa Bác, đến đây hết địa phận nước ta. Sang bên đó phải có giấy ạ.
- Bác không cần giấy, miệng nói chân xăm xăm bước sang đất Trung Quốc. Bọn tôi năm sáu người theo sau.
Lúc đó không dám vượt biên sang Trung Quốc, sau này Hoàng Chính lại bị tù vì “thân Trung Quốc”.
Cụ bảo hai công an Trung Quốc ở đầu cầu bên kia gọi huyện uỷ Đông Hưng ra gặp Hú puổ puồ (Hồ bá bá) rồi ngồi phệt xuống vệ đường lượn thoai thoải ở chân cầu. Loáng sau, một xe đầy phè huyện uỷ Đông Hưng phóng như bay ra. Ông Cụ bảo tôi:
- Bác hỏi kinh nghiệm nông nghiệp, họ nói sao, chú ghi lại cho Bác.
Trưa, Vũ Kỳ, Nguyễn Chánh, Nhữ Thế Bảo, bác sĩ riêng của Bác, Đinh Đăng Định nhiếp ảnh gia và tôi sang Đông Hưng, cái thị trấn mọi nhà im ỉm đóng. Dân đi lao động ở đồng ruộng hết. Vào vườn hoa có mỗi con gấu đói lờ đờ ngủ gật. Nguyễn Chánh kể một hôm qua một cây cầu gỗ bập bênh, Bác bị đầu ván cầu quật phải chân bong mất móng ngón cái.
Bác hỏi bảo vệ đi cùng ai có thuốc lào cho một nắm, nhất định không thuốc đỏ thuốc đen gì. Miệng nói cái móng này nó chết từ 1924, nay mới chịu rời Bác đây. Ngày ấy Cụ xếp hàng cả ngày chờ vào viếng Lê-nin mà không ủng không bít tất len, chân lạnh quá xưng tấy lên và chết mất một cái móng…XV
*
 BÁC ĐẾN LẠNG SƠN


Dạ thưa Bác đã chuẩn bị đủ cả.
- Nhưng còn ỉa đái? (Giọng sẵng bẳn hẳn lên). Thôi đi [...].
Sau bữa cơm trưa, thấy Cụ quần áo cánh nâu đi vòng ra sau dẫy nhà tranh đến rặng chuối thay hàng rào, tôi đi theo.
Cụ thuốc lá ngậm miệng, tay vén ống quần lên đái. Thấy tôi gần như ở ngay bên, cụ quay ngoắt lại hỏi, điếu thuốc khẽ lật bật ở môi:
- Người ta đái cũng theo à?
- Không ạ, cháu…
- Thế đứng sát vào người ta nhòm gì?  XV

 *
 NÔNG THỊ XUÂN


Chiều ấy, khoảng bốn giờ về tới Chủ tịch phủ, tha thẩn ở sân chờ lấy xe đạp gửi các chú lính gác, tôi bất thần nhớ tới Xuân, cô “con gái nuôi của Bác”. Hỏi mấy người đứng tuổi nom có vẻ quen từ trên rừng. A, cô Xuân ấy hả? - Lấy chồng rồi. Chồng lái xe. Nhưng chết rồi! - Ố, sao trẻ thế mà chết? - Về quê Cao Bằng bị ô tô đè… - Khổ, sao lại thế! Tôi bàng hoàng kêu lên. Lúc ấy chưa biết các tình tiết đồn quanh cái chết tang thương này.
Đôi mắt bừng bừng nhìn tôi hôm nào khi Xuân đứng cạnh Cụ, đôi mắt như dứ bảo tôi “em giới thiệu anh với Bác nhé?” bỗng hiện lên lại rành rành, nguyên vẹn ánh long lanh vì sung sướng, vì được khoe, vì được chòng ghẹo. Và bàn tay mềm tôi nắm dắt lên bờ suối cao trơn. Khác là đằng sau con mắt ấy hiện nay là toà nhà Phủ Chủ tịch chứ không phải gian nhà ăn tre nứa trống tuềnh toàng…
Cái chết của cô gái ba mươi tuổi hồng nhan bạc mệnh khiến tôi thấy chả cần viết tắt tên là X. như trên kia nữa.XV
*


CHUONG XVII




CS GIAN LẬN


 Lúc này anh mới bình luận, Thái là nước trọng nhất vua mà mình lại đi lập cộng sản đưa anh thợ - mà lại là thợ An Nam - lên đả đảo đòi lật đổ vua người ta thì người ta phải dẹp đi thôi chứ. Họ chả lạ việc Việt kiều tổng khởi nghĩa hộ Lào cũng như sau này từ 1960, ta cho quân sang đánh rầm lên ở Lào là để hạ chế độ quốc vương của người ta xuống mà tạo phên giậu bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh. Thái cho quân sang (danh nghĩa quân đồng minh của Hoa Kỳ - BT) đánh mình cũng là để chặn trước không cho ta chiếm Campuchia rồi tẩn sang bên họ. Họ có lập đảng gì ở ta đâu mà sao ta lại lập cộng sản ở họ? Tôi hỏi có phải lập đảng ở Thái Lan là theo chỉ thị của Cụ không thì Quỳ im, mắt chớp chớp, bậm miệng lại. Tôi lại hỏi Tổng bí thư Đảng cộng sản Thái Lan là người Việt thì cũng ná như Trần Bình người Hoa làm Tổng bí thư đảng cộng sản Mã Lai đấy nhỉ?XVII


*
  CHƯƠNG XX


 XÉT LẠI


Nguyễn Chí Thanh đánh phá ác liệt tiểu thuyết “Phá Vây” của Phù Thăng vì có câu “hoà bình là nguyện ước của vạn vạn con người”. Rồi “Vo Đời” của nhà văn quân đội Hà Minh Tuân. Thép Mới, Như Phong bảo tôi viết phê bình. Tôi nói Tuân bị chê mãi là “tô hồng” thì nay sửa bằng bôi đen tí ti đi chứ có gì đâu mà phê?
Sáng sau Như Phong hớn hở đến nói mày thôi, để tao viết.
Như Phong là cựu Văn hoá Cứu quốc nhưng nay cũng ở danh sách những người mê Mao, sùng bái Mao, Mao-nhều, bảo tôi:
- Tối qua ông Thanh gọi tao đến nói đây là thuốc độc, anh phải vạch trần ra.
Như Phong viết “Vào Đời, chén thuốc độc”. Bại hoại, tan một đời Hà Minh Tuân. Đọc đầu đề bài báo, tôi bảo Như Phong:
- Thuốc độc là của ông Thanh còn chén chứ không thìa hay bát thì do dược sĩ Như Phong quy định!
Như Phong hi hí cười:
- Thuốc độc thì một chén đã là đủ đô rồi còn gì nữa hả mày!
Sau bài báo này Như Phong lại được dùng rồi sang báo Văn Nghệ. Nhưng cuối những năm 70, chính anh đã bảo tôi:
- Mày nhìn rõ lão Mao rất đúng và rất sớm! XX
*
NGUYỄN CHÍ THANH VÀ GẠO, BÚN

Giữa năm 1963, Nguyễn Chí Thanh có bài đăng trang nhất báo Nhân Dân kêu gọi tiết kiệm lương thực. Hợp tác xã cha chung không ai khóc, năng suất thấp, thóc gạo thiếu, biện pháp duy nhất thích hợp là bóp miệng lại, Thanh nay liệt bún vào bảng xa xỉ phẩm. Viết hẳn: Tại sao phải ăn bún?
Lúc Tố Hữu mở bữa thịt chó khao in tiểu sử Cụ, chưa hợp tác hoá nông nghiệp, bún ê hề, Thanh ca ngợi thiên tài bếp núc dân tộc thể hiện ở tổ hợp bún, thịt chó, mắm tôm. Từ ngày hợp tác hoá nông nghiệp, quản lý hết thóc gạo thịt thà, kể cả chó, thiên tài bếp núc gần như tiêu ma. Một cá nhân bèn dám lớn tiếng truy hỏi dân tộc: “Sao phải ăn bún?” và nổ bộc phá vào nền móng thiên tài ẩm thực dân tộc! Sau phải có chế độ đổi tem gạo lấy bún để duy trì tổ hợp thiên tài.
Đọc xong bài báo của một cá nhân dám lên tiếng truy hỏi dân tộc: “Sao phải ăn bún?” tự nhiên tôi sang buồng Thợ Rèn, hỏi lại chuyện dạo nào Thợ Rèn theo thư bạn đọc làm một bài “chuyện lớn chuyện nhỏ” phê một xe hơi chở mấy cậu ấm chạy chơi trên bãi biển Sầm Sơn đang buổi tắm đông người.
Bài có chú thích hẳn số xe hơi. Đúng hôm báo đăng, hai anh công an đến gặp Thợ Rèn hỏi tại sao anh đả kích cái xe có biển số kia. Rồi cho biết cái xe đó là của anh Thanh. Phải cảnh giác bọn phản động bôi nhọ lãnh tụ. Chúng tôi đem thư về nghiên cứu bút tích tìm kẻ tố cáo.
Tôi thấy Nguyễn Chí Thanh lần đầu ở chiến dịch Vĩnh Phúc, 1951. Ở mặt trận về Tổng cục Chính trị tiền phương, đến một đầu lũng nhỏ, tôi chợt nghe thấy tiếng thú gầm gừ và tiếng vật lộn. Rẽ vào một tràn ruộng cạn, tôi chậm chân lại: một người quần áo nâu đang vật nhau với một con béc-giê to tướng. Người nằm dưới gạt đầu chó ra nhìn tôi - kẻ phá quấy - rồi lại tiếp tục cuộc đọ tài cao thấp. Tôi nhận ra một khuôn mặt vuông vức, xám đen, dân dã nhưng oai. Vào Cục tuyên huấn, tôi hỏi Tử Phác đang trực ở đó rằng ai ở đây mà Tây thế, vật nhau với béc-giê? Tử Phác thủng thẳng:
- Ông tướng nông dân Nguyễn Chí Thanh, người vẫn phê bình cán bộ đến cà phê cô Hạ Cao Vân là hoà bình hưởng lạc đấy!
Năm 1964, tôi đi với hai nhà báo Trung quốc Luo Lie và Xi Hong Shi vào Vĩnh Linh. Khi trở ra, tôi đến Nguyễn Tuân. Anh hỏi thăm ông chủ nhiệm Nhà giao tế Đồng Hới còn không. Rồi hạ giọng hỏi:
- Ông hay gần các ông to, tôi xin hỏi ông là có thật anh Thao (Nguyễn Chí Thanh) thanh đạm như vẫn đồn không..
Tôi nói tôi không rõ ông này. Tuân bèn nói:
- Lần ấy mình dẫn Pierre Abraham của tờ Nouvelle Critique vào trong đó. Đến Nhà giao tế, nhòm vào tủ rượu, mình thấy hai chai săm-banh Moet & Chandon thì mừng quá bèn khen xừ chủ nhiệm chuẩn bị đến cho cả rượu ngon của Pháp cho khách quý Paris. Xừ chủ nhiệm bèn nói không, đây là dành cho anh Thao, anh Thao ngày nào cũng hai chai. Sáng sau sắp lên đường đi tiếp, xuống nhà ăn thấy hai cái thồi to kê sát vào nhau bày đầy món ăn rất ngon, mình lại nhanh nhảu khen tay chủ nhiệm khéo chuẩn bị cho ông khách quý Paris có cái ăn trong mấy ngày ở Vĩnh Linh. Xừ chủ nhiệm lại nói:
- Dạ thưa bác, hôm nay gia đình anh Thao lên núi đi săn với thường vụ tỉnh uỷ, các cái này là phục vụ các anh ấy đấy ạ!
Kể đến đây, Tuân nhành mồm ra cười đánh khì một cái rồi nghiêng người đặt tay lên đùi gật gù, như tượng “Người suy tư” của Rodin nhưng chán đời.
Hai năm sau, 1966, chuyện cũng dính đến ô tô.
Hôm ấy, Mỹ ném bom Phú Thượng, quãng ngã ba đường Bưởi. Làm việc với anh chị em từ trong Nam ra ở K.15 Nghi Tàm, năm giờ chiều Nguyễn Khải và tôi về. Thì ngập vào đám đông bà con lũ lượt chạy về Hà Nội nghẽn hết cả đường. Chợt một Volga đen từ Hà Nội nhích từng vòng bánh lên phía Phú Thượng. Trên xe ba đứa con trai nhảy từ ghế trên xuống ghế dưới. Và Nguyễn Chí Thanh lặng ngắm Hồ Tây đỏ tía ánh chiều tà trước khi tới tham quan nơi bị bom Mỹ.
Tôi nói:
- Đang “Buồn trông cửa biển chiều hôm” kìa.
- Ông ấy nên đeo khăn tang, - Khải nói. XX
*
CHƯƠNG XXI
 HỒ CHÍ MINH- NOVOTNY


Giữa 1963, Cụ Hồ bị một vố bút sa. Tuyên bố chung Hồ Chí Minh - Novotny, Chủ tịch Tiệp Khắc vừa lên báo thì Lê Duẩn bắt bỏ ngay: xét lại! Lập tức huỷ, bất chấp xúc phạm đến nước bạn Tiệp và lãnh tụ. Người ta giải thích vụ này như sau: nhận được bản Tuyên bố để ký, Bác hỏi chú Ba, ý là chú Ba Duẩn, xem chưa. Thư ký Bác lầm là hỏi chú Ba Khiêm, Bộ trưởng ngoại giao chịu trách nhiệm thảo văn kiện cho nên đáp là đã. Thế là Bác ký. Thì ra tội nợ chính là vì trong đảng quá nhiều Ba… Ba phải, ba ba ba…
Ung Văn Khiêm, tác giả bản Tuyên bố sau đó bảo tôi:
- Trong vụ Bác bút sa mà Ung Văn Khiêm chết đầu nước, có ba anh Ba tham gia. Ba Duẩn, Ba Khiêm và Ba Hồ.XXI
*
 ĐÁNH MỸ 

Đồn rằng một đoàn tướng lĩnh Liên Xô sang thăm Việt Nam đã khuyên đừng đánh Mỹ vì e sẽ không còn quần đùi mà mặc nên tác già văng c. ra tặng.
Một tối tôi xuất khẩu đọc cho Kỳ Vân nghe luôn một bài vè hoạ lại:
Tướng ông là tướng đếch cần cả quần mặc,
Vì ối giời ơi ông là tướng lủng liểng những hai c…,
Một nòi Việt cho và một Hoa cài,
C. của Hoa cài to gấp mười c. nòi Việt lắp,
Nó vốn được nuôi bằng sâm Cao li tẩm đẫm Mao Đài”.
Kỳ Vân kêu to:
- Hay, rất hay. Đọc cho tớ chép! Dân háo chiến là thích văng tục nhất.XXI
*
CHƯƠNG XXIII


HỒ THẤT THẾ


thứ trưởng công an Lê Quốc Thân thì lương tâm trung thực của người cộng sản lúc ấy lại là tuyên bố giữa hội nghị rằng chỉ cần Trung ương ra lệnh là trong vòng bốn mươi lăm phút công an chúng tôi tóm cổ hết bọn xét lại.
Cụ Hồ bèn nói:
- Chú hãy tóm cổ Bác trước!
“Lương tâm cộng sản” không được thể hiện đầy đủ, về tổ thảo luận, Thân chỉ vào mặt Lê Liêm nói tiếp:
- Mày còn thở ra cái hơi xét lại, tao lập tức tóm cổ mày.
Ngày 20-4-1981, Lê Liêm viết một thư gửi Trung ương nhắc lại chuyện này và hỏi: “Hội nghị trung ương mà để cho trung ương uỷ viên giở giọng lưu manh nói với trung ương uỷ viên như thế hay sao?”
Thể nghiệm của Lê Liêm còn sót bỏng đó. Nhờ chuyên chính mà trong Hội nghị trung ương 9, người ta mới vặn hỏi Lê Liêm tại sao hay gặp Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm.
Liêm hỏi lại:
- Trung ương uỷ viên gặp nhau thì phạm kỷ luật gì mà chất vấn tôi? Tôi cũng gặp các anh Nguyễn Chí Thanh, Trần Quốc Hoàn ở tại nhà tôi thì sao các anh không hỏi?
Nhờ chuyên chính vô sản mà Song Hào, Phạm Ngọc Mậu, đàn em xa của anh mới nổi tiếng là rất cách mạng với phương châm bất hủ đào tạo chỉ huy trong quân đội : tiểu tư sản mười năm đề bạt một cấp là nhanh, bần cố nông đề bạt một năm một lần là chậm. Đó chính là phát triển chỉ thị của Mao Chủ tịch: nhất cùng nhị bạch, quần chúng nghèo khổ nhất, vô học nhất nên cách mạng nhất và đảng phải dựa vào hơn cả.
Lê Liêm rồi không gửi thư kia nữa. “Chả làm gì lại được đâu mà…”
Nhưng tôi giữ một bản sao.
Xong Nghị quyết 9, tôi được nghe truyền đạt rằng từ nay Cụ Hồ thôi họp Bộ chính trị - vì “sức khoẻ” - còn Võ Nguyên Giáp, Lê Liêm thì ngồi chơi xơi nước và học nhạc lý cùng piano. Đảng ra tay trấn áp rất nhanh. Nghe nói lục soát cả chỗ làm việc.
Đến tận sau này, thỉnh thoảng Lê Liêm lại quàng vai tôi nhăn mặt kêu tiếc:
- Công an tịch thu mất tổng phổ bản giao hưởng Điện Biên Phủ do anh Giáp với mình làm chung.
- Lễ mất đằng lễ, nhạc mất đằng nhạc, nghĩa cũng mất nốt, - tôi thở dài nói.
Lễ là lon tướng của các anh, nhạc thì giao hưởng Điện Biên Phủ, nghĩa là ba ông tướng làm nên Điện Biên Phủ đều tong…XXIII
*


Trên đây là chuyên chính với Cụ Hồ, Võ Nguyên Giáp, Bùi Công Trừng, Lê Liêm. v.v… Còn chuyên chính với Ung Văn Khiêm?
Chính Khiêm cau mày bảo tôi:
- Mình sắp lên xe ra sân bay đi Liên Xô thì công an bắt mở va li ra để khám. Khám trung ương uỷ viên, khám bộ trưởng ngoại giao… Merde, mais c’ est ínsultant… (Mẹ, thật là nhục mạ).. Công an mật bố trí đầy ở quanh nhà mình phố Cao Bá Quát. Với uỷ viên trung ương còn khinh như rác thế thì dân đen ra cái cứt gì với họ?
Bốn uỷ viên trung ương bị khai trừ khỏi đảng. Toàn những bậc đại công thần. Võ Nguyên Giáp còn trong đảng nhưng cũng bị bêu trong nghị quyết 20 của Trung ương khoá III về “Vụ án chống đảng” với cái tên gọi tắt thành X. Tin này được truyền đạt cho cán bộ từ trung cấp trở lên và tai tôi nghe. Rồi đủ mọi tin đồn: Giáp là con nuôi mật thám Marty, vào đảng man, nịnh Cụ Hồ để Cụ o bế. Đáng nói nữa là người ta chuẩn bị đày toàn gia Giáp già trẻ lớn bé ra đảo Tuần Châu. Và hơn mười năm trời bị bong lon đại tướng trên báo chí…
Trong vụ lột lon Giáp phải nói tới công mở đường lột ngầm dai dẳng của báo đảng. Bản tin Thông tấn xã vẫn viết đại tướng Võ Nguyên Giáp như thường lệ. Một hôm, Thịnh, tay súng thiện xạ của Hà Nội, một anh sửa mo-rát nhà in bảo tôi dạo này em thấy trên bản tin Việt Nam thông tấn xã toà soạn đưa sang cứ chỗ nào có đại tướng Võ Nguyên Giáp thì thủ trưởng Hoàng Tùng lại giập hai chữ “đại tướng” đi!
Tôi hỏi sao biết là Hoàng Tùng?
- Ô, lâu nay lệnh là chỉ Tổng biên tập mới chữa bài bằng mực đỏ thôi mà…
Quá siêu! Ít lâu, nhận ra hiệu lệnh, các báo nhất tề lột nhẵn.
Quả đấm này xảy ra sau buổi Lê Duẩn đến báo Nhân Dân nói với các trưởng phó ban trở lên, rủa Giáp là đồ hèn, nghe tôi nói đánh Mỹ là tay cứ run lên như thế này (giơ tay ra run, minh hoạ sống động).
Đến chiếc mũ phớt Giáp đội từ lúc dạy học ở trường Thăng Long rồi tha sang Tàu để cuối cùng diện trái khoáy trong lễ ra mắt Giải phóng quân cũng bị chê nốt. Sáng ấy, báo Nhân Dân đăng bài kỷ niệm thành lập quân đội, có bức ảnh đơn vị Giải phóng quân đầu tiên với Giáp đội mũ phớt. Họp toàn cơ quan, Hoàng Tùng giơ bức ảnh lên nói với tất cả hội trường:
- Lại còn đi bê cái mũ phở này lên làm gì nữa đây? - Giọng đầy miệt thị.
Dân có những ca dao hay vào bậc nhất trong kho tàng ca dao Dân chủ Cộng hoà:
Chiến trận ba mươi năm,
Tướng võ không còn nguyên mảnh giáp
Trước kia đại tướng cầm quân,
Bây giờ đại tướng lột quần chị em.
Hay
Ngày xưa đại tướng công đồn,
Nay thì đại tướng bít l. chị em.
Giá trị hai câu thơ này bị giảm qua nhiều vì văn hoá đòi phải viết tắt một chữ vồn là linh hồn, hơi thở, lá cờ soái của tác phẩm.
Một thày giáo ở Nam Định bảo tôi:
- Không ngờ ông tướng này lại Vỡ Vụn Giáp. Có thơ rồi đấy: Nhờ Tây thành nguyên giáp. Nhờ Duẩn, Giáp vụn tan…
Sau này dân Quảng Bình tổng kết năm 1963 hai “thánh nhân” của mảnh đất này bắt đầu lụn bại. Đó là Võ Nguyên Giáp và Ngô Đình Diệm. Diệm bị mất mạng, Giáp còn mạng nhưng nhục. Diệm bị Mỹ không ưa nên quân tướng của ông xơi, Giáp bị Mao Chủ tịch ghét nên các đồng chí thân thiết của ông bôi nhọ cho bằng đủ kiểu. Sáng kiến cải tạo thuỷ lợi, đào kênh Đại Phong cho Quảng Bình lên 5 tấn là của ông Nguyễn Chí Thanh phụ trách nông nghiệp - việc này có thật - nhưng con kênh này về mặt phong thuỷ đã chặt đứt mất long mạch ở quê của hai vị Diệm và Giáp (việc này thì dân đồn).
Đánh bằng đường âm nữa thế này thì liệu có phải nhờ thày Tàu XXIII
CHƯONG XXIV
 THƠ L...




 Như kiểu Đồng Đức Bốn kêu: “Con vợ tôi nó khờ, Xem thơ nó lại úp lờ vào thơ, Con vợ tôi nó ngu ngơ, Xem thơ nó lại úp thơ vào lờ”. Hay vì đạo đức giả: thích nó mà lại làm ra thanh cao? XXIV


CHUONG XXV




TÙ CS


Ai ra tù cũng đều phải đình chỉ sinh hoạt đảng chờ thẩm tra XXV


CH.XXVI


TÔ HOÀI VÀ TÙ BINH MỸ




Khoảng hai trăm tù binh phi công Mỹ xếp hàng đầy hết lòng đường đi tới. Quần áo bà ba mầu xám khói nhạt. Tôi giật mình: tất cả đoàn người bị trói kia sao quá giống hệt nhau? Ở chiều cao, ở khổ người, ở dáng đi, ở nét mặt, ở tư thế và thần thái. Lầm lũi ngửng đầu nhìn thẳng vào cái không gian bao quanh đằng đằng sát khí và tiếng la ó. Thoáng rất nhanh tôi ngỡ xem một tập quần tượng đài di động được một đạo diễn tài ba điều khiển. Nhà đạo diễn đó là ý thức về giá trị tự thân.
Và rất nhanh lại nghĩ ai đó đã dựng nên tập thể điêu khắc này để đối lại tượng đài Nạn nhân các trại tập trung Quốc xã.
Dân hai bên đường hò hét, đánh đấm, ném đá. Những cái đầu tù binh quay ngoắt tránh đá, tránh đấm rất nhanh. Những con mắt không một lúc nào cầu van, nao núng…
Ba chúng tôi đứng lặng trên hè. Tương quan sức mạnh quá chênh nhau tự nhiên làm se lòng. Đoàn tù binh đã đến đoan cuối, chợt Tô Hoài nhào xuống đường, nhảy vội lên đấm một cái trượt vào mặt một người tù binh đi ở ngoài cùng.
Anh trở lại, tôi hỏi khẽ:
- Đánh người ta làm gì?
- Xung quanh căm thù như thế chả lẽ ba đứa mình đứng yên? - Tô Hoài che miệng tủm tỉm cười.
Tôi biết anh muốn tránh đòn dư luận cho cả ba. Anh rất hiểu đời. Anh biết cần yên để viết, chớ trêu ngươi, trêu là toi sự viết đấy. Trên cái bàn con con rất thấp của anh ở ngay bên trái cửa vào nhà, cạnh bức chân dung anh do Nguyễn Sáng vẽ - mà bàn tay rất được chú ý đặc tả - anh để tấm huân chương kháng chiến chống Pháp trong khung kính. Cười bảo tôi: “Công an đến thấy thì đỡ lôi thôi”.
“Toà án nhân dân” kiểu cải cách ruộng đất kịp thời giải tán ngay sau cuộc bêu tù binh. Sài Gòn đe trả miếng y như thế. Cũng bêu tù Việt Cộng. Thế giới tố cáo Hà Nội vi phạm luật quốc tế về tù binh. Còn tù binh Mỹ về trại nhất tề tuyệt thực.
Sau ta đưa họ đến giam ở gần những trọng điểm hoặc sơn cầu Long Biên để Mỹ không dám đánh phá. Mấy cô diễn viên trong Khu văn công đến biểu diễn cho các mâm pháo gần nhà máy điện Yên Phụ về nói: Đang hoá trang cho tiết mục sắp diễn cứ thấy, hế lô hế lồ gọi. Nhìn sang bên nhà máy điện thì thấy mấy chú Mẽo bị giam trong đó. Các chú bám mép tường nhoi lên gọi, vẫy, hôn gió. Đồ quỷ, vào tù còn hám gái thế chứ lại.
- Mà phải là gái đẹp và gái chiến thắng cơ! - tôi nói.
Phải nhận là Mỹ kỳ quặc! Sau khi bình thường hoá bang giao năm 1995, bổ nhiệm đại sứ đầu tiên sang mà kén một tù binh cũ từng bị giam sáu năm rưỡi ở Hà Nội. Không ngại mất thể diện ư? Mà ông đại sứ vừa sang là te te lao xuống ngay Hải Dương tìm cảm ơn người du kích năm nào bắt được mình.
Và ông ta thì mới giải lời thề để từ căm thù Việt Nam chuyển sang hữu ái, thân thiện với ngay những người từng đã hành hạ ông cực kỳ độc ác. XXVI

CH.XXVII

MAO GIẾT TƯÓNG LÃNH

Đến tháng 6-1967, tất cả những Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, gần hết Bộ chính trị và 11 nguyên soái đã bị Mao bỏ tù thì ở Việt Nam, tuy nằm ở Bắc Kinh, Cụ Hồ vẫn nguyên thanh thế chủ tịch nước có thơ gửi đồng bào, bộ đội và đặc biệt Giáp vẫn đầy đặn danh hiệu, chức vụ, quyền lực tức là súng vẫn ở trong tay Giáp mà với Mao thì nòng súng đẻ ra tất cả! Tóm lại Duẩn chưa thâu tóm được toàn bộ quyền lực và như vậy khả năng phản đòn của xét lại Việt Nam còn lớn, khả năng Việt Nam ngừng đánh Mỹ vân có, bài bản của Mao qua chiến tranh Việt Nam (chứ không phải chiến tranh lục địa - Đài Loan) để thương lượng ngang thưng với Mỹ không thành.XXVII
 *
ĐẢ ĐẢO VNG


Có rất nhiều biểu ngữ các tiểu tướng Hồng vệ binh chăng lên ở trước mặt các quan khách Việt Nam đến dự đề rằng: Đả đảo Võ Nguyên Giáp, phần tử xét lại thối tha, tay sai của Liên Xô phản động![..].Mao đã nói với Duẩn rằng cách mạng Việt Nam muốn tiến lên thì phải làm như cách mạng Trung Quốc. Nghĩa là hạ phái hữu xuống, đưa phái tả lên. Phái hữu ở Việt Nam đại khái như Võ Nguyên Giáp, phái tả ở Việt Nam đại khái như Nguyễn Chí Thanh. Cụ trưởng tình báo Lê Trọng Nghĩa nói với tôi, Duẩn có báo cáo lại ở Bộ chính trị (Nghĩa thường xuyên được ngồi đó để cần thì cung cấp thông tin cho Bộ chính trị) nhưng Duẩn nói (ngoài miệng) đấy là ý bạn, còn ta thì cứ đoàn kết chống Mỹ.27


*
 NGUYỄN CHÍ THANH CHẾT


Tháng 6-1967, Mao hạ Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, gần hết Bộ chính trị cùng 11 vị nguyên soái rồi thì ở Hà Nội, tối 6 tháng 7, thình lình sau bữa cơm Giáp mời Thanh ăn trước hôm Thanh đáp máy bay qua Campuchia về Rờ, Thanh đột tử. Cán cân tả hữu ở Việt Nam đột ngột lệch hẳn về “phái hữu”, khiến cho trong điện chia buồn, Bắc Kinh đã viết: “Xin các đồng chí chớ đau buồn nhiều” mà sau đó Nguyễn Tuân hỏi tôi: “Ông thấy câu phân ưu này có lạ không?” Mao Trạch Đông còn đích thân đến đại sứ quán ta ở Bắc Kinh phúng, điều Mao không làm khi Cụ Hồ chết. Mao có thể nghi ngờ cái chết của Thanh. Bữa ăn bí mật đến mức phải đưa người ở Cục tình báo đến chụp ảnh mà Bắc Kinh chẳng lạ gì cục trưởng tình báo Lê Trọng Nghĩa vừa mới theo lệnh Lê Duẩn có động tác tiếp xúc với C.I.A Mỹ để chuẩn bị đàm phán với Mỹ.
Nguyễn Chí Thanh, “đại diện phái tả” chết trước Tết Mậu Thân nửa năm là giọt nước làm tràn li. Thanh chết mồng 6 thì 28 tháng 7-1967 bắt bốn xét lại đầu tiên trong có Hoàng Minh Chính, Hoàng Thế Dũng, Phạm Viết, Trần Châu.
Lê Trọng Nghĩa cho rằng trước khi có Tổng tiến công, Tổng nổi dậy, Lê Duẩn đã cho Tổng tiến công, Tổng nổi dậy ở Quân uỷ trung ương và Bộ tổng tư lệnh. Như sau:
Tháng 9 Giáp thình lình đi Bratislava “dưỡng bệnh” - cuộc xa xứ này để bù vào sự vắng mặt mãi mãi của Nguyễn Chí Thanh. Lê Đức Thọ vào Quân uỷ trung ương, thế lực Thọ hùng mạnh lên nhiều. Tháng 12, Nguyễn Văn Vịnh ra khỏi Quân uỷ trung ương, thôi chức Trưởng ban thống nhất và bị quản thúc. Tháng 1-1969, chánh văn phòng Bộ Tổng tư lệnh Hiếu Kính (vì đeo kính), Chánh văn phòng Quân uỷ trung ương, Lê Minh Nghĩa bị treo giò và chịu sự điều tra thẩm vấn của Cục bảo vệ quân đội. Rồi tháng 2, vừa nổ súng Tết Mậu thân, đến lượt Lê Trọng Nghĩa, Đỗ Đức Kiên. Trong vòng sáu tháng người ta dọn sạch các trợ lý đắc lực của Giáp. Nhưng rồi Tết Mậu Thân thua thiệt, cần đến Giáp, người ta lại đành để cho Giáp về nước.
Diễn tiến ở Hà Nội có khác Bắc Kinh. Bộ trưởng quốc phòng Bành Đức Hoài bị sờ đầu tiên, mãi đến tháng 6-1967, Bắc Kinh mới quật ngã Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình và 11 nguyên soái. Ở Việt Nam, đầu tiên Cụ Hồ ngồi chơi xơi nước và chữa bệnh, Trường Chinh sớm khuất phục nhưng Duẩn mò đến Giáp sau cùng.
Còn một điểm khác Việt Nam đặc biệt nữa: ấy là Đặng Tiểu Bình rồi đã lật lại ván cờ đế tiến hành một cuộc “xét lại” long trời lở đất có tên là khai phóng, cái cách minh oan phục hồi danh dự cho các nạn nhân chính trị nhưng đám xét lại ở Việt Nam thì vẫn hoàn toàn đêm tôi. Việt Cộng tính cho vụ án xét lại “chết chìm” vì nó gồm có Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp cùng nhiều đại lão khai quốc công thần.
Dưới thời Tổng bí thư Lê Duẩn, người từng cùng trong trung ương với những Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và chắc từng nghe không ít những lời các vị này phê phán Hồ Chí Minh, Trường
Chinh, Võ Nguyên Giáp, ba anh hùng làm Cách mạng tháng Tám và thành lập Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, lu mờ đi.
Phải nói rõ là lúc nhiều điều trên đây đang diễn ra, tôi vẫn mơ hồ. 27

CH.XXVIII

 VN NHẤT


Sau đó Cụ Hồ ra nói. Khen dân tộc, đất nước, mọi ngành mọi giới của ta đều anh hùng. Cuối cùng khen chính phủ ta “anh hùng dứt” (nhất). Bao nhiêu chính phủ trên thế giới theo nhau đổ nhưng chính phủ ta xưa thế nào thì nay vẫn y như thế.
Hội trường vỗ tay như sấm. Sướng quá. Đứng trên đầu chúng nó! Ngồi trên gác ở chỗ nhà văn nhà báo, tôi nói to cho xung quanh nghe thấy: “Xét theo tiêu chuẩn lâu bền thì ta mới anh hùng hạng ba! Còn thua chính phủ Tưởng Giới Thạch bền từ 1927 và Franco từ 1936”. Cố không nói AQ. Hình như sau này khai cung có nói.28

*


Ch.XXIX
*


VỤ ÁN XÉT LẠI


Trong vụ án xét lại, phải nói tới các chị. Chị Tề, vợ Vũ Đình Huỳnh; chị Mỹ, vợ Đặng Kim Giang; chị Sơn, vợ Bùi Công Trừng; chị Minh Quang, vợ Minh Việt; chị Oanh, vợ Lưu Động; chị Lan, vợ Kiến Giang. v.v…
Chị Thảo, vợ Lê Trọng Nghĩa, rửa bát ở mấy nhà ăn quốc doanh suốt từ Tràng Tiền đến Cửa Nam và Ga Hàng Cỏ lấy tiền nuôi con và gửi cái gì đó cho chồng. Người ta thẩm vấn chị “chui vào đảng để nhằm cái gì?”
- A, thế sao các anh không hỏi thời Pháp thời Nhật những lần tôi chui vào Hoả lò tiếp tế cho tù cộng sản thì là để nhằm cái gì? Tôi hỏi lúc ấy các anh ở đâu?
Hồng Ngọc vợ Hoàng Minh Chính ba lần nuôi chồng tù ta. Bị khai trừ khỏi đảng, bị buộc về hưu sớm. Tội: không đấu tranh giáo dục chồng, Hoàng Minh Chính! Dạo Chính tù lần hai, một hôm tôi đã thốt lên: “Bà giỏi, nuôi chồng tù vất vả (cơm hai mẹ con toàn rau muống luộc mà cứ mời tôi cùng ăn) mà vẫn khoẻ chứ không thì khốn. Chị vạch chân tóc: “Nhuộm đây này! Dù có thế nào, đàn bà con gái cũng không được phép tiều tuỵ. Tôi kể qua nhé, gạo nước, thực phẩm, đường sữa, báo Liên Xô, đủ các thứ, rồi thuốc men gửi cho ông Chính là hết nhẵn!
Một vài lần chị muốn tôi viết giúp chị hồi ký. Không làm được, tôi rất ân hận. Tôi còn quá vất vả với việc của tôi. Có đêm sắp giao thừa, theo ý chị, tôi đã đạp xe ra để cùng chi đi quanh Hồ Gươm chen nhau với người. Sau này theo Chính sang Mỹ chữa bệnh, chị bảo tôi: “Tiếng là đi Mỹ nhưng toàn quanh quẩn trong bệnh viện”.
Hồng Ngọc quá nhiều buồn khổ. Như nhiều bệnh. Tôi cảm ơn chị đã chọn tôi làm người tâm sự. Một hôm, trong bữa ăn vợ chồng con gái út chị mời mấy giáo sư Trần Hữu Tá, Lê Minh Ngọc và tôi, Hồng Ngọc giới thiệu với mọi người: “Trần Đĩnh là người bạn thân nhất của tôi”. Phải nói rằng tôi hết sức cảm động. Một lần nữa nói như thế trong bữa ăn mời tôi có bà thông gia của tôi, em gái Chính, và ba con gái Hồng Ngọc.
Và con của các anh chị. Biết bao cay đắng, tủi hổ, thiệt thòi. Tôi khó quên chuyện lúc mấy người công an đẩy Vũ Đình Huỳnh đi, anh đề nghị:
- Các đồng chí cho tôi vào hôn mấy cháu bé.
- Thằng phản động, ai đồng chí với mày hả?
Huỳnh sau này bảo tôi:
- Mật thám Tây đến bắt không vô văn hoá như vậy. 29


*
Ch.XXXIII


TIẾU LÂM


Nhân phẩm toàn dân mất sạch rồi,
Chỉ còn lương thực giá cao thôi,
Lương tâm giá rẻ hơn lương thực,
Chân lý, chân giò cũng thế thôi…
hay
Đảng là mẹ, Bác là cha,
Bác ta mất sớm, mẹ ta goá chồng.
Bác ơi sống lại mà trông,
Thạch Sanh thì ít, Lý Thông thì nhiều!
Có một toán công nhân sang Liên Xô học nghề in vừa về. Tỏ ra có phong cách Nga hơn. Tức là kể tiếu lâm thoải mái. Hỏi ngay tôi:
- Anh có thích nghe tiếu lâm Liên Xô không?
Và kể luôn. Brezhnev dắt cháu nội đi thăm lăng Lê-nin. Vẫn quen nghe ông ông vĩ đại, đứa cháu hỏi: “Ông ơi, sau khi ông chết thì ông cũng sẽ ở đây phải không?” “Ông còn đi đâu nổi với dân ta nữa chứ hả cháu?”. Thì Lê-nin lật hòm kính đứng ngay lên chỉ tay ra cửa lăng: “Cái thằng này! Mày tưởng đây là nhà tập thể hả? Cút mẹ mày đi!”
Những tiếu lâm và ca dao rất hay, không thể kể hết vào đây… Bác Hồ cũng chả thoát. Bài vè Bác và các cháu làm thơ đấu nhau về thế nào là ỉa đúng ỉa sai kỷ luật quá hay.33


*
NGUYEN HỒNG


Cái giá Nguyên Hồng phải trả để được không chửi bậy quá lớn. Lên Cầu Gồ là anh mất hộ khẩu Hà Nội. Là mất sổ gạo! Là ăn đong quanh năm ngày tháng với năm sáu cái miệng hết tiêu chuẩn “ăn theo”. “Ăn theo” chỉ vợ con công nhân viên, còn “ăn bám” chỉ bọn bóc lột. Anh đã nhờ vào tem phiếu của bạn bè sau các chuyến công tác còn thừa đem cho. Lại may, anh cho biết, cậu bí thư huyện Yên Thế xưa làm thợ in, nghe tiếng tớ từ thời Tây thế là rộng cho tớ phần nào lương thực.
Nhưng anh vẫn cần mượn oai hùm là báo Đảng. Anh mời Xuân Trường, Như Phong, Địch Dũng và tôi lên dự giỗ Cụ Đề tại Phồn Xương. Dặn phải đi bằng ô tô lên. Xe chúng tôi còn cách nhà anh một cây số đã thấy anh vét-tông ka ki, ôm cặp da trâu đựng bản thảo, ngực đeo huân chương vàng choé chờ ở bên đường từ lâu. Anh không ngồi xe mà đứng ôm cửa xe để hô anh tài rẽ thế này, quặt thế kia. Người làm đồng khá đông đều quay lại nhìn. Anh thú thật:
- Trên này cái thế Nhà nước mạnh lắm, tao cần nó để họ còn cưu mang gạo mà.33
*
Ch.XXXV


MAO& NIXON
 Rèm sân khấu vén lên thật. Tháng 2 năm 1972, Nixon đến Bắc Kinh. Mao Trạch Đông nôn nóng muốn bắt tay ngay tổng thống Mỹ, toan xúp cả trật tự lễ tân. Theo The President’ s Private Life của Lý Chí Thoả, bác sĩ của Mao thì Mao hết sức khao khát gặp người mà ngày ngày ông sai báo chí, dư luận nước ông chửi là trùm phản động. Kiểu ban ngày quan lớn như thần, ban đêm… tôi nói ở trên. Mao theo dõi bằng điện thoại mỗi xê dịch của Nixon đến Trung Quốc. Chu vừa bắt tay Nixon là Mao đã điện bảo đưa ngay Nixon tới. Và lâu lắm ông mới cắt tóc, cạo mặt. Gặp tổng thống Hoa Kỳ có lẽ là điểm cầu ước tột cùng của Mao.
Trong 65 phút tiếp kiến, Mao khoe ông đã “bỏ phiếu” (bầu tổng thống) cho Nixon. Nói chúng ta trước là thù nay là bạn. Hai nước cần thiết chế hoá quan hệ, hiện nay tình trạng quan hệ hai nước thật là thảm. Mỹ và Trung Quốc cần có lợi ích song hành và Mỹ nên nhận lấy vai trò chính trong công cuộc gìn giữ thế giới. Mao còn phàn nàn Mỹ rải quân quá phân tán, Mỹ thiếu cứng rắn với Liên Xô, kẻ đang hung hăng bành trướng. Mao thú thật ông đã tưởng Trung Quốc có thể đứng được một mình song nay thấy “chúng tôi cần phải ra ngoài để học”. (Ôi… ôi… kim chỉ nam! Lại còn phải học cả ngoài nữa. Việt Cộng mà học như thế thì ông móc họng). Chúng tôi nghèo - Mao nửa đùa nửa thật - chỉ có phụ nữ là sẵn mà đều là phụ nữ ghê gớm cả. Hỏi Kissinger rằng Mỹ có cần phụ nữ Trung Quốc không, chúng tôi có thể đưa sang nhiều đấy. Có lẽ ám chỉ Giang Thanh. Vĩ nhân thường cần có mỹ nhân làm sọt đựng những tã bẩn của mình.
Mười giờ hội đàm giữa Nixon và Chu Ân Lai sau đó (nhưng công bố dài có vài phút) đã dẫn đến hai bên móc xẩu cùng chống Liên Xô, hoãn bàn vấn đề Đài Loan. Để Mỹ yên tâm rút khỏi Việt Nam, Trung Quốc hứa sẽ “không làm gì ở Việt Nam” cũng như không quấy rối các đồng minh của Mỹ ở Đông Nam Á. Đổi lại Mỹ cho Trung Quốc vào Liên hợp quốc. Mỹ bằng lòng: Mỹ cần cho sập trước hết Liên Xô.
Thôi chọc phá Đông Nam Á như cam kết với Mỹ, năm 1974 Mao tiếp kiến bà Imelda vợ tổng thống Philipin Marcos.
Xiêu lòng bởi mỹ nhân này - khen bà là “hoàn hảo” - ông Mao đa tình đã bỏ rơi NPA (Quân đội Nhân dân Mới), tổ chức cộng sản thân Mao đang vũ trang chống chính phủ Marcos. Lập tức NPA thanh trừng nội bộ, giết nhau dữ dội.
Trước khi lên máy bay về Mỹ, Nixon nói:
- Đây là tuần lễ thay đổi thế giới.
Kỷ niệm 50 năm thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Winston Lord, nguyên đại sứ Mỹ tại Trung Quốc từng dự cuộc hội kiến và đàm phán Mỹ - Hoa nói, cái bắt tay của bộ ba Nixon - Mao - Chu Ân Lai đã “làm biến đổi thế giới”. Vì nó sẽ làm sập phe cộng sản. Kết quả vượt quá dự kiến của Nixon và Mao. Và có lẽ chưa cuộc hối lộ nào mà thu hoạch lại kinh khủng đến thế.
Sự kiện Nixon gặp Mao lớn đến nỗi năm 1987, John Adams đã viết vở nhạc kịch “Nixon ở Trung Quốc”. Báo Mỹ bình Mao hát tự tin hơn Nixon.
Sau cú trở cờ ngoạn mục trên đây, Hoàng Tùng xã luận chửi Bắc Kinh. Nhưng hãi Trung Quốc nên cộp cả Liên Xô vào chửi tuốt mo hai thằng đầu sỏ cộng sản “sa vào vũng bùn tanh hôi của chủ nghĩa cơ hội”.
Lê Duẩn nói ở một số nơi rằng người sợ Mỹ nhất là Mao, duy người Việt Nam - tức là ông - không sợ. Coi nhiệt tình là phẩm chất cao nhất thì với Lê Duẩn sợ hay táo tợn trở thành tiêu chuẩn đầu sổ. May mà Mao sợ nhưng còn dám giúp vũ khí, lương tiền cho chứ không thì ông cũng chả phô trương được hết tầm vóc gan dạ.
Mỹ đã ra sức lợi dụng mâu thuẫn Xô - Trung. Cả hai đều sợ Mỹ - kẻ thù tầm xa - thân với “kẻ thù” tầm gần của mình nên đều cố chèo kéo Mỹ, kệ cho Mỹ đang mạnh tay lên với chú em bị hai anh đem bỏ chợ.
Ngày 10-5-1972, Mỹ rải mìn phong toả Hải Phòng. Liên Xô, Trung Quốc chỉ đòi Mỹ không được làm thiệt hại đến tàu và sinh mạng của mình.
Ngày 11-5, báo Trung Quốc còn hào hiệp đăng toàn văn bài nói của Nixon để cho dân Trung Quốc “biết các chi tiết về chương trình hoà bình của Mỹ cũng như sự không khoan nhượng của Hà Nội” mà thấy Mỹ hợp tình hợp lý, Việt Nam không đăng là vì sao chứ vị đều hiểu. 35


*
SHIHANOUK GHÉT VN
 Kissinger viết Sihanouk đã xin Mỹ đẩy Việt cộng ra khỏi Campuchia và bằng lòng cho B52 Mỹ ném bom vùng Việt Cộng đóng ở nước ông. Dạo ấy tôi nghe truyền đạt rằng Sihanouk “hai mang”, vừa xài xìn ta để cho đóng quân lại vừa sợ.35


TRUNG QUỐC - MỸ


 Vì Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình càng quyết không bỏ lỡ thời cơ chuyển hướng: coi Liên Xô là kẻ thù cần phải hạ, coi quan hệ thân thiện Mỹ - Trung là điều kiện cơ bản để có thể tiến hành công cuộc bốn hiện đại hoá, đẩy Trung Quốc ra khỏi quỹ đạo.35
  *


 CH.XXXVI


TRAN DUC THAO- LE DUAN


Trần Đức Thảo, nhà triết học bị về vườn vì Nhân văn - Giai phẩm, một hôm bỗng được Nguyễn Đức Bình, thư ký của Lê Duẩn đánh xe đến đón lên gặp Tổng bí thư.
Xảy một chuyện không ai nghĩ ra nổi. Chính Thảo kể nó cho Phan Thế Vấn, Gia Lộc trước rồi sau cho tôi nghe.
Phòng khách nhà 8 Hoàng Diệu, chỉ ba người: chủ nhà Duẩn, Bình và Thảo. Bình vào đầu nói hôm nay Tổng bí thư mời giáo sư đến để nghe Tổng bí thư trình bày một đề cương về vấn đề con người rồi sau đó xin mời giáo sư góp ý kiến.
Duẩn trình bày. Được ba phút, Bình nhắc Thảo chú ý ghi. Ở Việt Nam nghe thủ trưởng mà hí húi ghi là dấu hiệu trung thành tuyệt đối nhưng Thảo lại ngồi im. Lát sau, Bình đẩy giấy và bút đến cho Thảo, hy vọng có cơ sở vật chất trước mặt thì thượng tầng kiến trúc của Thảo sẽ hoạt động. Duẩn tiếp tục trình bày và Thảo tiếp tục ngồi nghe không động đậy.
Duẩn nói hết, Bình lên tiếng:
- Tổng bí thư đã nói xong, xin giáo sư góp ý kiến!
Ngơ ngác một lát, Thảo nói:
- Tôi không hiểu gì cả.
Thảo vừa dứt lời, thoắt một cái rất nhanh Duẩn đã nhào đến đằng sau anh, quàng hai tay vào ngực anh rồi liên tiếp xốc lên dội xuống anh mấy đận, đoạn buông thịch một cái xuống, bỏ vào trong nhà.
Bình nhăn nhó đến trước Thảo trách:
- Tổng bí thư nói mà lại bảo không hiểu gì cả thì lạ thật!
Rồi cũng bỏ vào theo chủ nhân nốt. Lớ xớ tìm mãi không thấy lối ra, cuối cùng Thảo đành nhờ gia nhân nhà dưới chỉ cho đâu là cổng. Lại lớ xớ rẽ ngược về Quan Thánh, cuốc bộ một quãng xa mới vớ được một xích lô chuyên chở đá cây cho mậu dịch không có ghế, phải ngồi mớm vào mép thùng xe.
Hồi ấy người chân chính không ai leo xích lô mà bóc lột lao động.
Tôi đùa bảo Thảo:
- Thật đúng là được hôm vua vời ôm bế thì gặp phải ngày thất kinh. May mà vua nói vấn đề con người chứ nếu nói vấn đề con vật thì không biết hôm ấy anh sẽ còn lạc đến tận đâu.
Thảo tủm tỉm cười.
Vấn đã hỏi Thảo:
- Tại sao anh không hiểu?
- Khái niệm không chuẩn gì cả.
- Duẩn là Mác-xít cơ mà?
- Ở ta chỉ có Trường Chinh hiểu được chủ nghĩa Mác chứ Duẩn thì không. - Thảo lắc đầu quầy quậy.
Với tôi, anh còn thì thào vào tai:
- Duẩn tu đạo Cao Đài đã đạt tới chỗ nhìn được thấy các vị thần sở tại tức là cao cấp rồi đấy… Chắc chắn đúng mà… Làm sao Duẩn lại Mác-xít được?
Qua những lần anh nói về Lê Duẩn, tôi thấy anh kỵ nhất ông này ở chỗ mà anh cho là nhập nhèm về triết. Theo anh, Lê Đức Thọ, người của bộ máy, giảo quyệt, gian ngoan, tà tâm làm Tổng bí thư, còn hơn Duẩn tà đạo nhận xằng là Mác-xít.
Thọ không bao giờ vỗ ngực ta thạo chủ nghĩa, chỗ ấy khác Duẩn và cái đó, theo Thảo, còn khả dĩ. “Duẩn đã tu đạo Cao Đài rồi mà…”, tôi vẫn thấy một cái gì ghê sợ đằng sau câu này của anh.
Tôi quen Thảo qua Vấn và Gia Lộc. Mới đầu anh nghi tôi ở trong cái brain trust, chữ Thảo đặt ra để chỉ những người làm quân sư cho Duẩn dưới trướng Hoàng Tùng. Anh có một ám ảnh bệnh hoạn tâm thần về công an: họ
nhan nhản quanh anh và rình rập theo dõi anh ngày đêm rất ngặt. Chúng tôi đùa gọi căn bệnh này là flicomanie, cá khủng, sợ công an. Một sáng đến Đào Duy Anh xong, tôi sang Thảo theo hẹn. Hai anh chiếm hai đầu cái hành lang chạy hết chiều ngang tầng ba toà nhà B6 Kim Liên. Tôi gõ cửa. Nghe ngóng. Lại gõ. Cứ im. Chắc đã quen nết, Đào Duy Anh vẫn chờ ở cửa buồng anh lúc ấy gọi tôi bảo:
- Xướng danh lên!
Tôi xướng danh rồi nhờ có Anh chứng kiến nên tôi ghé mắt nhìn qua khe ván cửa.
Trong kia, cách chừng ba bước, Thảo đang đứng lom khom nhìn ra cửa, hai tay hơi giơ lên nửa như muốn mở nửa như thủ thân. Gian phòng ngoài khá rộng, không đồ đạc, sàn la liệt sách báo. Tôi chợt chứng kiến một homo erectus - người đứng thẳng trong thời kỳ bắt đầu tập đi hai chân trên lớp lá rừng rụng đầy đất. Nó mới thật ngược lại cái dáng đứng Bến Tre, cái dáng đứng mà một lần tôi bảo Vũ Cận, Tổng biên tập một tạp chí tiếng Pháp là nên dịch nó thế nào. À, cứ dịch sao ra cái dáng ông đếch sợ mày ông oánh mày đây là được, Cận nói, nhưng tuyệt đối không position debout, kẻo Tây họ tưởng là ta chỉ đề cao có mỗi kiểu…
Thảo dắt tôi bước lên sách báo ngổn ngang ra đầu hồi chỉ xuống bãi đất bên dưới:
- Chúng nó đấy! - Anh thì thào.
Một lũ trẻ đang đánh bi ở đó.
Tôi chợt nhớ lại năm 1951, Thảo mới về nước, cả căn cứ địa bàn tán - bàn đến cả cái túi ngủ kín bưng đêm đêm anh rúc vào. Đều phục chuyện ngày sang họp Hội nghị Fontainebleau, Phạm Văn Đồng đã “tam cố Thảo lư” vận động Thảo về nước. Tính lại đận “cầu hiền” ấy thì cầu nay qua rồi đã rút ván còn hiền thì hoá thành ác! Tôi đưa anh về để anh nghe tôi chứ đâu để cãi lại tôi!
Thảo có cách viết đặc biệt. Nằm. Nằm nghiêng. Và đầu không gối lên bất cứ một thứ gì. Một bảng học trò, một tập giấy học trò kẹp vào đó và thế là nằm viết. Một lần cùng Vấn đến phòng cấp cứu đặc biệt mà Tôn Thất Tùng dành cho Thảo ở Bệnh viện Việt Đức, thấy anh đang nằm viết như thế, tôi đến nắn nắn cổ anh:
- Thảo nào Thảo cứng đầu cứng cổ. Đây là Dáng Nằm Bến Cỏ, đối lại với Dáng Đứng Bến Tre đây mà.
- Tại sao anh toàn viết tiếng Pháp? - một lần tôi hỏi.
- Tiếng Việt chúng mình chưa có đủ khái niệm triết.
Anh có một quyển Hiện tượng luận về Tinh thần của Hegel, nguyên văn tiếng Đức, bìa cứng, xuất bản đã lâu, vật theo anh từ Pháp về căn cứ địa Việt Bắc dạo nào. Ở lề các trang sách chi chít những ghi chú tiếng Đức, hoặc mầu xanh - phản bác, hoặc mầu đỏ - tán thành. Tôi nói có phim mầu chụp hai trang sách này lên sẽ cho ra một bức hoạ ấn tượng chủ nghĩa rất đẹp.
Nhà xuất bản Sociale (Edition sociale) của Đảng cộng sản Pháp in Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức (nguyên bản tiếng Pháp, 1973 - BT) của Thảo. Anh đưa tôi đọc thư Lucien Sève phụ trách tư tưởng của đảng viết “cảm ơn mày đã gửi in sách, làm vẻ vang cho nhà xuất bản chúng tao. Một nhà xuất bản bên Anh ngỏ ý xin bản quyền nhưng tao biết mày chỉ chuyên tâm cho lợi ích giai cấp công nhân cho nên tao đã từ chối”. Với nhuận bủt 8.000 đồng, anh mua một tủ lạnh. Ba tháng sau phàn nàn hỏng rồi. Tại sao nhanh thế? - tôi hỏi.
“Thằng cháu mình nó cứ táy máy…”. Hỏi kỹ thì ra không phải.
Tại anh. Anh dùng nó thay quạt, thứ anh không có. Mở nó ra, nằm nghiêng ghé đầu vào trong nó mà viết miết. Mũ lá, xe đạp Peugeot Con vịt xanh lè như Nguyên Hồng. Khác là đi guốc mộc quai ni lông giả nhung mầu nõn chuối hay mã não. Và hai bàn chân trắng hồng, thứ không có ở Nguyên Hồng.
Cuối những năm 80, Thảo vào ở Sài Gòn. Khách sạn Bến Nghé, Thành uỷ cho tiền trọ còn ăn uống tự lo. Ngày ngày anh thượng xích lô về nhà cô em gái họ ở đầu Lê Thánh Tông gần Hai Bà Trưng, nấu cơm rồi lại xích lô chở người và cà mèn về khách sạn. Tôi nhờ vợ con Ngô Y Linh - chị Liên và cháu Ý Minh, để anh đến nhà gần đấy nấu nướng đỡ vất vả. Gia đình nhiều lần ngỏ ý nấu giúp nhưng Thảo không nghe. Không muốn phiền. Vả, anh lo chăm sóc cái gan. Kiêng khem quá kỹ. Liên, vợ Ngô Y Linh chỉ đi chợ, rửa rau làm thịt sạch sẽ cho anh. Nhưng, Liên bảo tôi:
- Đến khi ăn cơm, mời anh ấy ra bàn, anh ấy cứ đứng ăn ngay ở cạnh bếp…

 
Một hôm tôi và anh đi dạo, sáu giờ chiều. Liên Xô đang đổi mới mạnh. Quá khứ tội lỗi đen ngòm hiện hết ra. Chống im lặng đáng sợ của Nguyễn Văn Linh là một kiểu Việt Nam hoá khẩu hiệu glasnost, minh bạch. Vừa đến ngã tư Lý Tự Trọng thì mưa ầm ầm như thác. Đường phố thoắt cái thành sông cuồn cuộn. Chúng tôi ghé vào một hàng làm đầu, mượn hai ghế đẩu ngồi ngay dưới mái hiên vừa chuyện vừa coi mưa, chân ngâm trong nước. Một lúc tôi thò tay xuống moi lên hai chiếc dép da Thảo vẫn để nguyên ở chân rồi cầm hộ. Thảo nói sẽ phê phán chủ nghĩa Stalin, nó làm hại phong trào cộng sản vì nó xuyên tạc chủ nghĩa Marx. Lê Duẩn chính là trong luồng ấy đấy. Anh cũng phải phê phán chủ nghĩa xét lại. Vì Khruschev, cả Gorbachov và các anh nữa đều có tàn dư Stalin.
Tôi hơi tự ái. Mình bị nện đau bỏ bà đi mà ông bạn lại bảo là còn nặng chủ nghĩa Stalin! Tôi nói:
- Được, cho rằng bọn tôi còn chủ nghĩa Stalin, được, thế nhưng tôi hỏi anh, chúng tôi có là nạn nhân kinh hoàng của đàn áp kiểu Stalin và Mao không? Thứ hai, chúng tôi đã có ngày nào cầm quyền mà gây hại chưa? Cho chúng tôi vào một giọ với Xít, Mao, Lê Duẩn thì e anh khó mà được người ta tán thành.
Thảo im. Tôi nhẹ người, Ngoái lại: ba cô làm đầu nằm trên ghế hạ ngửa hết nấc, quần vén cao, có lẽ tới cỡ mà Bộ văn hoá thông tin ngày nay cấm, mấy cặp đùi trắng lốp co lên tận ngực khe khẽ hợp xướng Gọi nắng trên vai em gầy…
Lát sau, tạnh mưa, chúng tôi đi tiếp. Thảo nói sẽ cố hoàn thành hệ từ hội dành cho máy tính…
Một sáng ngồi ở nhà Vấn, tôi nói muốn viết anh. Tôi nói sẽ viết hành trình triết học của anh, tại sao thành người làm triết, những bước đi chủ yếu trên đường nghiên cứu, những bài học lớn cho người làm triết, tại sao chúng ta ít triết gia, ít chất triết.

 
Anh cảm động nhận lời. Anh từ lâu không còn coi tôi là trong cái tờ-rớt não của Lê Duẩn, không thành kiến tôi chỉ là inneisme - thuyết bẩm sinh. Tôi đã lỡ ca ngợi hết lời Con người được lập trình cũng như Konrad Lorenz.
Sáng hôm ấy, tôi hỏi anh tranh luận với Sartre ngày ở Pháp làm sao, Thảo nhăn mặt lại:
- Tranh luận nào?… Không có đâu. Tranh luận thế nào được với Sartre?
Thấy rõ nét mặt ngượng nghịu của anh lúc bấy giờ. Chuyện là như thế này: lúc ấy có một hội thảo trên sách báo của giới triết học, trong đó có một của Thảo. Theo dự định, Sartre cũng có một tham luận - và tham luận ấy đối lại với cái của Thảo chứ không phải có tổ chức hội thảo mặt đối mặt với nhau- nhưng rồi không hiểu sao Sartre không tham luận nữa. Thảo nói chắc ông ta thấy nhảy vào cuộc này chẳng đem lại danh giá gì hơn cho ông ta.

 
Chuyện viết này chưa thành thì Thảo sang Pháp. Và chết.
Gia Lộc lặng lẽ đưa tôi một tập ảnh tang lễ, một chân dung Thảo nhắm nghiền hai mắt thanh thản giữa mấy cành hoa trắng. Tôi nghĩ giá như đừng bày hoa.
Sau này người ta làm tang vớt cho anh ở trong nước, đem anh chôn ở Văn Điển. Một trí thức bảo tôi sao lại không để ở Mai Dịch? Tôi nói: Văn Điển hơn. Về chữ hay hơn Mai Dịch. Văn là văn hoá, lễ tiết, nghi thức. Điển là phép tắc, tiêu chuẩn. Phép tắc của văn hoá, lễ nghi. Hơn Mai Dịch vốn có cái nghĩa là nơi chôn nha dịch hay nơi làm dịch vụ đào huyệt. Thảo có làm quan hay đào bới gì đâu mà vào đó? Còn dân không thạo chữ nghĩa thì lại hiểu mách qué ra là nơi ngày mai phải dịch đi nơi khác.
Thế với dịch trong ôn dịch thì…?
- Dạ, tôi không biết chữ ấy…, - tôi nói. À, nhân đây nên biết cụ Tả Ao có để lại một câu là “Bất hạ Mai Dịch kỳ”, không đánh cờ làng Mai Dịch. Chắc là bịp giỏi?
Nhân chuyện hoang tưởng của Thảo, tôi nói tới hoang tưởng của Nguyễn Sáng. Nói vì cả hai đều tiêu biểu được cho bệnh cá khủng - chuyên thấy mình bị công an đe doạ. 36

*
LE DUÂN CHOI GÁI


Sáng cười khoái trí bảo tôi:
- Tao báo mày tin mừng đây…, tao khỏi điên rồi. Công an dạo nào nghe trộm tao chính là mấy mẹ bán chuối thật, hôm nọ tao vờ mặc cả, lật cả sọt ra thì không có máy gì hết… Rồi dạo này tao vẽ không có đứa đứng bên xui nữa. Một hồi tao vẽ là nó cứ bảo dài, dài nữa, dài nữa, có khi bút quệt cả ra ngoài toan… Rồi nó lại bảo ngắn, ngắn, ngắn nữa vào… Mà tao cứ nghe. Một hồi lại thế này. Khuya tao đang đọc sách bỗng thấy trên giường có tiếng người vật nhau cười rúc rích. Tao ra vén màn lên. Mày biết thế nào không? Lê Duẩn chơi gái. Tao ôn tồn nhưng mà nghiêm nghị nói thưa ông, ông có nhà có cửa đàng hoàng sao lại phải đến nhà tôi, công an khu vực họ đến khám nhà thì tôi khai quan hệ của tôi với ông như thế nào đây, quan hệ với cô gái thế nào đây… Bỏ đi, Duẩn còn cúi chào. Tưởng yên ai hay lát sau lại tiếp dĩễn. Lần này mở màn thì là Phạm Văn Đồng. Tao cáu quá, chỉ tay ra cửa buồng: “Ra khỏi đây ngay! Gần nửa đêm sắp đi ngủ thì lại vật lộn như thế”. Lần này là thằng Hoa em tao. Nó bảo có cái bãi tốt thế này cho em ruột mượn mà cũng ky? Nay tao khỏi điên rồi mày bảo có hay không?

 
Chiến tranh chấm dứt, tôi nghe người trong Nam đầu tiên khóc người thân chết trong thời gian xa cách hai miền là Sáng. Sáng ấy, tôi ngồi nghe anh nức nở khóc, thảm thiết khóc đến nửa giờ, lá thư người nhà mở trên tay cứ vật vã theo đà người anh rũ rượi. Trong gian phòng dài hẹp như cái toa tàu bé nhỏ của anh. Má tao chết rồi… Giải phóng thì chết… Tao không được chôn cất má, tao thương má tao lắm, tao muốn chết mày ơi… Sao má lại không muốn cho con gặp lại mặt?
 
Anh khóc hồn nhiên, chân thành như một đứa trẻ. Tôi bỗng thấy cái tình của anh với mẹ có lẽ sâu đậm hơn tôi. Khi nghe tin mẹ tôi chết trong Hà Nội, năm 1951, tôi đang ở huyện Lâm Thao sống thực tế một năm, (Hà Xuân Trường thì lên Hạ Hoà, theo kế hoạch rèn luyện lực lượng trẻ của Tố Hữu lúc đó về làm Tổng biên tập báo Nhân Dân ra hàng ngày sau Đại hội 2 của đảng). Tôi ra gian trái ngôi nhà gỗ làm trụ sở Đoàn thanh niên, một mình ngồi trên càng cối xay thóc nhìn mưa tầm tã trên các tàu lá cọ mà khóc thương mẹ. Khóc lâu. Khóc không muốn đứng lên nữa, tưởng chừng cứ thế này ngồi hết ngày này qua ngày khác thì sẽ chuộc lại được tội đã xa vắng mẹ…

 
Thời kỳ này chẳng hiểu sao Sáng lại không “xài” được Nguyễn Tuân, người mà anh vẽ cho chân dung ở trên một đĩa sơn mài. Mặt Tuân như một cánh diều tủm tỉm cười bập bềnh giữa mấy cành dong nước. Anh bảo tôi:
- Tớ cảnh cáo nó rồi. Tớ sẽ không bao giờ thèm đến nhà nó nữa. Cảnh cáo cả nó rằng thằng cầm bút mà không viết được tiểu thuyết thì đừng có mà nhận là nhà văn, như thằng cầm panhxô (cọ) ấy, không vẽ sơn dầu thì đừng có nhận là làm panhtuya (hội hoạ)
Trong Sài Gòn, cuối những năm 80, ngoài những lần la cà ngoài phố, Sáng hay kéo tôi đến nhà Hoa, em trai anh ở đường Yên Đổ, nơi anh ở nhờ đấy. Rượu suông. May ô, quần pi-gia-ma cháo lòng, mũ mỏ vịt mầu xanh bạc hà bạc phếch và đôi dép Thái Lan đã nhão bét hết cả đế, nó vểnh lên thành một đường gờ nhẵn thín ôm gọn lấy hai bàn chân thô to của Sáng. “Mày ngồi đây, tao ra mua cái gì hả”. Lát sau về, hai điếu “ba số” và hai quả xoài xanh trên tay…
Lần cuối cùng, sau đó cả mười năm tôi không vào Sài Gòn, hai chúng tôi chia tay nhau gần Cầu Bông. Vừa đi con đường bên dưới Cầu Sắt leo lên mặt Cầu Bông, tôi phảỉ rẽ về Võ Thị Sáu, Sáng khoát tay chỉ về phía bên kia sông Nhiêu Lộc:
- Mai tao đến nhà bà chị tao cho tao ở cái xóm rìa sông kia, trông lên cầu này, đấy… Ở đấy tao vẽ tốt lắm.
Cái bờ con kênh Nhiêu Lộc Cầu Bông anh chỉ tôi bữa đó, chỗ gần Miếu Nổi, bây giờ thành con kè xi măng phẳng lì với những ghế bàn cà phê trời. Bây giờ qua cầu này tôi thường nhìn về phía đó đoán ra cái xưởng vẽ cuối cùng của anh nó nằm ở quãng nào. Hay là bị mất vào chung cư Miếu Nổi có Tô Hải sống ở đó rồi. Và gần như chiều chiều đi ngang cổng trường Mỹ thuật Gia Định, nơi cho anh vỡ lòng hội hoạ tôi lại nghĩ đến anh. Lại thầm nói với anh: cậu chết rồi, Vạn Lịch mỗi khi có cái gì ngon nó đều để lên bàn thờ cúng cậu đấy…36
*
Và nghĩ tới sớm hơn nữa, một đêm trăng sáng kinh người ở giữa chợ Thất Khê vắng ngắt, đêm thứ hai sau giải phóng, tháng 10 năm 1950. Cả khu chợ lô xô quán ngói chỉ có hai chúng tôi.
Bạt đã rải xong, Sáng quẳng ba lô lại bảo tôi:
- Mày coi cho tao, tao vào phố xem có điếm không. Vùng địch hay có đấy. Lâu lắm không nhìn thấy nuy rồi…
Lát sau quay lại, cười độ lượng với chính cái chưng hửng của mình, anh bảo tôi:
- Toàn lính đi tuần mà dân thì không ai biết tiếng Kinh. Họ sợ chúng mình mày ạ… Tao gõ cửa mà có nhà họ ôm lấy nhau run lên cầm cập.
Đêm ấy, hai đứa ngủ chợ. Mở mắt ra thấy sợ; tôi đã sa vào một trận mai phục êm ả ở quy mô vũ trụ: không gian đang cho diễn ra một cuộc loãng hoá toàn bộ ghê rợn. Ngủ quên đi, Sáng và tôi chắc chắn sẽ hoá ra thành hai vũng nước trăng lênh láng…36
 *
 VNGIAP SỢ

Một tối Giáp đến Phan Kế An chơi. (Tôi vẫn ngồi chuyện với An trong khi Điện Biên, Hoà Bình, hai con bé của Giáp lấy ký hoạ ở trên sàn, ngay dưới chân chúng tôi). Ai ngờ tình cờ Padolsky đã đến trước. Cầu thang gỗ nhà An đến chỗ rẽ lên chiếu giữa thì nhòm vào đúng phòng khách.
Thấy “nước ngoài” (lúc ấy nước ngoài nguy hiểm hơn “nước lạ” sau này), Giáp vội giật lùi, An chạy ra mời, Giáp dứt khoát kiếu. Tôi bảo An: “Ở
Điện Biên, Giáp rất ngại cố vấn Trung Quốc, dặn Lê Trọng Nghĩa, Hoàng Đạo Thuý cẩn thận, các cố vấn đang xét ngặt lý lịch anh em, kể cả tôi, nay lui khỏi nhà mày lại vì sợ lọt tai mắt Trung Quốc là an ninh Hà Nội. Ai ngờ anh hùng lại bị yểm dữ đến thế!”[...]..
Theo Tổng tập luận văn của Võ Nguyên Giáp, sau Điện Biên Phủ, về An toàn khu, Giáp đến chào Hồ Chủ tịch. Chủ tịch ôm Giáp nói: “Chúc chú thắng trận trở về, nhưng chúng ta còn phải đánh Mỹ”. (tôi nhấn).
Tôi đọc và hơi buồn. Tôi đã ngỡ Bác nói: Chúng ta sẽ phải đối đầu với Mỹ nhưng hãy gắng thống nhất hoà bình, dân ta chín năm chiến tranh đau khổ quá đi rồi! 36


Ch.XXXVIII
ĐỒNG -THỌ

Cơ quan báo họp nghe truyền đạt ý kiến Phạm Văn Đồng: ta nhân đạo đưa họ đi cải tạo để trở lại làm người, kẻ nào không chịu mà chống lại thì ta sẽ đối xử như chó (ý là cho quay lại đời chó săn). Tôi nghe thấy kinh khủng, lạnh cả người. Bữa ấy cũng truyền đạt lời Lê Đức Thọ: ta để cho họ tạm buôn bán thế mà đã có anh em chất vấn. Họ như con chim ta nắm trong lòng bàn tay, cần đến ta bóp lại ngay thôi mà 38
THƯONG DÂN NAM
Xong chiến tranh cả tháng tôi rất buồn: không có tin của bố và các em tôi. Dù Linh vào Nam biểu diễn từ đầu tháng 5 và Thép Mới, Mai Lộc hết sức tìm. Gia đình tôi mất liên hệ với nhau đã lâu.
Thương miền Nam đang sướng rồi khổ đây thì mọi người cũng lại xuýt xoa trong kia dân nó ối chà giàu ơi là giàu. Vàng chỉ năm chục đồng Cụ một cây. Tủ lạnh vài chục đồng một chiếc. Lạnh cứ là liên lu liền lù suốt năm. Bảo cho tay vào lâu là hoá ra đá.
Một sáng P. K. bên giáo dục chuyển sang làm báo mời tôi ăn phở Phú Gia. Lúc chờ, anh nói:
- Chỉ với anh thì tôi mới nói thật cái này: nhà tôi là tư sản anh ạ.
Thấy vẻ sung sướng trên mặt anh, tôi mừng thay nhưng cũng lo. Tôi nói khéo sẽ mất hết. K. nói:
- Tôi đã mách cách phân tán cả rồi. Sao để họ lấy không được chứ?
Trả lời tôi hỏi trong ấy họ sống thế nào, anh nói:
- Đủ hết nhưng nay nhà tôi đã cho nghỉ máy lạnh. Giả nghèo. Buồng nào cũng máy lạnh. Xin lỗi anh, tôi thấy sướng nhất là đi toa lét. Ối trời, anh biết không, rộng, thoáng, mát., sạch… Buồng trưởng phó ban báo ta thua xa…

 
Hồi Nghị quyết 9, K. đả xét lại khá mạnh. Tôi không hiểu tại sao nay anh chỉ nói niềm vui hưởng thụ của gia đình tư sản với riêng tôi. Mơ hồ thấy có khi anh lại nhận ra ở tôi cái gì đó giống Sài Gòn - đúng, giống thì mới chống dữ việc “giải phóng” nó chứ! Cũng lại nghĩ: thảo nào có câu “miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng”. Con búp bê lủng lẳng trên ba lô mỗi anh lính trên đường về Bắc. Nhẹ đi một cơ số đạn giỏi cướp mạng người thì nặng ra một vật cưng biết chớp mắt, nhoẻn cười.
Thời gian rồi cho thấy hoá ra Sài Gòn cũng có công bày lối đi tới cho Đổi mới… Định hướng xã hội chủ nghĩa cặp bồ với kinh tế thị trường, kẻ cho uy danh, kẻ cho túi bạc, mối nhân duyên này chẳng phải là sặc sụa mùi dân Nam nhận họ cộng, dân Bắc nhận hàng tư đó ư? 38

*
MIỀN NAM
Đêm miền Nam đầu tiên nghỉ ở Đà Nẵng. Hành khách ngủ vạ vật trên đường quanh xe. Sáng sớm, mở mắt tôi thấy một vùng loá trắng, tinh khiết, ngỡ như mênh mang ngay ở trên đầu: pho tượng Phật. Chợt thấy lòng êm ả lạ. Nhờ ánh sáng an ủi mà một đức Phật bằng lặng và nguy nga như tảng băng Nam cực kia trôi đến ban cho. Sau biết đó là pho tượng Phật Quan Âm lớn nhất Việt Nam ở Chùa Linh Ứng, Bãi Bụt. Hay thật, sao đêm đầu tiên gửi mộng trên đất miền Nam tôi lại ở Bãi Bụt.38
*
GĂP GIA ĐÌNH
 Nay Hân ngẩn ra nhìn mãi cái người tiều tuỵ đang cố rút chân ra khỏi đống bị, sọt, can, ba lô tha vào cứu tế chất đầy sàn xích lô. Gắng rút được chân thì một chiếc dép nhựa nâu văng lên thành một parabol hoàn hảo của một chiếc lá đa già, mỏng sắc, nó liệng vồng lên qua đường rồi rơi đánh đạch một cái trước khung cửa gỗ tăm tối của nhà tôi: tiền trạm của tôi lại là cái gót rỗ kỳ khu nằm trình diện kia! Khi xỏ lại chân vào nó, tôi chợt thấy mình đúng là khố dây đi đất. Tôi không có nền móng gì ở dưới chân. Nhẹ bỗng. Trống trơ. Trừ tình gia đình, bố con anh em…[...].
Vài hôm sau, ở Huỳnh Tịnh Của, tình cờ gặp Minh Trường, phóng viên nhiếp ảnh Thông tấn xã năm 1971 đã cùng tôi vào vùng rốn lụt của Hải Dương. Anh thuộc lớp người đầu tiên về Sài Gòn chiến thắng. Nhưng anh đã nếm một chiến bại đớn đau. Hơn một năm sau kể lại với tôi, giọng anh vẫn run run như nghẹn lại. Lẽ tất nhiên anh rất vui khi lần đầu tiên trở lại đứng trước nhà mình bấm chuông. Thì mẹ anh mở cửa. Thì mẹ liền chắp hai tay lạy:
- Anh còn sống thì tôi mừng nhưng anh về thì tất cả các đứa con bao lâu nay sống với tôi, chăm sóc phụng dưỡng tôi đều đã bị các anh lôi đi tù hết mất rồi. Anh về thì nhà này tan nát, thì tôi trơ trọi. Thôi, tôi xin anh, anh đi với đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên…
Vũ Hoàng Địch đến chào bố tôi. Kể chuyện Vũ Hoàng Chương. Chương ở chung xà lim với cựu thủ tướng Phan Huy Quát. Lúc mới vào, tự giới thiệu nhau xong, Chương nói:
- Thế ra thi vương, tể tướng cũng là tù của cộng sản nhỉ.
Quát nhất định không học tập:
- Tôi chống cộng sản từ trong đầu óc, máu huyết tôi thì làm sao các ông cải tạo được tôi, các ông giết tôi đi chứ không khi nào học các ông.
Sau đó Quát chết trong tù. Không học qua một bữa.
Bố tôi nói ngày cưới em gái tôi - cô em mơ tôi được giải Nobel - bố tôi mời Phan Huy Quát, là bạn và thủ tướng lúc đó.
Chú em rể tôi, phi công, mượn cớ chào quan khách đến trước mặt Phan Huy Quát đã to tiếng hỏi sao ông bán đất cho Mỹ?
Quát vừa ký cho Mỹ thuê Cam Ranh 99 năm. Kể lại, bố tôi lắc đầu cười. “Anh này lo Mỹ thuê hết đất thì không còn chỗ để Việt cộng mở trại giam. Anh này hiện đang đi cải tạo xa lắm…”
Khoảng một tuần sau, bố tôi đi chơi về khẽ bảo tôi: Vũ Hoàng Chương vừa mới chết… Giọng bố tôi buồn. Một lúc cụ nói thêm, vẫn khẽ:
- Vũ Hoàng Chương có mấy câu thơ dân Sài Gòn thích lắm… “Từ thuở ngươi về hỡi loài man rợ, Đến vô tri sỏi đá cũng buồn đau”.
Trần Vũ, đạo diễn điện ảnh bảo tôi 1975 Vũ vào Sài Gòn tìm Vũ Hoàng Chương. Chương hỏi thằng Địch nó làm gì? Vũ đáp làm ở Viện Triết. Chương cười:
- Lạ nhỉ, chúng mày làm đếch gì có triết mà cũng Viện triết?
Bố tôi mấy lần bảo tôi:
- Chưa có thời nào mà bắt người thua trận bị tù hàng chục vạn như thời cộng sản. Các tay này không biết lòng dân là thế nào sao?… Cái khó chịu nhất là dân trong này thấy mình bị khinh miệt. Hôm nọ nghe loa nói không có đảng cộng sản quang vinh thì làm sao có được tổ quốc vĩ đại đánh thắng đế quốc trùm sỏ, bố thấy buồn quá.38
 
 
*
 MỸ TRỞ LẠI


Một chuyện làm cho tôi lạ lùng. Gặp Xuân Tửu trong Sài Gòn. Anh cho hay người cậu ruột của vợ anh là chuyên viên tài chính của Thiệu, rồi về hưu sang làm chuyên gia cho chính phủ vương quốc Lào. Khi ta giải phóng hộ Lào, cụ phải về Sài Gòn. Vợ chồng Xuân Tửu thăm cụ. Ông cụ nói người Mỹ đi rồi người Mỹ lại về thôi. Xuân Tửu kể lại cho tôi mà bật phá lên cười. “Khôi hài quá, - anh nói, tôi nghĩ bụng chứ không dám cười thật trước mặt cụ. Chỉ bảo cụ: Thôi cậu ơi, cậu già rồi xin lão giả an chi chứ theo cháu biết thì Mỹ đừng bao giờ hòng trở lại những nơi mà cờ búa liềm đã cắm xuống. Cụ nói sao biết không? Cụ nói thế là vì các anh chị chưa hiểu sức mạnh của đồng đô la đó thôi”.
Trước khi Xuân Tửu chết ít lâu, một hôm anh hỏi tôi có nhớ chuyện ông cậu ruột vợ anh không? Này, - anh nói, tôi không hiểu nổi sao ông cụ lại có cái tầm dự báo ghê gớm đến thế. Nó, thằng đô la ấy, nó trở lại thật kìa! Mà lại phải khẩn khoản mời nó, xin nó, cải cách nhiều cái theo pháp luật nó để cho nó hạ cố nó đến! Cái gì làm cho tôi ngu mà cái gì làm cho ông chuyên viên nguỵ kia sáng?
- Tại chúng ta tin cờ búa liềm đến đâu thắng đó.
- Có đúng như thế không thì chưa rõ… - Xuân Tửu nói.
Nhưng chắc là không thắng được lòng người. 38
 *
 NGƯỜI THANH NGHỆ LƯƠM VE CHAI


Gặp ve chai đồng nát đạp xe tơi tới ở Sài Gòn, tôi chợt thấy mình thường hay hỏi: “Thanh hay Nghệ đấy?”.
Đâu chỉ hai căn cứ địa lớn này của Đói. Khắp mọi nơi! Từ Nam chí Bắc nay chả còn ai lạ câu hát “Tổ quốc ơi, ăn khoai mì mãi mãi. Từ trận thắng hôm nay, ta ăn độn bằng mười. Từ trận thắng hôm nay ta ăn độn nhiều lên…”. `Tôi không nói ngoa, có lúc nghe hát mà tôi hoe hoe mắt. Nhất là câu nhạc hơi cất lên “ta ăn độn nhiều lên…”
Cụ bạn trên kia khoe cụ nhận ra được đặc điểm hình thái văn hoá ve chai - hay mảng kinh tế thu dọn rác - đang tung hoanh ở Sài gòn bằng phương thức lao động nguyên thuỷ là lục bới, cúi nhặt. Theo cụ, văn hoá ve chai đã khái quát hoá rất rõ hành trình đi từ thô sơ thuần tuý lên nửa cơ khí bắt đầu có vận dụng tư duy nửa vời để vẫn cứ không thoát ly nổi hai bàn chân từ trần trụi đến dép lê, qua giai đoạn dép cao su mà khi làm thuỷ thủ Anh Ba đã thấy mẫu mã đầu tiên ở Sénégal rồi sau mách cho cách làm trên căn cứ địa Việt Bắc.

 
Cụ nói: Đúng, tôi đố ông… Đây, nếu không vũ trang theo ý nguyện được thì ngoài Bắc sẽ làm gì? Ôi, ông bảo là tuyển cử ư? Để thành Đệ nhị quốc tế cải lương đầu hàng à? Hà Nội chẳng tuyển cử với ai hết! Ông xem dân ta tốt như thế mà các ông ấy có cho tự do bỏ phiếu để được đua tài cao thấp với Đảng đâu! Tôi nghĩ ra rồi. Sẽ không xẻ dọc Trường Sơn mà đắp lên ở Bến Hải một Hoành Sơn nhất đái kiểu tường Béc-lin… Ông có biết một dạo dân Quảng Đông bơi qua biển trốn đi Hồng Kông bằng gì không? Dạ, bằng phao ghép bằng bao cao su. Condom people! Cái bao cao su, Cụ tha lỗi, chứ cụ có đồng ý là mỗi mạng người có mặt trên đời này đều là kết quả của một cuộc cạnh tranh câm lặng nhưng hết sức dữ dội giữa các tinh trùng không? Cách tuyển chọn phần tử ưu tú nhất đó… Sir Winston Churchill, vị anh hùng kháng chiến của Anh và Charles de Gaulle, bậc anh hùng giải phóng của Pháp đều về vườn sau khi thành đạt… Có lẽ vì thế dân họ mới được hưởng cái mới. Tiến hoá là luôn kem với phá thần tượng. Còn cứ dựng thần tượng vĩnh viễn thì dân ăn mày.
 
Sau đó, cụ bạn rủ tôi đi dạo một vòng. Mỏi chân, chúng tôi rẽ vào một khu biệt thự kín cồng cao tường, vườn cây um tùm rồi ngồi xuống một chiếc ghế dài granito trông sang một vườn hoa nho nhỏ. Mất điện, tiếng máy nổ ầm ì ở trong mỗi biệt thự.
Như có trời xui, cách chúng tôi hai ba mét một phụ nữ ve chai ngồi tựa vào hông chiếc ghế dài trống không. Tôi bảo ngồi lên ghế thì lắc: “Cháu không quen ngồi vào thứ sang”. Cụ bạn bèn đến bên:
- Bây giờ được ở trong các nhà thế này cô có quen không?
- Không ạ!
- Cô thấy nó đẹp không?
- Đẹp… Nhưng cháu chỉ muốn Mỹ nó lại thả bom cho tan hết…
Chúng tôi trố mắt. Không ngờ tới câu trả lời dứt khoát, đanh thép này chút nào.
Người phụ nữ nói tiếp:
- Thế hồi đánh nhau đâu có như thế này? Chả là đều nghèo như nhau cả thôi. Bây giờ đấy, đứa ăn chẳng có mà đứa thì sướng quá vua. Biết trước là ra một trời một vực thế này thì chả đi hy sinh làm gì. Hai cụ không nghe thấy dân đã có câu ca đấy ư?… “Áo lính chưa ráo máu đào, Mà xe vợ tướng đã vào tới nơi”.
Người phụ nữ quê ở Nga Sơn, Thanh Hoá. Đã thanh niên xung phong ở đường mòn. Ba năm tròn không thấy một bóng vía đàn ông. Đến nỗi chị cung đoạn phó, chị này bạo mồm lắm, bảo giá một đứa, Mỹ hay nguỵ cũng được, nó lạc đến để cho chị em ta nuôi nó ngày hai bữa chỉ sai nó làm có mỗi nhiệm vụ đứng đái đái vẩy vẩy cho mà xem nhỉ?… Còn cói kiếc gì nữa đâu hai cụ. Nay chiếu thì phải chiếu trúc, chiếu ni lông Trung Quốc, Thái Lan… cơ. Thôi cháu chào hai cụ, cháu đi đây. Sáng đến giờ mới kiếm được hai mươi tư nghìn…
Người ve chai đi rồi, cụ bạn chán nản nói:
- Tôi và ông Trường Khoan đang ở Đà Nẵng thì các ông đánh vào. Chúng tôi lên xe chạy nhưng bị chặn lại. Vứt xe đi bộ, quên mất chiếc va li con đầy đô la, vàng bạc, tư trang trên xe. Lại bị dồn quay về Đà Nẵng. Hôm sau qua một trại lính thấy xe mình. Mà không dám vào hỏi. Thằng nguỵ mà lại tư sản bóc lột thì mạt hạng rồi cụ ơi. Tiền gửi ngân hàng rồi cũng đội nón đi nốt. Thấy rõ thực tại của mình bị đập vỡ dễ như bỡn. Nhưng người phụ nữ Nga Sơn kia bị vỡ một thứ còn lớn hơn. Vâng, mộng, vỡ mộng ạ. Mộng là sức mạnh chi phối đời cơ mà cụ. Hồ Chí Minh từng “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh đó”.38
 
*
GIẦY CAO GÓT-CÁI NG
 
  Aragon cũng nói: Viết là vũ đạo của đầu óc. Thôi, nói thêm… Cái Ng. học ở Đức về đi xăng đan cao gót, cậu bảo bàn chân con gái tự nhiên trông thành một đường arabesque - uốn lượn quá đẹp… Đúng, nhưng cậu mới thấy cái chất vật lý của bàn chân con gái gói bọc trong những quai da. Tớ còn thấy ở đó động thái ưỡn dướn của cơn mê nhục cảm.38
*
CH.XC


NHÀ XÍ
 
 Hoà bình, lần đầu tiên Linh được cấp một căn hộ ở Khu văn công Cầu Giấy để thật sự là nhà ở của riêng mình - trước toàn ở nhờ lớp học. Một trong bốn gian nhà lá mười hai mét vuông, tường toóc-si nằm trước hai ba mét một dãy nhà xí “tăng cường” (là cất vội thêm cho kịp với nhu cầu bài tiết do dân số tăng gấp) gồm bốn ngăn bằng đất (hai ngăn cho nam, hai cho nữ), ngang nhà ở của nghệ sĩ xét về vật liệu nhưng bé hơn, ọp ẹp hơn. Như tất cả, mặt hậu nhà tôi quay ra đường Chùa Hà (chả ai thiết mặt tiền, lúc ấy trừ tiền tuyến còn tiền gì cũng xấu vì nó làm nghĩ đến cái nhơ nhuốc nhất là đồng bạc), cứ ngày rằm mồng một hằng tháng, công an, du kích lại dựng rào, xếp ghế băng hầm hè đuổi nạt dân đến lễ, không cho bập vào “thuốc phiện”. Một lần dân gần như nổi loạn, huyện đội phải điều bốn khẩu đại liên phòng không vào sân chùa vờ tập trận, tôi ra tận nơi xem. Từ ngày đầu mở cõi nghệ thuật, ngoài nhà xí “tăng cường”, đã xây ở bốn góc Khu Văn Công bốn dẫy nhà xí chính thức mái phi-brô xi măng, tường gạch quét vôi trắng (sang hơn nhà đất mái lá của văn nghệ sĩ) đầy những bức vẽ có sức rủ gọi trẻ chui vào sau hố xí nhòm ngược lên những khi có nữ nghệ sĩ ở trong. Thấy nón trắng lốp (để làm cửa di động thay cho cửa gỗ đã bị lấy cấp về làm củi) rẽ vào mà nhòm là không thể sai. Đám trẻ ấy bà con còn nhớ tên, nay cũng đã hơn năm chục tuổi, xe hơi đi lại ra dáng cả. Vậy là danh thơm nghệ sĩ được gìn giữ quá lỏng lẻo sau những dãy xí tập thể giống các chòi canh thấp bé ở trại tập trung và có vùng toả hương rộng tới chừng ba bốn chục mét đường bán kính.40


*
CON NGUOI XHCN


Xin nói chuyện hai vụ cháy ở Khu văn công nhà mái lá. Nạn nhân là nữ ca sĩ nổi tiếng Ngọc Dậu. Chị chạy tới chạy lui vào đám cháy cố lấy đồ đạc ra đem chất ở gần đấy. Xong cháy, mò đến chỗ để đồ thì người ta khiêng về nhà người ta hết cả rồi.
Sau đó, nhà Q.L., một diễn viên múa có chồng học ở Pháp cũng bị cháy. Cô đứng canh trước nhà, ai đến cứu đều lịch sự từ chối. “Xin cảm ơn các vị. Tôi còn chả thiết cứu, tức là chả có gì thì thôi xin các vị khỏi luỵ”. Rồi bảo bạn bè:
- Thà thế, còn hơn bê đồ nhà mình ra cho người ta dùng hộ.
Và ai cũng khen cô biết xây dựng đạo đức mới.
Một chuyện nữa về nghệ sĩ. Thường một hai năm lại có dịp kéo quân sang Đức, Tiệp… biểu diễn và càn quét các cửa hàng bách hoá. Các cô kháo cái T., cái X. hay đi vì chịu chìa “hến” cho mấy lão trên bộ soạng. Chúng nó bảo mất chó gì. Soạng hến suông thôi mà. Coi như đi bệnh viện khám phụ
khoa thiếu găng tay. Một lần P., em gái NĐT đi Đức về đến thăm Hồng Linh kể:
- Chuyến này ở Berlin bọn em ngượng quá. Vào bách hoá, vừa mới cười làm duyên thì mấy cô bán hàng Đức đã đon đả: “Mẹ nhà các chị, có cần b. không?” chả biết đứa nào ở bên ấy nó dạy người ta lếu láo như vậy.40
 
*
XHCN
 
 
Cả trăm pho vè và tiếu lâm miêu tả cái nghèo. “Một yêu anh có Pơ-giô, Hai yêu anh có cá khô ăn dần, Ba yêu rửa mặt có khăn”, “Bắt phanh trần phải phanh trần, Cho may ô mới được phần may ô”. “Việt Nam kiêu hãnh hiên ngang, Mua cái đinh ranh cũng phải xếp hàng, mua mẩu khoai lang thì bẩm chờ em tìm tem phiếu”, con gái bảo nhau: “Lấy chồng cho đáng tấm chồng, Bõ công em tắm xà phòng Camay”. Camay là của quý bán chui bán lủi. Có người mua chỉ để ướp quần áo, mỗi lần mở hòm lại lim dim mắt hít một hơi. 40
*


Một chuyện nữa về nghệ sĩ. Thường một hai năm lại có dịp kéo quân sang Đức, Tiệp… biểu diễn và càn quét các cửa hàng bách hoá. Các cô kháo cái T., cái X. hay đi vì chịu chìa “hến” cho mấy lão trên bộ soạng. Chúng nó bảo mất chó gì. Soạng hến suông thôi mà. Coi như đi bệnh viện khám phụ
khoa thiếu găng tay. Một lần P., em gái NĐT đi Đức về đến thăm Hồng Linh kể:
- Chuyến này ở Berlin bọn em ngượng quá. Vào bách hoá, vừa mới cười làm duyên thì mấy cô bán hàng Đức đã đon đả: “Mẹ nhà các chị, có cần b. không?” chả biết đứa nào ở bên ấy nó dạy người ta lếu láo như vậy.
Những chuyện nên vào biên niên sử nghệ thuật Việt Nam vẻ vang thời chống Mỹ giải phóng đất nước.
Đời sống quá lầm than. Chiến tranh chấm dứt, cái nghèo khổ rộng khắp bao la đoái hoài đến dân ngay. Các ông anh cộng sản chỉ đủ sức và cũng chỉ mong giúp Hà Nội đánh đế quốc hộ. Còn xây gấp mười trước thì phải nhờ đế quốc thôi[...]..
Vợ Vũ Hoàng Địch, giáo viên bảo tôi bọn tôi vừa ăn tối xong thì trường triệu tập họp gấp 7 giờ rưỡi. Đang đại hàn chi cực, rét ghê rét gớm. Tôi ngồi cạnh một cô cứ thấy nó run bắn người lên. Hỏi thì nó bảo chị sờ quần em xem. Ướt đẫm. Em có mỗi cái quần dạy xong đem giặt thì bị gọi họp. Nhà không có bàn là mà có thì hôm ấy cũng mất điện. Đạp xe đến bạn ở khu phố khác để là thì không kịp thế là đành… Lớp không có cửa gió bấc cứ hun hút. Tối ấy tôi tưởng nó chết… Ở Đinh Công Trứ, gần nhà Vũ Hoàng Địch, Anh hùng quân đội Nguyễn Thị Chiên bán vé xổ số.

 
Dân tổng kết quá siêu đầu ra của võ công oanh liệt:
Đầu đường đại tá bơm xe,
Giữa đường thượng tá bán chè đậu đen,
Trung tá đi bán cà-rem,
Thiếu tá thì bận thổi kèn đám ma,
Đại uý chăn vịt đuổi gà,
Trung uý nhà bám đít con trâu,
Còn thằng thiếu uý đi đâu,
Ba-lô lộn ngược buôn tàu bắc nam.
Bao giờ Trung Quốc tràn sang,
Trung ương Đảng gọi, sĩ quan chạy làng!
Như ca dao xưa đã nói “thằng Tây nó tếch thằng Tàu nó sang!”. Cùng tiền đồ đầy hy vọng: “Ngày xưa chống Mỹ, chống Tây; Bây giờ chống cổng rước Mỹ Tây vào nhà”.
Một chiều xếp hàng mấy tiếng ở Bách hoá tổng hợp mua săm lốp xe đạp Sao Vàng theo tem phiếu một đời xe may mới được cấp một lần, tôi chứng kiến một cảnh chắc chắn khắp thế giới không đâu có.
Cách chúng tôi đám người mua xăm lốp chừng mười mét là quầy sữa. Bảy tám chị em còn trẻ nhấp nhổm chờ ở đó đã khá lâu. Chốc lại nhăn nhó hỏi cô bán hàng sao lâu thế, con em ở nhà chẳng có người trông. Nghe đâu bị giữ ở đây bốn tiếng, chị em đã gọi đây là Hoả Lò ngoại trú. Khoảng nửa giờ sau, một người đàn ông thấp, vạm vỡ, hai cánh tay trần xăm xăm đi tới, miệng nói lớn. “Trật tự, lần lượt từng người, xếp hàng vào… Nào, đúng là đã chờ đủ bốn tiếng chứ?” vừa nói vừa nhặt một tờ giấy ghi tên những người đến vào giờ nào giờ nào để ở trên quầy lên xem. “Ai không đủ bốn tiếng thì về hôm khác đến…”. (Một ông xếp hàng cạnh tôi nói khẽ: Sửa trụ sở y tế phường nên chị em phải đem vú đến chỗ chợ búa thử thách xem tươi hay héo, rắn hay nhão. Chúng nó cấm về nhà vì sợ chị em cho con bú hay vắt kiệt sữa đi… Chốc sẽ còn bắt chị em uống nước thật nhiều cho sữa dễ rỉn ra).
Tôi thật sự không tin vào mắt mình. Những bà mẹ trẻ lần lượt trật vú ra cho người đàn ông bóp kiểm tra trữ lượng sữa sẽ nuôi các Phù Đổng tương lai. Hai tay hai bầu, mắt chằm chằm vào núm vú, anh ta nói: - Cố nhịn đau đấy, tôi nhẹ tay thì lại bảo tôi ngoắc ngoặc, thiên lệch… Cô bán hàng bên cạnh bỗng bình giá: “Bốn hộp!”. Người mẹ vừa nghiến răng xoa ngực vừa vội kêu lên: “Ối, bốn hộp thì con em bú sao đủ, tiền đâu mua sữa phe, khổ con em…”
Tôi quàng lốp vào cổ vội lách ra. Nghĩ đến tít xã luận báo Nhân Dân: “Hà Nội, thủ đô của phẩm giá con người” mà không thể không rủa thầm bố tiên sư nhà nó!
Vừa tới cổng bách hoá đằng Hai Bà Trưng thì bị giật về đúng ba ngả: trái, phải và đằng sau. Một cô liến thoắng:
- Bố hớ rồi, dớ mẹ nó loại hai rồi, phải xem có sợi chỉ xanh ở vải lót bên trong cơ, bố Khốt (khù khờ) quá… Thôi, thương bố Khốt con mua đỡ cho với giá giữa loại hai và loại một xuất khẩu.
Tôi nghẹn cổ không trả lời được vì một cô bên trái đã hai tay níu lấy cái lốp xoắn lại và nó lập tức thít lấy cổ tôi. “Có mỗi con là chơi đẹp với bố Khốt. Nghĩa là trả đúng loại một, chỉ xin bố Khốt bớt kha-ra-sô năm đồng. Thế là ố chìn tuyệt, bố Khốt nhẻ nhẻ!”
Tôi cố gỡ ra khỏi gọng kìm:
- Tôi mua dùng, bánh xe tôi vấn một năm nay rồi…
- Bán đi. Đi vành sắt không lốp đỡ trượt ngã!
Tôi chẳng thiết ngó xem ai vừa mách mẹo thiết luân xa. Bụng nghĩ: chủ nghĩa tư bản biến người thành hàng hoá, mình hơn là còn được làm cái giá treo hàng cho nên mới thành lương tâm thời đại… đồ…
Ít lâu sau, mấy chị em ở báo cho hay tay bóp vú ăn lương kia bị vợ li dị. Quen thói hoá thành quỷ bạo dâm với ngay vợ.
Cũng cho hay hôm nọ y tế lộ ra bí mật quốc gia là 90 % trẻ sơ sinh của ta bị ỉa chảy. Loại cho bóp vú được tám hộp sữa Liên Xô cũng điêu đứng. Sữa Nga để quá ba ngày là kém phẩm chất. Ăn vội được ba hộp còn
năm lại đem ra Hàng Buồm cho phe đỡ hộ. Sữa Similac Nga ăn vào là trôn tháo cống ồ ồ ngay.
- Khéo mà các ta-va-rít làm nhầm thuốc tẩy ra thành sữa à?
Một chị vặn lại:
- Thế Nétxlê nó cho thuốc táo bón vào ư?
Một chị nhắc lại hôm nào công đoàn bán cho đoàn viên sữa Mộc Châu. Đặc quánh hệt mỡ tra ổ líp xe đạp. Nhiều người mách nhau nấu chè bà cốt. Cứ tương cho nửa bàn tay gừng vào là chắc dạ. Nhưng có chè lại khổ nỗi không thìa, phải lấy dao bếp nạy.
Nghe nói, tôi chợt nhớ đến những cái thìa ở quán Bốn Mùa thủng lỗ chỗ. Thìa không nằm trong dự kiến của Uỷ ban kế hoạch vì nghề đúc bị cấm như mọi ngành nghề thủ công khác - trừ hàng thiếc làm đèn dầu, bếp dầu bằng những vỏ hộp nhờ trật vú ra cho bóp mà có. Dân liền vào quán cà phê mậu dịch gọi một tách cà phê ba hào, uống xong nẫng luôn thìa nhà mậu hào hai một chiếc. Đối phó lại, nhà mậu đem đục thủng thìa ra. Một số trí thức gọi là thìa theo phái pointlillisme, - hội hoạ lấm tấm… Được, ông lấy ông vất cống cho bõ ghét thôi mà.
Nhà mậu cuối cùng thuê trẻ con mót que kem cho vào mỗi cốc cà phê hay chanh quả một que đã được dội nước đánh ào một gáo cho chung cả rổ. Cuộc đấu trí giữa thìa và que kem diễn ra khá dai dẳng trước con mắt dửng dưng của trọng tài là đảng vốn thờ câu “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng!”
Đúng, không công bằng quá! Sao quốc doanh các anh có thìa mà tôi không?
Tôi hỏi Khoa, công an sống trong khu văn công, sao ăn cắp nó chạy mà công an cứ thổi còi chứ không đuổi? Khoa nói:
- Đuổi làm gì chứ chú?Bắt sao được nó? Nó chạy nhanh hơn.
- Sao lại thế?
- Sáng nó xơi sủi cảo, bọn chúng em toàn cơm hẩm mà nguội ạ.
Thời ấy công an yếu không hay nện dân như thời lắp thêm chân kinh tế thị trường.
Lúc ấy chưa có tổng kết bất hủ: lương công nhân viên chức chỉ sống đủ cho 10 ngày. Tôi đã bảo Thép Mới:
- Nạn đói thâm niên này nhất định để lại trầm tích sâu dày trong vô thức. Rồi sẽ tham lam, tắt mắt, hôi của… tràn lan. Cái đói nó ngoạm hết dần nhân cách.40
*
 CH,XCI


 CÔNG LÝ CỘNG SẢN


Vâng, đó là vụ đại náo đầu tiên diễn ra ở Trung ương đảng và kẻ đại náo là Nguyễn Trung Thành, nguyên vụ trưởng Vụ bảo vệ chuyên xử các án nội bộ của Ban tổ chức trung ương, người lập hồ sơ vụ án “xét lại” cho Lê Đức Thọ đàn áp và nay đề nghị lật án.
Nguyễn Trung Thành là ai? Không gì khác hơn là tay hòm chìa khoá của cái kho hồ sơ lý lịch tuyệt mật của toàn bộ cán bộ trung cao cấp Việt Cộng không sót một ai. Từ đồng chí Hồ Chí Minh!
Còn nữa! Là người tra cứu hồ sơ của bất cứ ai lọt vào danh sách ứng cử uỷ viên trung ương trước mỗi đại hội. Một thế lực khủng trong hậu đài. Thế mà đùng một cái Nguyễn Trung Thành gửi thư đề nghị Trung ương xoá vụ án “xét lại” bởi vì nghiên cứu lại, anh thấy không có bằng chứng pháp lý cấu thành án. Hay như anh nói với tôi:
- Vụ án này là do chúng tôi đặt ra, có thế thôi!
Ở nhà Gia Lộc nghe tin “đại náo”, tôi và Gia Lộc đã nhờ điện thoại của Giám, con trai cụ Nhuệ trước kia lái xe cho Hoàng Tùng ở báo Nhân Dân, gọi cho Nguyễn Trung Thành.
Chúng tôi vừa xưng danh tính xong, Nguyễn Trung Thành nói ngay:
- Mời hai anh lên tôi. Tôi cũng muốn chúng ta gặp nhau.
Gia Lộc và tôi đến gặp ngay Trung Thành. Đâu còn xa lạ!
Quen biết nhau ớ sổ đoạn tràng cả rồi. Gia Lộc lại vốn còn là cả học viên lớp “Bốn một” mà Trung Thành phụ trách năm 1953-1954, lớp khai cung và cải tạo 800 cán bộ trung cao cấp có nghi án chính trị như Cu Dét, Việt Cách, Đệ Tứ, AB (chống bôn-sơ-vích)… tóm lại tất cả những người yêu nước nhưng không được cộng sản cấp môn bài cứu nước, “như cách tôi nhận diện nó”. Đi buôn còn trốn được môn bài chứ yêu nước mà có tổ chức thì cộng sản xoá sổ ngay, không chui, không lậu được. Cộng sản khống chế tuyệt đối “thị trường yêu nước”.
Còn tôi, hai mươi tư năm rồi mới gặp lại Trung Thành nay đã bảy mươi hai nhưng khoẻ. Phải nói rõ là đến lần gặp này, tôi mới dứt khoát khẳng định anh có đôi mắt và một khuôn mặt rất hiền. Cả tiếng nói, nụ cười đều rất hiền. Lần ở Ban tổ chức trung ương, nghe anh tiễn tôi ra đầu cầu thang, nói “Gặp anh tôi học được nhiều lắm”, tôi đã ngờ, tìm hiểu mãi tại sao anh lại nói như thế. Nay thì thấy cơ sở sâu xa của nó.
Vào nhà thấy ngay gia cảnh nghèo. Hàm bộ trưởng lâu rồi mà phòng khách sơ sài, lạnh lẽo, trống vắng thế này là của hiếm hoi đấy.
Có một điều cần làm rõ. Động cơ Trung Thành?
Rất đơn giản tuy có được là cực kỳ khó.
Thành nói:
- Vì lương tâm cắn rứt…, vâng cắn rứt cho nên phải kêu lên Trung ương cho các anh chị.
Cắn rứt nên anh mới đã công phu bỏ hẳn mấy tháng ra nghiên cứu lại tất cả hồ sơ của chúng tôi để cuối cùng kết luận vụ án này không có bằng chứng tội phạm.
- Nghĩa là thế nào anh? - Tôi hỏi. Vẫn tự dặn cần nhẹ nhàng, không băm bổ, soi mói, đừng làm cho Nguyễn Trung Thành ngại.
Nguyễn Trung Thành hơi đắn đo - hai con mắt sáng với đường mí rõ ràng hơi bối rối, tìm kiếm và hiền, rồi nói:
- Thì là oan… Là đặt ra, dựng lên… chứ sự thật không có gì cả.
Chúng tôi im lặng nhìn Thành. Không ngờ! Sự thật sơ sài mà kinh khủng.
Hai mươi tư năm trước, tôi phân vân đánh giá một câu nói của Thành liên quan đến tôi. Bây giờ tôi lại ngờ: chả lẽ không có gì cả mà Đảng làm nên nổi bao sóng gió, bao điên đảo, bao tan nát thảm thương thế này sao? Nhưng tôi ngầm cởi bế tắc ngay: “Trung Quốc chuyên làm trò ngậm máu phun người này rồi mà. Chống phái hữu, Cách mạng văn hoá đó!”
- Lúc ấy, các cụ bảo - Thành nói - các cụ “cần” thấy các anh là một tổ chức chống Đảng.
A! trong đầu tôi bật ra một tiếng a! Rõ rồi, cần vì Bắc Kinh cần mà. Làm cách mạng văn hoá diệt “Khruschev thứ nhất” là Lưu Thiếu Kỳ và “Khruschev thứ hai” là Đặng Tiểu Bình, Bắc Kinh rất cần có bạn đồng hành mà Việt Cộng đang được Bắc Kinh chu cấp mọi cái để đánh Mỹ thì tất sẽ phải có một Khruschev ứng hoạ theo nhưng thể tình Việt cộng đang chiến tranh nên Bắc Kinh không đòi chỉ hẳn tên tuổi ra. Trùm chăn đánh quỵ là được rồi… Đảng sợ Đại hậu phương có thể đem Đại tiền tuyến bỏ bơ vơ ở giữa chợ chiến trường. Sau này đổi đầu tàu cách mạng, đảng lại thế chấp Chu Văn Tấn, Lý Ban, Hoàng Chính nộp Liên Xô.
Nghĩ rất nhanh như trên - thấy rõ mình đang gỡ ra một cái nút - nhưng tôi không hỏi vì sợ Trung Thành sẽ co lại. Có lúc tôi đã e sự im lặng của chúng tôi sẽ lại làm cho Nguyễn Trung Thành giữ gìn. Nhưng Thành vẫn nói tiếp. Chúng tôi sao hiểu được rằng đang ở trong một con tàu vũ trụ kín bưng, Nguyễn Trung Thành đã rời bỏ nó mà bước ra ngoài không gian. Và một khi sự thật đã cất lời thì đừng mong chôn vùi được nó nữa.
- Các anh lạ gì rằng khi đã là tổ chức thì phải có mấy yếu tố: hay gặp nhau (các anh thì hay gặp nhau quá), thứ hai có phát ngôn láo. Cái này cũng có. (Cười). Đặc tình… (tôi hỏi đặc tình là gì?) À, là công an nhưng nó vờ làm như giống các anh để bám nghe các anh mà không lộ. Đặc tình nó báo Trần Châu, anh của anh đấy, nói cứ đánh nhau mãi thì có ngày dân nổi lên lật đổ. Vậy là các anh có mục tiêu lật đổ, đúng không? Thứ ba cần có hành vi vật thể của tổ chức các anh. Cũng có nốt. Đặc tình và công an do Lê Kim Phùng bố trí - sau vụ các anh, Phùng được cấp cho cái nhà to tướng số 3 Lý Thường Kiệt, cạnh nhà cụ Vũ Đình Huỳnh đó - biết Trần Châu có bản sao trích biên bản hội đàm giữa đảng ta và đảng Trung Quốc, công an bèn vờ làm như có kẻ trộm lấy đi. Vậy là tổ chức các anh với tay đã quá cao: lấy được cả tài liệu tối mật của Đảng. Thứ tư là một khi đã có tổ chức thì tất phải có cương lĩnh. Luận văn phó tiến sĩ sử của Minh Việt là nó đấy chứ còn gì nữa. Trong khi phần lớn các anh không biết nó. Còn Hoàng Minh Chính thì cho là viết uổng công. “Bên Liên Xô người ta phê phán giáo điều nhiều vô kể rồi, viết làm gì?” Luận văn này có tên “Chủ nghĩa giáo điều ở Việt Nam”. Các anh có lúc khai có tổ chức, có chống đảng. Cuối cùng vì sao tôi dám làm đơn gửi Bộ chính trị kết luận các anh vô tội? Chính là nhờ có cái chỗ dựa pháp lý vững như núi này của các anh. Đó là các anh đều phản cung hoặc khai mâu thuẫn lại với mình cả.

 
Về đặc tình, Trung Thành nói cụ Huỳnh thật thà nói với tù “đặc tình” vào ở cùng phòng rằng may quá tài liệu chống giáo điều của Minh Việt để ở nhà Phạm Viết không bị mất thế nên an ninh mới chẹn đường chị Ngọc Lan, vợ Phạm Viết bắt tìm rồi giam luôn. Hồi ký của Lưu Động cũng bị đặc tình biết được.
Tôi nghĩ thầm thảo nào Trần Châu bảo tôi một lần anh đổi phòng giam, một thường phạm ở cùng anh đã dặn gặp tù chung phòng thì đừng có tâm sự gì đấy. Cũng nghĩ tới câu ở tù ra Châu nói với tôi: “Nếu Việt Nam không cộng sản thì đất nước thanh bình, không chiến tranh. Cộng sản là hoạ của dân tộc”.
Thủ đoạn vu cáo cài bẫy bắt người này, Milovan Djilas đã nói đến từ 1948. Trong cuốn Giai cấp mới từng làm nghiêng ngửa giới tư tưởng cộng sản, ông vạch ra cách thức dựng nên các vụ án chính trị. Hệt như Trung Thành nói với chúng tôi hôm gặp nhau lý thú ấy. Vâng, đầu tiên cảnh sát mật, theo “gợi ý” của cán bộ đảng, “phát hiện” được một người nào đó là kẻ thù của chế độ, là cái gai của chính quyền vì anh ta công khai bảo vệ một quan điểm nào đó hoặc anh ta thảo luận quan điểm đó với bạn bè của mình. Nếu việc “phát hiện” thành công thì sẽ sang giai đoạn hai, giai đoạn đưa nạn nhân vào bẫy. Người ta sẽ sử dụng một kẻ khiêu khích để thu thập những “bằng chứng có tính chất phá hoại” hoặc doạ dẫm một kẻ nào đó và bắt phải kí những tài liệu vu khống mà cảnh sát đưa cho. Đa số các tổ chức bí mật là do chính cảnh sát lập ra để bẫy những phần tử bất đồng ý kiến. Người ta không tìm cách ngăn chặn mà ngược lại còn cố tình đẩy những công dân “không đáng tin” đến tội lỗi để trừng phạt họ.

 
Vậy chúng tôi tỏ rõ chống chiến tranh thì đảng phải “để mắt” tới chứ! Chúng tôi phát biểu ý kiến trong các cuộc họp đảng mở ra để thảo luận. Đảng chưa đàn áp một vụ án chính trị lớn nào ở trong đảng, chúng tôi vẫn tin đảng nói lời là giữ lời, chẳng hạn lời này: đảng ta là đạo đức, là văn minh.
***
Nửa tháng sau tôi lại đến. Trung Thành vừa mở cửa thấy tôi thì vui ra mặt, líu tíu nói:
- Vào đi, vào đi. Pha trà uống cái đã chứ nhỉ.
Cúi gỡ cái đai dây thép bện mấy vòng quàng lấy cổ chiếc phích Rạng Đông cũ kỹ, Trung Thành nói tiếp.
- Tôi vừa gặp anh Đỗ Mười với anh Đào Duy Tùng chiều qua. Trình bày việc xin minh oan cho các anh. Cũng là phải nhờ anh Vũ Oanh mách nước mới đến được anh Đỗ Mười.
- …?
- Thư từ đến tay anh Đỗ Mười rất khó, anh Vũ Oanh dặn tôi lúc ấy lúc ấy đến chỗ ấy sau nhà anh Đỗ Mười sẽ thấy một cô rửa rau vo gạo thì bảo đưa giúp công văn cho thủ trưởng.
Cô ấy là cấp dưỡng của Đỗ Mười, cô ấy thế nào cũng đưa.
Tôi đã nghĩ ngay là với các chi tiết loại này, cô nấu cơm nom sao, gạo thế nào, cái rá? Tiểu thuyết Việt Nam dễ hay lắm đây! Rồi vui y như mình sắp viết ra thật. Sau nhận ra cái vui này chỉ là cái vui thứ phẩm phái sinh của câu chuyện Trung Thành gặp Đỗ Mười.
Gặp Trung Thành, mở đầu Đỗ Mười hỏi tuổi.
- Dạ, thưa anh, bảy mươi hai.
- Sắp đi khai hội với giun rồi sao không ở nhà chơi với con cháu mà lại đi viết kiến nghị?
Tôi phản cảm với cái giọng khinh khỉnh bề trên. Và với câu “khai hội với giun” có cách đây đã nửa thế kỷ. Ông ta đúng là dân cố cựu kháng tân.
- Dạ, anh bảy tám mà có được vui chơi với con cháu đâu ạ? - Thành đáp.
Tôi khen thầm Thành đá lại rất tinh tế.
- Ừ, nhưng sao lại viết kiến nghị rồi lại gửi vung lên? Anh có biết Liên hợp quốc nó như thế nào không? Nó là thằng địch phản động, thế mà anh lại giúp nó vu cáo ta, gây sức ép với ta bằng cái thư của anh. Nó đang chửi ta vi phạm nhân quyền kia kìa.
Trung Thành nói tháng 12 năm 1993, anh đã có thư trình bày lên Tổng bí thư vấn đề này nhưng mãi không thấy trả lời. Trong thư này anh nói Ban chuyên án ngày ấy đã phạm sai lầm dẫn tới Bộ chính trị và Trung ương đưa ra kết luận sai lầm về vụ án này.
Nên nhắc lại: trưởng ban chuyên án là Lê Đức Thọ.
- Trung ương đã có nghị quyết kết luận vụ án này rồi mà.

 
- Vâng, nghị quyết mà Trung ương kết luận về vụ án này chính là dựa trên sai lầm của ban chuyên án và báo cáo của Ban chuyên án gửi Bộ chính trị lúc bấy giờ là do chính tay tôi thảo.
Nghe câu này, tôi nghĩ ngay: “Có ai trong lãnh đạo đảng trung thực được như Trung Thành? Rồi tự nhiên kéo ghế lại gần anh hơn.
- Thưa anh, Nguyễn Trãi mười tám năm rồi được minh oan, vụ anh chị em này đã hai mươi tám năm rồi ạ.
- A, anh lại ví bọn này với Nguyễn Trãi? - Đỗ Mười cáu.
Tôi lại bất bình: Kiểu đâu chỉ có cả vú lấp miệng em. Nghĩ đến vùng miệng hô dẩu ra của Đỗ Mười có thấy rờn rợn.
- Không ạ, đây là tôi nói về thời gian hai vụ thôi ạ. Tôi xin minh oan vụ này là làm theo lương tâm người cộng sản, làm theo trách nhiệm của người đảng viên trước đảng.
- Anh nói thế ra tôi không có lương tâm ư? Tôi tù Hoả Lò với đám thằng Hoàng Minh Chính, Lê Trọng Nghĩa, tôi lại không nghĩ được như anh sao? Tại sao đã không trả lời anh? Đó là vì bận. Bận chuẩn bị đại hội.
- Vâng tôi cũng nghĩ như thế nên mới tìm gặp Ban kiểm tra trung ương nhưng các anh ở đấy lại nói không quản cái vụ này. Tôi lại nghĩ đảng đang đổi mới, đang có chính sách hoà hợp dân tộc, nếu giải quyết được cho anh chị em kia thì đảng sẽ được lợi nhiều. Còn nếu như anh bảo gửi cái thư này đi là sai thì tôi sẵn sàng đi tù.
Đỗ Mười dịu xuống. Có lẽ nghĩ cũng nhờ anh này mà mình vào được Trung ương đây.
Trung Thành cuối cùng đề nghị bốn điều. Để khôi phục quyền lợi cho anh chị em bị án xét lại, đảng nên: Trước mắt trao Ban tổ chức giải quyết quyền lợi cho anh chị em như người vô tội; trao Ban bảo vệ chính trị nội bộ xét lại vụ án, lập tiểu ban thẩm tra, những người vướng mắc vào vụ này được trình bày ý kiến hay đối chất; thông báo là sẽ có kết luận cuối cùng của đảng.
Tôi ra cửa về thì Lê Hồng Hà đến. Lại nghe Trung Thành líu tíu:
- Vào đi, có cái này hay đây.
Lê Hồng Hà đã tán phát nội dung cuộc gặp quan trọng này.
Đỗ Mười, Lê Đức Anh liền phản ứng hết sức dữ. Lập tức khai trừ Nguyễn Trung Thành và Lê Hồng Hà. Mở hội nghị cho Nguyễn Đình Hương lên án lại vụ xét lại. Mở một triển lãm về vụ án xét lại với cả sơ đồ tên tuổi xét lại cũ mới. Có một tên bị bôi kín. Hồng Ngọc, vợ Chính, gại gại ra thì là Lê Giản! Tôi cũng hiện diện. Tôi bèn kiện: “Phải toà xử mới có tội và ngay dù toà xử có tội rồi cũng không được cứ thích lên là đem bêu tên người ta ra! Hiến pháp bảo vệ công dân ở đâu?”
Lê Kim Phùng, cục trưởng A25 đến tận nhà tôi thanh minh.
Trung Thành, Hồng Hà bị khai trừ quá nhanh. Sau đó Hồng Hà có thư tố giác trong đó nói các vị lãnh đạo bây gìờ thua Trần Độ mọi mặt…

 
Nguyễn Trung Thành bảo tôi anh không tán thành việc Hồng Hà chưa chi đã công khai tóe ra chuyện anh gặp Đỗ Mười, ông ấy chỉ cần hỏi: anh đề nghị, tôi nhận nhưng nói bận đại hội hãy chờ mà chưa chi anh đã nêu tôi ra, định chẹn họng bắt bí tôi hả, là lòi ngay chỗ mình không tuân thủ tục pháp lý. Nhưng anh Thành lịch sự không công khai đổ hết cho Hồng Hà. Xưa học Trường đảng Bắc Kinh, Hồng Hà được giữ ở lại phụ đạo cho anh em học sau, trong đó có Nguyễn Trung Thành.
Chỉ có sau đó anh Thành từ chối Hồng Hà đến chúc Tết.
“Tôi bảo anh ấy là thôi, đừng đến tôi”.
Ba mươi Tết Canh Thìn (2000), Trung Thành điện thoại:
- Tôi vừa đọc lại mấy cái thư khiếu kiện trước kia của anh, tôi mời anh đến chơi.
Mồng hai mồng ba gì đó, tôi rủ Hoàng Thế Dũng đi.
Vẫn căn hộ chung cư sơ sài, thanh bạch - đúng hơn là nghèo.
- Mọi năm quà mừng, thiếp chúc đầy cả, nay tạnh không… - Thành nói - Có lúc cũng buồn nhưng nghĩ mình làm theo lương tâm, lương tâm yên thì mình vui. Họp lão thành cách mạng cũng lờ. Lâm cảnh này mới thấu hết. - Thành nhẹ nhàng nói.
Tết Tân Tỵ năm sau tôi lại rủ Hoàng Thế Dũng đến Trung Thành. Vòng cổ dề giữ phích nước nóng vào chân bàn từ sợi dây thép bện đổi sang một vòng đai nhôm lấp loá nay đã là một cu roa cao su đen bóng. Sự đổi mới lộ liễu này khiến tôi se lòng. Nhưng nếu nhà Trung Thành đầy các của quý thì sẽ không có chuyện chúng tôi gặp nhau trong không khí nạn nhân.

 
Bữa này Thành cho tôi xem một tư liệu rất lý thú. Kỷ niệm 50 năm thành lập, Ban tổ chức trung ương yêu cầu các vị ở ban từ thuở ban đầu viết lại những đóng góp của mình.
Thành viết mười lăm trang. Tường thuật toát yếu bốn chục vụ nghi án chính trị anh từng giải quyết trắng án! Anh đã đưa tôi và tôi đọc tại chỗ, rất to cho Dũng điếc có thể cùng nghe được.
Ở đây tôi kể ra vài ba vụ tiêu biểu.
Trước hết nghi án Nguyễn Tài Đông tức Tài Cá, thứ trưởng công an nằm vùng trong Nam bị bắt rồi “khai báo”. Trung Thành nghiên cứu đã kết luận vô tội. Nghe anh tường trình, thường trực Ban bí thư Nguyễn Duy Trinh nói:
- Tôi thấy anh nói hợp tình hợp lý, lô gích nhưng anh đừng báo cáo với anh Sáu Thọ như thế mà phiền ra. Anh Thọ nghĩ khác.
Vậy là Sáu Thọ muốn khép tội Tài Cá, người đang có dư luận là phen này sẽ thay Trần Quốc Hoàn. Và rồi Tài Cá bật khỏi công an về phụ trách Hải quan thật. Để Mai Chí Thọ sẽ thay Hoàn, cắm cờ đại tướng đầu tiên cho công an Việt Nam. Biết từ nay trong đảng vật lộn nhau gay go, Thọ cần em đến trấn cái cửa này.
Đến vụ Trần Quốc Hương. Cũng tai tiếng khai báo. Trung Thành lại kết luận vô tội và lần này thì không phải là vướng Lê Đức Thọ mà vấp chính Tổng bí thư. Nhận định không hay về Quốc Hương, Lê Duẩn gọi Nguyễn Trung Thành đến, vặn:
- Tội rõ như thế mà sao anh kết luận là không tội? Anh ngồi xuống rồi lấy giấy ra ghi đi, ghi rằng tôi mắng anh, ghi chưa, à, anh mang về báo cáo lại đúng như thế với anh Sáu Thọ.
Vậy là Lê Duẩn muốn khép tội Trần Quốc Hương. Và vụ này ghê đến độ Duẩn muốn Thọ qua bung xung Trung Thành biết là mình mắng Thọ. Qua ca Trần Quốc Hương đặc biệt thấy lợi ích nhân sự bắt đầu chọi nhau khá mạnh giữa cặp đôi Tổng bí thư và Sáu Thọ.
Té ra đến bước lung tung xòe thì Duẩn, Thọ ở trên hai con bè! Chẳng khác gì “thắm thiết tình Việt - Trung - Xô” rồi choang nhau vỡ đầu.
Và Lê Duẩn thiệt. Ông chết thì Trần Quốc Hương lại vào Ban bí thư phụ trách nội chính. Bên công an thì Mai Chí Thọ. Thọ cần làm tê liệt các thân tín của Duẩn.
Đọc đến đây tôi chợt nhớ lời Lê Đức Thọ bảo tôi hồi 1965-66: Thằng nào bị địch bắt mà nói không khai là thằng nói phét. Mình đồng da sắt chó gì mà nó quạng cho vọt cả cứt lẫn đái ra lại bảo rằng không khai? Thằng nào cũng khai. Chỉ là khai tệ hại hay không thôi”. Nhưng ai phán xét là khai tệ hại hay không? Lê Đức Thọ. Gần như Thọ độc quyền chuyện này. Và tất yếu có những ý trái lại Thọ nhưng khi mâu thuẫn nội bộ chưa gay gắt thì người ta đoàn kết với nhau trên đau khổ của nạn nhân.
Lúc ấy tôi chưa vỡ lẽ khi một người được độc quyền đánh giá đảng viên khai báo với địch có tệ hại hay không thì người ấy cũng dễ dàng bịa đặt tội! Đào Phan trong thư gửi Ban tổ chức năm 1992 đã tố cáo Sáu Thọ bịa cho anh tội báo tin anh em tù ở Sơn La cho công sứ Pháp, chuyện Đào Duy Kỳ lên tận Sơn La gặp Đào Phan - trong khi Kỳ đang tù Côn Đảo! Đào Phan nhũn não sắp chết mới nhận được một chứng nhận của Ban tổ chức trung ương nói sai lầm ghi trong lý lịch anh là “không có cơ sở”. Phải chăng vì bè phái, vì ghét trí thức (không bằng cục cứt cơ mà) nên đã trẩm đi các đảng viên trí thức để cho họ không vào được lãnh đạo cao nhất của Đảng?.
Như Đào Năng An, Đào Duy Kỳ, Đào Văn Trường v.v… Đào tận gốc, trốc tận rễ trí, phú, địa, hào mà. Trí đầu tiên.
Và oái oăm thay, tôi, kẻ mà Lê Công Tuấn hỏi cung nhận xét là tội nặng hơn nhiều đứa “xét lại” bị tù thì thoát xà lim nhờ vị chánh án gian hùng này đặt mắt xanh vào! Không những không bắt, ông còn liên tục cho đò chờ đón tôi qua sông theo ông.
Thú vị là sau khi Lê Duẩn và Sáu Thọ đã chết cả thì Nguyễn Tài Đông nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang còn Trần Quốc Hương thì Huân chương Sao Vàng. Đảng có một bộ phận hậu sự chuyên đi lau chùi đánh bóng tên tuổi các người đã bị đảng hãm hại. Đấy, các vị lên tên phố đầy! Tóm lại đảng lãi to: ra ngõ là đụng toàn hàng xịn, hàng hiệu vẻ vang của đảng mặc dù đều đã va nhau đến hồn lìa thể phách cả. Lệ của đảng là khi chết rồi thì hoà cả làng tất. Xoá tội xoá nợ cho nhau lúc này chỉ có lợi cho thanh thế Đảng.
Vụ thứ ba là vụ Chu Văn Tấn, Hoàng Chính “tay chân Bắc Kinh”. Xảy ra vụ này vì lúc này Đảng lại đang cần báo cáo Liên Xô: Dạ, tôi phang Bắc Kinh cho đồng chí đây, đồng chí đầu tàu ơi!
Nhưng rồi Đổi mới, trong văn bản hợp tác với thế giới tư bản có điều khoản phải thả tù chính trị và Đảng thì cũng chả còn cần các thế chấp dâng hai ông anh! Hôm Trung Thành xuống Phố Nối đón Hoàng Minh Chính về thì Dương Thông đón Hoàng Chính ra tù.
- Khổ hai anh Chính họ Hoàng, một anh lấy cả tên Bác làm đệm mà đều khốn nạn - tôi đùa.
Trung Thành nói:
- Anh Hoàng Chính vốn là ra Quảng Ninh chơi với cơ sở cũ, Bộ công an liền nhờ lùa giúp về cho một đàn bò để họ liên hoan. Có công mua hộ công an bò thì bị công an bắt vì tội mò ra cơ sở cũ “xúi giục cán bộ bỏ trốn sang với Hoàng Văn Hoan”, vu ra cho người ta. Còn Chu Văn Tấn thì chết. Chu Văn Thành con trai ông vẫn giữ những tấm ảnh chụp cỗ quan tài hở toang hoác, trông thấy xác của Hùm xám Bắc Sơn nằm cứng queo bên trong.
Tôi nói:
- Biết trước Chu Văn Tấn sẽ khốn nạn như thế nên Văn Cao báo trước trong bài hát Bắc Sơn “Ôi còn đâu đây sắc chàm phai màu gió?” (Đúng ra là pha).
Ngừng một lát Thành lại nói:
- Rồi đến ông Lê Đức Anh. Anh Nguyễn Đức Tâm và tôi mang cả một chồng hồ sơ lý lịch các nơi phát giác khai man đến báo cáo với anh Sáu Thọ nhưng anh Thọ bảo nó không sao cả, tớ nghe trình bày rõ rồi.
- Ông Thọ đang cần hai gia nhân bảo vệ đằng lưng cho ông ấy mồ yên mả đẹp còn Giáp kiện Nguyễn Chí Vịnh bịa tội cho mình thì Thọ mặc!
Tôi muốn được biết ai bảo Vịnh làm cái trò này nhưng Trung Thành chỉ lầm rầm như nói cho mình:
- Ông Thọ đang cần hai gia nhân bảo vệ đằng lưng, còn Giáp kiện Vịnh thì ông ấy chả coi ra mùi… Với lại xoá án cho ông Giáp để mà bới tanh bành tất cả lên à?
Trung Thành rất thận trọng, nên dĩ nhiên tôi không hỏi tanh bành là sao. Tuy đến nay mấy ai còn lạ ba đối tượng thất thế chủ yếu của Nghị quyết 9 là Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp! Riêng tôi thất tình với Trường Chinh và ớn Cụ Hồ chính vì các vị đã đầu hàng. Tép riu như tôi mà dám bướng. Khai thác hết trữ lượng bí mật ẩn ức của cái mỏ “đại tam thất” - ba mất lớn - này thì không biết sẽ vỡ ra đến đâu.
Bởi lẽ đảng không thể “sửa sai” vụ xét lại. Sửa thì để lòi ra ở trong lòng đảng một sới vật man rợ và đảng mắt lé, mỗi con ngươi nhìn một ngả, không ai giữ gìn cho thống nhất. Như lòi ra vụ chúng tôi - dĩ nhiên gồm cả Hồ Chủ tịch và đại tướng Tổng tư lệnh - là Bắc Kinh “cần” gạt.
Thành hay thắc mắc tại sao nhiều người được minh oan lại vẫn khăng khăng ôm lấy “tội”.
- Anh biết vụ Nguyễn Thành Long, một vụ trưởng công nghiệp không? - anh hỏi tôi. - Anh ấy gửi một thư lên Trung ương nhận xét mười
một điều. Đúng cả duy điều 11 thì đúng mà kinh! Viết thế này: “mấy chục triệu nhân dân ta nuôi báo hại mười mấy uỷ viên Bộ chính trị chẳng làm được ích lợi gì cho dân cho nước”. Bắt. Tra hỏi, dồn cung, anh ta nhận mình chống Đảng và người bảo viết thư là Nguyễn Chấn, uỷ viên trung ương, bộ trưởng điện than (trên rừng ở Văn phòng trung ương, chúng tôi gọi là Chấn Trố, lổ đổ bạch biến ở vai ở ngực). Đưa Chấn đến đối chất, Chấn im. Giam Long bốn năm rồi thấy anh ta chẳng có tổ chức gì thì tha. Được tha mà vẫn cứ lẩm bẩm tôi có tội. Sau hỏi Chấn sao im thì nói: tôi có cãi cũng chả ai tin mà.
Tôi nói cây lý luận cự phách của Đảng cộng sản Liên Xô Zinoviev chờ đảng giết mà trước sau chỉ nói: Tôi thà bò lê trong đống bùn nhơ chứ không thể đứng ở ngoài đảng rồi nói là mình đúng!
Trung Thành kể sau khi Bác Hồ chết, Sáu Thọ đã gặp Hoàng Minh Chính thuyết một hồi. Thấy Chính rơm rớm nước mắt, Trung Thành đã
mừng nhưng chỉ vài ngay sau Chính lại đâu hoàn đấy. Các anh quyết không nhận tội thì tôi mới dám đứng ra xin xử lại chứ!
- Biết chuyện tôi đòi minh oan cho các anh, anh Hoàng Minh Chính điện thoại cho tôi nói rõ hoan nghênh việc tôi làm nhưng nhấn rằng không cảm ơn.
Tôi thấy giọng Trung Thành có đôi chút xuýt xoa, đau đau nên sau đó gặp Chính tôi đã nói “Người ta vì lẽ phải, dù muộn vẫn cứ hơn - mà hỏi ai từ đầu đã thấy lẽ phải? - rồi đấu tranh cho lẽ phải đến mất cả sinh mạng chính trị mà mình vẫn không cảm ơn thì không hay. Tôi thật tình thương Trung Thành. Anh ấy như vừa lột khỏi kén, phơi mình ra với đời cát bụi, ta nên vun đắp cho những ngày cuối cùng tử tế của anh ấy được tử tế…”
Hôm ấy tôi hỏi Trung Thành:
- Bên ông Giáp có nói năng gì với anh không?
Tôi thấy hình như Trung Thành khẽ lắc đầu nhưng không dám chắc.
Tôi nửa đùa nửa thật nói:
- Tôi sợ có khi ông Giáp cũng nghĩ toà án là trò dân chủ tư sản bịp chả hay ho gì, chỉ kỷ luật của đảng vô sản mới đích thực dân chủ. Chẳng qua là tôi chán thái độ nín nhịn quá gương mẫu - về tính đảng - của Giáp! Đánh đông đánh tây bằng máu dân để “giải phóng con người” nhưng để giải phóng chính mình khỏi kìm kẹp thì không. Sao kỳ quặc thế?
Mấy lần tôi đã toan nhắc đến chuyện “Bác Hồ”. Sau Nghị quyết 9 mà Bác không biểu quyết, Bác thôi họp Bộ chính trị là vì sao? Anh đọc hồi ký Vũ Kỳ đăng số Tết báo Văn nghệ rồi chứ? Nói rõ máy bay chở Bác về dự hội nghị Bộ chính trị thông qua kế hoạch đánh Tết Mậu Thân suýt thì đâm xuống đất. Sau vụ đặt sai đèn hiệu này, Vụ bảo vệ các anh không động đậy gì ư? Sao vậy?
Đến đây tôi suýt buột miệng nói tiếp: “Anh có thấy rõ là dương mưu, mưu công khai không? Ghê rợn! Ghê rợn cho những bộ mặt vẫn phẳng lặng của các cốp nhưng tôi kìm lại được”.
Cũng hồi ký Vũ Kỳ nói dự hội nghị Bộ chính trị trên kia, Bác chỉ ngồi ở một góc và rồi trong suốt cuộc Tổng tiến công, Tổng nổi dậy Bác và Vũ Kỳ ở Bắc Kinh tự lọ mọ mở đài tìm tin tức chứ chả ai báo với Bác “thắng lợi có ắt về ta” hay không? Tôi còn muốn hỏi Nguyễn Trung Thành nhiều nhiều. Chẳng tháng 7-1966 Bác kêu gọi cả nước đánh Mỹ giọng còn khỏe lắm mà sao sang 1967 Bác đã phải đi chữa bệnh ở Bắc Kinh? Cái gì làm sức khỏe Bác sút nhanh thế? Xin chú ý là năm 1967, Bác về nước hai lần gần nhau, lần thứ hai về đầu tháng 7 là cái tháng bắt xét lại đợt thứ nhất và tháng 9 là buộc Võ Nguyên Giáp đi chữa bệnh ở Đông Âu. Phải chăng về là muốn
ngăn bắt bớ cũng như lưu đày Giáp nhưng lại được lệnh phải rời nước sớm? Tôi đã không hỏi. Chắc là Trung Thành sẽ im. Vả lại lúc ấy các điều tôi biết vẫn chưa thành hệ thống.

 
Cái bè nạn nhân “xét lạ” cuối cùng đã không nguyên vẹn:
Hồ Chủ tịch và Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn bảo vệ uy tín, thanh danh của Đảng. Nhưng tôi đinh ninh cái bè nạn nhân thuộc các đối tượng thanh trừng của Đảng kể từ “trí, phú, địa, hào” đến cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp tư bản, Nhân văn Giai phẩm và “xét lại lật đổ chống đảng”. chúng tôi trước sau không hề bao giờ rã ngũ. Trái lại họ đã kết thành một bức trường thành vô cùng kiên cố.
Tôi đã có những lúc đạp xe giữa Hà Nội phơi phới trình làng bộ mặt nạn nhân với mong muốn kêu gọi, tập hợp. Chính bộ mặt ấy đã hút Kim Lân
đuổi theo tôi để chỉ nói: “Ừ, trông vẫn tư cách lắm. Này, sông có khúc, người có lúc, nhớ thế nhá…”. Anh biết tôi là người ngay bị kẻ gian móc túi rồi lại hô bắt cho tôi thằng ăn cắp. Mà số người bị móc túi và bị hô bắt thì nay hằng hà.
Và không ít lần tôi dạo phố với một bộ mặt không quen biết nhưng thường hay nổi gió phần phật ở trong đầu tôi, bộ mặt của Klocky Tarassov, bạn tù của nhà văn Nga Bukovsky, người tiên phong mở ra phong trào tin chui, báo lủi samizdat, cái phong trào minh bạch, công khai mạnh như địa chấn ở Nga rồi mở đường cho gió bão làm sập chế độ xô viết. Trong 12 năm tù, Bukovsky gặp Klocky Tarassov hay đúng hơn, người giương lên ở trên mặt một bản tuyên án Đảng cộng sản Liên Xô. Trán Klocky xăm: Lê-nin ăn hịt người! Má phải: Nô lệ của ĐCSLX! Má trái: BCHTƯ chết đi! Toàn chữ xanh lè quanh một cái miệng đã rụng hết răng. Năm 1944 Klocky Tarassov ăn cắp bị tù. Rồi tù mãi, tù mãi mấy chục năm để hoá thành tù chống cộng. Người ta nhất định phải lột đi cái kim ấn mà Tarassov đóng trả miếng lại vào mặt nhà cầm quyền xô viết. Không thuốc tê, thuốc mê. Lột sống, bóc tươi. Nhưng mặt vừa lên da non. Tarassov lại xăm, không để hoang phí chủ quyền lãnh thổ là thân xác và phẩm giá của ông. Bên lột, bên xăm… cuối cùng họ đã bắn chết cái biểu ngữ ngạo nghễ, kiên cường, độc đáo duy nhất trên thế giới này. Năm 1976, Liên Xô đánh đổi Bukovsky ngang giá lấy Tổng bí thư Đảng cộng sản Chi-lê Luis Corvalan cũng tù. Bukovsky đã viết đến Klocky trong quyển Và gió lại tiếp tục các chuyến đi.
 
***
Từ ngày Nguyễn Trung Thành làm đơn minh oan cho vụ xét lại, tôi đến gặp anh chừng mười lần. Khoảng năm lần trong đó anh nói đến chuyện anh có thể lại được phục hồi đảng tịch. Anh đã làm đơn. Đáng nói hơn là nhiều vị quan trọng trong đảng, từ Lê Khả Phiêu, Phan Diễn…, đã tiếp anh và hứa giúp anh. Trung Thành xem ra cũng hy vọng.
Nhưng rồi hơn năm sau, Nguyễn Trung Thành phôn báo tôi người ta vừa gửi cho anh quyết định nhắc lại án khai trừ anh ra đảng là đúng. “Hai năm qua, các anh từ Lê Khả Phiêu, Phan Diễn luôn hứa giúp tôi thế là cũng đành chịu ư? Ngày Tổng bí thư Phiêu gặp tôi hứa hẹn giúp là có Trần Đình Hoan, chánh văn phòng trung ương ngồi bên, ông ấy ân cần, niềm nở với tôi
lắm nhưng lên trưởng ban tổ chức rồi thì lại lạnh như tiền ngay với tôi, đời này khó lường nổi thật”.
Tôi định nói anh ơi, ai lạ gì lời hứa của ta? Cũng ai lạ gì sức mạnh hậu cung giấu mặt. À đây, thử hỏi ai bứng Phiêu ra khỏi ghế Tổng bí thư sớm thế? Ai không để Diễn lên Tổng bí thư như đã đồn nhiều một dạo? Ai cho Nguyễn Văn Linh làm có một nhiệm kỳ và Giáp thì cứ đội oan mãi nhưng tôi lại im lặng. Chả lẽ chia buồn trong điện thoại với anh? Trong khi đúng ra nên bảo anh hãy mừng đi. Ở ngoài đảng anh mới được thật là anh.
Một hôm còn ở Hà Nội, tôi đến Trung Thành, dạo ấy các cốp trong đảng đang nuôi cho anh hy vọng trở lại đảng mà theo anh thì chẳng qua
cũng chỉ cốt mượn việc đó để nói lên rằng khi đòi minh oan cho chúng tôi, anh đúng chứ không chống Đảng. Trung Thành buồn rầu:
- Xưa tôi bị ghét vì từng kỷ luật cán bộ, đảng viên, nay thì bị ghét vì chống Đảng. Vừa qua giỗ ông Sáu Thọ, người đến đông lắm, bà Chiếu nói cái anh Trung Thành không ngờ lại phản anh Thọ. Kỷ niệm cách mạng tháng tám ở Đông Anh, tất cả mọi người đều lên chửi Trần Độ và Nguyễn Trung Thành chống Đảng. Nói gì chứ cũng rầu lòng lắm…
- Những người chửi Trần Độ và anh đều là đóng thuế mồm thôi. Ăn của đảng vào thì phải nhè các anh ra, chân lý quái gì ở đây mà buồn anh. Anh có biết ông coi xe đạp ở dưới sân chung cư anh ở không? Cán bộ Ban tổ chức của các anh về hưu đó, ông ấy có người con trai bại liệt, chắc anh biết!
Ông ấy bảo mới hôm nào người ta nườm nượp đến ông Thành. Có những ông xuống đến tận cửa ra về vẫn còn cứ cười hớn hở lắm. Đều trúng rồi mà. Đều nhờ Nguyễn Trung Thành mà lọt vào hàng ngũ lãnh đạo rồi mà… Đùng một cái ông Thành hoá hủi. Thế là bặt ngay. Ông Thành khổ nỗi lại trong sạch. Giá lúc có quyền cất nhắc đề bạt cũng thạo vòi giỏi xoay thì phải biết… Tôi buồn cho con người quá. Mà cái diện người này toàn là trung ương, bộ trưởng cả. Anh Thành à, tôi đã bảo ông giữ xe luận chuyện nhân sự cao cấp Đảng, rằng có hai điều. Một là cái chế độ này nó chỉ biết phục tùng người có quyền. Hai là những người mà bác phàn nàn là vô ơn kia thì họ vốn dĩ phải có bản lĩnh ôm chân và lật mặt thì mới lên cao được bác ơi.
Trung Thành ngồi nghe cứ chớp mắt, không giấu được cảm động.
Từ hôm ấy tôi thôi liên lạc với Nguyễn Trung Thành. Hình như thương Trung Thành không được toại nguyện. Vẫn giữ số điện thoại của anh 08043746. Con số ít thấy. Chung cư số 8 của Ban tổ chức trung ương sau dẫy chuồng cọp Bách thú cũ chắc có mạng điện thoại riêng.
Với tôi chuyện quan hệ với Nguyễn Trung Thành có hai đầu đuôi ngược nhau khá lạ: mở đầu là giữa năm 1968, tôi đến đó một buổi trưa gặp Nguyễn Trung Thành, Trần Trung Tá và Lê Công Tuấn để nghe thông báo tôi phải đi “kiểm điểm” ngay lập tức ở xa Hà Nội, chuyến đi từ đấy liệt tôi
vào danh sách “chống đảng, lật đổ” và kết là hăm bảy năm sau, Trung Thành, người thiết kế nên vụ án theo nhu cầu các cụ - lại gặp “tội phạm” tôi để cùng nhau phán về sự tầm bậy của cái vụ án này. 41
 
CH.XCII

LE DUC THỌ

Hôm qua đến chị Huỳnh, tôi được xem bức thư ông Lê Đức Thọ viết làm cơ sở lật án được cho Vũ Đình Huỳnh. Các anh chắc đã đọc? (Tất cả lắc). À, thế thì tôi thuộc, tôi đọc các anh nghe ngay đây…
“Kính gửi chị Vũ Đình Huỳnh, Tôi đi Pháp chữa bệnh về thì được tin anh Huỳnh mất nên không thể đến viếng thăm được. Tôi bị ung thư đã di căn, sức khoẻ yếu, nay tiếp tục chữa bệnh, không thể tới chia buồn cùng chị và các cháu. Anh Huỳnh có công nhiều với cách mạng và nhân dân, khuyết điểm (Dị cười đính chính: sai lầm! Tôi lắc đầu: là sai lầm thì tôi kể lại làm gì chứ anh?) Khuyết điểm! Mà chưa hết. Khuyết điểm nhất thời…”. Trưởng ban chuyên án khẳng định Huỳnh công nhiều, khuyết điểm nhất thời thế mà tù đày như thế đấy! Dạo anh Huỳnh chết, đăng tin buồn trên báo Nhân Dân, báo cắt nghiến luôn chữ cựu thư ký của Hồ Chủ tịch. Khuyết điểm tạm thời mà tù bảy năm, quản thúc ba năm rồi trợ cấp “nhân đạo” mỗi tháng vài chục nghìn. Học Mao kỹ quá đấy. [..].
Nhận lại thư về, tôi nói:
- Xin hỏi đã học ai làm cải cảch ruộng đất? À, đều rõ cả. Lại còn việc cố vấn Trung Quốc xưa ở Bộ công an ta rất đông, hễ đề bạt cấp vụ trưởng là ta đều tham khảo cố vấn…42
*
Lê Duẩn đã thừa nhận “tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng Lê-nin trong thời kỳ ba dòng thác cách mạng”, vậy thì “tư tưởng Lê Duẩn” như Asselin viết chính là tư tưởng Mao Trạch Đông, không thể nào khác! Pháp sư giật dây cải cách ruộng đất ở Việt Nam là Mao. Phù thuỷ mách nước đánh Nhân Văn - Giai phẩm là Mao - để phối hợp với chống phái hữu bên Trung Quốc. Và Nghị quyết 9 của Việt Cộng ra đời là hưởng ứng Mao chống xét lại để giữ cho chủ nghĩa Mác-Lê trong sáng mà thực chất là gì? Sau thảm hoạ cải cách ruộng đất và “Chống phái hữu”, “Tiến vọt, ba ngọn cờ hồng”, Hà Nội và Bắc Kinh đều đang đứng trước một hũ nút đen ngòm là sự bất bình của dân. Cách tốt nhất với cộng là hướng dân vào căm thù đế quốc. Mưu thâm trí cả, Mao đã nêu khẩu lệnh “căng đế quốc Mỹ ra toàn thế giới mà đánh!” và “Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ!” khéo kéo mấy nước lạc hậu trong phe như Việt Nam, An-ba-ni theo mình đánh Mỹ kẻo mà sợ chiến tranh thì thành “xét lại” đầu hàng, phản bội như Liên Xô.

 
Xúi Hà Nội đánh đuổi Mỹ, Mao giấu đi mục tiêu chiếm Biển Đông - tuy Chu Ân Lai đã công khai đòi chủ quyền từ 1949. Cũng là mong muốn rửa bằng máu người cái hận bộ trưởng ngoại giao Mỹ Dulles không bắt tay Chu Ân Lai ở Hội nghị Genève năm 1954. Còn với Lê Duẩn, Mao đã giúp thoả mãn ước nguyện lập công cao hơn Hồ Chí Minh là người mới giải phóng có nửa nước! Mặt khác, Mao còn nêu gương (phang Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Bành Đức Hoài…) để cho Duẩn và Thọ có thể nặng tay với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp cùng rất nhiều cán bộ và sĩ quan trung cao cấp.
 *

Về cuốn sách: “Cuộc chiến tranh của Hà Nội: một biên khảo Sử học Quốc tế về Cuộc chiến tranh vì Hoà bình ở Việt Nam” của TS Nguyễn Thị Liên - Hằng, Pierre Asselin viết:
“Được ông Thọ hậu thuẫn, sử dụng các thủ đoạn lèo lái, lừa dối, và các sách lược, Lê Duẩn, một thành viên trung thành Nam tiến, đã loại bỏ thành công các đối thủ ý thức hệ trong Đảng, trong đó có ông Hồ. Ông Duẩn lập nên một cấu trúc điều hành cho phép ông độc chiếm được quyền lực chính trị, trở thành nhà độc tài và đưa Bắc Việt tiến đến chiến tranh với Mỹ”.
Và rồi Mặc Lâm RFA cũng viết: Những người “xét lại” Việt Nam bị đàn áp “chỉ chống lại ý tưởng chủ chiến của Mao Trạch Đông mà nhóm thân Tàu đang hết lòng cổ vũ. Những người bị kết án, bị bắt nằm trong kế hoạch của Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Nguyễn Chí Thanh và kế hoạch này đã mở đầu cho một cuộc chiến khác khiến 3 triệu người Việt Nam đã bỏ mình trong hai chục năm chiến tranh đẫm máu cho tới năm 1975 mới chấm dứt…”

 
Thì ra thế giới thấy rõ kim chỉ nam định đoạt đến tận số phận nổi nênh, chìm đắm, sáng tối, phúc hoạ của từng lãnh tụ Việt Cộng. Cụ Hồ gọi là kim chỉ nam quá giỏi!
(Về “kim chỉ nam”, một luật sư Bắc Kinh, Pu Zhiqiang nửa thế kỷ sau đã công khai đánh giá: Theo tôi, “Mao Trạch Đông không tốt hơn so với Hitler. Chúng ta chê Nhật từ chối xem xét lại lịch sử trong khi Đức đã công nhận nạn diệt chủng người Do Thái của Đức Quốc Xã” tuy nhiên, Trung Quốc cho đến nay vẫn không thừa nhận rằng Mao Trạch Đông đã đầu độc cả thế giới. Chắc chắn luật sư Pu có nghĩ đến cuộc chiến “chống Mỹ” của Việt Nam).

 
28-7-1967, bắt mẻ “xét lại” đầu tiên. Tháng 9, Giáp sang Hungary “dưỡng sức”. (Tôi nghe thông báo chính thức). Cụ Hồ đi Trung Quốc chữa bệnh. (Cũng nghe chính thức thông báo).
Trong khi đó ở Việt Nam đã có hơn nghìn chuyên gia quân sự Liên Xô chịu trách nhiệm vận hành cũng như bảo trì máy bay, tên lửa, trong đó có một nhóm chuyên nghiên cứu, đánh giá hiệu quả vũ khí của Liên Xô cũng như thu thập mẫu vũ khí của Mỹ, không kể khí tài, xăng dầu…
Quái gở thế đấy! Cái thằng được rước vào giúp Việt Cộng nâng cấp chiến tranh lên hiện đại hoá (Bắc Kinh chỉ giúp ở trình độ Thế chiến II thôi) lại đi cài tay sai để lật đổ Việt Cộng, rồi để chính “tay sai” bị bắt cùng lúc đó nhưng vẫn không hề nhạt một li chi viện! Rồi cả khi ký hiệp ước tương trợ Việt-Xô, “bọn tay sai Liên Xô” cũng chả được sơ múi tẹo nào.
Vụ án “tay sai Liên Xô” là một thế chấp nộp cho vui lòng Bắc Kinh. Tiền tuyến một lòng theo đại hậu phương ạ! Vu làm tay sai đã thành võ chuyên sâu của Đảng. Với lại đảng đâu mà dại lên án chúng tôi phản đối nội chiến, phản đối chiến tranh. Có mà bằng xúi dân theo chúng tôi chứ đừng đi B, đi C.

 
Chắc thấy chúng tôi phản chiến là xót cho cả máu Mỹ - chứ không nghĩ chúng tôi là tay sai của Liên Xô, kẻ thù số một của Mỹ, một buổi sáng tháng chín gì đó năm 1998, một tham tán văn hoá đại sứ quán Mỹ - tức chính quyền Mỹ - đã lần đầu tiên thanh thiên bạch nhật tại trung tâm Hà Nội bất ngờ đến bắt tay một chàng xét lại Việt Nam - chàng ấy là tôi: “Chúng tôi biết ông là thế nào nhưng không tiện gặp, chắc ông hiểu…”. Sau đó giới thiệu nhà báo Mỹ gặp phỏng vấn.
Không ít người không ưa Đảng nhưng lại tin lời buộc tội của Đảng, vẫn không thấy chúng tôi vì phản đối huynh đệ tương tàn mà bị đàn áp tàn bạo.
Cũng như có người chi li coi Nhân văn - Giai phẩm chỉ là đòi tự do không thôi chứ vẫn là chính chuyên cộng sản.
Khốn nạn, cộng sản mà đã đòi chia lời lẽ với Đảng hay đa nguyên thì tất có ngày hê đảng. Nhiều người không biết gốc tội chúng tôi là muốn… đối thoại với bà con trong Nam chứ không xin máu họ.
Cộng sản tồn tại nhờ chuyên chính bạo lực nhưng chúng tôi đòi giải vũ trang đảng, đòi đảng phải cụp bạo lực đi hay từ bỏ vai trò “bà đỡ của cách mạng” hay thôi con đường “chính quyền ra từ nòng súng”. Thực chất đòi dân chủ cho muôn người.
Không có những con khỉ nghịch tử mang gien biến hoá thì tất cả chúng ta nay chắc vẫn cứ là khỉ độc đấm ngực thình thình mà hú. 42
 
 
CỐT LÕI ĐÈN CÙ II
SƠN TRUNG
tuyển chọn

CHUƠNG I

Michel Ange đã nói: “Người ta vẽ bằng đầu, không bằng tay”. Câu hay đến nỗi tớ thuộc cả nguyên văn: Si dipinge col cervello e non con le mano.

 CHUƠNG II

SIHANOUK GHÉT VN

 Sihanouk đã nói với Mỹ: Chúng tôi không muốn có bất cứ một người Việt Nam nào ở Campuchia, chúng tôi rất vui nếu các ông giúp chúng tôi đẩy được Việt Cộng ra khỏi đất nước. Nên hồi B52 Mỹ ném bom căn cứ ta ở Campuchia, Sihanouk họp báo nói: Người và trâu bò chúng tôi yên lành thì tố cáo gì?

THAM NHŨNG
-Ronald Moreau viết trên Newsweek ngày 2-5- 2005: “Đe doạ lớn nhất hiện nay đối với tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam là tham nhũng”. Vì tham nhũng Việt Nam mất 2 tỉ đô la trong 10 tỉ đồ la đầu tư mỗi năm. Một nhà ngoại giao phương Tây nói: “Bất cứ ai hễ đã là một ai đó ở nước này thì đều tham nhũng”. Việt Nam bét hạng về minh bạch - cái gì cũng là bí mật phải giấu - cho nên thành thánh địa của tham nhũng.II,2


ĐỔI TIỀN
-Trở lại năm 1977, ở Thư viện tờ báo, hàng tuần tôi nghe Chỉnh phổ biến tình hình.


Lúc ấy đảng vừa đổi tiền, dân ngã ngửa ra là mình đã bị Nhà nước móc túi xơi không vô tội vạ món tư hữu còm.


-Theo Nguyễn Hữu Chỉnh, thủ đô nghèo nhất: Chỉ có ba nhà đổi tới 10.000 đồng. (Chú thích: đồng rưỡi một sủi cảo Hàng Giầy tức là nhà giàu nhất xoi được khoảng 6666 bát!) Trong 3 nhà Vương Khải, Thạch Sùng Hà Nội thì một đạp xế lô. Về số tiền đổi tuyệt đối, Hà Nội thua Hải Phòng, Nghệ An. Chỗ này dân giải thích: Hài Phòng giàu vì là trùm buôn lậu, Nghệ An quê Bác thì chúa thằn lằn buôn thuốc phiện, ma tuý. Hà Nội bét, chỉ có ba nhà đổi 10.000 đồng là vì nó sát Trung ương, được mật báo sớm nên đã tráo hết tiền ra thành hàng hoá, vàng bạc.II.2

-ĐÁNH TƯ SẢN
Tiếp sau đổi tiền đến Nghị quyết 08-NQ/TW về công tác của Hà Nội, mục đích là phải mau chóng lập lại trật tự xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực phân phối lưu thông, tiếp tục cải tạo và sắp xếp lại các thành phân kinh tể phi xã hội chủ nghĩa. Một cao trào “quản lý hành chính” - tên mật là Z30 - nổ ra rẫm trời Hà Nội ngày 3-5-1983 nhằm đánh sập bọn “giàu bất chính”, tịch thu nhà cửa tài sản của chúng, cắm chắc lại ngọn cờ xã hội chủ nghĩa đã chớm lung lay. Muốn biết bất chính hay không cứ xem có ba thứ ti vi, tủ lạnh, Honda hay không, có là “khám ngay nhà cho tao”. Nhà hai tầng mới xây cứ việc lấy.

Trong số “tư sản mới” bị tước trắng nhà có phở Thuốc Bắc, phở Hải Bằng, phở Cường (trong hai năm mà phở Cường tậu ngôi nhà 11.000 đồng) và một Vua Lốp. Khám nhà Thái Văn Như, phố Hàng Khoai tìm ra hơn hai chục nghìn đồng không đổi. Giấu trồng đồng Ngọc Lũ trong thùng mùn cưa, Nguyễn Đình Chúc buôn đồ cổ có 7 xe đạp phần lớn là Peugeot, 2 ti vi, 2 tủ lạnh. Hà Nội đã lục soát 225 hộ phần lớn là thương nghiệp. Có nhà những 3 máy dệt len, 3 máy khâu, 2 máy bơm mỡ (nguồn thu nhập lớn: bơm mỡ một xe hơi giá những 10 đồng). Nguyễn Thị Nhị, kế toán trưởng cửa hàng ăn uống Chợ Mơ tàng trữ 3 kg mì bột, 70 kg mì sợi, 2 va li vải, 1 bao bột nở, 20 kg đường, 6 xe đạp, 5 tivi và một sổ tiết kiệm 12.000 đồng. Báo vạch trần: “Đời sống tội lỗi của chúng (bọn nhà giàu) là có toa lét lát đá hoa, nuôi chó béc-giê, có Honda, tivi…”

Tổng kết cuộc đổi tiền cho hay nông dân quá ít tiền. 10% không có gì để đổi. Trong khi chủ nhiệm hợp tác xã ở Cổ Loa có 47.000 đồng. Thấm nhuần lời Bác dạy, dân đã tổng kết rất sớm: Xã viên làm việc bằng hai, Để cho chủ nhiệm mua đài, tậu xe. Xã viên làm việc bằng ba, Đế cho chủ nhiệm xây nhà, xây sân.

Về các đối tượng chính trị thì Nhà thờ lớn Hà Nội đổi 73.000 đồng và Nhà thờ Cửa Bắc, 84.000 đồng. Một mình Cha Mai đổi 43.000 đồng. Đại sứ quán của bành trướng Bắc Kinh đổi 110.000 đồng. Nó huỷ tiền là cái chắc! Để giữ bí mật ngân sách mua tay chân và quấy rối. Sứ quán Liên Xô không ra Ngân hàng Ngoại thương mà đổi hơn 140.000 đồng tại quầy như dân, ông anh theo tác phong Lê-ni-nít thâm nhập cuộc sống bình đẳng như thế đấy. (Tôi đùa hỏi Chỉnh: “Trước Nghị quyết 9 ông cũng ca ngợi như thế thì phải?”}

“Kiểm tra hành chính” nghe đâu do Trần Quốc Hương thiết kế. Đánh phá bọn giàu “bất chính” này là tín hiệu cảnh cáo Sài Gòn, nơi mà người ta “vừa đặt chân lên Tân Sơn Nhất đã ngửi thấy “sặc mùi Nam Tư” - tức là kinh tế thị trường. Theo Ung Văn Khiêm thì Thành uỷ Sài Gòn nhất định phải tẩy đi hai tay chân của Sáu Thọ là Trần Quốc Hương và Mai Chí Thọ. Ra Hà Nội, Mười Hương bèn trả miếng Sài Gòn.

Nhân kiểm tra hành chính, xã luận báo Nhân Dân ca ngợi Hà Nội là ngọn cờ chủ nghĩa xã hội. Lại có bài bóng gió Sài Gòn theo tư bản. Hà Hoa bảo tôi chị ở Hà Nội vào đó công tác đã bị Nguyễn Văn Linh, Bí thư Sài Gòn chất vấn báo Nhân Dân ám chỉ ai đi theo đường tư bản đây?

NGUYỄN KHĂC VIỆN
Nguyễn Khắc Viện cũng gửi lên Duẩn đề cương chống xu hướng tư bản ở miền Nam. Theo Viện, nó có năm nhân tố thúc đẩy là đế quốc bên ngoài chưa từ bỏ mộng trở lại, tư sản mại bản trong nước, cán bộ thoái hoá sa đoạ và phần tử lưu manh, V. V.

Chắc có đọc sớ triệt mầm tư bản của Viện dâng, Trần Đức Thảo một bữa lẳng lặng đưa tôi một tờ báo Pháp cũ: Anh xem cái này! Bài báo Viện viết năm 1942-43 ở Paris ca ngợi chủ nghĩa quốc xã của Hitler. Viện giúp nhiều sinh viên Việt Nam lúc ấy mất học bổng của Pháp - Pháp đầu hàng Hitler mà - sang học Đức quốc xã. Hitler có cấp học bổng cho họ không thì tôi không biết.

Tóm lại cả nước khốn khổ vì cuộc ra quân đánh phá mầm mống chủ nghĩa tư bản để củng cố trận địa xã hội chủ nghĩa đang có dấu hiệu lung lay.

TƯ BẢN VÀ CỘNG SẢN
Một tối đi bộ với Minh Việt, Lê Đạt, tôi nói: Chủ nghĩa tư bản mà con gái giai cấp công nhân 14 tuổi không phải đánh đĩ nuôi em và bố mẹ, tôi ủng hộ; còn chủ nghĩa xã hội mà con gái giai cấp cóng nhân vú vừa gai gạo đã đứng đường đón khách cán bộ bán thân đổi lấy tem phiếu thì tôi phản đối.

Phạm Phú Bằng vừa kế cho tôi chuyện anh đến thăm nhà một chị làm điếm. Người rất tử tế, - Bằng nói. Bằng đến, thấy ba đứa trẻ gầy còm chơi dưới đất, ở một góc phòng ông bố chồng già ốm nằm đó. Cô gọi chồng ra. Mất sức lao động vì bị tai nạn lao động, tiền trợ cấp nuôi không đù miệng mình tôi, anh chồng nói với Bằng, câ nhà này biết mẹ chúng nó công tác ngoài giờ như thế nào cả.
Ông bố già yếu ớt nói:
- Dạ, cháu nó nói đúng, tôi xin chứng nhận ạ…
Tôi ân hận đã không hỏi Bằng sáu con mắt trẻ thơ lúc ấy nom ra sao.II,2

-ĐẶNG TIỂU BÌNH ĐÁNH VIỆT NAM 1979
Vồ ai? Việt Nam đầu tiên. Đặng rất hận mà. Gặp phó tổng thống Mỹ Mondale cùng Richard Holbrooke, Đặng mách Mỹ cẩn thận với Việt Nam vì Việt Nam “bội bạc”, chúa thay thầy đối bạn. Đặng báo trước Tổng thống Jimmy Carter là sắp cho Việt Nam “bài học”. Carter đã can Trung Quốc đừng đánh Việt Nam, hay nhất là ép Việt Nam rút khỏi Campuchia chứ không xúi thêm vào để đục nước béo cò. Đặng chết, Holbrooke viết một hài về Đặng có nhắc đến chuyện này.
Khi Trung Quốc đánh sang sáu tỉnh biên giới, 1979, tôi ngờ ngợ có lẽ Bắc Kinh muốn qua đó thanh mình với Mỹ rằng Bắc Kinh không xui Hà Nội xé hiệp định Paris, vi phạm lời Mao cam kết ngừng can thiệp vào Đông Nam Á. Cho đến khi nghe Hoàng Tú nói thì tôi bắt đầu nhận ra vấn đề hơn.
Hoàng Tú kể với tôi rằng đang là đại sứ Việt Nam ở Cộng hoà Dân chủ Đức thì “giải phóng miền Nam” anh phải chiêu đãi mừng. Khi anh đến mời đại sứ Trung Quốc nâng cốc thì ông ta vờ không thấy, quay đi. Tú bèn đến mời đại sứ Bắc Triều Tiên, ông này trước khi quay đi còn gõ gót giầy đánh cốp như nhà binh vậy. Nghe nói đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội không dự chiêu đãi. Còn bắn tin các ông giải phóng nước người khác thì sao lại mừng nhỉ?

TRUNG QUỐC & MỸ

Hoàng Tú kể với tôi rằng đang là đại sứ Việt Nam ở Cộng hoà Dân chủ Đức thì “giải phóng miền Nam” anh phải chiêu đãi mừng. Khi anh đến mời đại sứ Trung Quốc nâng cốc thì ông ta vờ không thấy, quay đi. Tú bèn đến mời đại sứ Bắc Triều Tiên, ông này trước khi quay đi còn gõ gót giầy đánh cốp như nhà binh vậy. Nghe nói đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội không dự chiêu đãi. Còn bắn tin các ông giải phóng nước người khác thì sao lại mừng nhỉ?
Thảo nào báo Việt Nam vẽ Đặng là chú lùn đội mũ cao bồi, đeo súng lục ổ quay “nịnh hót”, “bự đỡ” Mỹ. Không thấy Bắc Kinh nhận ra sớm rằng muốn giàu có là phải dựa vào Mỹ. Mỹ là khoa học hiện đại. Mỹ là một kho khôn, kho tiền, kho tài. Lúc ấy ai - cả tôi - tin là Mỹ sẽ giúp cho Trung Quốc vọt lên nhanh đến thế?
Thảo nào báo Việt Nam vẽ Đặng là chú lùn đội mũ cao bồi, đeo súng lục ổ quay “nịnh hót”, “bự đỡ” Mỹ. Không thấy Bắc Kinh nhận ra sớm rằng muốn giàu có là phải dựa vào Mỹ. Mỹ là khoa học hiện đại. Mỹ là một kho khôn, kho tiền, kho tài. Lúc ấy ai - cả tôi - tin là Mỹ sẽ giúp cho Trung Quốc vọt lên nhanh đến thế?

CHƯƠNG III

MỸ BỒI THƯỜNG

 Mới hôm nào, cũng tại hội trường này, Hoàng Tùng nói hôm qua anh Duẩn báo tôi rồi đây Mỹ bồi thường ba bốn tỉ đô la hàng hoá thì không biết lấy kho nào ra mà chất cho xuể đây, tôi đã quân sư ngay: Mỗi cơ quan cắt đi một nửa quân số để làm cố mỗi việc là ngày đêm thay phiên nhau nằm hè coi hàng Mỹ bồi thường. Vỉa hè ở ta là địa điếm chiến lược. Tôi hỏi mọi người ở đây, Quang Trung đại thắng nhà Thanh mà vẫn phải làm tượng vàng cống nó, đúng không? Vậy thời nào nhận tượng vàng Mỹ cống như thời Lê Duẩn?
CẮT QUẦN LOE


Có việc cấm để râu ria thời gian ấy. Học tập nóng hổi Hồng vệ binh, thẳng tay trị râu ria, tóc dài, quần loe ngay từ 1967. Taliban ở Afganistan bắt quần áo và râu tóc phải lòe xòe nhưng Hông vệ binh và Thanh niên cờ đỏ Việt Nam lại bắt gọn cộc. Tuy vậy giống nhau: đều bằng đàn áp, cưỡng bách.
Tôn Thất Thành, con trai nhà giáo Tôn Thất Bình bị giết cùng với bố vợ là Phạm Quỳnh, có hôm họp cơ quan ngồi cạnh tôi đã nói: Râu tóc anh thế này người ta coi là khiêu khích đấy.
Lúc ấy, hai trí thức Việt kiều được trọng vọng mời về nước đều gặp vạ quần loe.
Tạ Thị Thuỷ, người phụ nữ Việt Nam hiếm hoi lọt vào đại học Bách Khoa Pháp nhân dịp đi Bắc Kinh dự hội nghị các nhà giáo đại học bách khoa rồi ngỏ ý tiện dịp xin về nước. Trí thức được Bắc Kinh mời thì đắt giá quá. Ta bèn nhận lời nhưng chỉ cho danh nghĩa là “bạn của cá nhân Tạ Quang Bửu” (may mà cùng họ). Thuỷ về. Một hôm đi bờ hồ, chị bị hai thanh niên cười nhăn nhở, xập xèo đánh bốn cánh kéo nói: “Cô em, giơ chân lên, cô em…” Thuỷ ngẩn ra thì bị nạt luôn: “Ngoan cố hả? Nào, giơ chân cho anh cắt hay là để mất quần?” Đang giằng co chợt hai thanh niên khác đến can. Hai anh cờ đỏ vũ trang bằng kéo liền xửng: “Chạm mát à? Em gái hả?” Hai thanh niên kia chìa ra một thẻ bìa đỏ. Cờ đỏ khiếp thẻ đỏ, cụp vòi luôn. Nghe nói về khách sạn Kim Liên, Thuỷ nhảy tưng một cái lên giường cười phá một trận. Một con bọ ngựa sắp xơi chị thì mọt con chim sâu đến. Con chim đã theo dõi chị từ hôm chị đặt chân lên mảnh đất tổ quốc thân yêu.
Người thứ hai là Nguyễn Thế Học, con trai út Thế Lữ, giáo viên toán ở Pháp. Để tỏ ra coi trọng trí thức Việt kiều, Nhà nước mời Học và Thảo, vợ anh, cũng giáo viên toán về nước. Nguyễn Đình Nghi cho hai vé xem kịch ở Nhà hát lớn. Học vừa leo lên mấy bậc tam cấp chìa vé ra thì liền bị đẩy lùi lại khá thô bạo: Thay quần! Học ngớ ra cho đến khi nhận câu mắng thứ hai: về nhà mặc quần khác mà vào hay là muốn cắt?
Cố nhiên tối ấy Học không vào Nhà hát lớn. Tôi đã bảo Nghi: Giá như phát cho mỗi Việt kiều ta mời về một huy hiệu “Miễn Cắt” có phải gọn hơn không?
Sau đó vợ chồng Học và vợ chồng Nghi cùng Thế Lữ đi Sài Gòn. Hôm họ trở lại Hà Nội, tôi đến ăn cơm gia đỉnh. Nghi bất bình kể một chuyện anh nói là “kinh khủng”. Lên máy bay, nhà Nghi bị tách ra làm hai: vợ chồng Học ngồi ở một cái bàn có bình hoa ni lông giáp buồng lái còn Thế Lữ và vợ chồng Nghi ngồi bên dưới cùng hành khách. Học đề nghị cho được xuống với bố và anh chị. Chiêu đãi viên không nghe. Đây là chính sách ưu đãi trí thức. Học kêu lên: Dạ, tôi chỉ là giáo viên toán trung học! Bố tôi, cụ Thế Lữ và anh chị tôi, đạo diễn với nghệ sĩ kịch mới là trí thức ạ! Cù cưa mãi, cuối cùng Học cứ đứng. Đến bước biểu tình đứng thì Cục Hàng không đành chịu để Thế Lữ và vợ chồng Nghi lên ngồi “ăn theo” trên ba cái ghế phụ tròn xoe, không lưng, không tay.
- Ghế phụ là đúng đấy! - Tôi nói.
Anh em Nghi ngạc nhiên nhìn tôi.
-”Phụ” là bố mà!
Một lần về nước sau này, Học bảo tôi: Người Mỹ nói có hai cái người Mỹ trọng nhất là sinh mạng và tự do thì người Việt Nam coi khinh nhất. Chết và tù là chuyện nhỏ, rẻ mạt. Ở New York, nơi chúng em ở có một băng sát thủ lợi hại nhất là của thiếu niên Việt Nam. Một người Pháp bạn nhà giáo với em hồi ở Bờ Biển Ngà sang chơi nghe tin băng sát thủ này có hỏi em phải chăng chiến tranh liên miên đã làm cho người Việt Nam vô cảm với mạng sống. Theo ông, nước trải qua chiến tranh hàng chục năm như Việt Nam nên có nghiên cứu sâu về hậu quả của chiến tranh ở mặt tâm lý, tâm thần, đặc biệt là ở những người trực tiếp chiến đấu và như vậy có lợi cho sức khỏe tâm thần của xã hội. Chiến tranh nào, kể cả chính nghĩa, cũng là một vết sẹo lớn. Nhắm mắt với vết sẹo thì nó có thể ngấm ngầm phát triển thành ung thư. Không phải chỉ lính Mỹ sau khi ở Việt Nam về mới tự sát. Nếu nghiên cứu chắc cũng có thể thấy là đã có những người Việt tự sát vì ân hận đã nổ súng bừa. Chỗ này ngoài phân tâm học còn cần văn học.
Thảo, tức Thảo Nguyên, vợ Học nói: Em thấy chiến tranh để lại sự gian giảo, dối trá. Đánh du kích thì phát triển cái ấy mà.
- Nhưng lại có ý cho rằng văn học cần vũ trang cho dân lòng căm thù và tinh thần bạo lực kiên cường nên văn nghệ mới viết đi đánh Mỹ là ngày hội lớn hay “Căm thù lại gọi căm thù, Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu”. Lạc quan tếu và thù hận sâu là hai con sóng lớn dìu chúng ta đi trên đại dương mà chúng ta cho nổi sóng.
Không sợ chiến tranh và không sợ Mỹ đã thành chuẩn đầu bảng của đạo đức cách mạng. Nhưng thay vào đó có cái sợ thiêng liêng được đảng ra sức bồi dưỡng, phát triển: Sợ đảng trừng trị.
Cần bàn sâu hơn về cái sợ mà đảng cộng sản đã hun đúc nên ở đảng viên, cán bộ, nhân dân. Sức mạnh của đảng dựa trên cái sợ phi nhân này.
Vì nó phủ đen ngòm lên cả lãnh tụ.II,3
*
 CHƯƠNG IV 

 câu thơ của W.B. Yeats: Tôi đang tìm bộ mặt tôi hằng có, Trước khi thế gian được tạo ra (I’m looking for the face I had, Before the world was made).

 Đảng tưởng cho dân leo tót lên chủ nghĩa xã hội mộng ảo bằng đôi cánh duy ý chí thì dân sướng ngất! Ai ngờ dân lại kháo nhau: Mới dân chủ cộng hoà đã chống mông gào khổ thì tống thêm anh vô tư hữu này nữa vào sẽ càng khốn nạn

NÓI TIẾNG ANH

 Một cụ bạn nói ta giỏi học cái ngoại hình và thú vị là khi đã học thì đều đem giáng cấp thiên hạ xuống nhờ cứ tác hoá tộ vung tán tàn. Con tôi, cụ kể, mướn một cô chờ đi lao động ở nước ngoài nói tiếng Anh thế này. Dao thành lai phờ, tên cháu thành mai lêm, rồi đon lô thành không biết. Tôi ra Hà Lội nghe phụ lữ lói mà đúng nà đỏ nừng mặt nên. Chủng (chúng) em, hẻn tổi (hẹn tối,) vế nhả (về nhá).
*

TIẾNG THẠCH THÂT
 Ông ơi, Thạch Thất hoá mất rồi. Nống thốn bao vây thanh thí thanh cống vế cơ bán rối đây, đang mưng lăm… tức là đảng mừng lắm vì đã bao vây và tiêu diệt thành thị.

 SÁNG CHẾ VC

Hồi khai cung ở chân chùa Tây Phương, tôi nói, ta phét lác sáng tạo ngay cả tên lửa, máy bay Liên Xô - vì cần đề cao Mao hơn Liên Xô và ta đã cải biến MiG. Đó là gắn thêm vào buồng lái một cái móc để treo điếu cầy. Khi phi công đang bắn mà thèm hút thì chỉ cần chem chép miệng như kiểu gọi chó là cái điếu liền tự động đến ấn ngay vào miệng phi công. Giỏi nữa là dù máy bay nhào lộn thế nào, cái điếu vẫn treo xuôi, nước điếu không chảy làm cho rông trận không chiến và làm sặc phi công đang cần đã cơn nghiền. Bí mật cải tiến này ta không cho Liên Xô biết. Có thể báo phần nào cho Trung Quốc thôi. Như kỹ thuật đặc công vậy. Không dạy Liên Xô nhưng bảo cho Trung Quốc tí chút. Tớ nghe phố biến ở báo Nhân Dân là tướng Văn Tiến Dũng chỉ thị (về dạy đặc công cho hai ông anh) như vậy.
Sáng chế điểu cầy bay lượn trong không của tôi đã vào biên bản khai cung.
*

CHƯƠNG V 


 TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM
 Nước anh em thân thiết nhất mà đem quân đánh! Mà đánh lớn: 300.000 quân. Khổ cho dân Việt! Lỡ đinh ninh được sống ấm êm trong cái nôi nhung đảng tạo ra là mối tình môi răng Việt - Trung cùng lời bảo lãnh trước non nước của Lê Duẩn: Từ nay không kẻ nào trên thế giới dám động đến lông chân chúng ta. Bài học Việt cộng tin tưởng Trung cộng đáng là tiêu biểu.II,5
*

 SAI LẦM CỦA LÊ DUẨN


Lúc bình chân như vại (tuyên bố từ nay không ai dám đụng đến chúng ta) lúc lại rối tung chân tóc, Lê Duẩn nhận định sẽ chiến tranh lớn với Trung Quốc nên đã quăng ra mấy đối pháp hố to.
Cái hố thứ nhất, làm việc mười giờ một ngày. (Tôi nói trong một cuộc họp ban Văn hoá: thế này là từ nay ta xúp Ngày Quốc tế Lao Động 1 tháng 5 rồi đây! Xúp cũng phải. Mỹ nó đặt ra thôi). Ăn kém, đêm thức chờ lấy nước đổ đầy thùng, chậu; ban ngày không nghỉ trưa, hầu hết đều mắc bệnh ngáp và đỏ mắt. Sửa sai thì Hoàng Tùng lại đổ lỗi cho các báo hiểu bậy câu mười giờ, “đồng chí Lê Duẩn nói thế là nhấn đến tinh thần thôi”.
Biẽt là một cách bài bây xí xoá, tôi lại nói trong cuộc họp ban văn hoá: nhấn tinh thần thì lấy “một người làm việc bằng hai” của Bác Hồ đã sẵn đấy có phải là hay hơn không?
Hố thứ hai: Chủ trương di đô vào Nghệ Tĩnh. Đào Phan đã dắt cháu đi chào bạn bè. Cứ lên xe đi, không phải vé, đây là để tránh kẻ thù mới mà, anh nói. Tôi bảo anh, chúc ông cháu anh lên đường yên lành nhưng tôi e anh đến Ngã ba Đuôi Cá là nằm lại chờ cả tuần rồi lại về C5 Kim Liên đấy. Xe nào mà chuyển hết được Hà Nội di đô? Đào Phan nói: Cái này vào chương trình đề phòng bành trướng của Bắc Kinh rồi. Anh Duẩn nhìn trước tới bước thứ ba là lập đô ở Tây Nguyên chiến lược, nóc nhà của Đông Nam Á. Tôi đùa anh, thế thành ông Bang Bạnh của Phong Hoá, Ngày nay thích leo lên trốc thiên hạ à? Ông nên nhờ ông Trương An thân cận ông Duẩn đề nghị để có thể triệt để chấp hành tư tưởng vận động chiến của Mao Chủ tịch thì lúc vào Tây Nguyên nên dựng thủ đô trên đường ray để dễ bề kéo đẩy di đô. Lúc thì dịch lên Xuân Hoà Phúc Yên để cho gần đại hậu phương, không lo sông Hồng cách bức, lúc lại tụt vào Nghệ với lại Tây Nguyên để cho xa đại tiền phương. Cái đô của nước mình khéo mà bị Cao Biền yểm cho vào cái mạch con lươn chỉ rình lủi.
Và cái hố cuối cùng - nếu không chủ trương thì Duẩn cũng phải chịu trách nhiệm chính: Đó là đuổi người Hoa…
Trung Quốc rút quân, tôi nghe truyền đạt ở ban văn hoá ý kiến Sáu Thọ (vừa ở biên giới về ông ra chùm thơ trong có bài Điểm tựa): “Katiusha một phút bắn 48 phát đầy cả ra mà không cho bắn, lạ thật! Phải tiêu diệt chúng chứ sao lại để cho chúng rút?”
Tôi chột dạ. Khi chiếm hết Campuchia, tôi được nghe truyền đạt là anh Sáu Thọ (chứ không phải Bộ Tổng tư lệnh của Võ Nguyên Giáp) đã khôn khéo chủ trương để dành một lõng an toàn cho cố vấn Trung Quốc chạy thoát. Vậy phải chăng câu phê phán này cốt để móc máy ai đây? Trong việc lớn thế này, chỉ Duẩn mới có quyền “tha” hay diệt địch.
Phe XHCN thì đại lục đục, nội bộ lãnh đạo của Đảng CSVN thì hầm hè rình bắt cẳng nhau!
VÕ NGUYEN GIÁP



Tháng 3-1979, tạp chí Cộng sản Hà Nội đăng một bài dài của Võ Nguyên Giáp. Tôi trích một đoạn: “Cuộc xâm lược quy mô lớn vào nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã làm cho tập đoàn phản động Trung Quốc lộ rõ nguyên hình. Chúng là bọn phản bội lớn nhất của thời đại, phản cách mạng, phản chủ nghĩa Mác-Lê nin. Chúng là một “bầy quạ đội lốt công”, đã vứt bỏ cái mặt nạ giả danh cách mạng. Cuộc chiến tranh xâm lược nước ta thực chất là một bộ phận của chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của chúng, của chiến lược toàn câu phản cách mạng của chúng, đồng thời là một bộ phận của chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa để quốc quốc tế”.
Nay mới vỡ lẽ tại sao Giáp bỏ phiếu trắng ở Hội nghị trung ương 9. Và Cụ Hồ không biểu quyết. Và tại sao Hồng vệ binh căng biểu ngữ đả đảo Vô Nguyên Giáp “phần tử xét lại tay sai Liên Xô phản bội Hồ Chí Minh” ở chính tại Thiên An Môn, trước thế giới, ngay trước mặt đoàn đại biểu của Lê Thanh Nghị

Cần nói thật là lúc ấy chúng tôi chưa thấy được âm mưu Mao nhờ người Việt đánh cho Mỹ cút nguỵ nhào là để Trung Quốc hùng bá ở tất cả vùng này.
*
 Họp ban văn hoá thảo luận Sách Trắng, tôi nói: “Tôi nghe nói ở Bộ công an, muốn đề bạt từ vụ phó trở lên đều phải tham khảo cố vấn Trung Quốc”. Kịp dừng lại không nói tiếp “Có nên xem lại ai đã được lên do cố vấn gật đầu”. II, 5.
*

 Mao đã lộ cho Kissinger biết Mao có thể chấp nhận được việc Sài Gòn yên lành sau hiệp định Paris 1973. Và theo một số nguồn đáng tin cậy thì Bắc Kinh đã gợi ý Dương Văn Minh bẳt tay với Bắc Kinh để ngăn Hà Nội xé hiệp định Paris. Minh từ chối. Nếu ông nhẹ “quốc gia”, nặng “quốc tế” như Hà Nội mà hợp tác với Bắc Kinh thì chưa biết sự đời sẽ ra sao! II,5

*
Lúc báo Nhân Dân ra xã luận “Không được dụng đến Việt Nam”, “đe doạ Việt Nam là đe doạ toàn thế giới”, dân ngồi hàng nước chè kẹo lạc ven đường bình luận khá to: Gớm chết, có cái rốn đã lúc lại thối mà còn cố đem banh ra khoe.
Chiến tranh Trung - Việt thế nào thế giới lại ngả về Trung Quốc. Trung Quốc đang trở thành một phản đồ cộng sản đáng được ủng hộ. Đi mạnh với phương Tây, dân chủ hoá trong nước đó.
Bắc Kinh quyết liệt lên án Việt Nam xâm lược Campuchia và đòi phải rút lập tức. Kim Nhật Thành chửi Việt Cộng ác nhất. Đại ý Hà Nội có tham vọng nhưng không đủ sức lại cộng thêm với sự “ấm ớ”, các lãnh đạo Việt Nam đã phá huỷ nền kinh tế, gây nguy hiểm cho quốc gia họ! Anh và Úc chính thức ngưng cung cấp tài chính tái thiết cho Việt Nam để phản đối cuộc chiến của Việt Nam tại Campuchia mà không nói gì đến Trung Quốc. Pháp cũng yêu cầu Việt Nam từ bỏ cuộc chiến tại Campuchia, việc khiến cho Trung Quốc đã “vì lo lắng mà phải phản ứng dữ”.
Khi đi với Việt Nam đánh Mỹ, Trung Quốc bị cả Đông Nam Á nhìn thành ác ôn thì nay, tài thật, đánh Việt Nam, Trung Quốc lại được thế giới đồng tình.
Nhưng tôi vẫn ngô nghê. Lúc này Mao-nhều sẽ phải diệt khẩu những người chống Mao chứ. Tôi thành hòn đá kỳ ngày ngày chà cọ vào cái mặt đang rát bỏng lên của họ. Họ chắc chắn nghĩ bọn chống Mao thừa dịp sẽ dễ thổi bùng lên ngọn lửa phê phán Đảng. Họ nhất định phải đề phòng. Tốt nhất là cho dân thấy cả thằng chống Mao, ông cũng phang.
Khi Sách Trắng ra mắt, số đông cán bộ tin rằng ta đã bừng con mắt dậy thấy mình đâm vào đúng giữa bụi gai. Nhiều người - có tôi ở trong - đã tưởng Duẩn, Thọ thật lòng chống Mao.
Tôi đến Đặng Kim Giang được anh chị cho biết hai trung tá đi com-măng-ca tới thăm, nói xin phép cho được đo đạc đất ở để sẽ xây nhà cho Đặng Kim Giang theo lệnh đại tướng Văn Tiến Dũng. Giang xưa đã giúp Dũng vượt ngục ở Bắc Ninh và thoát án tử hình. Lê Trọng Nghĩa thì được Văn Tiến Dũng đưa vào nằm chữa lao tái phát ở bệnh viện 354.
Việc xây nhà cho Đặng Kim Giang rồi xúp. Anh ở lại túp nhà lụp xụp nó dẫn tới cái chết của anh. Lê Trọng Nghĩa vào bệnh viện 354 sáng thỉ chiều an ninh đến vặn ban giám đốc bệnh viện ai cho Nghĩa vào. Nghĩa phải chuyển xuống một cái buồng chật hẹp, hẻo lánh như một gian kho để chổi.
Vậy là Văn Tiến Dũng và Chu Huy Mân cũng bé cái lầm. Tưởng đảng đánh Mao thật. Bộ chính trị đấy nhưng nhiều vị cũng chỉ biết ngang quần chúng!
Và tôi lọt vào tầm bắn thẳng! Phải nhổ tên xét lại còn làm bù nhìn trong bộ máy này đi cho thiên hạ chớ có ho he. Này xem, đến nay Đảng mới nện thằng chống Mao đấy nhá!
Trước khi dừng lại ở tấn thảm kịch Việt Nam bị đại hậu phương dạy bằng lửa đạn, tôi thấy nên nhắc đến ý kiến của Lý Quang Diệu. Trong khi một số báo chí phương tây nói Trung Quốc đã thất bại trong bài học tặng cho Việt Nam thì Lý Quang Diệu nói: Trong việc này, Đặng đã làm thay đổi lịch sử của Đông Nam Á.
Theo chương “Mó Đít Cọp - Chiến tranh Việt Nam lần thứ ba” của Kissinger thì nỗi ám ảnh trầm kha của Bắc Kinh là bị bao vây, kể cả Liên Xô và Việt Nam cho nên Mao đã lộ cho Kissinger biết Mao có thể chấp nhận được việc Sài Gòn yên lành sau hiệp định Paris 1973. Và theo một số nguồn đáng tin cậy thì Bắc Kinh đã gợi ý Dương Văn Minh bẳt tay với Bắc Kinh để ngăn Hà Nội xé hiệp định Paris. Minh từ chối. Nếu ông nhẹ “quốc gia”, nặng “quốc tế” như Hà Nội mà hợp tác với Bắc Kinh thì chưa biết sự đời sẽ ra sao!

 CHƯƠNG VI

ĐUỔI NGƯỜI HOA


Chủ trương xua đi 150.000 người Hoa trong số 160.000 ở Quảng Ninh nhưng anh Nguyễn Đức Tâm rất hăng hái nên đuổi gần hết. Anh biết không, súng ống đến tận nhà xua. Nhiều đảng viên người Hoa viết huyết thư để lại rồi tự sát. Công anh Tâm đuổi người Hoa này rất to. Sài Gòn có 600.000 người Hoa, chủ trương đuổi 500.000 thế nhưng anh Vô Văn Kiệt không đuổi, cho cán bộ đến các nhà giải đáp kỹ, còn ai thích đi thì giúp cho nên chỉ có vài chục nghìn người Hoa đi thôi
*

Làm lãnh đạo sướng nhất là ăn bẩn ỉa đùn mà vẫn cứ thơm cứ sạch và dân trí thì cứ ca ngợi
À, anh Ninh, người Hoa bị đuổi có đông không?
- Tôi không có con số cụ thể nhưng cũng phải đến hai trăm nghìn. Không kể số đông đã đi Mỹ hay Canada.
 *
 Nghe đâu cuối những năm 90, có tin đồn Trung Quốc đã yêu cầu ta đưa hai trăm nghìn người Hoa về nước, bồi hoàn cho họ đầy đủ tư liệu sản xuất và sinh hoạt. Trong công cuộc đuổi người Hoa, bao nhiêu người ăn nên làm ra nhờ tích cực vượt chỉ tiêu. Nguyễn Đức Tâm thôi bí thư tỉnh lên Bộ chính trị, Trưởng ban tổ chức Trung ương. Kéo theo bộ sậu Phạm Thế Duyệt, Vũ Mão. Có những chuyện độc ác đếu giả như lấy vàng bạc của người ta xong lại cho tàu đuối theo xả súng giết chết hết hay đục thuyền cho đắm. Chính con rể tôi nói đon vị anh đã đi vớt thuyền nhân bị đắm tàu ở ngay tại bên kia cầu Sài Gòn, thường chờ cho qua phao zê-rô mới rút nút, vâng, đục thuyền ra cắm nút vào rồi đến lúc sẽ rút nút ra, nhưng lần ấy đem rút sớm quá, xác người nằm san sát nhau trên sông như củi rều vậy. “Có lấy vàng chứ bố. Lấy mỗi người năm cây nhưng vẫn cứ đục tàu. Dân kêu dữ mới đụng đến một trưởng ty công an trong Nam”.
*
Bà kể khi ở Hồng Kông, đến khổ với bà con người Nùng ta. Vào các ngăn toa-lét tập thể có vách ni lông che, bà con ta cắt luôn vách ra làm cái chùi khi vệ sinh. Người ta lắp các que chất dẻo vào thay thì bà con ta bẻ que ra quệt. Cứ đứa xây đứa phá như thế suốt. (Tôi ngạc nhiên hỏi Hà, sao họ cứ chịu ta dai như vậy? Hà nói, họ lo không làm tròn trách nhiệm cứu giúp dân tị nạn và họ cũng thật lòng không nỡ để cho “nạn nhân của Việt cộng” đã dạt vào nước họ lại bị khổ nữa). Hà cho biết ở trại tị nạn có đủ sòng bạc, gái điếm, lưu manh. Sức sống của xã hội ta mãnh liệt lắm, sáng tạo lắm chú ơi.
Nhờ Nguyễn Đức Tâm hăng đuổi, Hồng Nghiêu Xuyên, em trai út Linh ở Hòn Gai, sang Mỹ. Nửa năm sau đã không vận đơn kèm một thùng quà gửi về. Thư viết “Em thật lòng cảm ơn Đảng và Chính phủ đã đuổi nên chúng em đến được thiên đàng trái đất”. Con trai cả chú em này nay ba bằng kỹ sư, thạc sĩ và tiến sĩ vật lý, hiện làm điện tử chất dẻo, plastic electronics, nghiên cứu cách làm cho thuốc đi trực tiếp đến tế bào bệnh của mỗi bệnh nhân. Đứa em gái khi ra đi mới mười tám tháng nay dạy cao trung. Cháu lớn đã đưa tôi qua Hollywood, Beverly Hills đến Caltec, UCLA, những đại thánh đường khoa học, nơi cháu từng học và thí nghiệm.
Tôi nói bố cháu mà ở lại lái xe cho ty thương nghiệp Hòn Gai thì giỏi lắm cháu cùng đến cửu vạn cõng bia Vạn Lực hay vần dưa hấu, khiêng bao tải rùa rùa, nhím, kì đà…
 CHƯƠNG VII
*
MỸ
Mỹ không phải tốt đẹp hết cả nhưng nó là đất hứa cho đám người mạt hạng đến đó lập nghiệp rồi mở mặt với đời.II,7


***
TRUNG CỘNG-VIỆT CỘNG
Chứng kiến cả tháng ròng rã bắn phá, chém giết, cướp bóc cho tới khi Đặng tuyên bố trước toàn thế giới “đã đánh thắng bọn Cuba phươmg đông!” (lúc ấy Cuba đang xâm lăng Angola). Chuẩn bị rút, tất cả binh lính được phát súng có kính ngắm và mìn để đi tiêu diệt sạch sẽ tất cả những gì trông thấy động đậy, bất kể người hay giống vật. Cây cối, tường nhà, cột điện, cái nào cao 30cm là nổ mìn cho cụt.II, 7
 *
CHƯƠNG IX


*
BẮT HƯU NON

Rồi điện báo bố tôi mất. Tôi chắc cơ quan sẽ cho phép. Nhưng Hồ Dưỡng lại bảo phải thỉnh thị, rồi nói:

- Anh ký vào bản quyết định về hưu non thì cơ quan mới cho anh vào.II.9


*
DÂN YÊU MỸ

Một sáng tới Vấn. Qua nhà thờ Kỳ Đồng gặp một bà cụ đã loà dò dẫm bên chân tượng Đức Mẹ, tay giơ lên xoa xoa vuốt vuốt, miệng khẽ lầm rầm: Lạy Đức Mẹ hằng cứu giúp, xin Mẹ nâng dắt cho con sớm đến thiên đường U Ét Xì A (USA - BT.II, 9
*

Đà đảo Thiệu - Kỳ mua gì cũng có.

Hoan hô Hồ Chí Minh mua cái đinh ranh con cũng xếp hàng.


Vè này bao quát hơn:


Ở với HChí Minh,

Cây đinh phải đăng ký,

Trái bí cũng sắp hàng,

Khoai lang cân tem phiếu,

Thuốc điếu phải mua bông,

Lấy chồng thì cai đẻ,

Bán lẻ chạy công an,

Lang thang đi cải tạo,

Hết gạo ăn bo bo,

Học trò không có tập,

Độc Lập với Tự Do,

ô kìa ra là thế ấy.


Nhưng khi bắt đầu có hòm quà không vận gửi về (bà con đùa: Hòm không mà làm cho sướng thế chứ!) lại có hai câu này: .


Ba năm đi Nga không bằng một năm đi Đức

Một năm đi Đức không bằng một lúc xẹt Sài Gòn


Chỉ còn là bãi rác đế quốc thôi mà phồn vinh hơn Đông Đức, mặt tiền trưng mẽ ta đây kém ai của toàn phe cộng sản!


Và một câu tôi coi như tống kết đến tột đỉnh đau thương:


Dôi dép râu dẫm nát tâm hồn trẻ

Nón tai bèo che khuất cả tương lai


Và từ đó đời ta đi vào thời “đồ đảng”…

Cụ Hồ hay được nhắc đến nhất:

Hôm qua em mơ thấy Bác Hồ,
Chân Bác dài Bác đạp xích lô,
Em thấy Bác em kêu xe khác,
Mắt trợn trừng Bác mắng đồ ngu…II,9


*



CÔNG NHÂN

Công nhân xây dựng thí cho mỗi nhà ba bãi cứt vào đúng ngay bể nước dùng. Thấm thìa chữ griffe của Pháp - là móng vuốt mà cũng là chữ ký. Cũng thấm thêm luận điếm nói công nhân thường phá máy hay sản phẩm khi chưa có học thuyết Mác chỉ đạo. Những bãi cứt này chứng tỏ Đảng chưa đưa được chủ nghĩa vào đầu công nhân hay công nhân đói nên chối từ chủ nghĩa. Tôi nói thế thì Trần Châu bảo: Ấy, vì đã mang chủ nghĩa vào rồi công nhân mới phá khỏe hơn bao giờ hết đấy.


Thuỵ Điển quay hẳn một bộ phím hơn chục tập ghi lại nhửng bãi cứt ỉa rất phóng khoáng, phong phú ở Bệnh viện nhi đồ sộ Thuỵ Điển giúp ta tiền để rồi nhận lấy cái thành quả hữu nghị công nhân ta trao cho với cái griffe lưu niệm độc đáo. Ta xin mua hết bộ phim nhưng họ từ chối. Lịch sự biếu Nhà nước một tập làm kỷ niệm.


Chính Yên lên công trường Cuba làm khách sạn Thắng Lợi, Hồ Tây. Kỹ sư Cuba phàn nàn với anh: “Công nhân các ông là các chuyên gia ăn cắp. Vừa lắp vòi mở nước ở buồng tắm xong, quay lại đã mất! Có người khuyên nên còng số tám tay chúng tôi với công nhân lại thì mới yên.


Chính Yên hỏi lại:


- Xin lỗi, đồng chí có là đảng viên không?


- Có!…


- À, thế thì công nhân ấy không phải của đồng chí và của tôi đâu. Chúng nó là tàn dư của chủ nghĩa tư bản ạ.

Tôi đùa: Giá Marx viết khi công nhân chưa giác ngộ chủ nghĩa cộng sản thì thường hay làm xong cái gì lại ỉa cho một bãi xú-ca-lia (souscrire: ký duyệt - BT) vào đó… Viết thế thấm sâu hơn.II,9

*




CHƯƠNG XII
*
VIỆT CỘNG

Hữu Mười Phương Nguyên Liệu Kiệt

Cụ Hồ ra đi để lại Ba Đồng Chinh Bằng Tôn


Tầng trên của lâu đài ngôn ngữ này gồm tên sáu vị phó thủ tướng: Tố Hữu, Đỗ Mười, Trần Phương, Đồng Sĩ Nguyên, Vũ Đình Liệu và Võ Văn Kiệt. Có mười phương (trời) mà nguyên liệu kiệt (hết). Thế mà trong sáu vị bị yếm bùa này rồi vẫn nhấc lên được một Tổng bí thư và một thủ tướng. Nguyễn Văn Linh đã từng ca cẩm với Ung Văn Khiêm nay Đảng tìm nhân sự kế thừa mà như thắp đuốc đi vồ ếch.


Tầng trệt dành cho Ba Duẩn, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Tôn Đức Thắng.


Dân gọi là Nhà nước Ba Đồng Chinh.

Rồi mong Bao giờ hồ cạn đồng khô…II.12

ương ông cho cán bộ, công nhân chỉ cần để ăn 10 ngày. Kỳ dư sống cao quý với nhau bằng các thứ mánh mung đê tiện.II,12
*

một số Le Monde tuyệt vời. Hai trang dày đăng bốn năm chuyện dưới đầu đề chung Những chuyện không thật ở Việt Nam. Tác giả: Van Dulik. Tiếu lâm chính trị Việt Nam.


Tôi kể ra ở đây hai mẩu.


Buồn đất nước kém cỏi, Bác Hồ bèn bỏ lăng ra đi tìm đường cứu nước lần thứ hai. Vào Nhà Rồng. Xuống một cái tàu. Thuỷ thủ đuổi: đi đi lão già. Nói: Tôi muốn xuất ngoại, xưa tôi đã đi, miễn là có ý chí và hai bàn tay lao động. - Thôi ông già, bây giờ phải tiền đâu trong túi thòi ra! Bác lại lọ mọ về lăng. Leo lên bóc chữ “Không có gì quý hơn độc lập tự do” mang đi để “đầu tiên”. Tới Quận 5, mời Ba Tàu mua. Ba Tàu thử xong mắng: Vàng dỏm cái lão này… Bác lại về lăng. Đánh thức Bộ chính trị dậy nói các chú bảo mấy chữ này là vàng mà chả có chữ nào xài được! Nói dối cả với dân, với Bác.


Chuyện nữa về chuyến tuần thú bằng máy bay trực thăng của Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp. Trước cảnh hoang tàn của đất nước nhìn từ trên cao, Lê Duẩn động lòng trắc ấn nói: Tôi có 100 đồng đây, tôi xung phong ném xuống, ai nhặt được thì ít ra cũng có một người biết thế nào là hạnh phúc. Đồng bèn nói: Xịn đổi ra tôi thì được những 100 nhà hạnh phúc cơ. Trường Chinh lại nói: Thế thì đổi ra tôi. Những 1000 nhà hạnh phúc đấy. Đang mải tranh luận cách nào hạnh phúc cho dân hơn cả thì đoàn phi hành bảo nhau: Ném cả bốn xuống thì toàn dân hạnh phúc!


Tờ báo bị tịch thu ngay lập tức. Quá xá tà thư. Tôi kịp đọc ở Ban quốc tế báo Nhân Dân. Đúng là ngưu tầm ngưu thật. Bao nhiêu người đọc mà như không, riêng tôi xúc động. Và mừng. Thê giới đã nhòm đến cái đáy huyệt tối om này.


Vài năm sau, tác giả Van Dulik đến Sài Gòn đã gặp tôi mấy lần. Và không ngờ ba chục năm tôi gặp lại tác giả ở Sài Gòn.II,12.

*


CHƯƠNG XIII

Tháng 10-1967, Đặng Kim Giang bị bắt ở Lim. Một trung đội lính súng ống tua tủa nhảy cả từ sau nhà vào trói nghiến rồi lôi đi ông tướng hậu cần từng lo cơm nước, súng đạn, thuốc men… cho mấy chục vạn quân lính và dân cồng ở Điện Biên Phủ. Tù ra, về lại Lim. Rồi chuyển tất cả nhà ra sống trong một túp nhà con ở góc sau chùa Liên Phái. Rồi nhồi máu cơ tim. Vào điều trị ở khoa lão bệnh viện Bạch Mai bằng cổng hậu nên nằm ở một gian dùng làm phòng kho.
Tôi đến. Gian phòng quá rộng, đầy những chồng giường sắt lêu nghêu toàn khung với cọc và lò xo sắt, không đệm và mình anh nằm lọt vào đó, mặt võ vàng, ngơ ngác, vẻ mặt thì nom là một nhân vật của Samuel Beckett (nhà văn Ái Nhĩ Lan - BT) - rách nát, cùng đáy, tồi tàn - nhưng cái thế nằm, cái không khí đại hí trường lại biến anh thành một nhân vật kịch cổ Hy Lạp đang nằm chờ dàn đại hợp xướng đến diễn màn hiển sinh kết thúc.
Năm 1981, anh bị bắt lần thứ hai. Chẳng khai cung được nữa. Ì ra, mệt, ốm. Giam vài tháng thì thả. Và bệnh. Đau thắt ngực. Kiến Giang và tôi đến bệnh viện hỏi xin cho anh nằm lại. Người ta nói trên lệnh là không cho anh vào điều trị. Dứt khoát như thế. Thế chữa ở đâu? Chúng tôi khẽ hỏi. À, bệnh viện chúng tôi không có phận sự trả lời. Nghe câu này, tôi lạnh toát người. Nghĩ ngay có lẽ Đảng đã đặt lời thề mới cho y bác sĩ đất nước này khi tốt nghiệp mà tôi không biết: Ngành y không phận sự cứu chữa bọn “phản động!” Có thể lắm! Một chủ nghĩa ra đời đã xác định ngay kẻ thù phải tiêu diệt và chôn vùi thì không thể nhân đạo chung chung.
Một trận mưa quá to. Nhà đột như ở ngoài trời. Giang ngồi thu lu giữa giường chịu trận, mảnh ni lông căng trên đầu che sao cho đủ. Anh ướt hết và thế là đùng đùng lên cơn sốt. Ngày nào Giang lo cho lính Điện Biên từng hạt gạo, manh áo, đôi giầy, mảnh vải che mưa… Cảm cái ơn Giang đã chuẩn bị xe bò - “sợ nó liệt không đi được” - đánh tháo cho mình vượt ngục thoát án tử hình ở Bắc Ninh, Văn Tiến Dũng nhân dịp “chống Mao” đã cử hai trung tá đến đo đạc xây nhà cho Giang. Nhung rồi Sáu Thọ không nghe nên Dũng đành mang tiếng nói mép.
Giang bảo tôi: Đám Mao nội địa này chống Mao bằng mép nhưng đánh chúng ta thì tới tận cái mạng.
Lê Quang Đạo rất mến Giang. Trên rừng, làm Trưởng ban tuyên truyền trung ương, Đạo hay kể chuyện hai người thời bí mật cùng đi công tác thì Đạo chuyên bị Giang cho mắc xiếc. Đến hàng quán vừa ngồi, Giang đã nhanh nhảu gọi cho “bố con tôi” hai bát nước. “Dạ, tôi dắt thằng cháu đi thi, mặt mũi nom sáng láng thế này nhưng dốt lắm chả biết có đỗ được không?” Trong khi đó, Đạo ngầm nhè mu bàn chân Giang mà giáng cho một gót đau rung đến tận óc. Bé người hơn, trẻ hơn, Đạo không thể tranh gì với Giang được ở chỗ đông.
Thì nay đều lờ đi số phận tối mù của nguời đồng chí thân thiết cũ. Thảo nào người ta nổ ra được Cách mạng Văn hoá. Không có tình nghĩa gì hết.II.13


UNGVAN KHIEM
Khiêm và tôi đã chuyện hàng buổi. Anh bật mí những chuyện có thể gọi là tày đình. Theo anh, nạn nhân đầu tiên, numéro un, của vụ xét lại ở ta là Cụ Hồ. Kìa, Cụ không biểu quyết thì ngay sau Nghị quyết 9 Bộ chính trị thông báo từ nay vì sức khoẻ, Bác không sinh hoạt Bộ chính trị nữa, biết hông? Hay chuyện có lần ông Cụ gặp chuyện rắc rối ở khách sạn bên Nam Tư, bộ trưởng ngoại giao là anh phải ở lại thêm nửa tháng để giải quyết cho im ắng rồi sau về nước một mình. Hay chuyện Cụ đưa Khiêm bản Tuyên bố chung với Novotny chủ tịch Tiệp do Khiêm thảo mà chính tay Cụ đã viết thêm bằng mực đỏ vào đó những câu mang tinh thần hoà bình của Tuyên bố của hội nghị 82 đảng, những câu rồi bị lên án và phế bỏ.
- Nghĩa là Cụ không tán thành theo Mao phát động chiến tranh, tôi hỏi. Hay là Cụ ném hoả mù giấu ý đồ đánh Mỹ? Nếu ném hoả mù thì sao Duẩn lại chơi Cụ? Nếu ném hoả mù thì sao ở Hội nghị Trung ương lần 9 Cụ lại không biểu quyết?
Trên chóp bu đảng ông chẳng bà chuộc ầm ầm mà dân mù tịt! Lãnh đạo thế này thì sướng thật, tôi nghĩ thầm.
Năm ấy bầu bạn vào Sài Gòn đông. Lê Liêm, Đào Phan, Lê Trọng Nghĩa, Chu Đình Xương, Kiến Giang. Đào Phan và tôi cứ cách nhật lại thượng năm tầng lầu lên toạ đàm với Lê Liêm đang ở nhà Công, con trai, gần bùng binh Dân Chủ. Ung Văn Khiêm thường đi xuống các tỉnh xem tình hình. Thành uỷ Sài Gòn cho anh một chiếc xe La Dalat và cấp xăng dầu đầy đủ.
Vừa hết chiến tranh, Nguyễn Văn Linh đã kéo ngay Khiêm về Sài Gòn. “Chờ cái gì mà chờ, xong nhiệm vụ thì về chớ! Ô hay, lại còn hỏi về thế nào? Về với tôi, Linh nói. Ra máy bay ngay bây giờ. Kìa, khổ, lại còn nói chưa thu dọn đồ đạc. Vất lại hết. Không lấy cái gi ở ngoài này cả. Vào khắc có tất…”II,13

Lê Liêm ra đi, vĩnh biệt hết, vĩnh biệt hết. Để nhận lấy những cấp phát Đảng mới đặc cách đặt ra dành riêng cho anh.
- Một, không cho phép gọi (Lê Liêm) là đồng chí! Hai, không cho phép quàn ở Bộ Văn hoá! Ba, các quan chức đang công tác không được đi đưa.II,13


Tối hôm ấy tôi đến. Mất điện sau cơn mưa dữ. Cả khu chùa mù mịt, thê lương. Oàm oạp tiếng ễnh ương đòi trả lại chúng cái gì không rõ. Một ngọn đèn dầu với chị Mỹ lo lắng ngồi canh bên màn phủ kín. Oi nồng, ngột ngạt. Căn nhà rộng độ mười mét vuông tối tăm, ấm ướt. “Li bì suốt thôi chú ạ… Thỉnh thoảng mới tỉnh một tí. Chả đâu nhận chữa. Vào đâu được bây giờ? Người ta lắc hết…“ Chị Mỹ chợt ngừng: Kìa, hình như động đậy. Để tôi vào xem…
Lại chui ra ngay: vẫy gọi anh đấy, tôi bảo là anh đến.
Tôi lách vào cái hầm lò hầm hập. Anh vẫn đang yếu ớt vẫy. Nói khe khẽ “tớ mong quá”…
Thay đổi quá nhanh. Vàng vọt. Gầy guộc. Râu ria lởm chởm. Anh nằm bẹt dính xuống chiếu. “Tại cái nhà dột, nhà dột ghê quá mà mưa thì quá to… cứ ngồi che áo mưa lên đầu”, anh thanh minh cho sự đổ ngã của mình. Tôi nắm tay anh. Anh khẽ hỏi luôn, có tin gì không?
Ở mỗi câu hỏi bao giờ cũng thoáng chút hy vọng. Và tôi sẵn sàng tranh cãi với bất cứ ai chê cái hy vọng đó là viễn vông, ngây thơ, dớ dẩn. Vâng, chúng tôi lúc đó đều như thế. Chúng tôi đã nghe thấy sự rạn nứt báo trước phải có một thay đổi, dù năm chục năm nữa. Vô luân vô lý thế này thọ sao được? Đến Đại hội 6 (1986) nó đã ra mắt ở câu “Đổi mới là sống còn của cách mạng”. Vả chăng hãy sống cái cảnh Đặng Kim Giang? Cho nên tôi như có lỗi khi bảo anh: “Không có tin gì cả”. Nhưng lập tức, tôi lại nói: “Có, có tin. Từ nay nước ta hai bộ trưởng ngoại giao song hành, hai văn phòng, hai ghế, một chức năng, Nguyễn Cơ Thạch và Võ Đông Giang”.
Anh bóp tay tôi, hàng râu lởm chởm rung mạnh. Anh cười, mồm lặng lẽ ngoác ra rất to. “Chúng họ cấu xé nhau thế rồi cơ à?” Có lẽ đây là câu bình luận cuối cùng và ngắn gọn nhất trong đời Đặng Kim Giang.
Tôi về, chị Mỹ nói: “Những người theo anh đến đây đang lởn vởn ở sân chùa đấy. Khéo họ húc đổ xe”. Hai hôm sau đưa ma Đặng Kim Giang. “Xét lại” bảy tám người ngồi trên sân chùa. Minh Việt bảo tôi: Đấy, tay đeo kính đen ngồi ở quán nước trên đường vào kia, đấy, là Huy theo dõi bọn mình đấy… Kìa, còn bốn năm tay nữa, đấy…
Nghĩa trang Văn Điển. Lèo tèo hai chục người. Đào Phan điếu văn. Rất xúc động. Tôi mới hiểu vì sao anh đã mở lớp tuyên truyền xung phong đầu tiên ở Huế và lấy chị Phan Bội Hoàn, hoa khôi trong nữ sinh Huế thời ấy. Mấy tiếng thút thít. Như khóc trộm Đặng Kim Giang.
Đào Phan giậm chân kêu to: Sao mà khóc? Chết như Đặng Kim Giang là chết vẻ vang, chết vinh dự.
Hạ huyệt rồi, chị Mỹ đứng đầu huyệt khẽ nói:
- Thôi, chào vĩnh biệt người chồng tội nghiệp của tôi…
Năm 1995, tôi giúp chị đôi phần nhỏ mọn vào cái đơn chị gửi Trung ương đảng kể “nỗi chồng” “nỗi con” và “nỗi mình”. Đánh máy sao chụp cho chị. Thư này loan đi hầu như trên toàn thế giới ngay sau đó.
Ở “nỗi con”, có một chuyện vừa hay vừa lạ. Một sáng chị sang tôi. Hai người ra đứng chếch tam quan Chùa Hà. Con đường gồ ghề, lởm chởm đá. Khu đô thị Nghĩa Tân xám bấn và bãi đất rộng trước Chùa Hà là một bãi hoang tôi thường tắt qua để đến chị ở D1 (nay hai cao ốc lừng lững cả chục tầng ở đó).
Chị bảo tôi: Chú nghe và biết thế. Chờ sau ngày 28 tháng 8 xem thể nào đã… Chuyện thế này. Tự nhiên một bà người Mỹ gặp cháu Sơn. Nhận là người của đại học Harvard muốn tìm hiểu trình độ Sơn để có thể cấp học bổng sang đó học. Đánh giá tiếng Anh của Sơn là được, sang đó đằng nào cũng học thêm, hẹn sẽ trả lời. Ba tháng sau, đến lượt một ông nói là ở ban giám hiệu gặp và nói sẽ cho Sơn sang học. Gợi ý hẳn là cháu Sơn hiện đang làm việc ở Bộ nông nghiệp nhưng sang Mỹ thì nên học quản lý kinh tế tốt hơn. Người ta lao đến xin học ở chúng tôi nhưng anh thì chúng tôi lại đi tìm. Sơn hỏi chưa biết gì về tôi, sao các ông lại đối với tôi như thế. Đáp: Chúng tôi biết hết về anh… Biết cả thí dụ anh không giỏi toán nhưng thôi sang đó củng cố sau.
Sơn đi. Tốt nghiệp về nước, làm vụ trưởng. Một bữa liên hoan cơ quan, Sơn mời mẹ đến dự. Nghe có bà Mỹ, một người đến chúc mừng: Tôi xin phép được gọi bác là bà đại tướng. Bác trai xứng đáng được nhân dân tấn phong như thế. Sau đó cả đám tiệc tíu tít đến chào mừng, chúc tụng. Nói: Thư bác gửi Trung ương là tiếng nói tiêu biểu của người vợ, người mẹ và người phụ nữ thời đại mới. Chị Mỹ bảo tôi: Hôm ấy chính nghĩa ló mặt ra chú ạ.
Một lần tôi hỏi Sơn:
- Bên Mỹ biết chuyện bố cháu không, theo Sơn?
- Có vẻ biết.
Có một chuyện tôi ân hận Giang không được biết. Khi tôi nói hai bộ trưởng ngoại giao song trùng, Giang cười thú vị - hàng ria bạc lỏm chởm cứ rung lên : “Chúng họ cấu xé nhau đến thế rồi cơ à?”
Anh biết cấu xé trước hết vì vấn đề Trung Quốc nhưng chưa ngờ nổi rằng với ông anh chí cốt này, Đảng đã có những đối sách kỳ cục: Gọi nó là thù rồi lại ôm lấy nó. Càng không thế biết chuyện Trần Quang Cơ từ chối bộ trưởng ngoại giao mà còn viết hồi ký tố giác Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Hồng Hà đã làm nhục quốc thể. Vậy là cái hy vọng của Đặng Kim Giang cũng không đến nỗi vớ vấn.II.13


Tháng 10-1967, Đặng Kim Giang bị bắt ở Lim. Một trung đội lính súng ống tua tủa nhảy cả từ sau nhà vào trói nghiến rồi lôi đi ông tướng hậu cần từng lo cơm nước, súng đạn, thuốc men… cho mấy chục vạn quân lính và dân cồng ở Điện Biên Phủ. Tù ra, về lại Lim. Rồi chuyển tất cả nhà ra sống trong một túp nhà con ở góc sau chùa Liên Phái. Rồi nhồi máu cơ tim. Vào điều trị ở khoa lão bệnh viện Bạch Mai bằng cổng hậu nên nằm ở một gian dùng làm phòng kho.
Tôi đến. Gian phòng quá rộng, đầy những chồng giường sắt lêu nghêu toàn khung với cọc và lò xo sắt, không đệm và mình anh nằm lọt vào đó, mặt võ vàng, ngơ ngác, vẻ mặt thì nom là một nhân vật của Samuel Beckett (nhà văn Ái Nhĩ Lan - BT) - rách nát, cùng đáy, tồi tàn - nhưng cái thế nằm, cái không khí đại hí trường lại biến anh thành một nhân vật kịch cổ Hy Lạp đang nằm chờ dàn đại hợp xướng đến diễn màn hiển sinh kết thúc.
Năm 1981, anh bị bắt lần thứ hai. Chẳng khai cung được nữa. Ì ra, mệt, ốm. Giam vài tháng thì thả. Và bệnh. Đau thắt ngực. Kiến Giang và tôi đến bệnh viện hỏi xin cho anh nằm lại. Người ta nói trên lệnh là không cho anh vào điều trị. Dứt khoát như thế. Thế chữa ở đâu? Chúng tôi khẽ hỏi. À, bệnh viện chúng tôi không có phận sự trả lời. Nghe câu này, tôi lạnh toát người. Nghĩ ngay có lẽ Đảng đã đặt lời thề mới cho y bác sĩ đất nước này khi tốt nghiệp mà tôi không biết: Ngành y không phận sự cứu chữa bọn “phản động!” Có thể lắm! Một chủ nghĩa ra đời đã xác định ngay kẻ thù phải tiêu diệt và chôn vùi thì không thể nhân đạo chung chung.
Một trận mưa quá to. Nhà đột như ở ngoài trời. Giang ngồi thu lu giữa giường chịu trận, mảnh ni lông căng trên đầu che sao cho đủ. Anh ướt hết và thế là đùng đùng lên cơn sốt. Ngày nào Giang lo cho lính Điện Biên từng hạt gạo, manh áo, đôi giầy, mảnh vải che mưa… Cảm cái ơn Giang đã chuẩn bị xe bò - “sợ nó liệt không đi được” - đánh tháo cho mình vượt ngục thoát án tử hình ở Bắc Ninh, Văn Tiến Dũng nhân dịp “chống Mao” đã cử hai trung tá đến đo đạc xây nhà cho Giang. Nhung rồi Sáu Thọ không nghe nên Dũng đành mang tiếng nói mép.
Giang bảo tôi: Đám Mao nội địa này chống Mao bằng mép nhưng đánh chúng ta thì tới tận cái mạng.
Lê Quang Đạo rất mến Giang. Trên rừng, làm Trưởng ban tuyên truyền trung ương, Đạo hay kể chuyện hai người thời bí mật cùng đi công tác thì Đạo chuyên bị Giang cho mắc xiếc. Đến hàng quán vừa ngồi, Giang đã nhanh nhảu gọi cho “bố con tôi” hai bát nước. “Dạ, tôi dắt thằng cháu đi thi, mặt mũi nom sáng láng thế này nhưng dốt lắm chả biết có đỗ được không?” Trong khi đó, Đạo ngầm nhè mu bàn chân Giang mà giáng cho một gót đau rung đến tận óc. Bé người hơn, trẻ hơn, Đạo không thể tranh gì với Giang được ở chỗ đông.
Thì nay đều lờ đi số phận tối mù của nguời đồng chí thân thiết cũ. Thảo nào người ta nổ ra được Cách mạng Văn hoá. Không có tình nghĩa gì hết.II.13


Tối hôm ấy tôi đến. Mất điện sau cơn mưa dữ. Cả khu chùa mù mịt, thê lương. Oàm oạp tiếng ễnh ương đòi trả lại chúng cái gì không rõ. Một ngọn đèn dầu với chị Mỹ lo lắng ngồi canh bên màn phủ kín. Oi nồng, ngột ngạt. Căn nhà rộng độ mười mét vuông tối tăm, ấm ướt. “Li bì suốt thôi chú ạ… Thỉnh thoảng mới tỉnh một tí. Chả đâu nhận chữa. Vào đâu được bây giờ? Người ta lắc hết…“ Chị Mỹ chợt ngừng: Kìa, hình như động đậy. Để tôi vào xem…
Lại chui ra ngay: vẫy gọi anh đấy, tôi bảo là anh đến.
Tôi lách vào cái hầm lò hầm hập. Anh vẫn đang yếu ớt vẫy. Nói khe khẽ “tớ mong quá”…
Thay đổi quá nhanh. Vàng vọt. Gầy guộc. Râu ria lởm chởm. Anh nằm bẹt dính xuống chiếu. “Tại cái nhà dột, nhà dột ghê quá mà mưa thì quá to… cứ ngồi che áo mưa lên đầu”, anh thanh minh cho sự đổ ngã của mình. Tôi nắm tay anh. Anh khẽ hỏi luôn, có tin gì không?
Ở mỗi câu hỏi bao giờ cũng thoáng chút hy vọng. Và tôi sẵn sàng tranh cãi với bất cứ ai chê cái hy vọng đó là viễn vông, ngây thơ, dớ dẩn. Vâng, chúng tôi lúc đó đều như thế. Chúng tôi đã nghe thấy sự rạn nứt báo trước phải có một thay đổi, dù năm chục năm nữa. Vô luân vô lý thế này thọ sao được? Đến Đại hội 6 (1986) nó đã ra mắt ở câu “Đổi mới là sống còn của cách mạng”. Vả chăng hãy sống cái cảnh Đặng Kim Giang? Cho nên tôi như có lỗi khi bảo anh: “Không có tin gì cả”. Nhưng lập tức, tôi lại nói: “Có, có tin. Từ nay nước ta hai bộ trưởng ngoại giao song hành, hai văn phòng, hai ghế, một chức năng, Nguyễn Cơ Thạch và Võ Đông Giang”.
Anh bóp tay tôi, hàng râu lởm chởm rung mạnh. Anh cười, mồm lặng lẽ ngoác ra rất to. “Chúng họ cấu xé nhau thế rồi cơ à?” Có lẽ đây là câu bình luận cuối cùng và ngắn gọn nhất trong đời Đặng Kim Giang.
Tôi về, chị Mỹ nói: “Những người theo anh đến đây đang lởn vởn ở sân chùa đấy. Khéo họ húc đổ xe”. Hai hôm sau đưa ma Đặng Kim Giang. “Xét lại” bảy tám người ngồi trên sân chùa. Minh Việt bảo tôi: Đấy, tay đeo kính đen ngồi ở quán nước trên đường vào kia, đấy, là Huy theo dõi bọn mình đấy… Kìa, còn bốn năm tay nữa, đấy…
Nghĩa trang Văn Điển. Lèo tèo hai chục người. Đào Phan điếu văn. Rất xúc động. Tôi mới hiểu vì sao anh đã mở lớp tuyên truyền xung phong đầu tiên ở Huế và lấy chị Phan Bội Hoàn, hoa khôi trong nữ sinh Huế thời ấy. Mấy tiếng thút thít. Như khóc trộm Đặng Kim Giang.
Đào Phan giậm chân kêu to: Sao mà khóc? Chết như Đặng Kim Giang là chết vẻ vang, chết vinh dự.
Hạ huyệt rồi, chị Mỹ đứng đầu huyệt khẽ nói:
- Thôi, chào vĩnh biệt người chồng tội nghiệp của tôi…
Năm 1995, tôi giúp chị đôi phần nhỏ mọn vào cái đơn chị gửi Trung ương đảng kể “nỗi chồng” “nỗi con” và “nỗi mình”. Đánh máy sao chụp cho chị. Thư này loan đi hầu như trên toàn thế giới ngay sau đó.
Ở “nỗi con”, có một chuyện vừa hay vừa lạ. Một sáng chị sang tôi. Hai người ra đứng chếch tam quan Chùa Hà. Con đường gồ ghề, lởm chởm đá. Khu đô thị Nghĩa Tân xám bấn và bãi đất rộng trước Chùa Hà là một bãi hoang tôi thường tắt qua để đến chị ở D1 (nay hai cao ốc lừng lững cả chục tầng ở đó).
Chị bảo tôi: Chú nghe và biết thế. Chờ sau ngày 28 tháng 8 xem thể nào đã… Chuyện thế này. Tự nhiên một bà người Mỹ gặp cháu Sơn. Nhận là người của đại học Harvard muốn tìm hiểu trình độ Sơn để có thể cấp học bổng sang đó học. Đánh giá tiếng Anh của Sơn là được, sang đó đằng nào cũng học thêm, hẹn sẽ trả lời. Ba tháng sau, đến lượt một ông nói là ở ban giám hiệu gặp và nói sẽ cho Sơn sang học. Gợi ý hẳn là cháu Sơn hiện đang làm việc ở Bộ nông nghiệp nhưng sang Mỹ thì nên học quản lý kinh tế tốt hơn. Người ta lao đến xin học ở chúng tôi nhưng anh thì chúng tôi lại đi tìm. Sơn hỏi chưa biết gì về tôi, sao các ông lại đối với tôi như thế. Đáp: Chúng tôi biết hết về anh… Biết cả thí dụ anh không giỏi toán nhưng thôi sang đó củng cố sau.
Sơn đi. Tốt nghiệp về nước, làm vụ trưởng. Một bữa liên hoan cơ quan, Sơn mời mẹ đến dự. Nghe có bà Mỹ, một người đến chúc mừng: Tôi xin phép được gọi bác là bà đại tướng. Bác trai xứng đáng được nhân dân tấn phong như thế. Sau đó cả đám tiệc tíu tít đến chào mừng, chúc tụng. Nói: Thư bác gửi Trung ương là tiếng nói tiêu biểu của người vợ, người mẹ và người phụ nữ thời đại mới. Chị Mỹ bảo tôi: Hôm ấy chính nghĩa ló mặt ra chú ạ.
Một lần tôi hỏi Sơn:
- Bên Mỹ biết chuyện bố cháu không, theo Sơn?
- Có vẻ biết.
Có một chuyện tôi ân hận Giang không được biết. Khi tôi nói hai bộ trưởng ngoại giao song trùng, Giang cười thú vị - hàng ria bạc lỏm chởm cứ rung lên : “Chúng họ cấu xé nhau đến thế rồi cơ à?”
Anh biết cấu xé trước hết vì vấn đề Trung Quốc nhưng chưa ngờ nổi rằng với ông anh chí cốt này, Đảng đã có những đối sách kỳ cục: Gọi nó là thù rồi lại ôm lấy nó. Càng không thế biết chuyện Trần Quang Cơ từ chối bộ trưởng ngoại giao mà còn viết hồi ký tố giác Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Hồng Hà đã làm nhục quốc thể. Vậy là cái hy vọng của Đặng Kim Giang cũng không đến nỗi vớ vấn.II.13

*



CHƯƠNG XIV


*
Trần Đĩnh đọc Nhân Dân Nhật báo Trung Quốc nói trang nhất đăng ảnh Đặng Tiểu Bình, Bành Chân, La Thuỵ Khanh bị trói giật cánh khỉ quì xuống, cổ đeo bảng Đặng Cẩu, Bành Cẩu với La Cẩu, đấu và làm nhục cả Tổng bí thư lẫn uỷ viên Bộ chính trị bí thư Bắc Kinh và bộ trưởng công an. Như thế sao lại nói là một với ta được[..].Đây là ba con vật người ta vừa săn được ở rừng về, đều như thất tinh lạc hết, ba bộ mặt vô hồn cố ngửng lên chắc là theo lệnh Hồng vệ binh, chỉ còn sáu cánh tay bị trói treo lên là như còn sinh khí…?II,14
*


Chuyện Ba Duẩn mù tịt việc Ba Khiêm bị đuổi khỏi đảng làm tôi nhớ lại chuyện những năm 1963 - 64 Duẩn hỏi Phạm Ngọc Thạch rau muống luộc với rau muống xào có khác gì nhau về dinh dưỡng hay không? Cái này loài kiến nó giỏi. Hễ thấy rau luộc là nó lờ và rau xào là nó bâu đến.
- Thì vờ ra vẻ đến rau muống tôi cũng chả được xài rồi lại vờ Ba Duấn tôi quan tâm đến dân lắm lắm. Vì thế tôi mới nói là vờ đóng vai ngoài cuộc phủi tay chớ! Cũng đứng ngoài luôn ở cả việc có đứa đặt đèn hiệu lệch cho máy bay ông Hồ đâm mù xuống Bạch Mai. Ở các nước mà Cha già dân tộc bị thế thì nó làm phải động trời lên. Mà ông Hồ cũng lạ! Bị thế mà không tâm sự với Duẩn và Thọ… Thôi, kể nốt chuyện mình, Duẩn còn ngó nghiêng ra vẻ tìm Khiêm nữa và chưa ai kịp nói gì thì thằng Tô Ký nó đứng ngay lên rao to: “Kìa ai đi mời anh Ba Khiêm đi chứ!” Đánh đùng một cái cho mình vào Đảng. Lạ thế nên bây giờ cấp dưới không biết xoay xở sao, đành đến xin mình sửa man lý lịch.
(Đến năm 2000, Nguyễn Trung Thành bảo tôi ngày ông Duẩn thình lình cho Khiêm “phục hồi đảng tịch”, ban tổ chức Đảng khốn đốn, phải đặt ra cho điều lệ một điều mới toe là “cho sinh hoạt đảng trở lại).II,15
 Đinh Đức Thiện (em ruột Lê Đức thọ - BT) hồi đầu kháng chiến đã lập trên Việt Bắc một trại con gái để cho cán bộ đến cấp bậc nào đó đến giải quyết sinh lý, kiểu nhà thổ của lính Nhật “xùng xục giô tô” ấy. Nhật nó không biết tiếng ta gọi món kia là gì thì nó tượng thanh bằng xùng xục, còn giô tô tiếng Nhật là tốt, cậu biết chứ? Phát tem phiếu hàng tháng, mỗi tháng mấy tem, mỗi tem một lần đại khái thế. Nghe đâu Trường Chinh nghe thấy liền bắt giải tán. Cậu bảo biên chế sở ấy vào ngạch gì được nhỉ? Văn công, thể công rồi thì món này thân công à?II,14



*
 Đinh Đức Thiện (em ruột Lê Đức thọ - BT) hồi đầu kháng chiến đã lập trên Việt Bắc một trại con gái để cho cán bộ đến cấp bậc nào đó đến giải quyết sinh lý, kiểu nhà thổ của lính Nhật “xùng xục giô tô” ấy. Nhật nó không biết tiếng ta gọi món kia là gì thì nó tượng thanh bằng xùng xục, còn giô tô tiếng Nhật là tốt, cậu biết chứ? Phát tem phiếu hàng tháng, mỗi tháng mấy tem, mỗi tem một lần đại khái thế. Nghe đâu Trường Chinh nghe thấy liền bắt giải tán. Cậu bảo biên chế sở ấy vào ngạch gì được nhỉ? Văn công, thể công rồi thì món này thân công à?II,14

*
Có lần anh bảo tôi năm 1946 cậu còn thiếu niên tiền phong thì chắc có ra ga Hàng cỏ đón Bác đi tàu thuỷ ở Pháp về Hải Phòng rồi lên Hà Nội bằng xe lửa. À, có đón hả? Xương cười nói tiếp: Thế thì cậu hoan hô với vẫy hão rồi. Hôm ấy ở xe lửa xuống, cụ lên dự cuộc đón tiếp công khai xong là có người dắt Cụ bịt râu đi tắt trong sân ga đến chỗ thằng Qua, thằng này sau là cục trưởng cục trại giam, chờ sẵn lái đưa Cụ đi. Sự phản động nó xơi mà. Còn Bác trên xe chính thức diễu phố là một cậu lâu ngày tớ quên tên nó mất rồi, thằng này giống ông Cụ kinh khủng, nó đeo râu giả làm ông Cụ nhòm ra vẫy đồng bào. Phản động phơ thì thằng này hứng. Đến Cải cách ruộng đất, tay hình nhân này bị đấu là địa chủ phản động gian ác, suýt ngỏm. Nó khóc: “Tôi từng đóng thay Bác Hồ để phản động có bắn thì tôi chết thay Bác thế nhưng phản động không bắn mà nay Đảng lại bắn tôi, ôi Bác Hồ ơi…” Nó được hạ xuống làm phú nông, thoát tử hình.
Một hôm anh kéo tôi vào quán cà phê quốc doanh ở cạnh rạp Tháng Tám. Mũ phớt, kính đen, áo gió, giầy da, cà-vạt là những lệ bộ quen thuộc trên người, nom anh thật sự rất “phong độ”, chữ để chỉ người nào đã có tuổi nhưng đẹp và sang.
Vừa ngôi xuống, anh đã đưa cho tôi một lá thư lấy từ trong túi trong của áo vét ra. “Xem đi,… tớ gửi cho phó toàn quyền đấy… “
Kính gửi anh Sáu Thọ,
Thưa anh, tôi Chu Đình Xương vừa nghe thông báo là những ai hoạt động thời bí mật muốn hưởng trợ cấp lão thành thì phải lấy được chứng nhận có chữ ký của hai người đã từng cùng hoạt động với mình. Tôi nhớ Tổng khởi nghĩa vừa xong, anh giao cho tôi phụ trách công an mà anh không hề bắt tôi tìm hai thằng nào chứng nhận. Thưa anh, tôi xin phép anh là được không phải đến đấm cửa, bấm chuông nhà thằng nào để lo cái việc lĩnh tiền…“
- Giỏi, tôi nói, trả lại thư. Ông ấy cáu thì sao?
- Không thiết. Lấy tiền là tớ đã trọc đầu thì còn sợi tóc nào để túm mà đánh nữa chứ? Những ngày mới cách mạng, tớ bảo vệ Cụ Hồ, có bắt phải có người chứng nhận đâu? Phú quý sinh lễ nghĩa giật lùi.
Để cho thấy anh từng “chơi ngang” với Sáu Thọ, hôm ấy anh kể thêm chuyện hồi anh ở Khu 5, Sáu Thọ có việc qua, gặp anh. Sáu Thọ bảo: “Tớ vẫn định giao việc khác cho cậu thế nhưng cậu cứ bị tai tiếng về quan hệ nam nữ”. Xương nghiêm mặt nói lại: “Thưa anh, đúng là khuyết điểm nhưng khổ nỗi, tôi phải cái tội giống anh là bảnh giai cho nên đàn bà con gái họ hay lăn vào, anh chả lạ gì. Tôi không đẹp giống anh thì tôi nghiêm lắm…” Thọ đấm tớ một cái: Thằng này xỏ lá.
Có lẽ do tính “chất chưởng”, cả với phó toàn quyền, cho nên trước khi về hưu anh chỉ làm Chánh văn phòng Bộ văn hoá. Nhưng hay rủ tôi và Bửu Tiến đến “phát huy tệ nạn văn hoá” là đánh tổ tôm với vợ chồng anh và Đức, cô con gái lai xinh đẹp của anh chị.II,14


*

Có lần anh bảo tôi năm 1946 cậu còn thiếu niên tiền phong thì chắc có ra ga Hàng cỏ đón Bác đi tàu thuỷ ở Pháp về Hải Phòng rồi lên Hà Nội bằng xe lửa. À, có đón hả? Xương cười nói tiếp: Thế thì cậu hoan hô với vẫy hão rồi. Hôm ấy ở xe lửa xuống, cụ lên dự cuộc đón tiếp công khai xong là có người dắt Cụ bịt râu đi tắt trong sân ga đến chỗ thằng Qua, thằng này sau là cục trưởng cục trại giam, chờ sẵn lái đưa Cụ đi. Sự phản động nó xơi mà. Còn Bác trên xe chính thức diễu phố là một cậu lâu ngày tớ quên tên nó mất rồi, thằng này giống ông Cụ kinh khủng, nó đeo râu giả làm ông Cụ nhòm ra vẫy đồng bào. Phản động phơ thì thằng này hứng. Đến Cải cách ruộng đất, tay hình nhân này bị đấu là địa chủ phản động gian ác, suýt ngỏm. Nó khóc: “Tôi từng đóng thay Bác Hồ để phản động có bắn thì tôi chết thay Bác thế nhưng phản động không bắn mà nay Đảng lại bắn tôi, ôi Bác Hồ ơi…” Nó được hạ xuống làm phú nông, thoát tử hình.
Một hôm anh kéo tôi vào quán cà phê quốc doanh ở cạnh rạp Tháng Tám. Mũ phớt, kính đen, áo gió, giầy da, cà-vạt là những lệ bộ quen thuộc trên người, nom anh thật sự rất “phong độ”, chữ để chỉ người nào đã có tuổi nhưng đẹp và sang.
Vừa ngôi xuống, anh đã đưa cho tôi một lá thư lấy từ trong túi trong của áo vét ra. “Xem đi,… tớ gửi cho phó toàn quyền đấy… “
Kính gửi anh Sáu Thọ,
Thưa anh, tôi Chu Đình Xương vừa nghe thông báo là những ai hoạt động thời bí mật muốn hưởng trợ cấp lão thành thì phải lấy được chứng nhận có chữ ký của hai người đã từng cùng hoạt động với mình. Tôi nhớ Tổng khởi nghĩa vừa xong, anh giao cho tôi phụ trách công an mà anh không hề bắt tôi tìm hai thằng nào chứng nhận. Thưa anh, tôi xin phép anh là được không phải đến đấm cửa, bấm chuông nhà thằng nào để lo cái việc lĩnh tiền…“
- Giỏi, tôi nói, trả lại thư. Ông ấy cáu thì sao?
- Không thiết. Lấy tiền là tớ đã trọc đầu thì còn sợi tóc nào để túm mà đánh nữa chứ? Những ngày mới cách mạng, tớ bảo vệ Cụ Hồ, có bắt phải có người chứng nhận đâu? Phú quý sinh lễ nghĩa giật lùi.
Để cho thấy anh từng “chơi ngang” với Sáu Thọ, hôm ấy anh kể thêm chuyện hồi anh ở Khu 5, Sáu Thọ có việc qua, gặp anh. Sáu Thọ bảo: “Tớ vẫn định giao việc khác cho cậu thế nhưng cậu cứ bị tai tiếng về quan hệ nam nữ”. Xương nghiêm mặt nói lại: “Thưa anh, đúng là khuyết điểm nhưng khổ nỗi, tôi phải cái tội giống anh là bảnh giai cho nên đàn bà con gái họ hay lăn vào, anh chả lạ gì. Tôi không đẹp giống anh thì tôi nghiêm lắm…” Thọ đấm tớ một cái: Thằng này xỏ lá.
Có lẽ do tính “chất chưởng”, cả với phó toàn quyền, cho nên trước khi về hưu anh chỉ làm Chánh văn phòng Bộ văn hoá. Nhưng hay rủ tôi và Bửu Tiến đến “phát huy tệ nạn văn hoá” là đánh tổ tôm với vợ chồng anh và Đức, cô con gái lai xinh đẹp của anh chị.II,14



CHƯƠNG XVII
*
Năm 1979, 17 triệu dân Đài Loan xuất khẩu 16 tỉ đô la Mỹ, trở thành nước xuất khẩu nhiều nhất thế giới, tính theo đâu người. Năm 1960 Nam Hàn - nước gửi “lính đánh thuê hung hãn” sang Việt Nam, xuất vẻn vẹn có 60 triệu đô la Mỹ nhưng đến 1981 đã lên 21 tỉ, vừa vặn đổ đồng mỗi năm tăng 1 tỉ. Và mười lăm năm bằng 150 năm phát triển của chủ nghĩa tư bản châu Âu. Thu nhập đầu người từ 50 đô la lên 1.500 một năm. Nhưng cũng như Đài Loan, từ 1960 đến 1990, thu nhập bình quân đầu người tăng sáu lần! Phải mỗi tội “làm chó săn” cho Mỹ như Đảng vẫn lột trần. Lúc ấy chưa thể hình dung rồi đảng lại bạ vào tên chó săn kiêm “lính đánh thuê” này, bạ dữ dội. Hàn Quốc và ta thế mà duyên nợ nặng. Nợ máu duyên tiền kiếp? Ở ta nhờ Đảng cái quái gì cũng hai mặt, hai mang. Với Đảng thì sự thật xã hội luôn là quả đấm tương vào chân lý cao siêu của Đảng.II,17
*
Trường Chinh có một câu quá hay: Lương của công nhân viên chức chỉ đủ để sống cho mười ngày.
Hoàng Ước, thư ký của Trường Chinh bảo tôi là một hôm Trường Chinh nói với mấy người giúp việc rằng ta trả cho người lao động đồng lương bóc lột. Hoàng Ước bèn nói lương chúng tôi chỉ đủ sống mười ngày. Trường Chinh cau mày khó tin - bóc lột thì có nhưng sao lại có thể ác nghiệt hơn cả đế quốc đến thế - nhưng hôm sau ông bảo Hoàng Ước: Tôi đã hỏi nhà tôi, nhà tôi nói không có chế độ cung cấp đặc biệt thì lương ông cũng chỉ đủ cho nhà này ăn mười ngày. Sau đó Trường Chinh đến nhà máy thuốc lá Thăng Long nói: Phải cứu giai cấp công nhân!
Hay thật! Ở một nước do giai cấp công nhân lãnh đạo mà đảng phải cứu giai cấp công nhân ra khỏi đồng lương bóc lột? Tôi thấy ở đó một khẩu lệnh hành động. Trường chinh rất giỏi đề khẩu lệnh, Nhưng ông không nói cứu công nhân khỏi tay ai? Và thằng khốn nào nó bóc lột công nhân?II,17

*

Hãy nói đến cơ chế này ở lĩnh vực y tế được gọi là “từ mẫu!” Xe cấp cứu muốn qua cổng bệnh viện đều phải “kính” người gác 1.000 đồng - không thì mày cho người nhà của mày tò te tí te sớm; rồi khi nằm lên giường mổ, người bệnh lại phải ''tiền đâu trong túi thòi ra”. Trần Thư mổ dạ dày, khi anh đi lại được trong bệnh viện, tôi thấy Thư cứ hai tay nắm cạp quần. Quần không có giải rút!
Mấy hôm sau hai tay được giải phóng, Thư nói vì có rồi. Nay sáng thay quần áo cứ dúi cho chị y tá một nghìn là quần áo đầy đủ lệ bộ. Nghe đâu phụ nữ mất hai nghìn. Cái của phụ nữ quý, phải che kín hơn nên đắt.
Giáo sư vi sinh học Vũ Văn Ngũ, bạn tôi bảo tôi là họp Đại hội công nhân viên chức bệnh viện Bạch Mai, anh chị em người ta lên nói thẳng chúng tôi không luộc kim tiêm, ống tiêm cho bệnh nhân đâu, chúng tôi lấy cồn ấy nấu cơm ăn với nhau chứ ai Lôi Phong mà ra vườn hoa nhặt cành khô lá héo về bệnh viện làm củi nấu bây giờ? Đảng cứ đưa anh hàng xóm hấp lìm ra đế hấp lìm hoá dân ta nhưng dân ta nó cóc chịu!
Ngũ cười bảo tôi: Mình hỏi một cô ai là đứa hấp lìm thì cô ấy nói đứa bảo bọn ta học đứa hấp lìm thì là đứa hấp lìm, còn đại hấp lìm nữa ấy!
Ngũ bịt miệng bảo tôi: Cậu cố tìm hiểu xem Duẩn hay Tố Lành đã xướng chuyện học cái thằng vét rác lấy đồ dùng kia đi nhá! Cái Thảo con tớ nó cứ bảo ghét ai có cái sáng kiến học tập hâm tỉ độ này quá! Ngũ kể một hôm đi vào cổng bệnh viện Bạch Mai, anh và Hồ Đắc Di nhìn thấy băng - rôn tổ bố căng hết mặt tiền toà nhà chính: Hoan nghênh Đại hội V Đáng cộng sản Việt Nam. Di hỏi Ngũ thấy cái chữ V kia nó giống cái gì? Ngũ còn nghĩ thì Di nói: giống cái vagin, đúng không?
Bân, lái xe cho Hồng Hà, uỷ viên trung ương, tổng biên tập báo Nhân Dân, kể với tôi một sáng anh chở Hồng Hà đến Sở điện lực Hà Nội bàn chuyện cung cấp thêm điện cho nhà in báo Đảng đang được các chuyên gia Đông Đức sang lắp máy mới. Xe đến; Bân vào báo người thường trực, anh ta nói giám đốc đi vắng. Bân đưa Hồng Hà về. Lát sau, giám đốc sở điện gọi nói ông chờ báo đảng mãi từ sáng mà không thấy. Thì ra Bân không “bôi trơn”, người thường trực bèn cho uỷ viên trung ương Đảng thấy rõ ngay uy lực tiên phật của đồng tiền.
Tôi bảo “gớm nhỉ” thì Bân tưng tửng: Quần chúng làm nên lịch sử như đảng vưỡn dạy mà anh! Đói thì quân hầu đày tớ phải xây đắp sự nghiệp gian dối thôi. Anh không biết phương châm 12 chữ vàng của dân ta nay là thế này ư? Tăng xin giảm mua, tích cực cầm nhầm, thi đua ăn cắp! Mạt rồi, mạt to rồi…
Tôi hỏi cái gì mạt? Bân lườm tôi: Lại còn phải dạy anh vén váy.
Một hôm vào văn phòng báo, thấy tập hoá đơn các thứ bình nước nóng, máy phát điện, đồ điện… ghi là “lắp vào nhà thủ trưởng”, tôi bảo Dũng - Trung uý - anh cán bộ tài vụ trẻ ở đó: Cậu giữ lại đủ các cái này cho tớ…?
- Để bắt Văn phòng trung ương thanh toán cho Hoàng Tùng chứ sao?
Anh em nói nhà Hoàng Tùng duy nhất là nhà có ba hệ thống điện: điện lưới, điện của lãnh đạo và máy phát điện Đức đem sang xây dựng nhà in báo đảng.
Thái Cò - thợ đúc chữ nhà in - và hai ba anh thợ nữa được cử đến lắp mạng điện của nhà in cho nhà Hoàng Tùng kể với tôi: em làm ở trong ngõ vào nhà, ngay bên dưới cửa sổ vợ chồng Hoàng Tùng đang ăn sáng ở sau đó. Em nói: “Lắp ống đựng dây điện này thì phải độn đầu tre mới xong được đây”.
- Ông chì ống thiếc sao lại độn đầu tre? Vợ Hoàng Tùng thò đầu ra hỏi thì Hoàng Tùng gạt đi.
Lát sau, người nhà ra đưa cho Thái Cò mấy gói chè cùng mấy bao thuốc lá. Hoàng Tùng hiểu chữ độn đầu tre của giai cấp công nhân. Thái Cò nói anh thấy có phải là cả nước này ăn cắp ăn nảy vặt không? Tôi bảo Thái Cò: Khốn nạn, đất nước toàn dân cò mà lại lử cò bợ thì ước mơ và bản lĩnh cũng chỉ là để mò tép riu thế thôi!
Thái Cò là anh thợ cùng tố đúc chữ với tôi dạo tôi lao động cải tạo ở nhà in. Mẹ Thái chết, tôi đến phúng thì Thái nhấm nháy phường bát âm nổi kèn trống lên. Sau Thái bảo tôi: Có mấy lão trưởng ban bên toà soạn đã ở đó nhưng em chỉ cho nổ xã luận chào anh. Lập trường giai cấp công nhân xịn chúng em thế chứ đâu như lập trường bọn công nhân dỏm.II,17
*


Trường Chinh chết, Hồng Ngọc, vợ Hoàng Minh Chính và Hà, con gái cả đến nhà chia buồn. Hai mẹ con về, Đặng Xuân Kỳ tiễn. Kỳ vừa đi qua sân sỏi vừa nói: ông cụ tôi ngoài không dám ăn uống bất cứ thứ gì. Họp Bộ chính trị với Trung ương cũng uống nước của nhà mang theo và nếu không về nhà ăn trưa được thì ông cụ nhịn.
Thấy tôi ái ngại lắc đầu, Hồng Ngọc cử hỏi: Muốn giữ vệ sinh hay là còn gì nữa hả? Giữ vệ sinh hay giữ thân đều phải chú ý đằng miệng.
Hồng Ngọc hơi ngẩn ra.
- Giữ vệ sinh thì khảnh cái đưa vào miệng, giữ thân thì kén kỹ cái đưa ra.II,17
*

*
Năm 1979, 17 triệu dân Đài Loan xuất khẩu 16 tỉ đô la Mỹ, trở thành nước xuất khẩu nhiều nhất thế giới, tính theo đâu người. Năm 1960 Nam Hàn - nước gửi “lính đánh thuê hung hãn” sang Việt Nam, xuất vẻn vẹn có 60 triệu đô la Mỹ nhưng đến 1981 đã lên 21 tỉ, vừa vặn đổ đồng mỗi năm tăng 1 tỉ. Và mười lăm năm bằng 150 năm phát triển của chủ nghĩa tư bản châu Âu. Thu nhập đầu người từ 50 đô la lên 1.500 một năm. Nhưng cũng như Đài Loan, từ 1960 đến 1990, thu nhập bình quân đầu người tăng sáu lần! Phải mỗi tội “làm chó săn” cho Mỹ như Đảng vẫn lột trần. Lúc ấy chưa thể hình dung rồi đảng lại bạ vào tên chó săn kiêm “lính đánh thuê” này, bạ dữ dội. Hàn Quốc và ta thế mà duyên nợ nặng. Nợ máu duyên tiền kiếp? Ở ta nhờ Đảng cái quái gì cũng hai mặt, hai mang. Với Đảng thì sự thật xã hội luôn là quả đấm tương vào chân lý cao siêu của Đảng.II,17
*
Trường Chinh có một câu quá hay: Lương của công nhân viên chức chỉ đủ để sống cho mười ngày.
Hoàng Ước, thư ký của Trường Chinh bảo tôi là một hôm Trường Chinh nói với mấy người giúp việc rằng ta trả cho người lao động đồng lương bóc lột. Hoàng Ước bèn nói lương chúng tôi chỉ đủ sống mười ngày. Trường Chinh cau mày khó tin - bóc lột thì có nhưng sao lại có thể ác nghiệt hơn cả đế quốc đến thế - nhưng hôm sau ông bảo Hoàng Ước: Tôi đã hỏi nhà tôi, nhà tôi nói không có chế độ cung cấp đặc biệt thì lương ông cũng chỉ đủ cho nhà này ăn mười ngày. Sau đó Trường Chinh đến nhà máy thuốc lá Thăng Long nói: Phải cứu giai cấp công nhân!
Hay thật! Ở một nước do giai cấp công nhân lãnh đạo mà đảng phải cứu giai cấp công nhân ra khỏi đồng lương bóc lột? Tôi thấy ở đó một khẩu lệnh hành động. Trường chinh rất giỏi đề khẩu lệnh, Nhưng ông không nói cứu công nhân khỏi tay ai? Và thằng khốn nào nó bóc lột công nhân?II,17

*

Hãy nói đến cơ chế này ở lĩnh vực y tế được gọi là “từ mẫu!” Xe cấp cứu muốn qua cổng bệnh viện đều phải “kính” người gác 1.000 đồng - không thì mày cho người nhà của mày tò te tí te sớm; rồi khi nằm lên giường mổ, người bệnh lại phải ''tiền đâu trong túi thòi ra”. Trần Thư mổ dạ dày, khi anh đi lại được trong bệnh viện, tôi thấy Thư cứ hai tay nắm cạp quần. Quần không có giải rút!
Mấy hôm sau hai tay được giải phóng, Thư nói vì có rồi. Nay sáng thay quần áo cứ dúi cho chị y tá một nghìn là quần áo đầy đủ lệ bộ. Nghe đâu phụ nữ mất hai nghìn. Cái của phụ nữ quý, phải che kín hơn nên đắt.
Giáo sư vi sinh học Vũ Văn Ngũ, bạn tôi bảo tôi là họp Đại hội công nhân viên chức bệnh viện Bạch Mai, anh chị em người ta lên nói thẳng chúng tôi không luộc kim tiêm, ống tiêm cho bệnh nhân đâu, chúng tôi lấy cồn ấy nấu cơm ăn với nhau chứ ai Lôi Phong mà ra vườn hoa nhặt cành khô lá héo về bệnh viện làm củi nấu bây giờ? Đảng cứ đưa anh hàng xóm hấp lìm ra đế hấp lìm hoá dân ta nhưng dân ta nó cóc chịu!
Ngũ cười bảo tôi: Mình hỏi một cô ai là đứa hấp lìm thì cô ấy nói đứa bảo bọn ta học đứa hấp lìm thì là đứa hấp lìm, còn đại hấp lìm nữa ấy!
Ngũ bịt miệng bảo tôi: Cậu cố tìm hiểu xem Duẩn hay Tố Lành đã xướng chuyện học cái thằng vét rác lấy đồ dùng kia đi nhá! Cái Thảo con tớ nó cứ bảo ghét ai có cái sáng kiến học tập hâm tỉ độ này quá! Ngũ kể một hôm đi vào cổng bệnh viện Bạch Mai, anh và Hồ Đắc Di nhìn thấy băng - rôn tổ bố căng hết mặt tiền toà nhà chính: Hoan nghênh Đại hội V Đáng cộng sản Việt Nam. Di hỏi Ngũ thấy cái chữ V kia nó giống cái gì? Ngũ còn nghĩ thì Di nói: giống cái vagin, đúng không?
Bân, lái xe cho Hồng Hà, uỷ viên trung ương, tổng biên tập báo Nhân Dân, kể với tôi một sáng anh chở Hồng Hà đến Sở điện lực Hà Nội bàn chuyện cung cấp thêm điện cho nhà in báo Đảng đang được các chuyên gia Đông Đức sang lắp máy mới. Xe đến; Bân vào báo người thường trực, anh ta nói giám đốc đi vắng. Bân đưa Hồng Hà về. Lát sau, giám đốc sở điện gọi nói ông chờ báo đảng mãi từ sáng mà không thấy. Thì ra Bân không “bôi trơn”, người thường trực bèn cho uỷ viên trung ương Đảng thấy rõ ngay uy lực tiên phật của đồng tiền.
Tôi bảo “gớm nhỉ” thì Bân tưng tửng: Quần chúng làm nên lịch sử như đảng vưỡn dạy mà anh! Đói thì quân hầu đày tớ phải xây đắp sự nghiệp gian dối thôi. Anh không biết phương châm 12 chữ vàng của dân ta nay là thế này ư? Tăng xin giảm mua, tích cực cầm nhầm, thi đua ăn cắp! Mạt rồi, mạt to rồi…
Tôi hỏi cái gì mạt? Bân lườm tôi: Lại còn phải dạy anh vén váy.
Một hôm vào văn phòng báo, thấy tập hoá đơn các thứ bình nước nóng, máy phát điện, đồ điện… ghi là “lắp vào nhà thủ trưởng”, tôi bảo Dũng - Trung uý - anh cán bộ tài vụ trẻ ở đó: Cậu giữ lại đủ các cái này cho tớ…?
- Để bắt Văn phòng trung ương thanh toán cho Hoàng Tùng chứ sao?
Anh em nói nhà Hoàng Tùng duy nhất là nhà có ba hệ thống điện: điện lưới, điện của lãnh đạo và máy phát điện Đức đem sang xây dựng nhà in báo đảng.
Thái Cò - thợ đúc chữ nhà in - và hai ba anh thợ nữa được cử đến lắp mạng điện của nhà in cho nhà Hoàng Tùng kể với tôi: em làm ở trong ngõ vào nhà, ngay bên dưới cửa sổ vợ chồng Hoàng Tùng đang ăn sáng ở sau đó. Em nói: “Lắp ống đựng dây điện này thì phải độn đầu tre mới xong được đây”.
- Ông chì ống thiếc sao lại độn đầu tre? Vợ Hoàng Tùng thò đầu ra hỏi thì Hoàng Tùng gạt đi.
Lát sau, người nhà ra đưa cho Thái Cò mấy gói chè cùng mấy bao thuốc lá. Hoàng Tùng hiểu chữ độn đầu tre của giai cấp công nhân. Thái Cò nói anh thấy có phải là cả nước này ăn cắp ăn nảy vặt không? Tôi bảo Thái Cò: Khốn nạn, đất nước toàn dân cò mà lại lử cò bợ thì ước mơ và bản lĩnh cũng chỉ là để mò tép riu thế thôi!
Thái Cò là anh thợ cùng tố đúc chữ với tôi dạo tôi lao động cải tạo ở nhà in. Mẹ Thái chết, tôi đến phúng thì Thái nhấm nháy phường bát âm nổi kèn trống lên. Sau Thái bảo tôi: Có mấy lão trưởng ban bên toà soạn đã ở đó nhưng em chỉ cho nổ xã luận chào anh. Lập trường giai cấp công nhân xịn chúng em thế chứ đâu như lập trường bọn công nhân dỏm.II,17
*



Trường Chinh chết, Hồng Ngọc, vợ Hoàng Minh Chính và Hà, con gái cả đến nhà chia buồn. Hai mẹ con về, Đặng Xuân Kỳ tiễn. Kỳ vừa đi qua sân sỏi vừa nói: ông cụ tôi ngoài không dám ăn uống bất cứ thứ gì. Họp Bộ chính trị với Trung ương cũng uống nước của nhà mang theo và nếu không về nhà ăn trưa được thì ông cụ nhịn.
Thấy tôi ái ngại lắc đầu, Hồng Ngọc cử hỏi: Muốn giữ vệ sinh hay là còn gì nữa hả? Giữ vệ sinh hay giữ thân đều phải chú ý đằng miệng.
Hồng Ngọc hơi ngẩn ra.
- Giữ vệ sinh thì khảnh cái đưa vào miệng, giữ thân thì kén kỹ cái đưa ra.II,17
*

 *
Tháng 7-1986 Duẩn chết, dân đứng hai bên đường đếm mấy bà tổng goá. Chúng khẩu đồng từ bảo nhau cái bà tre trẻ mặc áo dài đen dắt đứa con be bé kia đứt đuôi là vợ tư! Ấy, chưa kể những bà bị gạt xuống nữa chứ. Cho lên cả thì khéo phải một hai xe nữa.
Ít ngày sau, dân Hà Nội đồn ầm rằng con cháu Ba Duẩn đang rất lo có thể gia đình Duẩn bị “sờ!” Dân nói rõ các con gái và rể Lê Duẩn hoảng nhất. Nhưng ai trong bóng tối định sờ thì không ai dám chỉ tên. Ngày ấy nếu blogger nhiều như ba chục năm sau thì trên mạng cử là lũ lụt lời bình về sức mạnh tính dục của Lê Duẩn. Rõ ràng là có nỗi sự riêng tư thầm kín của thân thích ông, sau cái chết của ông, vị hoàng đế đỏ từng làm run sự và đau khổ biết bao con người.II,17

*

Những ngày người ta mong tin Lê Duẩn chết đang quàn tại nhà lạnh 108 là thật. Những ngày dân Hà Nội đổ nhau: Con gì trán hói bụng to, miệng xơi thịt gà, ăn nói ề à, đít thượng Volga?
Ôi, con gì kia, úp mặt vào ghế mà mày giữ kín được tên mày đến thế ư? Ghế là mục tiêu theo đuổi của mày và cũng là thành luỹ che chắn cho mày!II,17
*

CHƯƠNG XVIII

Nguyễn Khắc Viện viết Hai mươi lăm năm ấy đăng trên báo Văn Nghệ, rằng mừng là từ ngày sạch bóng quân viễn chinh Pháp, đất nước đã sạch bóng phản động, lưu manh, gái điếm. Chúng đã rút cả vào Nam. Căn dặn mọi người nắm chắc chuyên chính vô sản, “cần nhớ dân chủ với ai và chuyên chính với ai”.
Tôi viết cho Viện một thư nhờ Hoàng Minh Chính chuyển. Vì từ 1963 tôi không giao du với Viện nữa sau khi hỏi mượn anh số báo Pensée (Tư tưởng) tháng 5 mà anh bảo không có, sau khi đã cất giấu nó đi. Thư tôi nói không tán thành anh phân biệt đối xử theo chế độ chính trị và ý thức hệ. Nó dễ thành kiểu thanh lọc chủng tộc khiến người ta sẵn sàng nghĩ ở lục địa Trung Hoa thì tốt, ở Đài Loan thì xấu; Việt kiều ở Pháp xấu (hơi gợi ý đến chuyện anh từng bị dư luận kêu rằng anh “ủng hộ Hitler và có công đưa học sinh Việt sang Đức quốc xã học” sau khi Pháp đầu hàng), Việt nội địa tốt; đồng bào trên vĩ tuyển 17 tốt, đồng bào dưới vĩ tuyến xấu. Và đuổi người Hoa thì lãnh thổ liền trong veo. Vả chăng, nếu phản động, lưu manh, gái điếm dạt cả vào trong kia như anh nói thì có nên sướng vì đồng bào trong kia chịu đựng hộ cho ngoài Bắc không? Còn nay quân viễn chinh nào đến Hà Nội mà tối tối ở hông cơ quan thành uỷ, gái điếm đứng đầy lên đến hai nẻo vệ đê sông Hồng, nhận ra ngay vì mông mẩy đùi vế cứ trắng hếu như cò? Tôi nói anh nghĩ lỗi thời về chuyên chính vô sản. Vâng, xin hỏi anh ai được phép cho ai dân chủ, cho ai chuyên chính?
Viện trả lời. Cũng qua bưu điện dân doanh Hoàng Minh Chính. Anh tán thành không nên gọi là phản động, lưu manh mà nên gọi là “rác rưởi”, chỗ này anh đã “dùng chữ chưa chính xác” chứ còn, anh nhấn mạnh, “chế độ xã hội chủ nghĩa thì tất nhiên là phải tốt đẹp hơn chế độ tư bản”. Còn anh không nói đến chế độ Quốc xã của Hitler như từng ca ngợi nó trong một bài báo viết khi còn ở Pháp mà Trần Đức Thảo vẫn giữ nguyên cả hai trang và đưa tôi xem.
Về chuyên chính, anh thẳng thắn nói anh phản đối “anh (Trần Đĩnh) và một số trí thức hiện nay bài bác chuyên chính”. Anh viết: “Tôi phản đối Mao nhưng tán thành Stalin chuyên chính với đế quốc”. Dĩ nhiên cuối cùng anh nói thêm “tuy nhiên tôi không tán thành đàn áp nhân dân”.
Hoá ra anh không thấy rằng khi đã chuyên chính với đế quốc thì khó mà tránh được chuyện đàn áp kẻ thù trong nó nấp ở nội bộ nhân dân! Mà đấu tranh trong đảng là phản ánh đấu tranh giai cấp ở ngoài xã hội và đặc biệt càng gần thắng lợi lại càng gay gắt. Thủ tiêu, bắt bớ tất phải nhiều lên.
Vũ Cận đọc thư Viện gửi tôi xong nói: Anh Viện rất giống Đảng, không bao giờ nhận mình sai. Vũ Cận và Viện cùng cơ quan, cùng chung trách nhiệm xuất bản sách báo tiếng Pháp. Cả một thời gian dài, tôi không viết cho báo nào. Thôi đi, đón gió, hóng hơi làm gì. Tôi đã có một bài học: Theo lời Sáu Thọ, cho Nguyễn Đức Thuận đứng đèn và nhịn khát mười sáu ngày liền, rồi tôi có muốn thanh minh sao thì cũng vẫn cứ lòi ra là một gã thơ lại.
Thì một hôm đến Vạn Lịch, tôi gặp Tô Hoài. Tôi nói: Lâu lắm rồi, vẫn thế nhỉ, mắt vẫn hoa tình, nói nôm na là đĩ.(năm 2009, tôi đến Tô Hoài. Câu đầu tiên lại nói: “Cha này 90 rồi mà mắt vẫn đĩ nhỉ!” Tô Hoài sướng cười tít cả mắt lại).
Tô Hoài bảo cậu viết cho Người Hà Nội đi.
- Thật chứ, tôi hỏi? Muốn thử Tô Hoài.
- Thật. Đăng hẳn cả tên Trần Đĩnh của cậu ấy chứ… Tớ đếch sợ!
Nhân báo Người Hà Nội của Tô Hoài vừa đăng một bài của Mai Ngữ nói xã hội ta nay nhiều tiếng tục, tiếng lóng quá, xin ngành văn hoá ra tay, tôi viết bài Vượt rào xổ lồng. Cho rằng tiếng tục, tiếng lóng vượt rào xổ lồng là vì chữ nghĩa quen thuộc đã bị lạm dụng thành xác xơ, dân phải lấy tiếng lóng, tiếng tục nó tươi tốt, mơn mởn sức sống ra thay. Thí dụ: giỏi thì thành đểu; hăng hái thì thành máu, ngầu; thành công, thắng lợi thì thành vào cầu, trúng quả… Người dân ưng tiếng lóng tiếng tục hơn vì ngoài sức sống trẻ trung, tiếng lóng tiếng tục còn cho người dùng nó một mã hiệu về tổ chức, khi dùng nó lập tức thấy ta có vai vế hơn trong xã hội - ấy là được ở trong bè đảng cùng với những phe, những phò, những đầu gấu đông đảo, hùng mạnh đến mức công an cũng phải ngại. Đây không là địa hạt văn hoá mà sang địa hạt chính trị - xã hội mất rồi. Dân mượn tiếng lóng, tiếng tục để đổi chứng minh thư. Nói cho đúng nhất, một cách vượt biên ở ngay trong nước! Đó là tinh thần bài viết chứ cố nhiên nếu tôi viết “đổi chứng minh thư” hay “Vượt biên” thì chắc chắn Tô Hoài sẽ phải bỏ. Vượt biên là cực phản động. Chả thế Đảng phải ra luật phạt rất nặng với ai vượt biên. Tô Hoài đã đăng với tên Trần Đĩnh. Người đầu tiên phá cái hàng rào giam kín tên tôi.
Mai Văn Hiến thư ngay cho tôi: “Cóc đọc tên tác giả tớ cũng biết thừa là cậu. Rất hay. Đến tớ chơi đi”.
Vạn Lịch hò hẹn đạp xe vào tận Cầu Giấy đưa nhuận bút. Tô Hoài nó nhờ tao, anh nói. Nó bảo cậu chơi khăm, đề địa chỉ ở nhà Lê Đạt vậy Tô Hoài nó khó đến mà bảo nhân viên đem đến thì càng không hay. Thế là nhờ tao.
Đã lâu, Vạn Lịch ra toà cãi bênh Tạ Đình Đề. Sau đó, anh bảo tôi: Có đứa nó bảo tớ các cụ đang cáu, mày nên tạm lánh lên Hà Đông đi.
Tôi bảo anh, một trưởng ty Hà Tây sắp bị khởi tố vì tham nhũng thì bí thư tỉnh gọi chánh án đến hỏi anh là gì? Dạ, tôi là chánh án tỉnh. Chỉ thế thôi sao? Dạ, còn là đảng viên. À, vậy anh nghe luật hay đảng? Không xử trưởng ty nữa… Muốn nghe nữa không? Có nhớ cua rơ xe đạp lừng danh Đông Dương Vũ Quốc Thân không? À, con cụ Tư Đường giàu có tiếng Hà Nội. Bây giờ cả nhà rúc ở một căn hộ chật hẹp ở Mã Mây để sửa xe máy. Chung nhà vệ sinh với một hộ bên cạnh thì hộ nó bít tường, cả nhà Thân toàn phải đi vài trăm mét qua đê sông Hồng làm chuyện vệ sinh hàng ngày. Thân kêu, tớ bèn nhờ Nguyễn Đức Mưu chuyên phụ trách mục Ý dân ở báo Hà Nội Mới. Mưu hăng hái nhận lời nhưng mấy hôm sau bảo tớ là mình không làm được vì cái hộ nó chiếm nhà vệ sinh của Vũ Quốc Thân lại là em bà phó chủ tịch thành phổ Hà Nội. Đấy, tuỳ cậu…
Nghe tôi, Vạn Lịch thôi “sơ tán”. Chả đâu có hầm hố tử tế cho anh trú ẩn.II,18



Nguyễn Khắc Viện viết Hai mươi lăm năm ấy đăng trên báo Văn Nghệ, rằng mừng là từ ngày sạch bóng quân viễn chinh Pháp, đất nước đã sạch bóng phản động, lưu manh, gái điếm. Chúng đã rút cả vào Nam. Căn dặn mọi người nắm chắc chuyên chính vô sản, “cần nhớ dân chủ với ai và chuyên chính với ai”.
Tôi viết cho Viện một thư nhờ Hoàng Minh Chính chuyển. Vì từ 1963 tôi không giao du với Viện nữa sau khi hỏi mượn anh số báo Pensée (Tư tưởng) tháng 5 mà anh bảo không có, sau khi đã cất giấu nó đi. Thư tôi nói không tán thành anh phân biệt đối xử theo chế độ chính trị và ý thức hệ. Nó dễ thành kiểu thanh lọc chủng tộc khiến người ta sẵn sàng nghĩ ở lục địa Trung Hoa thì tốt, ở Đài Loan thì xấu; Việt kiều ở Pháp xấu (hơi gợi ý đến chuyện anh từng bị dư luận kêu rằng anh “ủng hộ Hitler và có công đưa học sinh Việt sang Đức quốc xã học” sau khi Pháp đầu hàng), Việt nội địa tốt; đồng bào trên vĩ tuyển 17 tốt, đồng bào dưới vĩ tuyến xấu. Và đuổi người Hoa thì lãnh thổ liền trong veo. Vả chăng, nếu phản động, lưu manh, gái điếm dạt cả vào trong kia như anh nói thì có nên sướng vì đồng bào trong kia chịu đựng hộ cho ngoài Bắc không? Còn nay quân viễn chinh nào đến Hà Nội mà tối tối ở hông cơ quan thành uỷ, gái điếm đứng đầy lên đến hai nẻo vệ đê sông Hồng, nhận ra ngay vì mông mẩy đùi vế cứ trắng hếu như cò? Tôi nói anh nghĩ lỗi thời về chuyên chính vô sản. Vâng, xin hỏi anh ai được phép cho ai dân chủ, cho ai chuyên chính?
Viện trả lời. Cũng qua bưu điện dân doanh Hoàng Minh Chính. Anh tán thành không nên gọi là phản động, lưu manh mà nên gọi là “rác rưởi”, chỗ này anh đã “dùng chữ chưa chính xác” chứ còn, anh nhấn mạnh, “chế độ xã hội chủ nghĩa thì tất nhiên là phải tốt đẹp hơn chế độ tư bản”. Còn anh không nói đến chế độ Quốc xã của Hitler như từng ca ngợi nó trong một bài báo viết khi còn ở Pháp mà Trần Đức Thảo vẫn giữ nguyên cả hai trang và đưa tôi xem.
Về chuyên chính, anh thẳng thắn nói anh phản đối “anh (Trần Đĩnh) và một số trí thức hiện nay bài bác chuyên chính”. Anh viết: “Tôi phản đối Mao nhưng tán thành Stalin chuyên chính với đế quốc”. Dĩ nhiên cuối cùng anh nói thêm “tuy nhiên tôi không tán thành đàn áp nhân dân”.
Hoá ra anh không thấy rằng khi đã chuyên chính với đế quốc thì khó mà tránh được chuyện đàn áp kẻ thù trong nó nấp ở nội bộ nhân dân! Mà đấu tranh trong đảng là phản ánh đấu tranh giai cấp ở ngoài xã hội và đặc biệt càng gần thắng lợi lại càng gay gắt. Thủ tiêu, bắt bớ tất phải nhiều lên.
Vũ Cận đọc thư Viện gửi tôi xong nói: Anh Viện rất giống Đảng, không bao giờ nhận mình sai. Vũ Cận và Viện cùng cơ quan, cùng chung trách nhiệm xuất bản sách báo tiếng Pháp. Cả một thời gian dài, tôi không viết cho báo nào. Thôi đi, đón gió, hóng hơi làm gì. Tôi đã có một bài học: Theo lời Sáu Thọ, cho Nguyễn Đức Thuận đứng đèn và nhịn khát mười sáu ngày liền, rồi tôi có muốn thanh minh sao thì cũng vẫn cứ lòi ra là một gã thơ lại.
Thì một hôm đến Vạn Lịch, tôi gặp Tô Hoài. Tôi nói: Lâu lắm rồi, vẫn thế nhỉ, mắt vẫn hoa tình, nói nôm na là đĩ.
(năm 2009, tôi đến Tô Hoài. Câu đầu tiên lại nói: “Cha này 90 rồi mà mắt vẫn đĩ nhỉ!” Tô Hoài sướng cười tít cả mắt lại).
Tô Hoài bảo cậu viết cho Người Hà Nội đi.
- Thật chứ, tôi hỏi? Muốn thử Tô Hoài.
- Thật. Đăng hẳn cả tên Trần Đĩnh của cậu ấy chứ… Tớ đếch sợ!
Nhân báo Người Hà Nội của Tô Hoài vừa đăng một bài của Mai Ngữ nói xã hội ta nay nhiều tiếng tục, tiếng lóng quá, xin ngành văn hoá ra tay, tôi viết bài Vượt rào xổ lồng. Cho rằng tiếng tục, tiếng lóng vượt rào xổ lồng là vì chữ nghĩa quen thuộc đã bị lạm dụng thành xác xơ, dân phải lấy tiếng lóng, tiếng tục nó tươi tốt, mơn mởn sức sống ra thay. Thí dụ: giỏi thì thành đểu; hăng hái thì thành máu, ngầu; thành công, thắng lợi thì thành vào cầu, trúng quả… Người dân ưng tiếng lóng tiếng tục hơn vì ngoài sức sống trẻ trung, tiếng lóng tiếng tục còn cho người dùng nó một mã hiệu về tổ chức, khi dùng nó lập tức thấy ta có vai vế hơn trong xã hội - ấy là được ở trong bè đảng cùng với những phe, những phò, những đầu gấu đông đảo, hùng mạnh đến mức công an cũng phải ngại. Đây không là địa hạt văn hoá mà sang địa hạt chính trị - xã hội mất rồi. Dân mượn tiếng lóng, tiếng tục để đổi chứng minh thư. Nói cho đúng nhất, một cách vượt biên ở ngay trong nước! Đó là tinh thần bài viết chứ cố nhiên nếu tôi viết “đổi chứng minh thư” hay “Vượt biên” thì chắc chắn Tô Hoài sẽ phải bỏ. Vượt biên là cực phản động. Chả thế Đảng phải ra luật phạt rất nặng với ai vượt biên. Tô Hoài đã đăng với tên Trần Đĩnh. Người đầu tiên phá cái hàng rào giam kín tên tôi.
Mai Văn Hiến thư ngay cho tôi: “Cóc đọc tên tác giả tớ cũng biết thừa là cậu. Rất hay. Đến tớ chơi đi”.
Vạn Lịch hò hẹn đạp xe vào tận Cầu Giấy đưa nhuận bút. Tô Hoài nó nhờ tao, anh nói. Nó bảo cậu chơi khăm, đề địa chỉ ở nhà Lê Đạt vậy Tô Hoài nó khó đến mà bảo nhân viên đem đến thì càng không hay. Thế là nhờ tao.
Đã lâu, Vạn Lịch ra toà cãi bênh Tạ Đình Đề. Sau đó, anh bảo tôi: Có đứa nó bảo tớ các cụ đang cáu, mày nên tạm lánh lên Hà Đông đi.
Tôi bảo anh, một trưởng ty Hà Tây sắp bị khởi tố vì tham nhũng thì bí thư tỉnh gọi chánh án đến hỏi anh là gì? Dạ, tôi là chánh án tỉnh. Chỉ thế thôi sao? Dạ, còn là đảng viên. À, vậy anh nghe luật hay đảng? Không xử trưởng ty nữa… Muốn nghe nữa không? Có nhớ cua rơ xe đạp lừng danh Đông Dương Vũ Quốc Thân không? À, con cụ Tư Đường giàu có tiếng Hà Nội. Bây giờ cả nhà rúc ở một căn hộ chật hẹp ở Mã Mây để sửa xe máy. Chung nhà vệ sinh với một hộ bên cạnh thì hộ nó bít tường, cả nhà Thân toàn phải đi vài trăm mét qua đê sông Hồng làm chuyện vệ sinh hàng ngày. Thân kêu, tớ bèn nhờ Nguyễn Đức Mưu chuyên phụ trách mục Ý dân ở báo Hà Nội Mới. Mưu hăng hái nhận lời nhưng mấy hôm sau bảo tớ là mình không làm được vì cái hộ nó chiếm nhà vệ sinh của Vũ Quốc Thân lại là em bà phó chủ tịch thành phổ Hà Nội. Đấy, tuỳ cậu…
Nghe tôi, Vạn Lịch thôi “sơ tán”. Chả đâu có hầm hố tử tế cho anh trú ẩn.II,18


*



CHƯƠNG XIX

Một sáng hè ở Sài Gòn, Nguyễn Văn Trung (giáo sư Triết các đại học miền Nam trước 1975 - BT) đạp xe đến tìm tôi. Mời đến nhà ăn cơm với Nguyễn Đức Nhuận mới ở Paris về thăm nhà.
Mới hôm nào Nguyễn Văn Trung mời Nguyễn Khải, tôi và vài anh em đến nhà Nguyễn Linh, phó tổng giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật nghe anh trình bày quyển sách anh mới viết về tình hình Thiên chúa giáo, Cơ đốc giáo xâm nhập Việt Nam. Anh đã nghiên cứu công phu, soạn thảo rõ ràng và viết khá hấp dẫn. Anh nhấn mạnh đến thái độ bình Tây sát tả của nhà Nguyễn, một chính sách dập khuôn Nhà Thanh.II,19
*

CHƯƠNG XXI

Trước hết nói đến một người hoàn toàn lạ. Sáng hôm ấy, tôi đến Thế Vấn. Một quan chức ngoại giao, vụ trưởng Vụ người Việt ở Thái, từng hoạt động ở Thái Lan (và quen biết Võ Văn Kiệt nhân một lần về nước cùng dự chỉnh huấn với Kiệt) đang ngồi ở đó sau khi được vấn chữa răng, ông đã giải thích thắc mắc của chúng tôi tại sao kiều bào ta ở Thái lại kéo về nước “triệt để, rầm rộ” như cuối những năm 50 để rồi sau khổ quá. Mắc lừa Bắc Kinh, ông nói. Để cho Hoa kiều “thống soái” kinh tế và thị trường Thái Lan (mà đối thủ đáng gờm ở đó là Việt kiều), họ đã xui ta phát động kiều bào đấu tranh toàn diện nhưng trước hết là chống chính quyền Thái Lan về chính trị. Biểu tình, tố cáo, thỉnh nguyện, bãi thị, bãi khoá, không vào quốc tịch Thái, không lấy vợ hay chồng Thái trong khi Hoa kiều cứ tự do nhập quốc tịch Thái, lấy vợ chồng Thái, do đó nhiều lãnh đạo của Thái, mang tên họ Thái nhưng gốc Hoa. Ta làm dữ thì Thái Lan phải trục xuất. Hoa kiều bèn toạ hưởng kỳ thành, một mình một chợ, hết kẻ cạnh tranh.
Hôm ấy tôi hỏi ông có báo cáo với Bộ chính trị việc bạn xúi chống chính quyền Thái không thì ông nói có. Tôi nói: Hay thật. Sau cú Cải cách ruộng đất phải sửa sai ê mặt mới năm sáu năm thế mà rồi Mao xui chống hổ giấy Mỹ, chống Liên Xô lại theo luôn.II,21
*
*





Năm 1979, 17 triệu dân Đài Loan xuất khẩu 16 tỉ đô la Mỹ, trở thành nước xuất khẩu nhiều nhất thế giới, tính theo đâu người. Năm 1960 Nam Hàn - nước gửi “lính đánh thuê hung hãn” sang Việt Nam, xuất vẻn vẹn có 60 triệu đô la Mỹ nhưng đến 1981 đã lên 21 tỉ, vừa vặn đổ đồng mỗi năm tăng 1 tỉ. Và mười lăm năm bằng 150 năm phát triển của chủ nghĩa tư bản châu Âu. Thu nhập đầu người từ 50 đô la lên 1.500 một năm. Nhưng cũng như Đài Loan, từ 1960 đến 1990, thu nhập bình quân đầu người tăng sáu lần! Phải mỗi tội “làm chó săn” cho Mỹ như Đảng vẫn lột trần. Lúc ấy chưa thể hình dung rồi đảng lại bạ vào tên chó săn kiêm “lính đánh thuê” này, bạ dữ dội. Hàn Quốc và ta thế mà duyên nợ nặng. Nợ máu duyên tiền kiếp? Ở ta nhờ Đảng cái quái gì cũng hai mặt, hai mang. Với Đảng thì sự thật xã hội luôn là quả đấm tương vào chân lý cao siêu của Đảng.


*


*



*




*



*

Trước hết nói đến một người hoàn toàn lạ. Sáng hôm ấy, tôi đến Thế Vấn. Một quan chức ngoại giao, vụ trưởng Vụ người Việt ở Thái, từng hoạt động ở Thái Lan (và quen biết Võ Văn Kiệt nhân một lần về nước cùng dự chỉnh huấn với Kiệt) đang ngồi ở đó sau khi được vấn chữa răng, ông đã giải thích thắc mắc của chúng tôi tại sao kiều bào ta ở Thái lại kéo về nước “triệt để, rầm rộ” như cuối những năm 50 để rồi sau khổ quá. Mắc lừa Bắc Kinh, ông nói. Để cho Hoa kiều “thống soái” kinh tế và thị trường Thái Lan (mà đối thủ đáng gờm ở đó là Việt kiều), họ đã xui ta phát động kiều bào đấu tranh toàn diện nhưng trước hết là chống chính quyền Thái Lan về chính trị. Biểu tình, tố cáo, thỉnh nguyện, bãi thị, bãi khoá, không vào quốc tịch Thái, không lấy vợ hay chồng Thái trong khi Hoa kiều cứ tự do nhập quốc tịch Thái, lấy vợ chồng Thái, do đó nhiều lãnh đạo của Thái, mang tên họ Thái nhưng gốc Hoa. Ta làm dữ thì Thái Lan phải trục xuất. Hoa kiều bèn toạ hưởng kỳ thành, một mình một chợ, hết kẻ cạnh tranh.
Hôm ấy tôi hỏi ông có báo cáo với Bộ chính trị việc bạn xúi chống chính quyền Thái không thì ông nói có. Tôi nói: Hay thật. Sau cú Cải cách ruộng đất phải sửa sai ê mặt mới năm sáu năm thế mà rồi Mao xui chống hổ giấy Mỹ, chống Liên Xô lại theo luôn.II,21
*

CHƯƠNG XXII

TƯỚNG TÁ VC

Tướng lĩnh từ Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái, Trần Văn Trà, Trần Độ, Lê Quang Đạo… học ở Kutuzov, còn đại tá học ở Frunze (Lê Trọng Nghĩa bảo tôi một dạo, Mao đã có ý với Hà Nội sao lại để tướng đi học ở nước ngoài như vậy được chứ!)
Đến đây anh bạn trẻ Nga nói thêm:
- Tôi còn xem ảnh các ông ăn thịt rùa với nhau.
Ma xó? Chợt nhớ đến một quyển sách nói hai cha CIA và KGB có hồ sơ phong phú nhất về dịa danh, nhân danh ở mỗi nước. Cà phê Lâm Khói, phở Thìn… ở Hà Nội là CIA biết cả.
Anh ta chỉ không biết khi tướng Giáp đi Liên Xô học, Mao Trạch Đông đã có ý kiến với đảng Việt Nam tại sao người đứng đầu quân đội một nước lại sang Liên Xô học? Mao chỉ muốn quân sự Việt Nam luỵ Trung Cộng. Anh ta cũng không biết lẽ ra Lê Trọng Nghĩa học ở Trung Quốc nhưng Giáp đã kéo anh sang Liên Xô. XXII

*

Tối đọc Hoa trên đá: “Sinh thời nào chúng bịp theo thời ấy, Thời hổ thật chúng bày trò hổ giây… Giả cách mạng, giả anh em, giả mặt trời hồng. Thối hoắc gió Tây rồi còn giở giọng gió Đông, Quỳ gối cho đế quốc cỡi từ lâu rồi còn đóng kịch… Pháo Bắc Kinh thay vào bom Mỹ… Hôm qua bạn bè nay thành đao phủ, vẫn hát Quốc tế ca và dương cờ đỏ… Lũ “thái thú” tân trang bằng một ngọn cờ hồng…XXII
*
KHMER ĐỎ GHÉT VC

Thật, du kích Khơ-me Đỏ đấy, rất đông trẻ con mười bốn mười lăm mà đánh ta cực hung. Không chỉ trẻ con Việt Nam anh hùng nhá. Việt Cộng mượn đất nó đánh Mỹ thì nó mượn đất Thái đánh lại. Nó ghét ta lắm. Lúc Trung ương cục và Thành uỷ Sài Gòn- ia Định đóng nhờ căn cứ địa của Pol Pot tại tỉnh Kendal, đêm anh em ta vẫn nghe thấy lính Pol Pot hô ầm ầm ”Cạp duôn!”(chặt đâu mọi). Gọi ta là duôn, là mọi. (Thọ cười phá lên). Nghe đâu xưa đội bóng Campuchia đấu ở Ganefo, Sihanouk cho phép được thua tất cả nhưng phải thắng Duôn!
Tôi nói: Để tự hào dân tộc, anh nào cũng kiếm một kẻ thù. Ta kiếm Mỹ, Campuchia kiếm Duôn.XXII
[..]. Sau đó, xảy vụ người Việt bị người Khơ me giết ở Phnom Penh, Hun Sen lại trả lời báo Time: “Người Campuchia giết vì căm thù người Việt, chúng tôi biết làm thế nào?”XXII
*
CHƯONG XXIII

THỌ CHINH DUẨN


Thọ mang thư Trường Chinh vào Nam phê bình Duẩn. Duẩn đọc và khóc, ở chính nhà vợ đầu của Mai Lộc và rồi những giọt nước mắt ngày ấy đòi trả nợ: từ 1963 đến 1986, gần một phần tư thế kỷ, Trường Chinh đã phải đắng cay theo Duẩn. Trong khi đó Duẩn thu phục được Sáu Thọ - xưng em với Duẩn. Trường Chinh đã bị Sáu Thọ chê ở Sơn La rằng đường lối đoàn kết dân tộc của Trường Chinh là “Trung ương của thằng Khu chứ đ. gì. Cộng sản mà đoàn kết với tữ sản, địa chủ?” Trường Chinh cũng đừng mong Thọ có thơ: “Lời anh là cả lời non nước”. Anh là Duẩn. Lê Duẩn bị đầu óc cực tả của Mao thu phục và đầu óc cực tả của Duẩn lại đã thu phục Thọ. Thọ thật lòng suy tôn Duẩn hay Câu Tiễn hoả mù che mắt Duẩn để chờ thời đá Duẩn?XXIII
CHƯƠNG XXIV

Phạm Dương, tình báo và tham tán của phái đoàn Việt Nam bảy năm tại Liên Hợp Quốc nói sau tháng 5-1975, đám chuyên viên kinh tế bạn anh báo cáo với Lê Duẩn rằng Đông Nam Á, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan tiến mạnh được là nhờ gia công cho các nước v.v. thì Lê Duẩn nạt: Lại muốn học chúng nó làm nô lệ ư? Một thứ trưởng y tế gợi ý cho các xí nghiệp dược của Sài Gòn cũ đang thất nghiệp làm kháng sinh gia công cho khối Comecon cộng sản thì Tố Hữu hứ: Trẻ con! Độc lập mà đi gia công! Anh tưởng Comecon mà không ngoạm nhau à?
Tôi nói: Thảo nào, tớ dịch cương lĩnh Comecon đăng báo, người ta đã chữa chữ hội nhập - integration thành liên hiệp. Cẩn thận, lợi dụng hội nhập, họ hoà tan ta như chơi đấy. Tớ định vặn thế sao bảo bốn phương vô sản là nhà và chủ nghĩa xã hội bảo đảm độc lập dân tộc?
Trở lại với Từ thế giới thứ ba… của Lý Quang Diệu. Một vận hành trí tuệ sắc sảo, thiết thực, thông minh. Thế giới gọi Lý là nhà tư tưởng không hề ngoa.
Đọc nó tôi chịu ấn tượng nhất về việc năm 1965, Lý Quang Diệu xin cho Singapore ra khỏi Liên bang Malaysia để thành quốc gia độc lập với vẻn vẹn vài triệu dân rồi nhờ chính quân lính Anh bảo hộ cho trong năm năm! Theo ông, ở liên bang chắc chắn nội chiến: Đảng cộng sản Mã Lai rất năng nổ dứt khoát sẽ cho chính quyền ra bằng nòng súng. Vậy thì tránh voi chẳng xấu mặt nào!
Tôi bảo Vũ Quốc Tuấn trong ban chuyên viên của thủ tướng hãy cho dịch cuốn sách để các ông ấy đọc. “Để thấy cố vấn tối cao đã xin quân Anh bảo vệ trong năm năm”.II,24
*
 Lý Quang Diệu nói số phận của Singapore phụ thuộc vào cả những gì đang diễn ra ở Mỹ. Ông cho rằng thế giới tự do phải trông cậy vào sức mạnh của Mỹ. Đây là cách nghĩ của hầu hết thế giới.II,24
 Lê Đức Anh lên dữ thì um chuyện lý lịch. Cai, không phải phu cao su. Xú Chột hay Cai Lé, hai biệt danh này do Nguyễn Trung Thành, vụ trưởng bảo vệ xì ra chứ không tôi làm sao mà biết được. Đảng hồi đó không kết nạp cai, lớp người bị coi là tay sai của Pháp!II,24
*
 do Trung Quốc đào tạo và đang nắm trọng trách ở trường nói trước tất cả các giáo sinh: 90% kiến thức của đám người được phương Tây đào tạo là sai, 10% còn lại thì là cố tình xuyên tạc.II,24

 DỖ MƯỜI DIÊN

 Các lão thành hỏi nhau có nhớ hồi nào Đỗ Mười điên nằm Việt-Xô. Lên cơn, ông leo lên cái cây cạnh cổng đứng xoạc chân cành cao cành thấp giơ tay hét xung phong. Các cô y tá ra dỗ bác xuống đều ù té chạy. Bác mặc quần đùi, trận địa pháo đài bày ra hết. Mà các cô thì không ở nam khoa, nội tiết. Sau gien điên của Đỗ Mười đã bền bỉ truyền sang cả con trai và cháu. Đồn rằng đặc điểm là thạo ăn người.[..]..
Từ đầu những năm 60, Kỳ Vân đã đố tôi tại sao mặc quần Tây mà bộ trưởng Đỗ Mười cứ xắn một bên gấu. À, trước kia hoạn lợn. ống quần bên chân xéo vào chuồng bắt lợn phải xắn cho nên đã thành tập tính nghề, Kỳ Vân giải thích.
Hoàng Minh Chính, Lê Trọng Nghĩa kể ở Hoả Lò, Đỗ Mười thường sảng khoái nói: Tớ đã xấu giai lại dốt chữ nghĩa, kém lý luận thì khéo sau này thành công làm thằng tuyên truyền cũng đếch nổi.XXIV
 LÊ ĐUC ANH

Lê Đức Anh lên dữ thì um chuyện lý lịch. Cai, không phải phu cao su. Xú Chột hay Cai Lé, hai biệt danh này do Nguyễn Trung Thành, vụ trưởng bảo vệ xì ra chứ không tôi làm sao mà biết được. Đảng hồi đó không kết nạp cai, lớp người bị coi là tay sai của Pháp!
Hồi Lê Trọng Nghĩa đại tá chánh văn phòng Bộ quốc phòng, Lê Đức Anh là trung tá dưới trướng. Vợ cả ông ở trong Nam ra họp đã đến tận văn phòng Bộ làm ầm lên chuyện ông lấy bà bé.XXIV

LÊ DUẨN TỐ HỮU GHÉT TƯ BẢN


Xem thêm bằng chứng về tình anh em xã hội chủ nghĩa. Phạm Dương, tình báo và tham tán của phái đoàn Việt Nam bảy năm tại Liên Hợp Quốc nói sau tháng 5-1975, đám chuyên viên kinh tế bạn anh báo cáo với Lê Duẩn rằng Đông Nam Á, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan tiến mạnh được là nhờ gia công cho các nước v.v. thì Lê Duẩn nạt: Lại muốn học chúng nó làm nô lệ ư? Một thứ trưởng y tế gợi ý cho các xí nghiệp dược của Sài Gòn cũ đang thất nghiệp làm kháng sinh gia công cho khối Comecon cộng sản thì Tố Hữu hứ: Trẻ con! Độc lập mà đi gia công! Anh tưởng Comecon mà không ngoạm nhau à?
Tôi nói: Thảo nào, tớ dịch cương lĩnh Comecon đăng báo, người ta đã chữa chữ hội nhập - integration thành liên hiệp. Cẩn thận, lợi dụng hội nhập, họ hoà tan ta như chơi đấy. Tớ định vặn thế sao bảo bốn phương vô sản là nhà và chủ nghĩa xã hội bảo đảm độc lập dân tộc?XXIV
 LÝ QUANG DIỆU
Trở lại với Từ thế giới thứ ba… của Lý Quang Diệu. Một vận hành trí tuệ sắc sảo, thiết thực, thông minh. Thế giới gọi Lý là nhà tư tưởng không hề ngoa.
Đọc nó tôi chịu ấn tượng nhất về việc năm 1965, Lý Quang Diệu xin cho Singapore ra khỏi Liên bang Malaysia để thành quốc gia độc lập với vẻn vẹn vài triệu dân rồi nhờ chính quân lính Anh bảo hộ cho trong năm năm! Theo ông, ở liên bang chắc chắn nội chiến: Đảng cộng sản Mã Lai rất năng nổ dứt khoát sẽ cho chính quyền ra bằng nòng súng. Vậy thì tránh voi chẳng xấu mặt nào!
Tôi bảo Vũ Quốc Tuấn trong ban chuyên viên của thủ tướng hãy cho dịch cuốn sách để các ông ấy đọc. “Để thấy cố vấn tối cao đã xin quân Anh bảo vệ trong năm năm”.
Rồi Tuấn bảo: “Tôi đã dịch nhưng chỉ để tham khảo nội bộ”.
- Ôi, - tôi kêu lên, nhân dân anh hùng đổ máu bao nhiêu vẫn bị xua khỏi các bữa cỗ trí tuệ mình Đảng hưởng! Thua dân Singapore, Malaysia, Thái Lan… cứ xì tiền ra là đọc. Bộ chính trị của “Đảng ta” chỉ hơn họ là không mất tiền mua!
Tôi không biết là còn tệ hơn thế nữa: các chỗ nói thật về Việt Nam đều bỏ không dịch. Thế mà đề ra “nhìn thẳng vào sự thật!”
Không thể không đặt câu hỏi tại sao Lý Quang Diệu chỉ nhằm tới lợi ích đất nước Singapore chứ không tôn thờ một ý thức hệ nào, khác Nguyễn Ải Quốc đèo bòng giấc mộng giải phóng cả loài người? Phải chăng vì Lý Quang Diệu hay Gandhi không lĩnh lương của một lực lượng quốc tế nào để mà sống?
Năm 2011, trả lời Tom Plalte phỏng vấn, Lý Quang Diệu nói số phận của Singapore phụ thuộc vào cả những gì đang diễn ra ở Mỹ. Ông cho rằng thế giới tự do phải trông cậy vào sức mạnh của Mỹ. Đây là cách nghĩ của hầu hết thế giới.XXIV
CHƯƠNG XXV
 ĐỔI MỚI


Mở cửa làm bạn với thế giới thì ba thiên sứ đầu tiên cửa thời đại ập vào và Việt Nam đầu hàng lập tức. Đó là tỷ giá đô-la làm cơ sở tính tiền, nói tiếng Anh (nói thật nghiêm là tiếng Mỹ - bà bán rau giờ cũng bái bài, thiến cu rồi sằng sặc cười) và đi xe Nhật. Nguyện trung thành với chủ nghĩa hết cả đời con kiếp cháu, rất nhanh các cốp toàn lượn Toyota. Volga, thước đo quyền lực, quyền lợi và tình liên minh vô sản vụt biến hết. Cùng Toyota lên đài là đô-la. Đô-la công khai sang tay tíu tít tại Bờ Hồ.
Dân sáng tác ca dao ngay: Hôm qua anh uống Mao Đài, Hôm nay anh đổi sang xài Vodka, Mai kia anh nhẩm Săm-pa, Uyt-ki anh xực là dân ta sướng cứ rên lên hừ hừ… Đúng là không ai mò ra được lòng dạ đâng bằng dân thật.XXV
*
 CHƯONG XXVI

NGOẠI NGỮ

 Chị P. T. M., dạy tiếng Trung Quốc ở Đại học Sư phạm đã ngồi làm thường trực mãi ở cống trường cho tới khi Trung Quốc hết là thù mới lên truyền hình dạy lại. Ông Nghĩa dạy tiếng Trung Quốc ở Cao đẳng sư phạm Hà Nội thì đi làm bảo vệ. Khi đánh xét lại, các giáo viên tiếng Nga nghỉ dài dài. Đầu tiên nói tới Đặng Chấn Liêu. Cùng tội “xét lại”. Treo giò, mất chức chủ nhiệm khoa tiếng Anh Đại học Sư phạm. Liêu cho hay hồi ấy chả ai thiết cái thứ tiếng phản động này. Nhiều phụ huynh thấy con “bị” phân vào khoa Anh ngữ đã kiện anh: “Gia đình tôi thành phần cốt cán lại thêm cơ sở cách mạng mà đi bắt con tôi học tiếng Anh là sai nguyên tắc!” Hoặc: “Con tôi thành tích học như thế sao lại đưa nó vào khoa tiếng Anh?” Liêu ở Pháp làm viên chức của Liên Hợp Quốc. Theo Cụ Hồ kêu gọi, anh về nước và bị Hoàng Văn Hoan nghi là tình báo Anh. Số là khi qua Thái hồi hương, anh gặp một người bạn nói đang hộ tống một lão thành cách mạng hiện thiếu áo rét. Liêu biếu luôn chiếc áo khoác len sang trọng, lông lạc đà. Người bạn hẹn Liêu sáng sau đến khách sạn để lão thành cách mạng cảm ơn và trò chuyện. Y hẹn đến. Lão thành cách mạng nằm quay mặt vào tường vờ ngủ. Người bạn cho biết vì vị này nghi Liêu tình báo Anh (ở Anh lâu quá!) Áo không làm gián điệp được nên lão thành nhận. Run rủi sao trong công việc Liêu hay gần gụi vị lão thành.XXVI 
*
CHỐNG TƯ BẢN

Đặng Chấn Liêu về khoa tiếng Anh Đại học Sư phạm trong dịp đảng chuẩn bị đánh Mỹ. Quản không xuể, Liêu mời Mỹ Điền sang. Mỹ Điền sang thì nghe ngay mấy giáo viên do Trung Quốc đào tạo và đang nắm trọng trách ở trường nói trước tất cả các giáo sinh: 90% kiến thức của đám người được phương Tây đào tạo là sai, 10% còn lại thì là cố tình xuyên tạc.XXVI

PHẠM THIỀU VÀ NGUYỄN VĂN NHO

Mỹ Điền nay vẫn thắc mắc tại sao hai ông thày dạy văn anh rất yêu ở trường Pétrus Ký là Phạm Thiều và Nguyễn Văn Nho lại tự sát. Phạm Thiều đã là quan chức ngoại giao và rồi treo cổ chết. Nguyễn Văn Nho có bốn con trai: hai sĩ quan quân đội Cộng sản, hai sĩ quan quân đội Quốc gia nhưng ông mò ra Bắc sống với hai đứa con vinh quang. Chả hiểu sao rồi ông lên xe lửa, khi qua một cây cầu ở bắc Hà Nội, ông gieo mình xuống sông. Con “nguỵ” không ngăn được chân bố, con “cách mạng” không giữ nổi mạng bố. Lúc Trần Đức Thảo chăn bò trên Ba Vì, Mỹ Điền đã chính tai nghe Phạm Văn Đồng bảo bà Nhất, vợ Thảo: “Chị hãy chịu khó lên Ba Vì khuyên anh ấy gắng cải tạo tốt tư tưởng…” Tôi thầm hỏi sao không nghĩ vì cái gì mà ở Paris Thảo tốt để Đồng phải “tam cố thảo lư” thế rồi về nước đã có Đồng lại thêm Cụ Hồ nữa lại hoá ra xấu? Ở các nước chuyện Thào chăn bò báo chí nó bêu lên cho phải biết là xấu hổ. Xấu hổ quá chứ! Vô ơn, vắt cam bỏ vỏ. Chỉ cho ghi nhớ công lao bản thân Đảng thôi, kỷ niệm, học tập thì thòm, hết đợt này lại sang đợt khác, dân thở không kịp.
Một lần Mỹ Điền hỏi tôi có biết bà Frida Cook không? À, bà là đảng viên cộng sản Anh lâu năm, sang giúp ta đào tạo nhiều thày cô giáo. Sau 1975, bà sang lại ta, vào Sài Gòn, bảo tôi chỉ muốn xem một thứ hiếm; trại cải tạo. Đến cổng trại, gặp ngay một cụ già. Hỏi cụ sao vào đây? “Dạ, tôi là viên chức nguỵ”. Hỏi tuổi thì đáp ngoài 70. Bà Cook kêu lên: “Ôi, tôi nghe giới thiệu thì toàn những là ác ôn… !” Khi ta chiếm Campuchia, bà gửi trả lạí ta các thứ huân huy chương, bằng khen, mọi vinh quang Đảng và Nhà nước ta cho bà. “Tôi từ lâu đã ngửi thấy ở họ một cái gì…“, bà nói. Tôi bảo Mỹ Điền: Bà ấy không biết cả chục năm trước an ninh ta đã bảo với Ngọc Lan, vợ Phạm Viết rằng bà ấy là gián điệp Anh sang ta phá hoại, Nhà nước gắn huân chương cho mụ ấy cốt để che mắt và mò phá tuyến của mụ ấy.XXVI
 CHƯONG XXVII

*
 Hộ tống Cụ Hồ tới đất Trung Quốc đang chờ họ đến đón đi thì Cụ Hồ hút thuốc, Ninh bảo Bác cho tôi một điếu. Cụ lắc đầu: Chú hút thì chú mua chứ sao lại đi xin?II,27
 *
  Võ Văn Kiệt tương ra một thư chệch hướng - thôi chủ nghĩa xã hội - gửi Trung ương. Một số người truyền tay nhau thư này. Thế là lên ngay một vụ án chính trị - vừa dẹp bên ngoài vừa đe Kiệt bên trongII,27
*
 CHƯƠNG XXXI

HẠ VNGIAP

 Mao đã chỉ cho Duẩn đích danh Giáp là đại điện cho phái hữu Việt Nam cần hạ xuống, Nguyễn Chí Thanh là đại diện của phái tả cần đưa lên…XXXI
 Quanh quẩn thời gian đó, đại sứ Mỹ Peterson ở một cuộc phỏng vấn nói: “Chúng tôi hoan nghênh Việt Nam mở cửa làm bạn với thế giới. Nhưng làm bạn có pháp luật của làm bạn, tức là quy tắc chơi mà hễ là bạn thì phải tuân thủ. Quy tắc chơi này là chúng tôi không làm ăn với khu vực quốc doanh, chúng tôi đòi công khai, minh bạch, chẳng hạn về ngân sách, tài chính, chúng tôi yêu cầu ngân hàng là một định chế kinh doanh chứ không phải ngân khố Nhà nước…”II.33
*
 Nguyễn Văn Linh, được phong tặng Anh hùng vũ trang. Con trai anh bảo tôi: Các nước họ khoe GDP (Gross domestic product, Tổng sản lượng nội địa - B.T) ta khoe anh hùng. Chú ơi, bây giờ bộ mặt của đường phố là gì? Cửu vạn, xe ôm, ve chai và gái điếm! Xưa Tàu Chợ Lớn mua trinh hai cây (vàng) lận, nay được nửa cây là sướng ngất luôn. Chú có biết ông Thướng, phó ban tổ chức trung ương không?.II,33.
*
NGUYỄN TIẾN TRUNG
Lê Giản không biết sau mười lăm năm, một tân binh từ chối học mười lời thề của quân đội vì anh không thể trung thành với Đảng. Vừa giải ngũ, anh lính bị bắt luôn. Anh lên là Nguyễn Tiến Trung. Thạc sĩ. Chỉ thề trung thành với Tổ quốc Việt Nam là chống phá Nhà nước, cái Nhà nước chưa hề có mặt mũi, con dấu, chữ ký đã ra sắc lệnh lập ngành công an đàn áp. Thật ra Nguyễn Tiến Trung đã làm cái việc mà dân gọi là chiến sĩ đường phố: Lấy lại cái mà kẻ gian tà chôm chỉa mất của dânXXXIII

ĐĨ ĐIẾM

 Chú ơi, bây giờ bộ mặt của đường phố là gì? Cửu vạn, xe ôm, ve chai và gái điếm! Xưa Tàu Chợ Lớn mua trinh hai cây (vàng) lận, nay được nửa cây là sướng ngất luôn.XXXIII
 *



Báo Nhân Dân đăng tham luận của Võ Nguyên Giáp. Ba ý: cách mạng Việt Nam “sớm nhất Đông Nam Á”, Việt Nam lập nước “cộng hoà dân chủ nhân dân đầu tiên” ở vùng này, bài học thắng lợi của kháng chiến là “gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”. Tóm lại ngụ ý độc lập của ta được chủ nghĩa Mác-Lê chỉ đạo thì không những danh giá mà còn vững chắc hơn độc lập của các nước quốc gia ở Đông Nam Á. Bất chấp vừa xin họ cho vào ASEAN! Tôi đã thư cho ông. Viết rằng:
1. Đại tướng nói “Việt Nam là nước thuộc địa đầu tiên đứng lên đấu tranh đưa cách mạng đến thắng lợi…” Xin nhớ cho là Indonesia nổi dậy trước ta, ngày 15 tháng 8-1945. Còn Philippines đã từng giành độc lập từ cuối thế kỷ 19. “Vả chăng đâu có nhờ cái đầu tiên này mà dân ta giàu mạnh đầu tiên ở vùng này? Cũng xin nhớ nước độc lập mà dân không tự do thì cũng chẳng nghĩa lý gì!
2. Đại tướng viết “ngày 2-9-1945, một nước Việt Nam độc lập đã ra đời, nước Cộng hoà dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á”. Xin thưa: Đại tướng thêm hai chữ nhân dân vào sau Cộng hoà dân chủ là sai. Quốc hiệu đầu tiện của ta là “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”. Người như đại tướng thì không nên nhầm quốc hiệu.
3. Đại tướng cho rằng “Thắng lợi lả do có đường lối chỉnh tri, quân sự đúng đắn và sáng tạo của Đảng cộng sản Việt Nam gắn độc lập với chủ nghĩa xã hội”. Xin thưa không phải như thế. Từ 1945 đến 1951, đảng đã tuyên bố giải tán. Hơn nữa, Hồ Chí Minh đã phải tự phê bình là coi nhẹ cải cách ruộng đất trên tờ Pour une paix durable, pour une démocratie nouvelle (Vì một nền hoà bình vững chắc, vì một chế đệ dân chủ mới) của phe cộng sản. 1954, đến khi đại tướng lệnh đào hào vây Điện Biên Phủ mới cải cách ruộng đất, tức là chưa làm xong cách mạng dân chủ thì lấy chú nghĩa xã hội ở đâu ra mà gắn?
Cuối thư tôi nhắc đến việc Văn Tiến Dũng hồi ký “Đại thắng Mùa xuân” đã bỏ tên Võ Nguyên Giáp, may mà đại tướng sau này ra được hôi ký “Trong tổng hành dinh”, người dân mới biết phần nào sự thật. Tôi kết bức thư: “Tôi nghĩ càng yêu nước càng phải tôn trọng sự thật”.
Thư tôi gửi đại tướng cũng biệt vô âm tín.II.37


 PHÊ BÌNH VNG


Đại tướng nói “Việt Nam là nước thuộc địa đầu tiên đứng lên đấu tranh đưa cách mạng đến thắng lợi…” Xin nhớ cho là Indonesia nổi dậy trước ta, ngày 15 tháng 8-1945. Còn Philippines đã từng giành độc lập từ cuối thế kỷ 19. “Vả chăng đâu có nhờ cái đầu tiên này mà dân ta giàu mạnh đầu tiên ở vùng này? Cũng xin nhớ nước độc lập mà dân không tự do thì cũng chẳng nghĩa lý gì!
2. Đại tướng viết “ngày 2-9-1945, một nước Việt Nam độc lập đã ra đời, nước Cộng hoà dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á”. Xin thưa: Đại tướng thêm hai chữ nhân dân vào sau Cộng hoà dân chủ là sai. Quốc hiệu đầu tiện của ta là “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”. Người như đại tướng thì không nên nhầm quốc hiệu.
3. Đại tướng cho rằng “Thắng lợi lả do có đường lối chỉnh tri, quân sự đúng đắn và sáng tạo của Đảng cộng sản Việt Nam gắn độc lập với chủ nghĩa xã hội”. Xin thưa không phải như thế. Từ 1945 đến 1951, đảng đã tuyên bố giải tán. Hơn nữa, Hồ Chí Minh đã phải tự phê bình là coi nhẹ cải cách ruộng đất trên tờ Pour une paix durable, pour une démocratie nouvelle (Vì một nền hoà bình vững chắc, vì một chế đệ dân chủ mới) của phe cộng sản. 1954, đến khi đại tướng lệnh đào hào vây Điện Biên Phủ mới cải cách ruộng đất, tức là chưa làm xong cách mạng dân chủ thì lấy chú nghĩa xã hội ở đâu ra mà gắn?
Cuối thư tôi nhắc đến việc Văn Tiến Dũng hồi ký “Đại thắng Mùa xuân” đã bỏ tên Võ Nguyên Giáp, may mà đại tướng sau này ra được hôi ký “Trong tổng hành dinh”, người dân mới biết phần nào sự thật. Tôi kết bức thư: “Tôi nghĩ càng yêu nước càng phải tôn trọng sự thật”.XXXVII
*
 MỸ BỒI THƯỜNG

 Nói Mỹ sẽ bồi thường cho một khoản đô-la mà quy thành vàng rồi đem đúc ra thì phải to bằng năm cái Nhà hát lớn. Hội Phụ nữ đã lên kế hoạch cho mỗi cán bộ nhân viên một sổ tiết kiệm 500 đồng ăn cả đời nhoè. Rồi lại còn thế giới tư bản đang thèm rỏ dãi ra với ta. Vâng, tất tần tật dầu lửa thế giới chúng nó so với trữ lượng dầu lửa của ta thế nào? Ta bằng con voi thì thế giới bằng cái tem 80 xu dán lên mông voi.XXXVIII
*
ĐẢ ĐẢO VNG

Đây là vải râu ria hậu sự của nhân sự Đại hội 8. Nguyễn Hưng Định, nguyên tlur ký cao cấp của phó thú tướng Lẽ Thanh Nghị, người đã dự cuộc biểu dương lực lượng trong đó Hồng Vệ Binh Bắc Kinh đả đảo Võ Nguyên Giáp tay sai xét lại  XXXVIII

 *
BÁO CHÍ THỜI THUỘC ĐỊA
 
Chỉ xin Đảng cho báo chí được hưởng tự do đôi phần của thời Pháp đô hộ. Té ra ngay ở xứ thuộc địa, báo chí cũng có lúc tự do như ở bên Pháp. XXXIX

*

CHUONG XC1

THẾ LỮ CỘNG SẢN

Nguyễn Đình Nghi, anh cho tôi nói tới ngọn cờ đỏ đặc biệt của bố anh: Nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà soạn kịch, nhà đạo diễn Thế Lữ, một trong số 29 hội viên đầu tiên và cuối cùng của Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, tiền thân đảng cộng sản. Thế Lữ đã gieo mầm lớn: Kết nạp Nguyễn Văn Linh và cái mầm đã hoá thành đại thụ. Nếu cứ đà đó xông lên, chắc chắn không có Tố Hữu tung hoành ở lĩnh vực tư tưởng văn học, văn hoá và làm khổ những ngày già bấu víu vào sân khấu ọp ẹp của ông. Nhưng ông sớm từ bỏ cờ đỏ.
Một hôm tôi hỏi Nghi, cùng học ở Bắc Kinh, anh coi tôi là một trong vài ba bạn bè tin cậy:
- Ông cụ ông có kể chuyện ngày ông cụ được vỡ lòng cộng sản như thế nào không?
- Không!
- Có nói chuyện ông cụ vào đảng rồi hoạt động như thế nào, nhất là chuyện ông cụ kết nạp Nguyễn Văn Linh không?
- Không, sau này Đĩnh nói rồi anh chị em đoàn kịch nghe Thép Mới kể lại tôi mới biết. Hỏi thì ông cụ im…
- Một vùng im bặt à? Mà là vùng rất quang vinh và ầm vang đấy chứ nhỉ? Thế cụ có nói tới Quốc Dân Đảng và các đồng chí bè bạn trong đảng, trong Phong Hoá, Ngày Nay, Tự lực Văn đoàn như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ… không?
- Nói luôn, nói nhiều! Họ thân ái, yêu thương, kính trọng nhau lắm, việc ấy hầu như ai cũng biết.
- Chuyện ông cụ ông bỏ cộng sản đi với Quốc Dân Đảng thật tiêu biểu. Ngược với cụ Trần Huy Liệu bỏ Quốc Dân Đảng đi với cộng sản. Theo tôi, đóng góp của Thế Lữ vào văn học lớn hơn đóng góp của Trần Huy Liệu vào sử học thế nhưng đảng thiên vị.
- Ừ, nghĩ… nghĩ thôi cũng mệt lắm…, Nghi nói khe khẽ, vẻ anh mệt mỏi.[...].
Một vài anh em thỉnh thoảng nói cụ Thế Lữ dịp này mà gặp cụ Linh thì phải biết, công kết nạp vào đảng cơ mà, thì tôi càng lấy làm lạ thấy cụ cứ một mực lắng lặng. Cụ không khoe, không kể gì hết về đoạn đời đỏ của cụ, tóm lại như vậy, nhưng… nhưng, cụ có nói chuyện này: lúc Tổng khởi nghĩa, đoàn kịch Anh Vũ của cụ đang diễn ở Huế thì Việt Minh đã lùng bắt cụ để thủ tiêu vì là Việt Quốc Quy Dét (từ chữ QD - chỉ Quốc Dân Đảng; tương tự kiểu nói “lộ bem” tức lộ bí mật, từ chữ tắt BM - BT). Mình đã nhờ người hỏi Hoàng Yến từng phụ trách công an Huế đạo đó, Yến bảo có, huy động lực lượng rất ghê bao vây, lùng bắt rất dữ. Dạo ấy hai ông Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu phụ trách xứ uỷ Trung Kỳ triệt để trừ gian ghê lắm. Chính dạo ấy đã truy sát những Phạm Quỳnh và các trí thức thân sĩ khác suốt cả dẻo Trung bộ. Nghi nói tiếp: May ông cụ tôi trốn được. Ra tới Thanh Hoá, vào nhà Đỗ Văn cơ sở đầu tiên của Quốc dân đảng Quy Dét cụ náu lại mấy hôm rồi mặc áo the, đeo râu giả, nón dứa, toàn đạo cụ đoàn kịch, cụ cải trang trốn về Hà Nội.
Cái gì khiến phủ nhận lý lịch cộng sản, không báo công, tranh công nhưng khủng bố đỏ thì ghi lại và nói cho con trai cả? Thế Lữ không cho hay. Từ cộng sản sang Quốc Dân Đảng, từ “tiên phong” rớt về “phản động”, Thế Lữ đi hết quỹ đạo long đong, điên đảo của thân phận trí thức một nước nghèo, lạc hậu dấn theo chủ nghĩa cộng sản nguyện “đứng ở bên lề tiến hoá của loài người”, gạt bỏ trí thức. Lần đầu phát Giải thưởng Hồ Chí Minh, Nghi bảo tôi: Người ta lờ ông cụ tôi.
- Ông cụ có là đảng viền đâu chứ, tôi nói. Ở ta mẻ vinh hoa đầu bao giờ cũng giành cho cộng sản, người chiến sĩ tiên phong. Đã thành nguyên tắc. Hồ Chí Minh trước hết là cộng sản rồi mới Cha già dân tộc. Mà chú ý, chỉ Cha dân tộc thôi chứ không cha già Đảng được! Huân chương lao động mãi rồi cũng đến tay Thế Lữ. Đảng ngày một rộng bụng hơn. Nghi bảo tôi lúc đón bằng khen, ông cụ ngồi đánh phịch một cái xuống sân khấu, thương quá. Tôi hỏi Nghi, tại sao?
- Đứng lâu mệt hay cụ bị chồn chân.
- Có nghĩ nhà thơ, nhà văn, soạn giả, nhà đạo diễn và diễn viên Thế Lữ muốn châm biếm, không? Con hổ nhớ rừng có câu gì nhỉ? À, “Ta vốn ghét những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối!” Có khi lúc đứng chờ huân chương, ông cụ đã nhớ tới lần đáp máy bay vào Sài Gòn cùng vợ chồng Học, con của cụ ở nước ngoài về thăm. Là giáo viên toán trung học ở Bờ biển Ngà (Cộng hoà Côte d'Ivoire là một quốc gia nằm ở Tây Phi - B.T) vợ chồng Học (được Nhà nước coi là “trí thức lớn”) được xếp cho lên ngồi tít cao cao một mình một bàn cạnh buồng lái tuy cùng giá vé. Cho tới lúc “trí thức lớn” doạ cứ đứng không ngồi nữa mới đành (theo chỉ thị mật của đảng) chiều “trí thức lớn “vớt” ông bố Thế Lữ từng theo đuổi hai cuộc kháng chiến nhưng chưa phải là trí thức, được lên ngồi cùng con, “ăn theo” con. Tôi nghĩ có khi lúc chờ nhận huân chương, cụ cũng nhớ cả lại lúc cụ phải lên báo cáo điển hình ở lớp chỉnh huấn trí thức năm 1953 để tự lột xác, làm nhục mình cùng bè bạn chí cốt của mình trước bao nhiêu trí thức khác, tôi nghĩ có khi vi nhớ lại thế mà ông cụ tức cảnh sinh tình ngồi phệt luôn xuống sàn, như muốn cho thấy tay không tôi còn lom khom đứng nổi còn phải mang tấm huân chương cao quý thì quá sức lẽ mình. Ta vẫn ghét cảnh sửa sang, tâm thường, giả dối…XCI
*
 NGUYỄN ĐÌNH NGH
 
Năm 1975 lần đầu vào thăm mẹ anh ở Sài Gòn ra, Nghi khẽ bảo tôi: Có một chuyên tôi rất buồn. Mẹ tôi quắc mắt hỏi, sao anh bỏ Chúa, đứa nào nó xui anh?
Có lẽ Nghi bỏ đảng khi biết mình sắp đi gặp mẹ. Tránh phải thanh minh khi mẹ anh quắc mắt hỏi: Sao anh bỏ Chúa mà theo ma quỷ?  Ch. 41
 
 *
CHƯƠNG XCIV
 
TÔI AC CS
 
Thế rồi tôi bỗng vụt trở lại với hội nghị. Lưu Thanh đang nói về 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không”, đêm B52 cuối cùng hết nhẵn SAM 3, chỉ còn SAM 6, Hải Phòng hắn 100 quả làm pháo hoa chiếu sáng choang trời. Tính vừa xoẳn đến viên đạn cuối cùng để thắng Mỹ thì hạch toán tác chiến quá là siêu! Lưu Thanh nói xong, Nguyễn Sinh, xưa phóng viên thường trú Vĩnh Linh, Vĩnh Mốc lên nói. Lại tố cáo những chiến công giả người ta gán cho những Mẹ Suốt, chị Trần Thị Lý sông Lấp Quảng Bình. Sông đã lấp thành tên mà báo cứ ca ngợi cô Lý oằn lưng chèo lái… Hầu hết nghe đều cười. Tự giễu và rộng lượng. Nhưng khi Sinh nói ở Vĩnh Linh, anh đã chứng kiến những người ở phía bên Nam kia bị ta bắt sang chôn sống kêu rất lâu dưới huyệt, tôi lại thấy mọi người lạnh mặt lại.44
 
 CHƯƠNG XCVII
  
 
HỒ ĐĂC ĐIỀM
 
Như Hồ Đắc Hoài, chuyên gia đâu đàn về dầu khí, trong một bữa giỗ Vũ Cận đông người vẫn từ xa gọi với đến: “Anh Trần Đĩnh, em ở đây vẫn nghe anh nói không sót một lời đấy nhé…” Hoài cho tôi biết cụ Hồ Đắc Điềm, bố anh, ngay sau Cách mạng tháng Tám đã khuyên Hoài: “Con thích thì có thể đi làm với họ nhưng hãy nhớ là phải lánh xa quan lộ của họ”. Khi nghe Hoài nói câu này, tôi nhận ra hết cái nghĩa đảo điên hỗn xược của chữ thân sĩ yêu nước. Ai cho anh vạch ra thân sĩ với chiến sĩ? Và ta, bạn, thù? 47

 
CHƯƠNG XCVIII
  Dinh cơ sứ quán Mỹ đó! Xẻ dọc Trường Son để vào đuổi nó bán xới con mẹ hàng lươn rồi rinh tùng rinh nó ra tận Hà Nội! 48
 
 
Đọc Tố Hữu Ngôi sao chân lý giữa trời, Việt Nam, vàng của loài người hôm nay”.II,48
*
Một bạn tôi, sĩ quan Thiết giáp, năm 1983 vừa tù tận Lào Cai về liền bảo tôi: Nên hiểu câu ông Hồ nói Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào thành ra Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Hoa vào, ở tù tôi rút ra cái sự thật kinh khủng lù lù ấy. Thằng Tây nó tếch, thằng Tàu nó sang.II,48


*
 Ông cha chả vẫn nói: Anh hùng như thể khúc lươn. Khi co chì ngắn, khi vươn thì dài. Hay Anh hùng nằm ngủ vỉa hè, Rách phơi của nợ lại khoe ông đây hiển hách võ công bề bề. Cứ xem đấy, trong khi chửi đế quốc như chó thì suốt ngày khúm núm biết ơn ông anh! Ta lấy máu đổ đầu rơi làm chuẩn để tự hào, họ lấy nguyên vẹn sinh linh. Đảng tự hào với nền độc lập bắt nguồn từ Cách mạng tháng Mười (Nguyễn Ái Quốc từng reo: Con đường cứu dân tộc của tôi là đây). Nhưng chính quê hương Cách mạng tháng Mười (Liên Xô - BT) đã lờ Việt Nam lúc mới chào đời đang cần ôm ấp tã lót. Vậy tự hào mặt nào, xấu hổ mặt nào? Thêm một thí dụ: Ánh lửa bạo lực cách mạng mở đường cho các ông vào Sài Gòn nhưng Sài Gòn lại mở mắt cho các ông thấy ánh sáng văn minh thế giới để sau rẽ vào xếp hàng nhờ vả nó. Ít ra “Nguỵ” nó cũng tự hào là bước đúng sớm hơn Cộng một chân! Cái chân kinh tế thị trường mà các ông khiêng về làm mảnh phao cứu sinh đấy. Khi bị thấm vấn ông đã nói dân ta anh hùng nhưng thua thằng hèn. Rất hay. Khi co thì ngắn, khi vươn thì dài… Co ngắn làm XHCN, vươn dài thì thành Xấu Hổ Cả Nước hay Xám Hối Cả Ngày, Ừ, Xin hèn tận cốt nhục.II,48

*
CS GIAN MANH -CÀI NGƯỜI
 
 Cũng hôm ấy Q, bảo tôi: Thoạt đầu dân Sài Gòn nói XHCN là Xạo Hết Chỗ Nói, tôi chưa tin. Sau thì tin. Tại sao? Đọc Tố Hữu “Ngôi sao chân lý giữa trời, Việt Nam, vàng của loài người hôm nay”. Ông ơi, phét quá! Phải là cỡ đại hâm. Tôi đã sống với lính Tây, Mỹ, Thái, Hàn, Úc… đến đánh Cộng nhưng chưa thấy thằng nào khoe là ở quê nó máy lạnh bò đầy đường như, xin lỗi, các ông. Nếu là Quỹ Ford tôi sẽ chi vài triệu đô mở hội nghị khoa học thảo luận đề tài về nghĩa vụ nói phét. Rồi nghĩa vụ cãi văng tê. Sau hiệp định Genève, thế giới tố cáo các ông cài người ở lại phá hoại thì các ông chửi là vu cáo bỉ ối và lời các ông hay dùng nhất lúc ấy là “vả vào những cái mồm nói láo”. Nay báo chí lại tự hào ngay từ lúc hiệp định Genève chưa ráo mực đã sớm cài người, rồi mở đường mòn với “con thuyền không số” để chuẩn bị cách mạng. Lạ à? Đọc Nhân Dân 21 tháng bảy linh tư đi. 48
*
VIỆT CỘNG VÀ GENEVE

Tôi đọc. Gia Lai gặp mặt 154 cán bộ được đảng phần công ở lại “bám dân bám đất, lãnh đạo chống lập tề, chống bắt lính để tiếp tục sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà ngay sau hiệp định Genève”.
Sau đó mấy hôm Q. gặp tôi. Nói ngay: Chú ý là ngay sau và tiếp tục sự nghiệp giải phóng tức là hê mẹ nó Genève đi từ sớm và uýnh luôn sang màn hai, thế nhưng lại nói vì nó không chịu tổng tuyển cử. Anh cài người, từ Lê Duẩn, anh chôn vũ khí lại, anh phá Chính quyền Quốc gia thì hỏi còn đứa nào tổ chức được tổng tuyển cử nữa mà anh cứ vu cho nó phá tổng tuyển cử! Lưỡi không xương, ông cha nói hay thật đấy! Gần đây cố vấn quân sự Trung Quốc tung ra hồi ký cho hay tháng 3 năm 1955, La Quý Ba, Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp đã vào tận Bến Hải nghiên cứu bờ biển để sớm đề phương án tác chiến “tương lai”. Tháng 9, Võ Nguyên Giáp lại sang họp với Bành Đức Hoài và tướng lĩnh Trung Quốc bàn thêm. Trung Cộng không lộ ra thì có đến mùa quít dân mới biết đảng đã cùng với Bắc Kinh chủ động tiến công trước cả Mỹ nhiều, ông biết Wilfred Burchett viết sách nói ký xong Genève, Phạm Văn Đồng ứa lệ đau đớn bảo ông rằng Bắc Kinh đã mua chuộc Pháp và phân bội Hà Nội. Rồi Đồng lại tuyên bố công nhận Hoàng Sa của Trung Quốc và không hề ứa lệ. Trong khi Hội nghị San Francisco 1951 đã công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của nước Việt Nam Cộng Hoà! Chả ma nào hiểu nối lúc nào ứa lệ thật mà giả, lúc nào thân nhiên không mà có. À, vậy thì nhờ chính đế quốc thừa nhận mà Sài Gòn thu hồi đất đai, biển đảo rồi chiến đấu bảo vệ nó. Ngược lại, ông anh cộng sản lại nẫng mất toi của Việt cộng.
- Ô hô! bất giác tôi kêu, rõ to.
Q. nắm tay tôi lắc khẽ như muốn vỗ về:
- Theo tôi, Mao mở chiến tranh thảm khốc ở Việt Nam là để dọn cho mình một bàn tiệc và đặc biệt qua đó lại còn được hưởng một món cực hiếm: đất đai của chính chiến hữu cộng sản. Một bạn tôi, sĩ quan Thiết giáp, năm 1983 vừa tù tận Lào Cai về liền bảo tôi: Nên hiểu câu ông Hồ nói Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào thành ra Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Hoa vào, ở tù tôi rút ra cái sự thật kinh khủng lù lù ấy. Thằng Tây nó tếch, thằng Tàu nó sang.48

CỘNG SẢN GIAN AC

Một điều cộng sản không thấy là tự hào và xấu hổ thường cặp díp đi đôi. Đúng mà! Ông cha chả vẫn nói: Anh hùng như thể khúc lươn. Khi co chì ngắn, khi vươn thì dài. Hay Anh hùng nằm ngủ vỉa hè, Rách phơi của nợ lại khoe ông đây hiển hách võ công bề bề. Cứ xem đấy, trong khi chửi đế quốc như chó thì suốt ngày khúm núm biết ơn ông anh! Ta lấy máu đổ đầu rơi làm chuẩn để tự hào, họ lấy nguyên vẹn sinh linh. Đảng tự hào với nền độc lập bắt nguồn từ Cách mạng tháng Mười (Nguyễn Ái Quốc từng reo: Con đường cứu dân tộc của tôi là đây). Nhưng chính quê hương Cách mạng tháng Mười (Liên Xô - BT) đã lờ Việt Nam lúc mới chào đời đang cần ôm ấp tã lót. Vậy tự hào mặt nào, xấu hổ mặt nào? Thêm một thí dụ: Ánh lửa bạo lực cách mạng mở đường cho các ông vào Sài Gòn nhưng Sài Gòn lại mở mắt cho các ông thấy ánh sáng văn minh thế giới để sau rẽ vào xếp hàng nhờ vả nó. Ít ra “Nguỵ” nó cũng tự hào là bước đúng sớm hơn Cộng một chân! Cái chân kinh tế thị trường mà các ông khiêng về làm mảnh phao cứu sinh đấy. Khi bị thấm vấn ông đã nói dân ta anh hùng nhưng thua thằng hèn. Rất hay. Khi co thì ngắn, khi vươn thì dài… Co ngắn làm XHCN, vươn dài thì thành Xấu Hổ Cả Nước hay Xám Hối Cả Ngày, Ừ, Xin hèn tận cốt nhục.
Chả biết thế nào, chia tay nhau chúng tôi dừng lại ở kết luận: Cộng sản mang ở trong lòng sức mạnh phá phách, cần có quyền lực thì lãng phí máu xương nhân dân, khi nắm quyền lực rồi thì tham nhũng tiền của của dân. Phong kiến tạo ra được nhân tài nhưng cộng sản triệt sạch. Biến dân thành những linh hồn chết.48
*

Này, sau đó tôi tự hỏi sao những người kia, những người đang sống rất cực nhọc kia lại trung thành với một chế độ đã sụp đổ, cái có thể coi như đã phản bội họ đau đớn như thế. Trong khi những người từng đánh đổ Chế độ Cộng hoà Sài Gòn thì nay đầy bất bình mà chửi thầm cái hệ thống rút cục đem lại cho họ phẫn uất hay vô cảm. Chẳng phải Trần Độ đã ân hận đánh đổ một chế độ mà té ra nó lại tốt hơn cái chế độ ông ấy tiếp tay xây dựng lên đấy ư?II,49

*
Đâu 1967, chuẩn bị đánh Tết Mậu Thân đầu 1968, Duẩn dẫn đoàn đại biểu đảng sang Liên Xô..RỒI VỀ TRUNG QUỐC.
Trong buổi tiếp, Mao tưng tửng chỉ thị một điều: Cách mạng Việt Nam muốn tiến lên thì cần làm như Trung Quốc, hạ phái hữu xuống, đưa phái tả lên. Ở Việt Nam, phái hữu đại khái như Võ Nguyên Giáp, phái tả đại khái như Nguyễn Chí Thanh.II.49

*
CHƯONG 50

VIỆT CỘNG CẦU HÒA NHẬT

Cụ Hồ với ông nghĩ mãi mới ra Quân lệnh đòi quân tổng khởi nghĩa tấn công các đồn binh Nhật, tịch thu Ngân hàng Đông Dương, tiêu diêu diệt đảng phái phản động thế nhưng đám Hà Nội đã làm ngược lại hết! Nhưng rồi nhận ra là chính vì làm trái Quân lệnh số 1 mà Hà Nội đã giành ngon được chính quyền, Trường Chinh bèn ra lệnh cả nước ngừng đánh Nhật - tức là lặng lẽ phế bỏ Quân lệnh số 1 tuy nó vẫn được lấy làm cơ sở để phê phán Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội không tước vũ khí quân Nhật, không tịch thu Ngân hàng Đông Dương và không tiêu diệt các đảng phái phản động (có đăng trên Cờ Giải Phóng mà tôi, mười lăm tuổi đọc ở Nhà Thông tin cạnh hàng Chabot Tràng Tiền).
Ngay sau đó theo lệnh Trường Chinh, Lê Trọng Nghĩa đã cấp xe hơi để ở 101 Trần Hưng Đạo - nhà thờ họ quan lại của Hồng Ngọc, vợ Hoàng Minh Chính sau này - cho Lê Đức Thọ lên Thái Nguyên bảo ngừng đánh Nhật.
Cần hiểu đặc điểm ở Việt Nam lúc đó. Đồng Minh chưa vào tiếp nhận Nhật đầu hàng thì dù đã độc lập - nền độc lập được Nhật đồng tình - Việt Nam vẫn ở dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của quân Nhật. Cho nên Đồng Minh kéo quân vào Việt Nam mà chẳng ngó ngàng gì đến Việt Minh. Chả thấy Việt Minh đón tiếp, chiêu đãi đại diện Đồng minh nhập Việt hay cùng Đồng minh tiếp nhận quân Nhật đầu hàng (tức là Đồng Minh không coi Việt Minh đã đánh Nhật) cùng biết bao sự kiện lớn lúc đó v.v… Hơn nữa, Việt Minh làm gì lớn vẫn phải được phép của Nhật.
Một thí dụ. Khoảng 22, 23 tháng 8, Trường Chinh chì thị cả nước ngừng đánh Nhật (thực chất là sửa sai) và lệnh cho một đơn vị Quân giải phóng từ Thái Nguyên kéo về Hà Nội gây thanh thế. Ai hay đến Cầu Đuống, lính Nhật đã hầy hầy xua Quân giải phóng trở lui, không cho vào Hà Nội. Nghĩa phải nhờ ông tổng thư ký Hội hữu nghị Việt - Nhật và cô Lý Hán Tân xin Nhật cho Quân giải phóng vào Hà Nội.
Sự kiện trọng đại này đáng vào sử sách quá chứ! Đúng! Nếu như Nhật dứt khoát cấm Quân giải phóng qua cầu Đuống?
Chỉ hai việc đầu não cách mạng Tân Trào mù tịt tin Hà Nội khởi nghĩa thành công và Việt Minh vũ trang phải được Nhật cho phép qua Cầu Đuống mới vào được Hà Nội, đã đủ cho thấy vận hội khách quan vô cùng tốt đẹp của đất nước. Nói lại: vận hội của toàn dân nhưng cuối cùng đã bị Việt Minh ẵm gọn làm vốn liếng riêng của mình.
Tần Trào ba ngày không biết Hà Nội đã khởi nghĩa thẳng lợi và quân chiến khu về phải xin Nhật cho qua cầu Đuống, chỉ hai việc ấy thôi đủ nói Việt Minh chả có đuổi Nhật gì hết. Và tuy ngày 23 tháng 8 mới vào Hà Nội, Cụ Hồ vẫn cảnh giác bắt đi vòng qua sông Hồng ở mạn cây đa làng Sọi có Vũ Đình Huỳnh chờ đón Cụ lên xe hơi qua cầu Sông Cái rồi rẽ phố Hàng Khoai, và thể là Cụ đã được ngắm thủ đô ở cái góc mang tên thứ lương thực tiêu biểu nhất của dân ta - đúng là nông thôn bao vây thành thị. Rồi Cụ hài lòng ra ngay chỉ thị tiếp tục hoà hoãn với Nhật, tha Bảo Đại, một lần nữa mặc nhiên thừa nhận Quân lệnh số 1 yêu cầu tiến công Nhật, đàn áp chính quyền Trần Trọng Kim và tiêu diệt đảng phái phản động là duy ý chí kiểu con ếch nằm trong đáy giếng.
Theo chỉ thị của lãnh tụ tối cao tiếp tục hoà hoãn với Nhật, (chứ chả lẽ chuyển sang vũ trang?), Lê Trọng Nghĩa lại lấy xe ở 101 Trần Hưng Đạo cho Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận vào Huế nhận thoái vị của vua Bảo Đại.50

*


*

CHƯƠNG 51

THƯỢNG TƯÓNG VŨ LĂNG BẠI TRẬN

Don Oberdorfer, nhà báo Mỹ, tác giả cuốn Tết! Điểm ngoặt trong chiến tranh Việt Nam (Têt! The Turning Point in the Vietnam War) in lần đầu năm 1971 và tái bàn năm 2001 cho rằng trận Mậu Thân 1968 có 58.375 Việt cộng bắc và nam đã bị chết. Dân chết 14.300 người, kể cả phụ nữ trẻ em. Đặc biệt tố cáo có hơn 2.500 dân, trong đó có một số giáo sĩ, linh mục Đức đã bị quân chiếm đóng Huế tàn sát ở Huế. Don Oberdorfer viết khá tỉ mỉ vụ thảm sát tai tiếng ghê rợn này.51

Đảng tuyên truyền rùm beng cho thắng lợi Tết Mậu Thân. Lờ đi sự thật đau đớn là kế hoạch nổ súng bất ngờ của đảng đã lọt vào tay Mỹ. Sau này CIA Mỹ giải mật một tài liệu cho hay Mỹ biết chính xác ngày giờ quân Bắc vượt vĩ tuyến vào Nam nhưng tướng Creighton Abrams và đại sứ Bunker không báo cho Chính phủ Sài Gòn biết. Nixon đã khoái trá bảo Kissinger: Xong keo này sẽ có một bên nướng nhẵn hết quân. Theo tài liệu được giải mật này thì CIA cài được người vào Trung ương cục miền Nam (Cục R). Người ấy là ai thì Mỹ cố nhiên không giải mật.II,51
Lê Trọng Nghĩa và Vũ Lăng cho tôi hay Tết Mậu Thân quá gay go, Giáp được cho về nước. Ở đây nên biết cuối 1967, Giáp đã xin cho về vì sức khỏe đã khá nhưng trong một cuộc họp Bộ chính trị, Sáu Thọ nói tưng tửng: “Thôi, anh ấy thì còn về làm gì nữa”.
Vũ Lăng khen Giáp: Tài là giê-nê-ran (general, tướng - BT) về cấm có hỏi tôi ở nhà vừa qua làm gì và sắp tới sẽ làm gì. Bơ đi y như hiểu rằng tôi đã nhận được lệnh cấm khẩu và giê-nê-ran tổng tư lệnh nên biết phận, đừng có mà tọc mạch chõ vào.
Tôi đùa: Giáp quen sống trong vòng vây hãm của Duẩn, Thanh, Thọ rồi. Mà khi Giáp đang tung hoành thì lại có người sống trong vây hãm của Giáp.51
 
*
Mới là tướng nguỵ lật Diệm mà dân còn đổ ra trắng đường. Sài Gòn để hưởng ứng thì nay cách mạng về dân đổ ra đường phải bằng lũ”.II,51

*
HỒ BỊ KÌM KẸP

 Lê Trọng Nghĩa cũng kể rằng Cụ Hồ vừa được triệu gấp ở Bắc Kinh về để họp hội nghị này, nghe Anh Ba cả quyết Anh Hai Sài Gòn ủng hộ cách mạng dữ như vậy, ông Cụ đã hỏi thêm về Anh Hai thì bị Tố Hữu ngắt lời luôn, Bác chữa bệnh xa nước lâu ngày, tình hình phát triển, nhiều cái Bác không biết rồi, ý là thôi đi, Bác hỏi làm gì. Nghĩa kể lại chi tiết này còn lè lưỡi: ông nhà thơ quên béng mất, “Người là Cha, là Bác, là Anh… Người ngồi đó với cây chì đỏ, Chỉ đường đi từng bước từng giờ…” Ở đây có chuyện chiếc máy bay đêm đưa Cụ ở Nam Ninh về đến sân bay Bạch Mai thì phát hiện đèn hiệu đặt lệch 15 độ, hồi ký Vũ Kỳ mà chắc ông có đọc, đã kể tường tận lại vụ ông Cụ chỉ còn cách cái chết có một sợi tóc. Thế là lần ấy ông Cụ có ba đại sự: một sự cố mấp mé cái chết, một câu hỏi bị gạt, một góc bàn để dự họp và đến khi Tổng tiến công - Tổng nổi dậy thì một cái buồng vắng lặng ở Bắc Kinh để Vũ Kỳ và ông Cụ tự dò các đài phát thanh, cũng theo hôi ký Vũ Kỳ. Về lý do đánh Tết Mậu Thân, theo ông, tôi hỏi Vũ Lăng, thì là vì duy ý chí chủ quan khinh địch hay trong sâu kín còn có ý gì khác? (Vũ Lãng nhíu lông mày). Tôi thì ngờ rằng ở sau mong muốn cố giành thắng lợi quan trọng trong Tết Mậu Thân, Duẩn còn có tính toán không thể thổ lộ là đưa nhanh đất nước thoát khỏi cái thể hiểm nghèo: Đại hậu phương đang Cách mạng văn hoá loạn như nội chiến mà chẳng biết rồi sẽ còn tan hoang đến đâu. Đánh một trận nổi đình đám để nếu thắng dứt thì còn gì bằng, còn không cũng có thể sẽ làm cho Mỹ nản chí mà xuống xề đàm phán, như vậy Duẩn sẽ không mang tiếng “bỏ cuộc”. Ai ngờ chiến lược bị đánh sập rồi mà Mỹ lại “lên xề” xốc tới. Bảy năm gian nan nữa. Mà ở đây chí cần biết làm tính cộng trừ thôi là thấy ngay sai đúng.51
*
CHƯƠNG 52

 TRẦN ĐỘ VÕ NGUYÊN GIÁP

Một bữa đã gặp một sĩ quan thông tín dưới quyền anh ngày xưa cầm các dây điện lên đứng im lặng xem.
- Nghe nói ông Giáp, bà Hà đến thăm anh, tôi hỏi?
- Có đến đấy.
- Vui không anh?
- Chả vui… (Chớp chớp mắt nhìn trần) Cảm động thì có. (Im một lát nói tiếp:) Anh Giáp nắm tay mình thế này nói thương Trần Độ lắm, thương Trần Độ lắm, chẳng làm cái gì, chẳng qua nói thật… Đến đây bà Hà khẽ giật tay ông Giáp, ông Giáp bèn thôi… (Ngừng một lát lại nói:) Không biết tôi nghe có lầm không nhưng tôi nhớ là anh Giáp có nói thế này: Tôi nhất trí với những cái anh đã viết… Đến đây bà Hà lại giật một cái, ông Giáp lại im.
- Bà Hà chắc còn sợ cái phương án Sáu Thọ đày cả nhà ra đảo Tuần Châu… Ra đảo thì ông Giáp thành An Tiêm nhưng dưa ông Giáp trồng là dưa Tây-về chứ không phải Tây-qua…
- Anh phải thấy bà Hà giật tay ông Giáp và ông Giáp nghe lời, Trần Độ cười.
- Cũng có lúc chả phải đến bà Hà giật. Phan Kế An bảo tôi một tối ông Giáp cùng một bảo vệ đến nhà An chơi theo hẹn. Lúc này ngồi chơi xơi nước, Giáp đang học piano và làm giao hưởng Điện Biên Phủ với Lê Liêm. Bốn chương, mỗi anh viết hai. Ai hay lão Podonski, hình như phó đại sứ Liên Xô tình cờ lại đến trước. Lão này bị coi là “giặc tình báo”. Đến lưng chừng cầu thang nhìn thấy phòng khách có Tây, ông Giáp bèn quay lui luôn. An ra mời thế nào ông Giáp cũng nhất định để khi khác.
- Ghê nhỉ… (Trần Độ nói và tôi chả tiện hỏi cái gì ghê. Rồi Trần Độ nói tiếp:) Ai cũng hãi mạng lưới công an phủ kín mít.
À, trước khi về, anh Giáp ghé xuống sát mặt mình nói: Phải sống đấy nhé, nhất định phải sống đấy, nhất định sống… Làm cứ như nhật lệnh, không nghe thì kỷ luật phắt. (Trần Độ lại cười).
Giáp đọc thấy cái gì báo trước trên mặt Trần Độ. Năm sau Trần Độ chết
Những ngày ấy tôi đã nghe giáo sư Đào Đình Đức bảo Trần Độ bị ung thư bàng quang. Cùng anh khám chữa bệnh cho Trần Độ, Bửu Triều nói với anh như thế. Nhưng tôi coi việc bác sĩ giấu bệnh nhân là bí mật nghề nghiệp. Và tinh thần lạc quan của Trần Độ thường làm tôi quên đi.
Xê hông dịch vai đổi thế nằm, Trần Độ chợt hoạt bát lên: Này, tướng văn nghệ Chu Phác đến cho biết đã nộp lên Lê Khả Phiêu tập Rồng rắn kẹp cổ minh mà lấy! Đọc rồi Phiêu nói cái này gồm hai phần thì phần đầu nhận xét tình hình và phê phán là đúng hết cả…, chỉ có phần hai tức là về cách sửa và dự báo thì không theo được. Chà, bảo khó theo cũng là một cách nói thế thôi.
- Đại ý anh viết sao?
- Thì nói là sai, là suy đồi. Viết suy nghĩ và cảm xúc cá nhân tôi về đảng, về tình hình, về lối ra là dân chủ… (Ngừng một lát nói tiếp:) Ngày càng rõ là trong mắt Đảng, dân chẳng ra cái đinh gì, đấy, tôi mới nói tăng quyền dân lên, dân chủ hoá là bị ngay tội chống Đảng. Thế ra thân với dân là phản động? (Trần Độ lắc lắc đầu).
- Thân Quốc gia chết, thân phương Tây chết, rồi thân Xô Cộng chết, thân Trung Cộng chết, đấy Hoàng Văn Hoan, Chu Văn Tấn, Lý Ban. Nay thân dân như anh chết nốt.52
 
*
Mao Chủ tịch đã nói hẳn với Lê Duẩn: “Đại biểu của phái hữu ở Việt Nam đại khái như Võ Nguyên Giáp, đại biểu của phái tả ở Việt Nam đại khái như Nguyễn Chí Thanh” và “cách mạng ở Việt Nam muốn tiến lên thì phải hạ phái hữu xuống”!

Ông chết rồi vẫn bị Bắc Kinh hạ xuống. Thủ tướng Trung Quốc sang trưa 13-10, người ta liền xén luôn nửa ngày Quốc tang ông! Đảng xén ngon vì biết rõ Giáp vẫn bị Bắc Kinh không ưa (ông là người duy nhất ở Việt Nam trên sách báo công khai vạch âm mưu xâm lược bá quyền của Mao) Nếu ưa thì Lý Khắc Cường sẽ xin đến hương khói cho Giáp một nén, dẫu là tượng trưng. Cũng thấy ngay toàn thể trung ương kém Lý Khắc Cường. Giáp mất, Trung ương không dám hoãn tang ông - hoãn cũng là một thứ xén - để họp yên Hội nghị trung ương lần thử 8 mà còn thêm mục toàn bộ trình diện cúi đầu trước vị công thần kiêm phần tử chống đảng.II,52
*

TỐ HỮU VÀ NGUYỄN TẤT THÀNH

Sơn Tùng kể lại với tôi những năm 70 anh xin Tố Hữu duyệt cho phim Nguyễn Tất Thành. Xem xong kịch bản, Tố Hữu gọi lên sầm mặt nói: Tôi không thích một chút nào cái tên Nguyễn Tất Thành cả! Là gì đây? Chẳng là gì hết. Với chúng ta, phài là Nguyễn Ái Quốc, phải là Nguyễn Tất Thành đã đầu hàng giai cấp công nhân, đã sang Liên Xô, đã làm việc cho Quốc tế… cố nhiên bộ phim bị phá sản. Tôì bảo Sơn Tùng: Học Tố Hữu, tôi cũng nói tôi chẳng thích tý nào chữ Việt Nam. Là cái gì đây? Chẳng là cái gì cả. Phải là Việt Nam đã đầu hàng cộng sản, đã theo Liên Xô, Trung Quốc và v.v…52

*
TRẦN ĐỘ

Những chuyện thất nhân tâm trong tang lễ Trần Độ đã được nói đến quá đủ, quá nhiều. Ngày nào nhật lệnh Võ Nguyên Giáp ban ra, cả nước răm rắp làm theo thì nay chữ “thương tiếc” của Giáp trên băng viếng Trần Độ đã bị cắt thẳng cánh. Sau đó hai vị thượng tướng Lê Ngọc Hiền và Nguyễn Hoà đến và đều bị yêu cầu bỏ chữ “kính viếng” và “đồng chí Trần Độ”. Hai vị tướng cáu. Đánh đông dẹp bắc, vượt vĩ tuyến 17 như bỡn, không gì cản được ta mà nay lạĩ đi tước xén tình cảm ta? Lời qua tiếng lại. Cuối cùng đám tư tưởng - văn hoá - an ninh hỏi: “Các bác có là đảng viên không? Có! Vậy các bác nghe đảng hay nghe ai?” Băng giấy “Thương tiếc đồng chí Trần Độ” lặng lẽ rớt xuống. Vòng hoa vô hồn được phép khiêng qua, một cái xác không mặt, vô thừa nhận. Quang Hưng, ca sĩ quân đội nhặt băng giấy lên. Đem về cho mọi người trong khu tập thể quân đội Mai Dịch xem và… chửi.
Bước vào lễ sảnh thấy ngay một cái gì hẫng hụt. Một ngôi nhà chưa ai ở, chưa bàn ghế và hình như được đẩy cao trần lên. Trống trải đến trơ trẽn. Phải một lát mới nhận ra tấm băng-rôn đỏ thắm với dòng chữ vàng quen thuộc VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC vẫn chạy dài trên bức tường ở trong cùng lễ sảnh đã biến mất Thay vào đó tấm vải đen với năm chữ trắng lạnh ngắt: LỄ TANG ÔNG TRẦN ĐỘ.
Tôi bảo Hoàng Minh Chính: vẫn để xổng mất chữ lễ! Lẽ ra chỉ TANG TRẦN ĐỘ
Chính ừ, đúng khá to rồi nghển cổ nhìn quanh. Tôi cảm thấy có vẻ anh muốn tìm ban tổ chức để mách cho sửa kịp sai sót lớn này.
Chờ lễ tan, tôi nghĩ miên man. Chợt nhớ đến hôm tôi đến thắp hương chị Câu mà Trần Độ mới tìm thấy mộ, anh có nói tôi thương chị tôi chưa yêu và chưa được yêu thì như để anh khuây khoả, tôi bảo Lưu Động có cho tôi hay rằng anh em xưa xì xào Câu và Đào Năng An yêu nhau. Nghe tôi, Trần Độ nói: “Khi tù ở Hoả Lò tôi hay gần anh An và tôi luôn coi anh An là một người anh”. Thế rồi không hẹn mà nên hai người đã đi đến một kết luận giống nhau. 1979, Trung Cộng đánh Việt Nam, Đào Năng An nói Mao-ít cố nhiên là không hay rồi nhưng còn cái ít khác thì cũng chả có hơn gì. Hai chục năm sau, 1999, Trần Độ ân hận đã đánh đổ một chế độ té ra còn tốt hơn cái chế độ anh bỏ sức ra xây dựng. Lúc tù Hoả Lò, còn trẻ cả, hai người có nghĩ rồi sẽ gặp nhau ở điểm tâm đắc này không? Thấy cái đúng có vẻ như vẫn có một hệ rễ ngầm len lỏi tìm nhau và kết lại để rồi có ngày vươn lên thành rừng cây lớn.[....].Gia đình đưa thi hài Trần Độ về quê. Cùng xe an ninh bám sát. Sau Bùi Công Trừng, Lê Liêm, Đặng Kim Giang…, một công thần nữa bị xua khởi nghĩa trang Mai Dịch, cái tên mà tôi hiểu ra là nơi chôn các sai nha, dịch lại hoặc đến mai sẽ bị dịch đi nơi khác. Hay mò ra câu răn trong dân gian: “bất hạ Mai Dịch kỳ”, - không đánh cờ ở Mai Dịch, nghe đâu cờ ở đó bịp bợm lắm.
Và Trần Quang Huy, một trong mấy mũi xung kích công phá dữ đội “xét lại” trong Hội nghị trung ương lần thứ 9 đã là người đầu tiên tự ý cự tuyệt Mai Dịch. “Chết tôi không vào đó, chỗ ấy nhiều tên tuổi bẩn thỉu”. Ông còn nói với Lê Trọng Nghĩa: “Tôi tưởng chỉ Trung Cộng mới độc ác, ai hay Việt Cộng không kém”.[...].
 
 VÕ NGUYÊN GIÁP
Ông chết rồi vẫn bị Bắc Kinh hạ xuống. Thủ tướng Trung Quốc sang trưa 13-10, người ta liền xén luôn nửa ngày Quốc tang ông! Đảng xén ngon vì biết rõ Giáp vẫn bị Bắc Kinh không ưa (ông là người duy nhất ở Việt Nam trên sách báo công khai vạch âm mưu xâm lược bá quyền của Mao) Nếu ưa thì Lý Khắc Cường sẽ xin đến hương khói cho Giáp một nén, dẫu là tượng trưng. Cũng thấy ngay toàn thể trung ương kém Lý Khắc Cường. Giáp mất, Trung ương không dám hoãn tang ông - hoãn cũng là một thứ xén - để họp yên Hội nghị trung ương lần thử 8 mà còn thêm mục toàn bộ trình diện cúi đầu trước vị công thần kiêm phần tử chống đảng.
Giáp có nhớ cuối tháng 9-1990, Trung Cộng đặc cách mời ông sang dự khai mạc Á vận hội rồi gặp Giang Trạch Dân? Rất long trọng. Khác hồi 1978 ông sang cảm ơn Trung Quốc chi viện đánh Mỹ thì đã bị cho ăn cơm có cả bát mẻ..52
*
Ai ngờ chính trong dịp Đại Khánh vẻ vang này, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và cả một Việt Nam búa liềm đã bị Stalin công khai hắt hủi, ruồng bỏ. Trong khi Sukarno vừa được máy bay Nhật đặc cách đưa từ Sài Gòn về Indonesia giành chính quyền (trước Việt Nam hai ngày) liền được Stalin công nhận ngay!

Có điều lạ: Stalin từng lệnh cho Trần Phú thay Nguyễn Ái Quốc làm Tổng bí thư đảng thì sao sau mồng 2 tháng 9 năm 1945, Stalin lại không yêu cầu Hồ Chí Minh xuống cho người khác vừa mắt Stalin lên thay làm chủ tịch nước mà cứ một mực gạt thẳng. Lý do? Phải chăng Stalin không muốn De Gauìle thấy ông thân thiết với Việt Cộng?

Bảy Trấn bảo tôi lúc chưa bị Pháp bắt, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai ở trong Trung ương của Nguyễn Văn Cừ vẫn hay cho đản em ôn lại bài học Quốc tế kỷ luật Nguyễn Ái Quốc. Trong đàn em này có Lê Duẩn. Đã nghe đàn anh đem bài học phản diện Nguyễn Ái Quốc ra rèn giũa lập trường (chẳng hạn Hà Huy Tập nói tớ đã viết hẳn ra rằng chủ trương cách mạng thiếu quan điểm giai cấp của Nguyễn Ái Quốc là “ngu ngốc và buồn cười”) thì Lê Duẩn rất khó hình dung Nguyễn có ngày lại là lãnh tụ tối cao của Đảng và dân tộc. Vậy khi biết Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc thì Lê Duẩn có chột dạ không? Rồi lại biết Hồ Chí Minh cùng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bị Stalin tiếp tục lờ nữa thì Lê Duẩn sẽ phàn ứng sao? Duẩn tất yếu phải tin anh hùng Stalin vừa chiến thắng Hitler, cứu vớt loài người chứ sao lại đi bênh chằm chặp Hồ Chí Minh ôm tình báo Mỹ ở bên mình? Khó mà không dành lòng nghi ngại sẵn ở một bên.II,55
*
Trần Phú đã được Stalin cử về lập lại đảng rồi làm Tổng bí thư kèm luận cương Trần Phú để từ đó mỗi năm nhận 5.000 quan Pháp hay 1.200 đô la Mỹ do Quốc tế Cộng sản cấp cho mà hoạt động. Rồi Stalin lại một lèo phủ nhận nốt Cách mạng Tháng Tám và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cùng Hồ Chí Minh là chủ tịch ngày 2-9. Về sứ mệnh vĩ đại của mình, cộng sản thường nói: “lịch sử đã lựa chọn và giao phó”. Nhưng dân Việt lại chửi lịch sử là thằng ác ôn nào mà chuyên trao cho các ông những nhiệm vụ khốn khổ khốn nạn.

Mà kìa, cũng thằng lịch sử ấy đã trao cho Đảng cộng sản Liên Xô sứ mệnh bỏ ghế lãnh đạo, về vườn. II.55
*
Thế nhưng - xin đi tiếp dòng chuyện - tại sao đang lờ hẳn thì đến 1950, Stalin lại tiếp Hồ Chí Minh? Và đang khai trừ, trục xuất thì lại quay sang lưu dụng?
Ngày 1-10-1949, Trung Cộng lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Mao sẽ đi gặp Stalin đầu năm 1950. Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh dịp đó nhưng phải chờ Mao hội kiến Stalin xong. Lần đầu tiên hai lãnh tụ cộng sản sừng sỏ hội đàm, một người đã bị thành trì cách mạng giập tên xoá số thì sao mà cùng dự được?
Ờ đây lại mượn báo đảng ngày 30-6-2013: “Cuộc gặp gỡ của Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng chí Xta-lin (tháng 2-1950) có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây là cơ hội thuận lợi (Tôi nhấn). cho Chủ tịch Hồ Chí Minh được trực tiếp trình bày với các nhà lãnh đạo Liên Xô về tình hình cách mạng Việt Nam, về những chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Đông Dương và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đang tiến hành để nhận lấy sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô từ đấy”.
Vậy nay thì cơ hội thuận lợi ở đâu ra?
Ở Mao. Phải nói đến vai trò rất lớn của Mao Trạch Đông trong việc trục vớt Việt Cộng trở lại phe cộng sản, tuy Việt Cộng không nhắc đến nó bao giờ.
Từng hai phen đánh trượt thí sinh Hồ Chí Minh thì nay nghe Mao, Stalin đã gặp Hồ Chí Minh và cho gia nhập phe!
Và cho Trung Cộng “phụ trách” luôn Việt Cộng. Để ghi nhận cho Trung Cộng cái công vớt nạn nhân bị chính Stalin đẩy té biển, đồng thời cũng là để hối lộ vị anh hùng đã làm cho con Sư tử ngủ phương Đông thức dậy nhưng lại kị Xô.
Bằng cách vừa cho Mao gộp vấn đề Biển Đông và Việt Nam vào chung một hồ sơ Trung Quốc lại vừa giúp Stalin lánh xa cái người Stalin từ lâu đã không ưa.
Bởi thế, 1951, ở Hội nghị San Francisco, Liên Xô đòi Biển Đông và mấy quần đảo - trong có Hoàng Sa, Trường Sa - cho Trung Quốc! Bất cần Hồ Chí Minh nghĩ sao.
Còn lại vấn đề này: Mao xin Stalin nhận Hồ Chí Minh và Việt Nam là do động cơ vô tư trong sáng, hoàn toàn vì lợi ích quốc tế vô sản của Mao hay sao?
Câu trà lời ở trong Sách Trắng của Hà Nội công bố năm 1979.
Té ra từ rất rất lâu sóng bạc Biển Đông đã lấp loá trong tầm nhìn Đại Hán của Mao. Trước khi lên cầm quyền toàn cõi Trung Hoa, Mao đã nuôi mộng xơi cả Việt Nam. Nay cơ trời đã hé rạng cho Trung Hoa nên mới run rủi cho Việt Cộng tự nguyện đem mình đến xin làm phên giậu để Mao thao túng, sử dụng cái yếu địa này làm bàn đạp vươn ra xây chín khúc lưỡi bò.
Vậy là cùng với “Chính quyền công nông đầu tiên xuất hiện ở Đông Nam”, mầm hoạ của dân tộc cũng cắm rễ luôn vào cơ thể Việt Nam. Trong tay Xô Cộng, Trung Cộng, ý hệ cộng sản đã trở thành một thứ “ngựa thành Troie”.II,55
*
Lần thứ ba Hồ Chí Minh là nạn nhân lớn là vào hồi Nghị quyết 9, vào chính lúc Mao dạy “một tách đôi” là quy luật biện chứng để phá sự thống nhất của phong trào cộng sản. Tấm lòng son hai vai hai gánh ân tình của Hồ Chí Minh liền chịu cơn thử thách kinh hoàng.
Lớn đến độ sau đó Hồ Chí Minh ngồi chơi xơi nước. Còn suýt theo máy bay đâm xuống đất. Thoát nạn để chứng kiến hai cộng sự cùng mình làm nên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hạ đài thiểu não.II,55
*
 Năm 2013, báo chí Trung Quốc bỗng nói đến cuốn sách “Hồ Chí Minh sinh bình khảo” của học giả Hồ Tuấn Hùng, giáo sư chính trị Trường Đại học quốc lập Đài Loan ở Đài Bắc, cháu họ nhân viên tình báo Trung Cộng Hồ Tập Chương. Bắc Kinh không hề lên tiếng bác bỏ (Còn riêng cá nhân tôi thấy Hồ Chí Minh hết sức Nghệ và hết sức Việt Nam)!
Vẻ như ganh với giáo sư Hồ Tuấn Hùng, China Org. com, một cổng thông tin điện tử của chinh phủ Trung Quốc có bài đánh giá mười công trình kiến trúc xấu nhất thế giới. Đã chọn Lăng Hồ Chí Minh. Nhận xét giống như nhà xí công cộng thời La Mã!
Lịch sử không thể lờ đi sự thật này: Với Hồ Chí Minh, ai vung nhát đao đầu tiên và ai hạ lưỡi đao cuối cùng? Thưa, hai lãnh tụ Quốc tế tối cao Stalin và Mao.
Pierre Brocheux nói: “Trong vụ án xét lại chống Đảng cũng vậy, ông Hồ Chí Minh cũng đã nhận ra bản chất của chế độ nhưng chẳng làm gì được. Hơn nữa, kể từ nắm 1960 chính nhóm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh mới thực sự là những người nắm quyền. Theo nghiên cứu cửa tôi thì cá một giai đoạn trước khi qua đời, ông Hồ bị cách lỵ khỏi quyền lực, tức là không hề có quyền gì. Ông ấy bị biến thành một biểu tượng”.II,55
*

No comments: