Tuesday, May 2, 2017

VÕ PHƯƠC HIẾU * NHƯ NƯỚC TRONG NGUỒN


Như Nước Trong Nguồn


(Tập truyện)
In lần thứ nhứt năm 2006
HƯƠNG CAU
Mến trao Tiện nội

và các con tôi.

 Tác giả


-***-

 



                                                     VÕ PHƯỚC HIẾU



                                                       Và Tiểu Thuyết Đồng Quê



           Tiểu thuyết loại nầy là tiểu thuyết viết về con người, phong cảnh, cuộc sống, phong tục, tôn giáo, thực phẩm và y phục ở nơi thôn quê, đồng ruộng. Một số nhà văn cũng viết về thành thị, như Sài Gòn, Huế, Hà Nội, hoặc về những phố nghèo, hay những xóm lao động, về vùng ngoại ô hay vùng ổ chuột như Khánh Hội, Xóm Củi, Chợ Cầu Muối… Do đó không thể dùng chữ đồng quê, có lẽ dùng chữ quê hương thì thích hợp hơn. Tuy nhiên, đa số nhà văn Việt Nam và nhà văn quốc tế thích dùng từ «đồng quê», cho nên ở đây ý nghĩa đồng quê được mở rộng. Trong các nhà văn Việt Nam, các nhà văn Nam Kỳ Lục Tỉnh đã giữ truyền thống của Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Vương Hồng Sển, nghĩa là câu văn hơi dài, tự nhiên, chất phác, mang nhiều âm sắc ngôn ngữ Nam Kỳ Lục Tỉnh, cùng những sinh hoạt, phong tục của dân chúng nơi đây. Trước 1975, Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Lê Xuyên, Sơn Nam được coi như những nhà văn Nam Kỳ (1). Ngày nay, tại hải ngoại các nhà văn Nam Kỳ Lục Tỉnh đã vươn mình đứng lên, tạo thành một lực lượng đông đảo như Võ Kỳ Điền, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Trường An, Nguyễn Văn Ba, Võ Phước Hiếu. Vũ Bằng là người miền Bắc đã viết Miếng Ngon Hà Nội, lại viết về các món ăn và phong cảnh miền Nam cho nên ông được gọi là nhà văn quê hương Việt Nam.

            

Văn chương đồng quê là văn chương tả một vùng đất quê hương, nay đã trở thành quá khứ nhưng vẫn hiện hữu trong tâm tưởng nhà văn. Quê hương gồm phong cảnh, con người, nếp sống, y phục, cây cỏ và thức ăn. Tất cả là những hình ảnh, những màu sắc, những hương vị thể hiện qua những kỷ niệm, lời nói, màu sắc y phục, cây trái và hương vị thức ăn. Viết về ruộng vườn dân làng, những hội hè đình đám là viết về quê hương, là bày tỏ lòng yêu quê hương. Quê hương là núi là sông và cũng là những gì vô hình nay thể hiện, nay trở về qua hình ảnh, màu sắc quá khứ. Những nhà văn đồng quê là những người yêu đất nước, xứ sở. Tình yêu đó đã trải dài qua bao chặng đường lịch sử. Giai đoạn 45-55, giai đoạn 55-65 ở miền quê cộng sản đốt nhà, giết người, đấu tố, cải cách thương nghiệp… nông dân phải rời bỏ ruộng đồng mà đi. Đa số vào Sài Gòn. Bình Nguyên Lộc, Lê Xuyên đã nói lên nỗi lòng của những người dân mất đất, mất quê hương. Sau 1975, một tập thể lớn, không những miền Nam mà miền Bắc cũng ra đi. Không những con người có ý thức, cảm nhận đau khổ phải ra đi mà cột đèn cũng muốn ra đi, không muốn ở với dép râu, nón cối! Đa số nhà văn hải ngoại đã viết về quê hương, và họ có một lực lượng đông đảo như Võ Kỳ Điền, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Trường An, Võ Phước Hiếu, Nguyễn Văn Ba… Các nhà văn có nhiều sắc thái, chúng tôi chọn tính chất mạnh nhất để sắp xếp. Dẫu sao sự sắp xếp cũng chỉ là tương đối…

                                                            Võ Phước Hiếu



Võ Phước Hiếu lúc nhỏ tên là Võ Văn Thọ, còn có bút hiệu là Võ Đức Trung, sinh năm 1933 (Quý Dậu) tại làng Thanh Hà, quận Châu Thành, tỉnh Chợ Lớn, sau Chợ Lớn thuộc đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn, quận này trở thành quận Bến Lức, tỉnh Long An. Võ Phước Hiếu thuộc gia đình giáo chức, cha và mẹ đều là giáo viên tình Chợ Lớn. Ông làm công chức thời Đệ Nhứt Cộng Hòa, đến thời Đệ Nhị Cộng Hòa chuyển qua sinh sống với nghề tự do: ấn loát và xuất bản. Ông cũng đã từng làm báo, viết văn trước 1975. Ông cùng gia đình vượt biên tháng 6-1979 và đến Nam Dương. Tỵ nạn chánh trị tại Pháp từ tháng 11-1979 đến nay. Khi ra hải ngoại, ông càng chuyên về sáng tác thơ và truyện ngắn.



Tác phẩm:

Thơ:
Le Chemin vers la Mer, Présence vietnamienne, 1988
Cœur de Mère, Présence vietnamienne, 1989
Thắp Sáng Hoàng Hôn, Cửu Long,, 1989
Tập truyện:
Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá, Làng Văn, Canada, 2000
Hùm Chết Để Da, Làng Văn, Canada, 2001
Như Nước Trong Nguồn, Hương Cau, Paris, 2004
Bên Đục Bên Trong (viết với Hiếu Đệ) Hương Cau, Paris, 2004
Niềm Đau Bạc Tóc (viết với Hiếu Đệ) Hương Cau, Pháp, 2005

Tuyển Tập Thơ:
Một Phần Tư Thế Kỷ Thi Ca Việt Nam Hải Ngoại I, II, III, IV (1975-2000), Văn Hóa Pháp Việt, 2002, 2003, 2004, 2006.

Đọc Võ Phước Hiếu, chúng ta thấy rõ cấu trúc của năm tập truyện như sau:


Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá: Đồng quê + Thực trạng Việt Nam

Hùm Chết Để Da: Đồng quê + Thực trạng Việt Nam (Bạn bè) + Đạo lý

Như Nước Trong Nguồn: Đồng quê + Tình Mẫu tử (Gia đình)

Bên Đục Bên TrongNiềm Đau Bạc Tóc: Đồng quê + Thực trạng Việt Nam.

Đồng quê là mẫu số chung, là chủ đề chính cho các tập truyện của Võ Phước Hiếu. Ngoài ra còn có những chủ đề khác như Thực trạng Việt Nam, Đạo lý và Tình Mẫu tử.


I. ĐỒNG QUÊ

Ba tác phẩm của Võ Phước Hiếu mang cùng một nội dung là đồng quê Nam Kỳ. Ông sinh  trưởng    tỉnh  Chợ Lớn ngày xưa mà nay là

Bến Lức tỉnh Long An. Tâm hồn ông đã gắn liền với quê hương và dân tộc. Bây giờ, ông cũng như bao triệu người Việt sau biến cố 1975 phải rời bỏ quê hương với bao niềm khổ đau và thương nhớ. Những tác phẩm của ông viết ra là để hoài niệm quê hương yêu dấu.Trong các tác phm ca ông, chúng ta nhn thy có hai min Nam. Mt min Nam thanh bình và mt min Nam tang thương. Ta có th nói đng quê tc là min Nam thanh bình. Còn min Nam tang thương là đng quê điêu tàn, tc là thc trng đt nước trong bàn tay cng sn.


              1. Người và Đất:


Như Nước Trong Nguồn dày 190 trang, mang sắc thái chung là quê hương miền Nam. Tác giả đã phác họa vài nét đơn sơ về quê hương của ông:


Tôi sinh trưởng và lớn lên nơi làng Thanh Hà hẻo lánh quê mùa, đèo heo hút gió. Một làng nhỏ nhắn nên thơ với âm hưởng đặc trưng của vùng sông nước bạt ngàn phương Nam, nguyên sơ và huyền bí. Nhà cửa vốn lưa thưa, không được bao nhiêu tộc họ quây quần trong nếp sống gia đình truyền thống ‘tứ đại đồng đường’, mấy thế hệ sum hợp, chung lưng đâu cật vui vẻ và hạnh phúc dưới một mái ấm duy nhứt. Xa xa về phía bên kia Vàm Cây Trôm, khỏi xóm Rạch Chung ngót nghét đôi ba cây số ngàn, chỉ thấy ruộng tân lập bát ngát và rừng chồi, rừng tràm tiếp nối chạy dài mút mắt (21-22).


Nơi chôn nhau cắt rú của Võ Phước Hiếu là nơi thôn dã đầy vẻ hoang vu nhưng có nhiều màu sắc tươi đẹp của một thiên nhiên phong phú cảnh sắc:


Sự sống ở đây được nhận diện qua những đàn chim se sẻ hay dồng dộc từng chập bay lượn vù vù trong bầu trời xanh thẩm. Chúng lướt ngay cả trên đỉnh đầu người hoặc sà xuống những cánh đồng lúa mênh mông nghe rờn rợn. Các đàn chim này to lớn lắm, đông vô số kể, đôi khi che hẳn mặt trời làm sẫm tối một vùng đất. Đó đây không biết cơ man nào mà kể cho hết các loại cò rất đa dạng như cò lửa, cò cá, cò ma, cò quắm, cò đúm và nhất là cò trắng bông bưởi... rồi nào là diệc, điên điển, còng cọc, quấc... chen chúc chạy nhảy, tranh nhau đi săn mồi hay quây quần trửng giỡn trên chót vót những ngọn tràm. Tất cả tạo một màu sắc đẹp mắt, nổi bậc hẳn trên bức họa thiên nhiên với màu xanh nõn nà mướt mượt của cây lá, của ruộng lúa ngày mùa, thấp thoáng ẩn hiện xa xa nhưng lại gần gũi, nồng nàn sâu đậm (24-25).


Võ Phước Hiếu đã đưa ta trở về khoảng hai trăm năm trước, khi miền Nam mới được khai phá. Tác giả nói cho chúng ta biết nguồn gốc của tổ tiên ông là những người ưa phiêu lưu mạo hiểm, từ miền Trung đã theo chân các chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp. Khởi đầu họ ở vùng Bà Điểm, Hốc Môn, sau tiến dần về phương Nam, khai phá vùng Bến Lức hoang vu thành ruộng đồng (26). Họ đã thực sự lao động, đã đổ mồ hôi để tạo dựng gia sản và tạo dựng miền Nam trù  phú. Họ đã thành công và biết dạy dỗ con cháu để con cháu tiến lên trong lao động và học tập. Họ cũng biết yêu thương đồng bào, giúp đỡ những kẻ khốn khó. Lịch sử của gia đình ông cũng là lịch sử của bao triệu gia đình người Nam trong đó có gia đình Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đình Chiểu đã từ miền Trung vào Nam lập nghiệp. Và đó cũng là lịch sử miền Nam, lịch sử của Nam tiến. Võ Phước Hiếu viết về xóm Rạch Rít của ông:


Cái xóm Rạch Rít nơi ông bà tôi an phạn tuổi già được thành lập không lâu. Các hàng bô lão thuộc hàng thổ công đoan chắc chỉ ngót nghét một hai trăm năm là cùng... Xóm gồm trên dưới vài chục sinh mạng quanh năm dạn dầy sương nắng, gió mưa. Từ đó có thể đoán ra dễ dàng nếp sống của họ đa số vẫn còn ở mức khó nghèo triền miên dai dẳng nhưng quyết tâm sinh tử của họ trên mảnh đất nghèo khổ đó mà họ đã đắn đo lựa chọn vẫn không hề thay đổi. Nhà cửa họ nơi này một cụm, nơi kia một cụm, hú gọi một tiếng lớn là có thể truyền đạt với nhau nhanh chóng (30).


2. Tình quê.


Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá dày 238 trang gồm bảy bút ký :


Vét Ao Ăn Tết

Trâu Già Chẳng Nệ Dao Phay

Con Quỷ Gò Bướm Quê Tôi
Nhứt Phá Sơn Lâm Nhì Đâm Hà Bá

Đồ Quân Ăn Cướp

Văng Vẳng Tiếng Chuông

Đám Cháy Đầu Xuân.


Tập truyện này đã trình bày nhiều sắc thái của đồng quê miền Nam. Võ Phước Hiếu đã tô vẽ hai cảnh Việt Nam mâu thuẫn nhau. Đó là miền Nam trước 1975, là một miền Nam thanh bình với lúa xanh, mây trắng và miền Nam sau 1945, 1954 và 1975, là một miền Nam tràn ngập áo đen cờ đỏ. Cảnh trong các truyện đều ở xóm Rạch Rít quê mùa, nơi sinh trưởng của tác giả. Các nhân vật là những người dân quê chân lấm tay bùn, tâm hồn chất phác giản dị. Họ có những cái hay như chăm chỉ làm việc, chịu khó dầm mưa dãi nắng và cũng có những tính xấu như uống rượu, bài bạc, chửi lộn và ngồi lê đôi mách. Một số truyện của Võ Phước Hiếu nói lên tình người ở nơi thôn quê Miền Nam.


Vét Ao Ăn Tết viết về cuộc sống bình an ở nơi thôn quê Việt Nam trước 1945. Trong gia đình nghèo, như gia đình Bảy Sô, vợ chồng già thương yêu nhau, vui buồn có nhau, đúng theo nghĩa “tương kính như tân”. Xóm làng dù có những mâu thuẫn, người này nói xấu người kia nhưng khi cần hợp tác để làm việc công ích lại đoàn kết với nhau, tích cực lao động như việc vét ao. Trâu Già Chẳng Nệ Dao Phay đề cao tình yêu quê hương. Chú Năm Nghê từng đi lính bên Tây, hết hạng đăng lính, chú không ở lại Pháp như một số người mà trở về Việt Nam vì “Chú thương cái xóm Rạch Rít. Chú nhớ quê hương, bà con lối xóm” (64). Chú ở trong cái nhà nhỏ, không cha mẹ vợ con, nhà chú trở thành nơi tụ hội cả xóm vì chú có tài kể truyện. Chú nghèo nhưng hảo tâm, ai đến chú đều tiếp đãi tử tế. Chú ít học, nhưng từng trải,

đã đi đó đi đây. Chú có lòng nhân hậu và có một lý tưởng cao quý: chú yêu thương mọi người và vui với hiện tại:


“Đời rất hấp dẫn, chất chứa bao lôi cuốn quyến rủ. Đời lại muôn hình vạn trạng. Mỗi người nhìn một góc cạnh nào đó của cuộc đời để qua cái đẹp mình vừa khám phá, đón nhận đời với niềm vui hạnh phúc tự tạo. Từ đó dẫn dắt mình thêm thương yêu cuộc sống, thêm thương yêu những gì chung quanh mình như yêu người, yêu thiên nhiên, yêu nội tâm, yêu ngoại cảnh, yêu tất cả, bao la không biên giới” (68-69).


3. Cảnh quê và cuộc sống nơi thôn quê ngày xưa.

Võ Phước Hiếu đã đưa ta trở về cuộc sống êm đềm và thú vị của thời trước 1945. Đó là

những cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp của lao động.

“Cái thú ở thôn quê hẻo lánh thuở thanh bình là được tham dự cảnh đạp lúa trâu những đêm trăng sáng huyền diệu xuống cánh đồng vàng mơ thơm phức mùa rạ mới. Gió mát trong lành phơn phớt từng cơn nhẹ nhàng sảng khoái. Bốn bề tĩnh mịch. Người ta chỉ nghe tiếng thở khìn khịt từng chập của đôi trâu đen ngòm mập lút và tiếng nhắc nhở thúc hối của bác nông dân già phía sau. Cảnh đạp lúa đôi khi vui nhộn lắm. Ít ra cũng năm bảy bãi lúa lớn đại. Mỗi bãi có một hay hai đôi trâu quần thảo không ngưng. Thêm người sởi lúa, vô bao chỉ xanh, kẻ khuân chất ngay ngắn trên cộ tải về lẫm trại. Gặp lúc cuối năm giáp Tết, cảnh náo nhiệt còn tưng bừng hơn. Ai ai cũng quyết tâm, ganh đua nhau dứt điểm sớm để kịp rước ông bà, hỉ hạ ba ngày xuân” (Con Quỷ Gò Bướm Quê Tôi - 102).


Người Việt Nam ta đi đến đâu, việc đầu tiên là lập một cảnh chùa, dù chỉ là vách lá đơn sơ. Cái niềm tin Phật giáo đã có từ ngàn xưa, thể hiện ở cái chùa làng của Võ Phước Hiếu. Chùa là trái tim của nhân dân và cũng là cảnh trí của đất nước, quê hương:


“Chùa làng tôi cổ lắm. Mái ngói cũ kỹ, rong rêu đóng dày cọm, xám sậm ẩm ỉ. Chùa được xây cất lâu đời, khoảng thế kỷ trước trên ngôi đất ven rạch, tiện lợi cho khách thập phương và bổn đạo đến viếng vào thời buổi vàng son thịnh hành của ghe xuồng, sông nước. Chung quanh cây cối um tùm. Nhiều cây to san sát, hùng vĩ tăng thêm vẻ huyền bí mờ mờ ảo ảo của nơi tín ngưởng thiêng liêng. Ngoài vườn, có khi sát bên thềm chùa, rải rác nhiều tháp cao, lắm từng, chất chồng với đỉnh chót vót chỉa thẳng lên không trung. Tháp xây bằng đá tảng hoặc đá xanh hay đá ong trét bằng ô dước, cũng rêu phong trùm phủ lốm đốm. Mấy liếp  chuối bạt ngàn xanh nhạt với những quày dài cả thước tây, bao bọc những luống rau luống cà“ (Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá, 180-181).


Còn bao tục lệ đáng yêu như chia thịt, rước ông bà ngày xuân, và bao nhọc nhằn khi bọn trộm cướp hoành hành trong những ngày giáp Tết (Đám Cháy Đầu Xuân) đã được ông kể tường tận. Điểm nầy cho chúng ta thấy tại Lục Tỉnh cũng giống như ngoài Bắc ngày xưa, vẫn có những bọn cướp hoành hành, nhất là trong dịp Tết mà triều đình phải bó tay. Ngoài ra, trong Như Nước Trong Nguồn, Võ Phước Hiếu cũng cho ta biết những nếp sống và phong tục của quê ông như tôn sư trọng đạo, việc giáo dục ở thôn quê, việc trồng thuốc lá và hút thuốc lá, tục uống trà, tục xem phong thủy, tục nấu rượu và tệ nạn cờ bạc ở thôn quê trước 1975, nhất là cuộc sống thiếu phương tiện y tế (bà mụ đỡ đẻ).


4. Kỷ niệm thời thơ ấu.


Trong Như Nước Trong Nguồn, Võ Phước Hiếu đã nhắc đến những kỷ niệm thời thơ ấu của ông. Đó là hình ảnh cậu Võ Văn Thọ bảy tuổi được cha cho đi học tư ở nhà ông thầy Huế. Lớp học tư võn vẹn có bốn học trò là Thọ, Đực Nhỏ, Hai Đớt và Bảy Rái. Tác giả giới thiệu sơ lược về ông thầy Huế. Cũng như ông thầy Quảng của Hồ Hữu Tường, ông thầy Huế của Võ Phước Hiếu cũng có một lai lịch và hành tung bí mật:


Đối với người dân xóm Rạch Rít, ông thầy Huế đến đây lúc nào không ai biết và cũng không ai quan tâm để ý tìm hiểu làm chi. Ở vùng đất khẩn hoang tất bật, đất trời bất biết này, người tứ xứ đến lập nghiệp không phải ít... Chỉ biết những năm gần đây, ông thầy Huế rất có uy tín trong thôn xóm. Ông được lòng bà con từ đầu thôn đến cuối xóm, có thể nói chẳng sót một người. Ai cũng dành cho ông một sự tiếp đón niềm nỡ với cảm tình nồng hậu, chan chứa nghĩa ân... Tông tích ông thầy Huế phủ một màn bí mật dày đặc. Riêng ông tôi biết rõ ngọn ngành ngay từ thuở ông thầy Huế lang thang đi bán thuốc dạo trên chiếc ghe lường có mui che mưa nắng kín đáo, xuôi ngược quanh năm trên sông nước, từ  đầu thôn cuối xóm, làng này qua làng khác để cứu đời và cũng để sinh nhai... Ông thầy Huế thuộc lớp sĩ phu miền Trung, nơi sinh sản những tâm hồn bất khuất, yêu nước nồng nàn, cái nôi của cách mạng dân tộc chống thực dân và phong kiến vào đầu thế kỷ trước. Ông quả có dính líu quốc sự, chống Pháp xâm lăng cướp nước và triều đình Huế quan liêu bất lực... (61-69).


Sau lớp học này, Võ Phước Hiếu đi học trường làng. Đó là những sự vật, những hình ảnh rất tầm thường trong cuộc đời nhưng với tác giả là những nền tảng của tình cảm, của tâm tư đã ăn sâu trong lòng tác giả.


“Buổi chiều lúc tan trường, mặt trời vẫn còn lủng lẳng trên không trung, chúng tôi thừa mứa thì giờ rong chơi phá phách. Giờ này, thằng Mười có thói quen la cà chạy giỡn với đám lục lăn lục lửa chúng tôi đến sẫm tối vẫn chưa chịu về chùa. Có lẽ đó là giờ khắc tự do của nó, thoát khỏi sự dòm ngó của bề trên. Chúng tôi thường gặp nhau ở bờ đê, ở Gò Bướm, Gò Vua hay quán bà Tư Trầu, nơi bày bán bánh trái được trình bày tươm tất trong hàng chai


keo đậy nắp kín mít hoặc treo lòng thòng lủng lẳng trước cửa quán. Những thứ tạp nhạp màu sắc đó có ma lực lôi cuốn sự thèm thuồng của chúng tôi mỗi khi đi ngang quán“ (Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá, 176).


5. Tâm trạg lưu đày.


Ngày nay, tác giả sống ở Pháp, lòng vương vấn quê hương Việt Nam, thương nhớ xóm Rạch Rít:


Tôi nhớ quê hương

Tôi nhớ xóm Rạch Rít

Tôi nhớ ông bà và mẹ tôi

Tôi nhớ ông giáo Sử và nhứt là ông thầy Huế ngày xưa (Như Nước Trong Nguồn, 79)

Ngày nay ông mang tâm trạng lưu đày của người xa xứ. Trong bài thơ Đón Mẹ, ông viết:


Ở những chặng đường đầy chông gai

Suốt cả tháng ngày

Con sống kiếp lưu đày cô lẻ

...


Con đến mảnh đất dung thân

Nhưng Mẹ ơi

Con đã khóc bao nhiêu lần?

Kiếp ly hương

Một chuỗi phũ phàng!

Con chỉ thấy quê hương là đẹp

(Như Nước Trong nguồn, 10-11)

Ông luôn hoài niệm làng xóm, quê hương của ông:

Tôi nhớ chòm xóm, bà con cật ruột, ngay cả cây cỏ, chim chóc quen thuộc... tất cả những cái gì đã gắn liền với cuộc sống của tôi trước đây, từ gốc rạ khô nằm mẹp dưới chân người, cọng cỏ dại chết rũ quăn queo ở vệ đường, đến những lời răn dại ngà ngọc quý hiếm của ông bà tôi, của mẹ tôi, của thầy tôi thuở tôi còn ở trần trùng trục rong chơi, khét nắng hôi trâu, hực mùi rơm rạ và bùn non xà xịn... Nay tóc muối tiêu, tuổi xế chiều, nhưng sao những hình ảnh thân thương ấy vẫn rõ nét trong tôi. Những hình ảnh chợt đến chợt đi đó cứ chập chờn trên xóm Rạch Rít buồn tênh của tôi thấp thoáng ẩn hiện xa xa... (Như Nước Trong Nguồn, 79).



II. THỰC TRẠNG VIỆT NAM.


Võ Phước Hiếu chưa quên quá khứ thì làm sao ông quên hiện tại, một hiện tại nay biến thành quá khứ và đang vây phủ bao người Việt xa xứ? Chính cái biến cố 1945, 1954 và gần hơn, biến cố 1975 đã làm cho miền Nam điêu tàn, tang tóc. Cứ mỗi bút ký là một vài nét chấm phá về lịch sử Việt Nam hiện đại. Chính mỗi kỷ niệm về làng xóm thân thương lại mang thêm nhiều giọt lệ cho quê hương, cho bà con ruột thịt còn ở lại trong tủi nhục hay những người đã nằm xuống trong uất hận và đau thương. Trong Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá, Võ Phước Hiếu đã cho ta rõ về việc một số người dân đã chết oan, hay đau khổ trong bàn tay cộng sản, và bao thảm họa giáng xuống những người dân miền Nam yêu chuộng hòa bình. Đó là thằng Ba La trong 1945 chết oan vì Việt Minh hành quyết về tội Việt gian:

“Phong trào bắt Việt Gian làm nhiều người chết oan ức. Tám Thôi chưa kịp hoàn hồn sau vụ bắt  cụ  Bùi ở chùa Giác Hải bỗng nghe lũ trẻ la ó bắt được Việt gian sắp dẫn ngang nhà. Anh lật đật phóng ra xem. Mắt mở to tròn xoe trâng tráo, tay chân bủn rủn, miệng ấp úng không nói ra lời. Thì ra thằng Ba La, bạn chí thân của anh, bị trói thúc ké. Nó bị đẩy ra phía trước về hướng cầu Bình Tiên. Theo sau là nhóm người hằn hộc võ trang gậy gộc, dao mác và lũ trẻ quần xà lòn, ở trần trùng trục, la ó nói cười ầm vang hỗn độn.Ông hàng xóm tỏ vẻ hiểu biết ghé tai anh bảo rằng thằng Ba La bị bắt tại nhà. Nó bị kêu án tử hình và sẽ bị hành quyết ngay tại sân đá banh bên hong cầu Rờ Nô Bình Tiên. Thằng Ba La hiền như cục bột. Khốn nỗi, chắc có người nào xớn xác nhìn lầm nó với tên biện Chà cảnh sát ngày xưa nên nó phải chịu mang họa vào thân” (140-141).


Đó là cuộc đời của Tám Thôi. Sau 1945, thấy Sài Gòn đầy cảnh máu tanh, Tám Thôi lui về quê, dùng số tiền cần kiệm khi làm việc cho nhà thuốc Ông Tiên để cưới vợ và mua ruộng đất. Tám Thôi có hai đứa con lớn, sau 1975 phải đi ngồi tù, hai đứa con dâu phải về nương náu nhà ông. Tám Thôi phải quay lại ghề câu tôm câu cá để nuôi sống gia đình. Cảnh khổ của ông cũng là cảnh khổ chung của đa số dân chúng xóm Rạch Rít khi cộng sản xâm chiếm miền Nam. Và con sông quê ông cũng mang số phận đau thương của dân tộc:

“Bây giờ trong xóm ai cũng đổ bung ra sông ra rạch chăn ví, săn đuổi cá tôm, tranh nhau đắp đổi qua ngày. Tôm cá bây giờ càng hiếm hoi. Cuộc sống thêm vất vả, buồn nôn. Ngày xưa con sông này không lớn không nhỏ nhưng rất thơ mộng. Nó lạnh lẽo vô tri thật nhưng đối với ông, vốn gắn bó gần gũi, hội nhập vào nó, nó chất chứa mang chở một cái gì thiêng liêng tiềm ẩn khiến ông càng quyến luyến khắng khít với nó luôn. Ngày nay, cái hồn nước, hồn sông đó trở nên nhạt nhòa với cuộc đời nghiệt ngã“ (148).
Đó là cuộc đời của chú Năm Nghê, con người vui vẻ nhưng sau 1975 bị ‘ghép vào thành phần phản động chống chế độ’, họ cấm dân chúng tụ họp nên nhà chú không còn ai dám lai vãng, chú bệnh và chết trong cô đơn và nghèo khổ (73). Rồi bao biến cố xảy ra cho đất nước Việt Nam mà xóm Rạch Rít của Võ Phước Hiếu cũng không thoát khỏi cơn đại hồng thủy. Nào là học tập cải tạo, nào là sản xuất tập thể hóa nông nghiệp (146-147). Hai ông giáo trong Như Nước Trong Nguồn là những con người bất khuất, có quá khứ chống Pháp, ông thầy Huế chết già, còn ông giáo Sử bị Việt Minh giết vì ông yêu tự do, không chịu khuất phục đảng vô sản, đảng của thiểu số người ngông cuồng không tưởng, rắp tâm muốn áp đặt bằng võ lực và hận thù (75). Trong Hùm Chết Để Da và Như Nước Trong Nguồn, tác giả đã nói về cuộc đời của tác giả và các bạn bè vì chịu không thấu khổ ách cộng sản phải bỏ nước ra đi: Tháng 6 năm 1979, sau thời gian mấy năm bị vùi dập trong những ‘chiến dịch cải tạo‘, ‘đánh tư sản mại bản’, ‘kiểm kê công thương nghiệp’ và ‘bày trừ văn hóa đồi trụy‘... do cộng sản độc tài độc trị chủ trương nhằm trả thù và cướp của của bà con miền Nam, tôi lặng lẽ cúi đầu tủi nhục, thấm thía bước xuống chiếc tàu cây định mệnh (Như Nước Trong Nguồn, 77). Dù miền Nam chìm đắm trong đau thương, người dân vẫn sáng suốt nhận xét về cộng sản. Họ tranh đấu một cách kín đáo. Họ công kích văn học, nghệ thuật cộng sản. 

Chú Năm Nghê và thằng Bảy Bèo trong Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá tiêu biểu cho những người Nam Kỳ bộc trực, luôn nói thẳng, nói thật. Chú đã phê bình bài thơ Ta Đi Tới của Tố Hữu và nhận xét về xã hội chủ nghĩa rất chí lý:

“Tao thì ít chữ lại thiển cận nhưng tao nghĩ nhà thơ hạng nhất của chế độ hồ hởi dự phóng con đường đi tới trước mặt, con đường thênh thang ở tương lai mà chỉ rộng có tám thước, không ổn chút nào hết. Hồi lâu ở bên Tây, tận vùng phía bắc nước Pháp, tức xa thủ đô ánh sáng Ba Lê vài trăm cây số, những con đường rộng rãi na ná như thế không thiếu gì, nhan nhản khắp nơi. Đàng này, xây dựng tương lai chế độ với những con đường rộng tám thước đã huênh hoang hãnh diện, đã thỏa mãn mừng húm, tao cho đó là đầu óc nông dân hạng bét, cục bộ thiển cận, thua hẳn bà con khai rừng phá rẫy của mình ngày xưa quá cỡ thợ mộc… Tao dám nói không sợ lầm, tụi nó sẽ biến xứ sở thành rắn ráo hay liu điu thôi” (87).


Bảy Bèo, một nông dân trẻ, trước có đi lính quốc gia, so sánh giáo dục quốc gia và giáo dục cộng sản:
“Thơ gì đọc chỏi tai quá trời. Hồi xưa ở trường, tôi có đọc những bài như “Qua Đèo Ngang Tức Cảnh” của bà Huyện Thanh Quan hay “Mùa Thu Ngồi Câu Cá” của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến, nghe êm tai, chan chứa tình cảm, vần điệu rung động khiến tâm hồn man mác… Đằng này, thơ gì cộc lốc, cứ xúi giục chém giết hận thù, cứ nhè đồng bào ruột thịt mình mà nguyền rủa, sỉ vả và nặng lời khiến tôi rùng mình nhớ lạ  cảnh chặt cổ sởn đầu, mổ bụng dồn trấu, thọc huyết cho mò tôm hay bắn tét gáy những năm khủng bố” (83-84).

       Bên Đục Bên Trong có phần đóng góp của họa sĩ Hiếu Đệ. Ông tên thật là Nguyễn Tánh Đệ, sinh năm 1932 tại Phan Thiết. Từ 15 tuổi ông sống ở Sài Gòn, học trường Huỳnh Khương Ninh, Lasan Tabert và Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định. Khi còn là sinh viên, ông cộng tác với tờ Đời Mới của Trần Văn Ân và Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai. Tốp nghiệp Mỹ Thuật năm 1957, giáo sư hội họa các trường Phan Thanh Giản (Cần Thơ), Đồng Khánh (Huế). Năm 1968, nhập ngũ khóa 14 Thủ Đức. Sau 1975, bị tù năm năm. Từ 1990, định cư tại Michigan, Hoa Kỳ. Ông tiếp tục cộng tác với nhiều báo chí hải ngoại. Hiếu Đệ cho ta biết sinh hoạt các họa sĩ và tình cảnh của họ bị đày ải sau ngày 30-04-75 (Họa Sĩ Trần Quang Hiếu, Chiếc Xích Lô Của Thầy). Trong tập truyện này, Võ Phước Hiếu và Hiếu Đệ viết về người tù biệt gam, ca ngợi tinh thần bất khuất của một chiến sĩ Cộng Hòa, đồng thời nói lên chính sách tàn ác và xảo quyệt của cộng sản (Hai Mối Tình Của Người Tù Biệt Giam, Cơn Lốc Xoáy Tim).

Niềm Đau Bạc Tóc là một tập truyện gồm bảy truyện ngắn, Võ Phước Hiếu viết hai truyện:
Ông Thầy Hù

Con sao chiếu Mạng.


Cả hai truyện này đều mang tính cách tố cộng. Cũng như Bên Đục Bên Trong, Hiếu Đệ cũng nói lên những chuyện xảy ra trong các họa sĩ khi cộng sản xâm chiếm miền Nam. Tác phẩm của Võ Phước Hiếu đã trình bày khá đấy đủ những nét chính yếu của lịch sử miền Nam trước 1945 cho đến nay.
III. ĐẠO LÝ.


Hùm Chết Để Da dày 253 trang, gồm sáu truyện ngắn:


Hùm Chết Để Da

Chút Tình Để Lại

Giấc Chiêm Bao Cuối Năm

Cây Cầu Ông Hiệu

Niềm Đau Cuối Đời

Âm Dương Hội Ngộ.


Tập truyện này giống tập truyện trước là xây dựng trên bối cảnh và nhân vật miền Nam trước 1945. Nhưng khác với tập trước ở điểm luân lý. Ta có thể nói tập truyện này mang tính cách đạo lý. Ông cũng như Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc muốn truyền cho người đọc ánh sáng của đạo lý, của tình người. Truyện đầu là truyện ông đốc Thường, xuất thân gia đình nghèo khó nhưng được nhà trường cấp học bổng để ăn học. Thành tài, ông không muốn gặp cha ruột là một nông dân quê mùa, vì ông sợ bạn bè chê cười. Sau ông tích cực phục vụ cho Pháp làm nhiều điều bất nghĩa. Viết truyện này, Võ Phước Hiếu nhằm chỉ trích những kẻ hữu tài mà vô hạnh. Truyện thứ hai nhắm ca tụng bà Năm Tơ Hồng, một người bình dân ít học nhưng có tinh thần xã hội và nhân ái, mục đích sống của bà con là đem lại hạnh phúc cho mọi người. Bà luôn đề cao tình nghĩa vợ chồng, nghĩa là đề cao gia đình, vì đó là nền tảng của xã hội. Bà Năm Tơ Hồng nói: Ở đời, chỉ có tình yêu là quan trọng hơn cả. Nó là đầu mối không thể thiếu sót được để xây dựng, củng cố và phát triển mọi thứ tình khác trên thế gian thực hư hư thực này (93).

Truyện Giấc Chiêm Bao Cuối Năm nói về thuyết nhân quả của nhà Phật. Võ Phước Hiếu là một Phât tử, đã hiểu rõ triết lý nhà Phật, và đã trình bày triết lý nhà Phật qua truyện này. Ba truyện sau cùng viết về những người bạn thân đã và đang sống dưới chế độ cộng sản cùng việc tác giả vượt biên qua Pháp.


IV. TÌNH MẪU TỬ.

Như Nước Trong Nguồn, 190 trang, khởi đầu một bài thơ, tiếp theo là ba hồi ký và kết thúc bằng hai bài thơ, tổng cộng ba bài thơ và ba hồi ký:

Đón Mẹ (thơ)

Ngày Ấy Qua Mau
Như Nước Trong Nguồn
Hương Lòng Thắp Muộn
Và Mẹ Ra Đi (thơ)

Ainsi, Tu T’en Vas (thơ).


Tuy là ba hồi ký nhưng cùng chung một chủ đề Mẹ, và ý tứ liên tục cho nên có thể coi như là một. Khác với hai tác phẩm trên, tác phẩm này có nội dung hoài niệm về người Mẹ của tác giả. Thực ra, ở trong tập này, tác giả hoài niệm tổ tiên, ông bà và cha mẹ, nhưng Mẹ được tô những nét rất đậm đà. Đón Mẹ là một bài thơ mở đầu tập truyện. Tác giả đã nói lên những đau khổ của ông trong đêm chia tay Mẹ để vượt biên:

Lúc chia tay
Con nhớ mãi
Ở những chặng đường đầy chông gai
Suốt cả tháng ngày
Con sống kiếp lưu đày cô lẻ.
Con không dám thẳng nhìn mặt Mẹ
Để ghi rõ dung nhan Mẹ lần cuối
Mẹ đứng đó
Như tượng đá đêm đông
Mẹ đã chết trong lòng


Khi dõi mắt theo con (10).


Trong tập này, tác giả đã tỏ lòng yêu thương thân mẫu và nhạc mẫu. Nhạc mẫu của tác  giả đã mất khi tám mươi ba tuổi, nhưng vong linh của bà vẫn theo dõi đứa con xa:


Mẹ!
Mẹ!
Mẹ ơi!
Mẹ kiệt sức rồi
Tám (mươi) ba tuổi chẳn da mồi tóc sương
Mẹ còn lặn lội dặm trường
Tìm con tản lạc
bốn phương quê người (15).
Trong tập Như Nước Trong Nguồn, tác giả cho biết cha mất sớm, thân mẫu của ông đã hy sinh cuộc đời thanh xuân để nuôi con khôn lớn và cho con ăn học. Bà đã thương yêu dạy dỗ ông, nhất là đã đau khổ khi con trai bỏ xứ ra đi vào nơi sóng gió hiểm nguy: Tôi nhớ Mẹ tôi không nguôi. Tôi nhớ hình ảnh thân thương, nhớ những lời răn dạy ngọc ngà quí báu, nhớ những hy sinh cao cả vô bờ người dành cho tôi suốt cuộc đời ba đào sóng gió trên quê hương tôi máu lửa triền miên (Như Nước Trong Nguồn, 137).
                                    **


Võ Phước Hiếu tả cảnh, tả tình rất chi tiết. Đôi khi lời văn hơi dài theo cách viết của Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của. Ở một vài nơi, ông viết rất lưu loát, và say mê theo dòng cảm hứng tràn đầy như đoạn ông tả tâm sự kẻ hoài hương:


“Người tỵ nạn Việt Nam, từ hơn hai mươi năm nay, nhứt là những người trọng tuổi, có một quá khứ nằng nặng dài lê thê sau lưng mình, hay nhắc nhớ thuở xa xôi ấy, nay dù đã bị lớp bụi thời gian vô tình phủ mờ đôi chút. Họ cố tìm kiếm trong các ngăn ngách chằng chịt và phức tạp của vùng tâm thức, một chút gì đó gắn bó với nguồn gốc cội rễ, thường là những cảnh đẹp, nét diễm kiều của quê hương cách ngăn diệu vợi. Họ lâng lâng bắt gặp đâu đây những con đường mòn một màu nâu sậm, quanh co uốn éo rất thân quen với tầm mắt họ, nơi họ từng in dấu chân tung tăng liếng thoáng, rong chơi khét nắng hôi trâu thời son trẻ hồn nhiên. Họ sung sướng trong cảm giác đê mê, ẩn hiện một chút gì mênh mông sâu rộng, còn rơi rớt khi nhìn ngắm mặt trời đỏ ửng từ từ khuất dạng sau chòm cây hay đám lá tối om dầy mịt nơi cuối chân trời, nhường chỗ cho màu sẫm tối chầm chậm chiếm lấy không gian, mang lại thôn ấp làng quê sự dịu dàng thơi thới, như để đền bù cả một ngày dài oi nồng đẫm mặn mồ hôi, nặc nồng mùi rơm rạ khô cằn vào những mùa gặt hái” (Như Nước Trong Nguồn” 147).


Ông đã cho chúng ta thấy cảnh đẹp của miền quê và công phu khai thác ruộng vườn, đất đai của những người đi tiên phong. Họ đã xây dựng nên một mảnh giang sơn gấm vóc nhưng chủ nghĩa cộng sản đã biến mảnh đất hiền hòa thành nơi tang tóc, đau thương. Tác phẩm của ông mang tính chất hoài niệm nhưng cũng mang tính chất tố cáo và tranh đấu. Tác phm ca ông man mác tình cm nhưng cũng thành tht theo bút pháp hin thc, phn chiếu lch s Vit Nam trước và sau 1975.
                                                                                       Nguyễn Thiên Thụ
(Trích Văn Học Sử Việt Nam – Văn Học Hiện Đại –


Tập IV – Chương Tiểu Thuyết Đồng Quê  do Gia Hội Canada xuất bản 2006).


Chú thích:


Nhiều người gọi tác phẩm của họ là truyện đồng quê miền Nam, riêng tôi xin gọi là Nam Kỳ Lục Tỉnh để phân biệt với danh từ Miền Nam, chỉ phần đất từ Bến Hải đến Cà Mau. Nam Kỳ Lục Tỉnh, Nam Kỳ hay Bắc Kỳ là những địa danh xưa không hề có ý nghĩa kỳ thị hoặc ý nghĩa chánh trị.


 


                       Sơn Trung


               
Tên thật Nguyễn Thiên Thụ
Bút hiệu chánh: Sơn Trung
Bút hiệu khác: Gia Hội
Sinh năm 1937
Sinh quán: tỉnh Quảng Bình (Trung Việt)
Đã dạy văn chương Việt Nam tại các trường Văn Khoa, Sư Phạm thuộc Viện Đại Học Cần Thơ, Vạn Hạnh, Cao Đài và Hòa Hảo
Sau năm 1975 sống ẩn cư 
 Sang Canada từ năm 1995
 Định cư tại Thành phố Ottawa, Ontario, Canada


           Đã cộng tác với các tạp chí Khai Thác Thị Trường, Đối Lập (Canada), Dòng Việt, Gió Văn (Hoa Kỳ)
 Đã xuất bản ngoài nhiều sách giáo khoa đại học do Lửa Thiêng Sài Gòn ấn hành trước 1975:
                Đã xuất bản:
*

Phương Pháp Nghị Luận Và Phân Tích Văn Chương, Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1971
* Nghệ Thuật Hành Văn, Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1972
* Nguyễn Trãi, Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1973
* Tản Đà, Thực Và Mộng, Lửa Thiêng, Sài Gòn 1974
* Văn Học Sử Việt Nam: Văn Học Hiện Đại (4 Tập), Gia Hội, Canada, 2006

Sẽ xuất bản:

* Văn Học Quốc Ngữ
* Văn Học Cổ Điển
* Sơn Trung Văn Tập
* Sơn Trung Thi Tập
* Sơn Trung Truyện Ký

                 -***-


                                                         Đón Mẹ


                                      

Mẹ thoáng hiện...
Con như trong mơ,
Nửa thực
Nửa hư

Con không ngờ...
Nay ngày sum hợp.
Mười năm dài...
Con âu lo nơm nớp:
Vĩnh viễn không gặp lại Mẹ!

Lúc con ra đi
Mẹ buồn ủ rũ.

Trời Việt Nam,
Quê hương con vầng vũ.
Đêm lên đường,
Đêm vĩnh biệt thiên thu?
Con hấp tấp ôm Mẹ,
Không một tiếng giã từ!
Mẹ nức nở
Cúi mặt.
Con biết
Mẹ đớn đau se thắt.
Mẹ không nói nửa lời
Lòng Mẹ tan nát
Rối bời!!!
Mẹ ấp úm trong đau thương hấp hối
Con không rõ những gì Mẹ muốn nói.
Nhưng giọng ấp úm
Lúc chia tay
Con nhớ mãi
Ở những chặng đường đầy chông gai
Suốt cả tháng ngày
Con sống kiếp lưu đày cô lẻ.
Con không dám thẳng nhìn mặt Mẹ
Để ghi rõ dung nhan Mẹ lần cuối.

Mẹ đứng đó
Như tượng đá đêm đông
Mẹ đã chết trong lòng
Khi dõi mắt theo con.


Mẹ ơi!
Ngày giã biệt,
Tóc Mẹ đã ngã màu bông.
Con mường tượng...
Mẹ sẽ gởi thân nơi đất Việt,
Lúc lâm chung,
Mẹ buồn tủi lẻ loi.
Quê hương Mẹ tả tơi!
Mẹ không bà con thân thiết
Không con...
Không cháu...
Thút thít cạnh quan tài!...

Từ dạo ấy,
Con bình bồng xứ lạ
Đời nổi trôi,
Chưa thấy
Đâu cửa?
Đâu nhà?
Miền đất hứa,
Con cầu nguyện trong bão tố phong ba.

Nay
Con đến mảnh đất dung thân
Nhưng Mẹ ơi!
Con đã khóc bao nhiêu lần?
Kiếp ly hương:
Một chuỗi phũ phàng!
Con chỉ thấy quê hương con là đẹp.

Mùa đông...
Mưa tuyết.
Tuyết đã tan tự thuở nào
Lòng con luôn buốt giá.
Mùa thu tang chế qua mau

Con nghe
Phảng phất trong đêm dài
Lá vàng trăn trối bên tai.
Bơ vơ!
Tháng tháng...
Ngày ngày...
Nửa đêm thức giấc
Hình ảnh Mẹ chập chờn
Trên quê hương con thấp thoáng xa xa...
Con nghe...
Mẹ hát nhạc bản hùng ca
Con nghe...
Mẹ ru vỗ về theo nhịp võng
Con nghe...
Mẹ ngâm bài thơ ca tụng núi sông
Con thấy...
Mẹ vui buổi sáng ngập ánh nắng ửng hồng
Mẹ cười...
Đêm xuân đoàn tụ liên hoan.
Mẹ ước mơ:
Con tiến bước hiên ngang
Mẹ cầu nguyện:
Con mãi mãi yêu đời.

Năm tháng dần trôi
Con ngày khôn lớn.
Mẹ ơi!
Con thêm thấm thía ngỡ ngàng.
Con thương Mẹ:
Người đàn bà bạc phước!
Bà Mẹ hiền luôn lội dòng nước ngược.

Đầu mùa thu,
Kháng chiến:
"Sơn hà nguy biến"
Mẹ chấp nhận:
Hy sinh
Tiễn Cha con ra đi diệt thù...
Mẹ nào ngờ
Hôm chia tay
Là ngày vĩnh biệt ngàn thu!

Thuở ấy,
Mẹ còn quá trẻ
Ba mươi xuân lẻ!
Mẹ ơi!
Bao nhiêu năm!
Mẹ lẻ bóng đường đời?
Bao nhiêu năm!
Mẹ chôn tuổi xuân tươi
Trong cuộc đời góa bụa?
Mẹ tần tảo
Chấp cánh con bay đến bến trưởng thành.

Thời gian!
Bẽ bàng...
Cuộc vui chóng tàn
Nỗi buồn miên man.
54 hòa bình,
Mẹ nức nỡ!
Dựng tháp thờ chồng!
Mùa chống xâm lăng lịch sử

Cha con đã hy sinh
Ngay giờ đầu bảo vệ sông núi ruộng đồng,
Quê hương Việt Nam con muôn thuở.
75 bom đạn tạm ngừng nổ
Mẹ chưa thấy hòa bình
Mẹ chưa thấy dứt chiến chinh...

Lần này
Mẹ lại khóc con,
Ngày thêm mỏi mòn.
Đám con yêu của Mẹ

Mỗi đứa
Mỗi nơi
Tản lạc bốn phương trời!
Mưa tuyết vẫn rơi
Con ngập ngừng cố tìm Mẹ.
Mẹ đã hiện rõ ràng,
Sao con vẫn còn ngẩn ngơ

Như tỉnh
Như mơ.
Con phập phồng
Bối rối...

Mười năm tròn cách biệt,
Với Mẹ
Bao nhiêu thế kỷ nhớ nhung?
Với con
Một chuỗi thảm cảnh hãi hùng!

Nay
Sum hợp,
Trùng phùng.
Con cố gắng không nhìn được Mẹ.
Mẹ xác xơ
Như quê hương con xơ xác,
Mẹ tàn tạ
Như quê hương con tan tác.


Bỗng con giật mình.
Mẹ từ đâu đến?
Từ địa ngục trần gian?

Hay

Từ đất nước con điêu tàn?
Con vẫy tay gọi Mẹ
Con quát to,
Thật to
Mặc bao nhiêu kẻ tò mò:
Mẹ!
Mẹ!
Mẹ ơi!
Mẹ kiệt sức rồi
Tám (mươi) ba tuổi chẵn da mồi tóc sương
Mẹ còn lặn lội dặm trường
Tìm con tản lạc bốn phương quê người.
Con ôm chầm lấy Mẹ thương yêu

Mẹ,
Con,
Câm lặng...


Con những tưởng ngày đoàn tụ
Mẹ con sẽ nói thật nhiều
Nhưng nào nói được bao nhiêu?
Mẹ khe khẽ hỏi:
- Ai đây?
Nước mắt con đong đầy.
Con để ý,
Mẹ không quên,
Không lẩn.
Tuổi Mẹ quá cao
Như ngày nào
Mẹ vẫn còn minh mẩn.
Sao Mẹ gạn hỏi thêm:
- Ai đây?
Mẹ ơi!
Mười năm ngăn cách đắng cay
Con vẫn là con yêu của Mẹ:
"Việt Nam, máu đỏ, da vàng".
Con hiểu Mẹ
Trăm mối ngổn ngang:
Đám con Mẹ đồng hóa ngoại bang...?!
Con vẫn còn trong vòng tay Mẹ.
Còn đâu!
Đôi tay ngày xưa rắn rỏi?
Mẹ tiếp hỏi:
- Đây là đâu?
- Nơi nào?
Lòng con quặn đau:
- Thưa Paris, đất Pháp, trời Âu.
Mẹ trầm ngâm.
Con biết
Mẹ nhớ những tháng những năm
Cả một đời
Trên quê hương con gắn bó
Có đồng thơm bát ngát lúa vàng
Có sông Hậu dịu hiền lấp lánh đêm trăng
Có tình láng giềng thật thà chơn chất...
Con hiểu
Mẹ nhắc con:
"Nước có nguồn, cây có cội".
Mẹ ơi!
Vỏn vẹn
Chỉ đôi câu thôi
Sao con nghe nhức nhối cả một quãng đời!
Thời gian khủng khiếp rụng rơi
Mới ngày nào

Mẹ đưa con vào đời
Lật bật qua mau
Mười năm thập giá!
Gặp lại Mẹ
Lúc hoàng hôn bóng xế
Mẹ vẫn tiếp dạy con những điều hay
Nay
Con sống kiếp lưu đày
Con kể gì vui cho Mẹ?
Mẹ ơi!
Sao Mẹ ít nói?
Sao Mẹ ít cười?
Con mường tượng...
Như Mẹ đang trăn trối!!!
Ngoài trời
Mưa tuyết vẫn rơi...
Mẹ ơi!
Dù Mẹ ít lời
Đủ con vá lại mảnh đời rách bương
Mẹ ơi!
Nhìn Mẹ can trường
Đủ con đi tiếp đoạn đường dở dang.
Mẹ ngồi đây
Mừng mừng
Tủi tủi
Con chắc
Mẹ thỏa lòng với giấc mơ cuối.
Mẹ quá cảm xúc
Nhưng Mẹ không khóc
Nước mắt Mẹ đã cạn dòng?
Hay Mẹ phập phồng:
"Con nuôi Mẹ tính tháng tính ngày?"
Mẹ không khóc
Lệ con lại rơi.
Trường Sơn
Chót vót chộc trời
Biển Đông
Lênh láng mênh mông
Tình Mẹ...
Không sao so sánh!
Cả trăm vạn câu thơ hay
Từ bao kỷ nguyên trước
Đến thế hệ này
Tả sao cho hết một tấm lòng!
Con nhìn Mẹ
Mẹ mờ dần...
Mờ dần...
Trong đôi mắt con long lanh
Con biết
Những ngày con gần Mẹ
Chỉ là khoảnh khắc mong manh.
Mẹ chầm chậm đứng lên
Cố bước
Từng bước
Như muốn tiến ra phía trước...
Con vội đưa tay dìu lấy Mẹ
Trời Paris buốt giá giữa mùa đông
- Mẹ có lạnh lắm không?
Mẹ âu yếm đáp:
- Quá ấm trong lòng.
Một sức mạnh thiên thần huyền dịu
Rung chuyển từng đường gân sớ thịt con
Con lần theo chân Mẹ
Hồi nhớ
Thuở xa xưa
Mẹ dìu con tập tểnh để nên người.
Mẹ ơi!
Đường con đi nay đầy chông gay tranh đấu
Con thêm vững tin
Như thuở Mẹ ước ao
Con hiên ngang mạnh tiến...
Mẹ đến với con
Cả sức sống dâng trào.
Mẹ mang ánh sáng
Mẹ gieo niềm tin
Mẹ thấp đuốc hy vọng
Mẹ là trời rộng
Mẹ là đại dương bao la đẹp xinh
Mẹ là tất cả.
Con thấy ló dạng bình minh
Lòng con mở hội.
Con lặng thinh...
Nghe tim nổi trống lôi đình
Nghe vai trĩu nặng khối tình Việt Nam.
Miền Bắc Pháp 1987


-***-





Ngày Ấy Qua Mau




Tôi là người tỉnh Chợ Lớn, thời thực dân Pháp có số thứ tự 16, đúng theo danh sách các tỉnh thuộc Nam Kỳ thời đó: Gia (Gia Định), Châu (Châu Đốc), Hà (Hà Tiên), Rạch (Rạch Giá), Trà (Trà Vinh), Sa (Sa Đéc), Bến (Bến Tre)... Tôi sinh trưởng và lớn lên nơi làng Thanh Hà hẻo lánh quê mùa, đèo heo hút gió. Một làng nhỏ nhắn nên thơ với âm hưởng đặc trưng của vùng sông nước bạt ngàn phương Nam, nguyên sơ và kỳ bí.


Nhà cửa vốn lưa thưa, không được bao nhiêu tộc họ quây quần trong nếp sống gia đình truyền thống "tứ đại đồng đường", mấy thế hệ sum hợp, chung lưng đâu cật vui vẻ và hạnh phúc dưới một mái ấm duy nhứt. Xa xa về phía bên kia Vàm Cây Trôm, khỏi xóm Rạch Chung ngót nghét đôi ba cây số ngàn, chỉ thấy ruộng tân lập bát ngát và rừng chồi, rừng tràm tiếp nối chạy dài ngút mắt. Những cánh rừng mút chỉ cà tha này dù không đến đổi dầy mịt như những cánh rừng tràm rừng đước bao la ở cuối mũi quê hương nhưng cũng đủ để án ngữ vĩnh viễn trước mặt, che chắn hẳn tầm ngắm nhìn nên người dân ở đây tuyệt đại đa số cứ loay hoay, xích tới xích lui, dậm chân mãi trên vuông vườn chéo đất, nơi chôn nhau cắt rún của họ, qua bao nhiêu thế hệ thấm đẫm mồ hôi của tổ tiên, ông bà và cha mẹ.


Nhiều lần trong đời, họ cũng có dự tính đi đó đi đây, xa hẳn bản làng thôn ấp mong học hỏi thêm một "sàn khôn" và đồng thời qua đó mơ ước có cơ hội thoát khỏi cảnh lao nhọc nghèo túng quanh năm suốt tháng. Nhưng khốn nỗi, bước đi một bước xa ngôi nhà tình nghĩa đầy ấp kỷ niệm buồn vui của tổ phụ đã thấy lòng bối rối phập phồng, lạc lõng bơ vơ, đặt chân lên một đoạn đường lạ lẫm đã thấy lo âu sợ hãi, cô đơn cô độc. Họ bồi hồi nhung nhớ. Và sự nhớ nhung cứ gậm nhấm họ không thôi. Thế rồi cái ước mơ đơn sơ chơn chất đó, dù có nhiều ma lực hấp dẫn đến đâu cũng đã cùng với họ len lén đi qua nhanh chóng. Nó đi qua hết cả một thời trai trẻ lao nhọc, vất vả trong khó nghèo của họ để sau cùng dừng lại phũ phàng ở khoảng bóng xế trăng lu, chân chồn gối mỏi, cái thời họ thầm lặng chờ đợi ngày nhắm mắt xuôi tay theo ông theo bà về bên kia thế giới.


Thỉnh thoảng, đôi ba năm hay hơn nữa, một tên Chà Và "tào cáo" có gốc gác xa xôi tận vùng Bombay, Pondichéry... mơ hồ nào đó của Ấn Độ huyền bí, hướng dẫn đám đàn em vào tận nơi đây lùn sụt bắt rượu lậu. Hoặc một tên Tây lai, cháu con rơi rớt nhiều đời từ thuở bọn phiêu lưu thực dân Pháp vừa mới đặt chân xâm chiếm đất Nam Kỳ Lục Tỉnh, bây giờ nghiểm nhiên trở thành một đốc công công chánh hay trắc địa viên, cùng thủ hạ rần rộ kéo vào đo đạt điền đất... Chỉ cần trông thấy bóng dáng xa xa của những viên chức nhà nước thuộc địa này, mấy đứa con nít trần truồng như nhộng, da dẻ đen đúa mốc cời, đã hoảng hồn khiếp vía chạy trốn ở chòi trâu chòi củi hay vội vàng ôm chầm lấy người lớn mà khóc òa lên. Chúng nó sợ Tây Đen Tây Trắng...

Đối với đám trẻ quê mùa này, những tên Chà Và Ma Ní hay Tây Trắng "Bạch Quỷ" là những người lạ hoắc lạ huơ, không giống mải mai dáng dấp của bà con thân thuộc trong xóm làng mà chúng thường gặp hằng ngày để trở nên quen mắt. Họ quả đã đến từ những hành tinh xa xôi nào đó, ngoài tầm ngắm nhìn và sự hiểu biết nong cạn của chúng. Và ngay cái tỉnh lỵ Chợ Lớn, với đầu óc non nớt chơn quê, chúng nó xem như xa vạn dặm diệu vợi, không thua gì đi lên cung Hằng thăm Chú Cuội già, trăm năm ngàn năm cứ thầm lặng ngồi dựa lưng nơi gốc đa. Vì thực tế có lần nào chúng nó được diễm phúc đặt chân đến đây bao giờ đâu? Do vậy, bà con nông dân xóm tôi hầu như đều chấp nhận định mệnh an bày. Họ vui vẻ trụ hình trụ bộ trên vạt đất hiền hòa tẽ nhạt do ông cha để lại này vì theo họ, nơi đây vốn dĩ có nếp sống thiên nhiên thư thái, với tình cảm chứa chan ân nghĩa, chan hòa tình làng nghĩa xóm.


Quanh quẩn, rải rác ven theo những bờ đê dẫn thủy và tháo nước phèn chằng chịt như mạn lưới, những thum lá nghèo nàn, những mái tranh xơ xác vương lên từng cụm buồn hiu với những con người khắc khổ do mưa nắng dãi dầu ngay từ những ngày còn thơ dại. Với họ, con mắt họ dường như đã quen rất sớm với cảnh thổ hắt hiu, với những con người lam lũ đó mà họ sẽ mãi mãi khắng khít để không bao giờ xa rời được. Sự sống ở đây được nhận diện qua những đàn chim se sẻ hay dồng dộc từng chập bay lượn vù vù trong bầu trời xanh thẳm. Chúng lướt ngay cả trên đỉnh đầu người hoặc sà xuống những cánh đồng lúa mênh mông nghe rờn rợn.

Các đàn chim này to lớn lắm, đông vô số kể, đôi khi che án hẳn mặt trời làm sẫm tối một vùng đất. Đó đây, không biết cơ man nào mà kể cho hết các loại cò rất đa dạng như cò lửa, cò cá, cò ma, cò quắm, cò đúm và nhứt là cò trắng màu bông bưởi... rồi nào là diệc, điên điển, còng cọc, quấc... chen chúc chạy nhảy, tranh đua nhau đi săn mồi hay quây quần trửng giỡn trên chót vót những ngọn tràm. Tất cả tạo một sắc màu đẹp mắt, nổi bậc hẳn trên bức họa thiên nhiên với nền xanh nõn nà mướt mượt của cây của lá, của ruộng lúa ngày mùa, thấp thoáng ẩn hiện xa xa nhưng lại gần gủi, nồng nàn sâu đậm. Làng có những xóm những ấp mang những cái tên hoang dã của một thời xa xôi khẩn hoang lấn đất, lúc con người còn đầu trần chân đất với vài bộ quần áo mốc thếch dính da ngoài chiếc áo tơi muôn đời muôn thuở chầm bằng lá dừa nước và nhứt là chiếc xuồng ba lá cũ mèm mua được nhờ góp nhóp tiền vay nợ năm mà có. Họ nương tựa nhau khắc phục đất đai giăng mắc chướng ngại chông gai. Đĩa vắt nhun nhúc khắp nơi khắp chốn cùng thú vật rừng như chồn ráy, chuột rắn... phá hại mùa màng. Chưa kể đến thời tiết nghiệt ngã quanh năm.

Bao nhiêu cái tên khó quên đã gắn liền để in sâu vào tâm thức họ như Rạch Rít, Rạch Chung, Bàu Sấu, Rạch Đĩa, Ổ Cu, Ổ Cò, Bàu Cá, Bàu Lác v.v... những cái tên đến nay khi nhắc nhớ, lòng tôi vẫn nghe xao xuyến đậm đà. Nhưng chí tình mà nói, nếu không có những cái tên man dại, tượng hình tượng ảnh dễ thương dễ nhớ đó với âm hưởng nhắc nhớ thời kỳ hoang sơ hun hút của tổ tiên tôi thì quả làng tôi, nơi chôn nhau cắt rún của tôi, hiện nay, ở giờ phút ly hương nghiệt ngã này sẽ còn lại những gì để nhớ để thương trong vũng lầy ký ức phức tạp của tôi? Nó sẽ không phải là cảnh thổ mến yêu, không còn là mảnh đất cội nguồn đáng để cho tôi ấp ủ và khắn khít gắn bó trọn kiếp đời còn lại của mình.


Tằng tổ tôi gốc người Miền Trung. Khi lớn lên, đôi lần tôi được nghe mẹ tôi kể lại một cách rất mông lung mơ hồ vì lúc ấy, thực tình tôi cũng chẳng mấy quan tâm để ý và cũng chẳng có đủ trí khôn để hỏi người cho cặn kẽ ngọn nguồn. Đến khi mẹ tôi không còn nữa, tôi mới thấy mình đã đánh mất đi một dịp quý hiếm trong đời, không sao tìm lại được nữa. Thật đáng tiếc vô cùng. Hình như cái gốc của tôi, của đại gia đình tôi hiện nay thuộc vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi... gì đó, tận miền Trung xa xôi khổ hạnh. Tằng tổ tôi đã theo đoàn người phiêu lưu xuôi Nam lập nghiệp, thuở các Chúa Nguyễn có chủ trương mở cõi, phát triển và củng cố đất Đàng Trong. Cuộc Nam Tiến ấy của dòng họ tôi chắc nhiêu khê trắc trở lắm với nhiều bí ẩn không được lưu truyền cho con cháu về sau để họ ngưỡng mộ và hãnh diện. Chỉ biết đến đời ông sơ và ông cố tôi, các ông đã có chút ít cơ ngơi sự nghiệp và định cư một thời gian khá dài quanh quẩn ở vùng Bà Điểm, Hóc Môn thuộc tỉnh Gia Định. Các ông có mang theo một vài kỷ vật dòng tộc.


Những kỷ vật này chỉ có giá trị tinh thần về xuất xứ cội nguồn cùng ít di ảnh hiếm hoi của những bậc tiền bối, bệ vệ ngồi ngay ngắn chỉnh tề trên chiếc ghế dựa đặt trước hiên nhà, lấy giàn kiểng quý làm nền, với khăn be, áo dài, quần trắng và đôi giày hàm ếch đen huyền. Những di ảnh bạt màu ấy dù đã phai mờ theo năm tháng nhưng được nghiêm chỉnh đặt trên bàn thờ ở chính giữa nhà. Về sau, trong những lần kỵ cơm tưởng niệm, chúng tôi có hỏi đến tên tuổi và vị thế của các bậc ấy trong tộc họ, mọi người đều ú a ú ớ, trả lời man mán mập mờ, không sao giải đáp rõ ràng được. Nhưng ở vùng Gia Định này, nhắm khó bề phất lên như ý muốn, một số trong các ông bèn quyết định bồng chống dắt díu cả bè thê nhi cùng vài gia đình anh em xa trong họ, kéo đến vùng đất Rạch Rít lập nghiệp, do được thừa hưởng giòng máu phiêu lưu, giang hồ lang bạt của tổ tiên vẫn còn cuồn cuộn luân lưu trong huyết quản. Đến đời tôi, tôi vẫn thấy ông nội tôi và sau này bác Hai trai tôi cứ mỗi độ Xuân về thường khăn gói trịnh trọng với áo dài khăn be đi Bà Điểm Hốc Môn để thăm viếng một số không ít bà con trong mấy chi còn sót lại và liên lạc được.

Những bà con này ngày xưa đã quyết định sinh cư lập nghiệp vĩnh viễn nơi đây. Từ dạo đó, các ông cứ theo vết dầu loang phá rừng khẩn hoang, khai thác ruộng tân lập, tiến sâu dần dần vào vùng rừng rậm. Sau thời gian đổ mồ hôi, đất đai thành khoảnh, ruộng thuộc màu mỡ tươi tốt bắt đầu cho chút ít huê lợi. Các ông đem bán, lấy mớ nhấm tiền nổi, mua sắm và cải thiện nông cụ thủ công lỗi thời cùng xây thêm nhà cửa lẫm trại, tiếp tục khẩn đất mới. Đến đời ông bà nội tôi, xem như đã ổn cư nơi xóm Rạch Rít nầy, giờ đây cơ ngơi không đến đổi kinh dinh đồ sộ nhưng vài gia đình may mắn hơn có cửa nhà khang trang đầy đủ, mái ngói âm dương đỏ au nổi bậc giữa màu xanh diều diệu của cây lá ruộng vườn. Dân tình lại chất phác dễ thương, quanh năm chỉ có một quyết tâm duy nhứt canh cánh bám đất đai và sông rạch để sinh tồn.


Và sự chất phác này rất dễ dàng nhận diện. Nó được bọc bạch qua giọng nói xuất phát từ một tấm lòng chơn quê thật thà và qua những lời đối thoại không cầu kỳ bay bướm. Nó phát ra từ những con người hóa thân của ruộng lúa vườn rau, của đất, của nước, của thiên nhiên hài hòa phóng khoáng. Nó phát ra từ đôi ánh mắt đen huyền lấp lánh tánh nết hiền hòa nhưng đầy nghị lực và nhiệt tình. Nhìn trước ngó sau, bà con trong xóm như những dây mơ rễ má, có mối quan hệ ruột rà thân thiết với nhau. Khi hỏi ra, nếu không cùng trong một tộc họ, đa số cũng được ràng buộc qua tình cảm thông gia xa gần. Cho nên có thể nói không sợ sai lầm, bà con ở đây sinh sống như một bộ lạc nhỏ hẹp thuở xa xưa, quây quần đùm bọc, vui buồn có nhau. Họ cùng nhìn về một hướng đi trước mặt, xả thân biến cải vùng đất hoang vu nhằm xây dựng hạnh phúc gia đình vững chắc và bền lâu. Phương châm của họ được gói ghém không ngoài những lời nhắc nhớ dong dài nhưng có ngần có lớp của các bực trưởng thượng, trượng triều trượng quốc vào những dịp họp mặt đông đủ bà con ngày cúng Kỳ Yên hằng năm hay cúng Miễu Bà có đàn ca hát xướng rất vui nhộn.Các ông thường nói:


- Cuộc đời khó nghèo của tổ tiên ta từ khi di dân vào miền đất mới này vô cùng vất vả và khổ cực trăm bề. Giờ thì cuộc sống hằng ngày đã khá hơn so với trước. Sự nghèo khó, cái đói cái khát của những tấm thân trần lạnh lẽo xem như thuộc về dĩ vãng, chỉ để hồi nhớ làm đòn bẫy tiến thân. Nay ở mỗi bữa cơm trưa, cơm chiều tuy không thường xuyên như mong muốn nhưng thỉnh thoảng cũng có cá thịt, tôm tép tươi rói làm tăng thêm khẩu vị... sau một ngày làm việc mệt nhọc. Dù thế vẫn phải cố gắng thêm mãi mãi để con cháu sau này có điều kiện vương lên xa hơn nữa. Được vậy mới gọi là "nhà có phúc". Đất đai của vùng này rất phì nhiêu màu mỡ. Đó là của quý không vốn được chôn ngầm như mỏ vàng mỏ bạc. Nếu biết cần cù và tận lực khai thác thì sẽ thành công không mấy hồi. Và đó cũng là niềm vui to lớn nhứt, an ủi cả một kiếp đời lam lũ.



Riêng ông bà tôi, phần lớn tuổi, chất chồng bao nhiêu năm sương gió, hai ông bà quyết định chấm dứt hẳn việc khai khẩn ruộng hoang, tổn hao sức khoẻ lúc con đường trước mặt mỗi ngày mỗi thu ngắn dần. Ông bà bán đi số lớn ruộng đất tạo dựng được, chỉ giành lại một ít ruộng trũng loại tốt, năng suất cao, đủ giúp ông bà xoay sở sinh sống hằng năm, thảnh thơi ở chuỗi ngày dưỡng già còn lại. Ông bà tôi thường tâm sự dông dài với bà con thân tình trong xóm, hai ông bà đã lớn tuổi rồi, ăn uống chẳng bao nhiêu. Sức khỏe mỗi ngày lại vơi dần, làm thêm chi nữa để phải dãi dầu mưa nắng, ngày ngày vướng bận việc đuổi chim đuổi chuột vất vả, cực thân nhọc xác, chết cũng xuôi tay, chẳng mang theo được những gì. Mỗi người đều có cái thời của mình. Ông tôi hay nói như vậy với con cháu. Và cái thời làm việc đầu tắt mặt tối, quên cả giờ giấc và cơm nước của ông bà tôi đã qua lâu rồi. Thôi thì cứ nhàn nhã năm bảy năm chờ ngày tốt lành thanh thản theo ông theo bà cho yên thân yên phận.


Cái xóm Rạch Rít nơi ông bà tôi an phận tuổi già được thành lập không lâu. Các bực bô lão thuộc hàng thổ công đoan chắc chỉ ngót nghét một hai trăm năm là cùng. Nhưng bây giờ xóm không đến đổi quạnh hiu lắm so với những nơi sâu hút khác, hoang vu cùng cốc với đôi ba nốc tranh lè tè hoặc năm bảy mái lá xác xơ, khép nép nằm khuất sâu hóm sau những vườn cây ăn trái tạp nhạp đủ loại, giữa một vùng sông nước bạt ngàn. Xóm gồm trên dưới vài chục sinh mạng quanh năm dạn dày sương nắng, gió mưa. Từ đó có thể đoán ra dễ dàng nếp sống của họ đa phần vẫn còn ở mức khó nghèo triền miên dai dẳng nhưng quyết tâm sinh tử của họ trên mảnh đất nghèo khó đó mà họ đã đắn đo chọn lựa vẫn không hề thay đổi. Nhà cửa nơi này một cụm, nơi kia một cụm, hú gọi một tiếng lớn là có thể truyền đạt với nhau nhanh chóng. Lúc sanh tiền, ông bà tôi có nhờ nhiều người giúp việc trong nhà ngoài ngõ, chăm lo vườn tược, nhưng chánh yếu vẫn là canh tác ruộng nương, đào kinh lấn rừng, khai khẩn đất mới. Đa số là trai tráng lực lưỡng, đều là bà con xa gần với ông bà tôi.

 Họ một mực tận tụy, trung thành với ông bà tôi và hai ông bà có những người giúp việc đăng đẳng suốt cả cuộc đời của họ. Ông bà tôi rất đổi thương yêu, quí mến họ, xem họ như những phần tử cật ruột trong một đại gia đình keo sơn gắn bó. Những lúc hữu sự, bất cập cần đến, bà tôi chỉ ới nhẹ một tiếng là họ đồng thanh tự nguyện đến túc trực đợi chờ. Chẳng mấy chốc, mọi việc dù khó khăn đến đâu cũng nhòn bớt dần chỉ trong nháy mắt. Tình nghĩa nhen nhúm ngày càng thêm khắng khít đậm đà. Bà con xa không sao bì được với láng giềng gần. Câu nói ấy của người xưa nay vẫn sáng trưng, vằng vặc như trăng rằm, thể hiện tròn đầy trong giao tế hằng ngày, bộc trực chân tình, không tính toán so đo thiệt hơn. Nó càng mang một ý nghĩa cao đẹp trong nếp sống tình cảm diệu kỳ nơi cảnh thổ hắt hiu buồn tẽ này, nơi mà mỗi con người lấy cái tâm lành đối xử với nhau. Lần hồi, kẻ trước người sau, họ được ông bà tôi mai mối chọn lựa những nơi cần cù, nhơn đức để dựng vợ gả chồng rình rang tử tế. Chẳng mấy chốc, con cái họ hằng năm nối đuôi nhau khít đeo làm vui nhộn thêm những buổi cơm chiều quây quần ấm cúng. Vì đây là thời khoảng duy nhứt trong ngày, mỗi gia đình nông dân hầu như hiện diện đông đủ. Ban đầu, họ ăn ở chung chạ với ông bà tôi nơi nhà sau, lẫm lúa hay nơi chòi đựng dụng cụ canh tác được sửa sang vén khéo với tiện nghi tối thiểu. Việc này rất phù hợp với cuộc sống thuở ban đầu của đôi vợ chồng son trẻ, sụt sè ngấp nghé ngưởng cửa tương lai. Về sau, ông bà tôi ban cấp cho họ một chéo đất nơi cuối vườn hay ở những vạt sở hữu nằm vắt ven theo những con kinh tháo nước mới đào còn hăn hắc mùi bùn non để họ cất nhà ra riêng, sinh sống tự do thoải mái hơn. Dần dà, gia thất yên bề, nhà nhà vịt gà chạy đầy sân, nhởn nhơ ngoài vườn, trong chòi bếp, trại củi, chuồng heo... Những đơn vị phụ thuộc này được cất xan xác nhau, tha hồ cho chó mèo chạy rong chơi trửng giỡn. Và để chúng mặc tình động dục, tự do phá phách, sinh sôi nẩy nở ấp lũ không cách nào kiểm soát được. Mỗi lần đôi vợ chồng son ra riêng, ông bà tôi rất mực bằng lòng sung sướng. Sự sung sướng bằng lòng đó, từ lâu được ông bà tôi dồn nén và gìn giữ kín đáo trong lòng, giờ đây được tỏa rộng trên gương mặt phúc hậu hân hoan của hai ông bà như để thể hiện đầy đủ cái tính chất lạc hoan yêu người, yêu sự sống, và yêu cuộc đời cố hữu của người dân quê chơn chất bám làng bám đất. Căn nhà mới vừa sốc nốc xong, vách phênh cửa nẻo chưa hoàn chỉnh hẳn, dù chỉ làm bằng tre nhà, gỗ tạp, bện lá dừa nước phơi nắng vừa dôn dốt, nhưng bà tôi không ngớt lời căn dặn những người chủ mới trẻ măng này phải nhớ trang trọng nhóm lên một bếp lửa đặt ngay chính giữa nhà. Bà tôi còn sợ họ quên nên thỉnh thoảng cứ chiều chiều khi mặt rời dợm khuất sau rặng đùng đình đủng đỉnh bao quanh khu đất đình làng, bà tôi lui tới nhắc nhớ mãi. Củi đuốc bắt đầu cháy phừng phực. Than hồng đỏ rực với những sợi khói trắng đục mong manh như tơ cuồn cuộn theo gió đồng bốc lên không trung len lỏi mái lá, quyện theo những lời lâm râm khấn nguyện cuộc sống mới từ đây đã được ổn định vững chắc trên mảnh đất ráo hổi tạo dựng trong gian khổ lao nhọc. Bà tôi không ngớt dong dài về ý nghĩa của việc nhóm bếp lửa đầu tiên này xem như một sự thầm mơ ao ước hằng ngày sẽ luôn luôn có được những bữa cơm trưa cơm chiều ấm bụng ấm lòng, những bữa cơm hạnh phúc dài lâu. Có lẽ bà tôi cũng như bao nhiêu người đàn bà bất hạnh khác thuộc thế hệ trước đây không sao quên được thuở các bà gia tâm phụ với chồng con nai lưng trần khẩn hoang lấn đất, bữa đực bữa cái, khi đói khi no, sống cuộc đời rày đây mai đó, đêm đêm ngủ lều ngủ buội trên những gò đất ủng nước, khói bếp lạnh tanh? Đêm nào các bà có thì giờ khoét được một lỗ hổng vừa vặn trong đống rơm cao chỉ qua khỏi đầu một chút nhưng cũng đủ để chui rút vào đó ngủ thẳng giấc ngon lành là cả một niềm vui lớn lao vô bờ đối với các bà. Nhứt là vào những đêm ông Trời oái oăm làm mưa dai dẳng, thêm gió đồng từng đợt thổi lạnh thấu xương. Cho nên đối với bà tôi, bếp lửa thân quý và đầy ý nghĩa này là biểu tượng sự chấm dứt tất nhiên cảnh sống tạm bợ, ngày ngày phải di chuyển, thay đổi thường xuyên nơi trú ẩn và nhứt là xóa bỏ hẳn cái tâm lý "ăn xổi ở thì" không ngày mai.


Hơn nữa, với ngôi nhà mới, nền đất còn toát lên mùi xà xịn và cỏ mục, với mảnh vườn nho nhỏ vừa tạo dựng, có vườn rau luống cải, có ao sâu nuôi cá, có đôi ba gốc mãn cầu ta, cam, quít chưa ra trái chiếng, vài dãy chuối già lùn đang thời phát triển, một hàng dừa bị liên ranh cao ngang tầm rún... đôi vợ chồng son trẻ từ đây đã thấy lấp ló niềm hạnh phúc tròn đầy, một ước mơ ấp ủ lâu nay đã được thực hiện. Họ quả đã thấy lấp ló cả một tương lai huy hoàng tươi sáng ngay trong niềm vui hiện tại của họ. Với thời gian, xóm Rạch Rít thân yêu của tôi được dựng lên trong hoàn cảnh đặc thù của lịch sử khẩn hoang ở Miền Nam. Giờ đây, có thể xem như một cảnh thổ an bình, khá sung túc thịnh mậu, gồm những người gắn liền nhau qua một quá khứ dài, chan hòa tình cảm chân thành và ý chí hợp tác vương lên lập nghiệp...



**



Một hôm, mẹ tôi ôm ru tôi ngủ trên chiếc võng lắc lư nhịp nhàng. Giọng ru ngân nga với âm hưởng ngọt ngào ngây ngất của người, bình thường sớm đưa tôi vào giấc ngủ thơ dại êm đềm. Nhưng hôm nay lạ lùng làm sao! Cũng những âm hưởng thiết tha trầm bổng, ngăn ngắt thương yêu ấy, cũng những câu hát quen tai bấy lâu nay nhưng không biết sao tôi vẫn thao láo, không thể nhắm mắt được. Trước mặt tôi, mẹ tôi hiện ra rõ ràng, không phải là hình ảnh quá thân quen của những bà mẹ Việt Nam muôn thuở, nhẫn nại cần cù, không cau có giận hờn, suốt đời chỉ biết thầm lặng hy sinh nhưng là một bà mẹ chơn quê nhân hậu, bằng xương bằng thịt. Người nói với tôi, giọng nhẹ nhàng trìu mến mà tôi đã từng nghe:


- Con cưng của mẹ ngủ ngoan đi. Ngủ cho mau lớn để sớm được đi học. Con năm nay sáu bảy tuổi rồi. Mẹ sẽ đưa con đi học vào tựu trường tới.

Mẹ tôi tiếp tục kéo chiếc võng lắc lư, vui vẻ tiếp lời:

- Sau này, con sẽ như ba con, có ăn học, được làng xóm, bà con láng giềng kính nễ. Con có thích không? Mẹ dạy con phải nghe. Thôi nhắm mắt ngủ đi, mau lớn!


Tôi đã lớn đại rồi nhưng mẹ tôi vẫn cứ ẵm bồng tôi như lúc tôi còn bé bõng, từng chập thúc thít đòi vú mẹ hay đến khi vừa nhổ giò một chút thường níu tay níu áo lửng thửng đeo theo chân mẹ tôi đi dạo xóm, thăm viếng bà con. Mỗi trưa, mẹ tôi đều ru tôi trên chiếc võng kẽo kè kẽo kẹt trầm buồn, hầu như đúng giờ giấc. Mẹ tôi quả có cái máy tính thời gian trong người nên chẳng khi nào mẹ tôi bỏ sót một buổi trưa nào cả. Cứ sau bữa cơm một đỗi là mẹ tôi chuẩn bị rồi thúc tôi nhanh chóng lên võng ngủ. Chiếc võng làm bằng lác dịu mềm, mát mẻ sản khoái, được bắt chéo từ đầu hai gốc cột mù u sần sùi nhưng to lớn chắc nịch, choáng một khoảng trống khá lớn ở bên hông gian nhà sau.

Nơi các gốc cột này, mấy con heo mập ú, bụng ỏng trông như thòng xuống gần cọ sát mặt đất mỗi lúc chúng đi đứng rất chậm chạp khó khăn mà bà tôi nuôi trong nhà để ăn cơm thừa canh cặn sau mỗi bữa ăn gia đình, chúng thường đến cọ tới cọ lui, cọ xuôi cọ ngược sột sột để gãy lưng. Xong rồi, như bất cần đời, chúng bật ra nằm sãy giò sãy cẳng, phơi cái bụng bình rĩnh chang bang một màu trắng hồng, ngủ ngáy khò khò ngay tại chỗ. Đôi khi mẹ tôi phải đánh thức chúng nó, đuổi đi nơi khác vì sợ tôi thức giấc. Còn ở mấy gốc cột mù u, lâu ngày lên nước đen ngòm, ngoại trừ đoạn bên trên còn sáng sủa sạch sẽ vì được ông tôi đóng đinh máng áo, máng khăn, máng nón.

Và gian nhà sau, rộng rãi trống trơn, trưa trưa tôi thường nằm ngủ theo tiếng ru của mẹ tôi lại là nơi cứ vào mỗi mùa gặt được ông tôi dùng trải những bãi lúa lớn đại cho trâu đạp đôi ba cặp cùng một lúc, bất kể nắng mưa, đêm ngày. Nghe mẹ nói, tôi không có một chút ý niệm gì về việc học hành cả. Với tuổi ngây thơ khờ dại của tôi, ăn chưa no lo chưa tới, tôi chỉ lờ mờ qua hình ảnh tung tăng cười giỡn, đùa vui như ong vỡ tổ mỗi lần tan học của mấy đứa trẻ trong thôn ấp cứ hằng ngày cấp sách đi ngang qua nhà ông tôi. Từng toán tiếp nối nhau, chúng nó chuyện trò không ngớt miệng trên bờ kinh, trên những đường mòn tiếp nối hun hút tận chân trời để im dần đến độ lạnh lùng khi chúng lần lượt, đứa trước đứa sau, tẻ sang bờ mẫu ngoằn ngoèo dẫn dắt về nhà, sau khi biến mất sau lũy tre xanh hay rặng dừa nước dầy mịt. Tôi bâng quơ thỏ thẻ hỏi mẹ:


- Học ở đâu hở mẹ? Xa lắm không? Có mẹ đi theo con không?

- Có chứ! Ờ... ờ... để mẹ tính cho. Con sẽ biết sau. Mẹ luôn luôn sẽ ở bên cạnh con mà! Đừng lo, con cưng của mẹ.


Rồi mẹ tôi vói tay xoa tóc tôi không thôi. Cái cử chỉ âu yếm thường nhựt đó, những ngón tay thon thon mềm mại lùa phơn phớt trong tóc làm cho tôi có cảm giác thích thú dễ chịu. Và hẳn nhiên những cử chỉ gây mê sản khoái và đều đặn ấy sẽ giúp tôi tìm một giấc ngủ thật ngon, giấc ngủ bình yên chỉ vài phút ngắn ngủi sau đó. Mẹ tôi khe khẽ ru những điệu hát vang vọng ngàn đời:


Chiều chiều chim vịt kêu chiều

Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiểu ruột đau

...


Cá không ăn muối cá ươn

Con cãi cha mẹ trăm đường con hư

...

Còn cha gót đỏ như son

Chẳng may cha mất, gót con như bùn...


Mẹ tôi ru càng lúc càng nhỏ dần, nhỏ dần... Những ngọn gió mát thường ngày hay phất vào nhà từng đợt, hôm nay chẳng biết vì sao lại biến mất. Cảnh vật đồng quê vào giờ phút đúng ngọ này trở nên vắng tanh đến độ lạnh lùng kỳ lạ. Chỉ có mấy con chim sâu đủ sắc màu đẹp đẽ, quyến rủ đôi mắt tò mò của tôi, mấy con chim khoen ranh mảnh, cứ tập trung từng cặp trốn nắng trưa oi nồng đến rát mặt rát da. Chúng mãi mê ríu ra ríu rít rất quen tai từ mấy chòm cây ông tôi trồng sát thềm nhà.

Mấy cây này rất tươi tốt sum xuê, cành lá xanh mướt, quến lũ chim vào thời khoảng nhất định này của ngày. Có lẽ nhờ ông tôi mỗi lần uống trà thường hay sút bình trà trán tách và tạt nước vào gốc cây nên nó rất sung quanh năm chăng? Riêng lũ chim ranh mảnh nhỏ hếu lại tỏ ra quá quen người quen mặt nên dạng dĩ lắm. Hằng ngày, chúng vẫn cứ líu lo, không ngớt chim chíp, nhảy từ nhánh này sang nhánh khác tìm mồi. Trông chúng như chẳng để ý gì đến bóng dáng của ông bà hay mẹ tôi khi đến gần bên.

Thỉnh thoảng, mẹ tôi lại cất tiếng hát nho nhỏ vừa đủ nghe mỗi lúc con chim vàng anh trớ trêu vô tình vào giờ trưa đúng ngọ này có thói quen cứ hót lanh lảnh tròn trịa từ trên từng trời cao vút, gieo vọng thẳng xuống mái nhà không thôi. Hoặc khi có tiếng gà mẹ từ gốc me gốc xoài hay từ buội chuối sau hè hoảng hốt thét to, quýnh quíu gom đàn con ngây thơ khờ dại lúc diều hâu hoặc bù cắc sà xuống thấp xớt mồi. Rồi những cơn gió mát trời cho trốn biệt từ những cánh đồng xa hút phút chốc lại ùa về mơn trớn cây lá vườn tược ông tôi, bắt đầu lất phất vào nhà mang theo một chút hương đồng vị đất gây mê. Chúng ru hồn tôi, đưa tôi vào giấc ngủ thơ dại lúc nào không hay.

 Con Vện hùa với con Mốc, hai con chó đực thiến ông bà tôi nuôi được trên mười năm, tức lớn tuổi hơn tôi gấp bội, từ ngoài sân bỗng dưng sủa vang ở đầu ngõ. Chúng nó giựt mình sủa bậy bạ chớ thực tình chẳng có khách khứa hay người lạ mặt nào thoáng qua nhà ông bà tôi đâu. Những lúc ấy, ông tôi thường to tiếng quở mắng:


- Hai con chó không nên nết. Sủa ma!

Tôi thức giấc, trở mình. Mắt mở mắt nhắm, tôi thấy mẹ tôi hãy còn ngồi im nơi đầu ván ngựa khâu quần vá áo. Người đã ngồi nơi đây từ bao giờ? Bao nhiêu năm dài vẫn như thế này sao? Mẹ tôi lật đật kẹp hai ngón chân kéo sợi dây dài nối liền chiếc võng để võng tiếp tục lắc lư lắc lư nhịp nhàng. Một phản ứng rất tự nhiên xem như máy móc. Tôi cựa quậy, xoay trở rồi thiêm thiếp, tai vẫn nghe tiếng ru của mẹ tôi nhặt khoan man mác trầm trầm:


Gió đưa buội chuối sau hè

Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ

Con thơ tay ẵm tay bồng

Tay dắt mẹ chồng đầu đội thúng bông

...


Con ơi con ngủ cho lâu

Mẹ con đi cấy ruộng sâu chưa về...

- ơi... ờ ơi....

- ơi... ờ ơi....

**



Tôi không rõ mẹ tôi bàn tính thế nào với ông bà tôi mà ở bữa cơm chiều hôm đó, ông bà và mẹ tôi có vẻ trang trọng khác thường. Ông bà tôi cứ nhìn tôi chầm chập. Hai ông bà kẻ trước người sau thay phiên nhau trầm trồ khen ngợi tôi, khiến tôi rất bằng lòng sung sướng. Một sự sung sướng tròn đầy của trẻ thơ thích được nghe người lớn khen thưởng hơn là bị quát rầy chê bai.


Thật vậy. Bấy lâu nay, ông bà và mẹ tôi rất thương yêu cưng chiều tôi. Cả nhà bảo tôi giống cha tôi như khuôn đúc. Con giống cha thì sang, giống mẹ nghèo khó cả một đời. Ông bà tôi rất ưng ý và thường hay nói như vậy. Nước da cũng ngâm ngâm đen sạm nắng, giống hệt như con cu gầm ghì lầm lì ranh mảnh. Hình ảnh này là niềm hãnh diện của ông tôi mà tôi đã được nghe kể lại khi ông không còn nữa, vẫn luôn luôn được khắc ghi sâu đậm trong tâm thức tôi. Tôi vốn có những cử chỉ lanh lẹ, liếng thoáng, ăn nói to tiếng rổn rảng. Vui vẻ, miệng luôn tươi cười. Nóng tánh nhưng dễ quên.

Ông bà tôi rất bằng lòng về nước da mặn mòi, đen ngâm màu bùn đất làng quê của tôi. Vì ông bà tôi lúc nào cũng tỏ ra không có cảm tình hay đúng hơn là ghét cay ghét đắng hạng người có nước da xanh xao, hao gầy vàng vọt, không thích hợp với cảnh thổ phá rừng lấn đất vốn đòi hỏi sức vóc con người. Thói thường, sự thật hay mếch lòng người. Ông bà tôi thẳng thắn quá đến độ cay đắng khiến có người đâm ra khó chịu. Nhưng quan trọng hơn hết đối với ông bà tôi là phong cách xử thế của những người này. Ông bà tôi mai mỉa gọi nước da của họ là nước da gà mái, mẫu người trói gà không chặt, tánh tình đàn bà li ti bủn xỉn, "vắt chài ra nước", rị mọ từng đồng xu cắc bạc.

Quanh năm "thắt lưng buộc bụng", thèm khát cắn răng chết chịu chớ họ không hề dám xuất chút ít tiền để tiêu xài mua sấm. Đối với họ, mỗi lần xuất tiền chi tiêu dù lặt vặt đi nữa vẫn là một nỗi đau ray rức, gậm nhấm lâu dài. Hạng người đó còn có thói xấu hay đặt tuồng bụng... đôi co rất phiền hà. Không biết thực tế có đúng như vậy hay không nhưng ông bà tôi dù thế nào đi nữa cũng không thể gội sạch được thành kiến ấy, những thành kiến hẳn nhiên đã nhập tâm hai ông bà từ đời thuở nào rồi.



Trên ván ngựa đặt ngay giữa nhà sau đã bày sẵn mâm cơm vĩ vèo. Cái sàn đất nhà sau này không được bằng phẳng lắm do trâu thường xuyên đạp lúa, dẫm đạp, nên có chỗ lồi lên, chỗ lõm xuống, tuy không quan trọng mấy nhưng bộ ván không tránh khỏi gập ghềnh. Ông tôi lúc ấy đã quá xa cái tuổi "thất thập cổ lai hi" nhưng không có nét gì lụ khụ lú lẫn như bao nhiêu người khác may mắn cùng tuổi. Trái lại, trông ông rất quắc thước, siêng năn làm việc lặt vặt qua giờ giấc tuổi già.

Ông cẩn thận chêm chân ván bằng những miếng ngói bể hay mảnh sành vụn rất khéo léo sít sao vì ông sợ tôi thường hay lâng la, rủi ro vấp phải mang họa. Bà tôi bỗng đứng phắt dậy. Bà vói tay lấy cái rá tre đựng cơm được đặt gọn lỏn trong chiếc gióng mây treo lủng lẳng trên trần nhà. Nồi cơm bà tôi nấu xong sớm lắm, lúc hừng sáng theo thói quen không thể bỏ được từ lúc bà còn trong tuổi bươn chải, chắt mót giờ giấc, tiện tặn từng phút từng giây cho công việc tất bật ngoài đồng không mông quạnh. Bà cẩn thận ra rá xong, treo tòn ten kỹ lưỡng. "Chó treo mèo đậy" như vậy bà tôi mới thực sự an tâm. Bà thận trọng đặt rá cơm trên ván ngựa và nói một câu không dính dáng chi đến bữa cơm gia đình đông đủ này trong khi gương mặt phúc hậu thuần lương của bà vẫn rạng rỡ một nụ cười hồn nhiên, cởi mở thường trực:


- Mới ngày nào đẻ ra to xương nặng trìu trịu, ẵm bồng rã cánh tay, nay lớn đại.

Mẹ tôi mỉm cười, chậm rãi tháo mấy nuộc dây lác rồi vẽ miếng thịt heo kho tàu với nước dừa xiêm, da vàng óng ánh, căn phồng hấp dẫn. Người bỏ vào chén, thúc hối tôi ăn nhanh và ngoan. Đồng thời, người không ngớt miệng khuyên lơn tôi phải có ý tứ và cẩn thận, không nên để cơm đổ tháo bừa bãi kẻo mang tội. Bao nhiêu lần, tai tôi nghe mẹ tôi nhắc nhở và nhứt là bà tôi một mực bảo rằng hột nếp, hột tấm, hột gạo vốn là hột ngọc quý hiếm ông Trời rộng rãi ban cho loài người. Do vậy, phải tâng tiu trân quý nó mới có mà ăn dài dài về sau. Mẹ tôi vui vẻ phụ họa:

- Còn mấy tháng nữa thằng Thọ (tên tôi Võ Văn Thọ) đúng bảy tuổi đó má.



Cơm gạo nanh chồn vùng Chợ Đào, Rạch Kiến trong rá thơm phưng phức. Gạo Chợ Đào thơm ngon khét tiếng. Mấy ai ở tỉnh Chợ Lớn lại không ưa chuộng thầm khen? Ngay cả những tỉnh lân cận và vùng Sài Gòn Chợ Lớn nữa. Thỉnh thoảng trong năm, người ta cố công tìm kiếm mua cho bằng được chút ít vừa đủ nồi cơm để mong tăng thêm hương vị ở những bữa ăn thịnh soạn, lâu lâu mới có một lần. Loại gạo tăm tiếng này quý hiếm lắm. Hột gạo vừa nhỏ, vừa đều đặn, có màu trắng ngần đồng dạng lại có mùi thơm dễ chịu khi được giả tay. Trông nó thon thon dài dài giống như nanh con chồn nên mới có cái tên tượng hình để đời ấy trong dân gian. Gạo này đắc giá lắm vì năng suất không cao. Nông dân ít khi trồng do kén người mua. Chỉ có người giàu có dư giả mới mong rớ tới.

Ông bà tôi có trồng một hai xẻo nhỏ để giành ăn trong gia đình hoặc để đãi đằng khách quý hay biếu xén những nơi ân nghĩa và bà con thân tình dịp Tết nhứt. Hơn nữa, loại lúa này rất kén chọn ruộng tốt, nước nôi điều hòa cùng đòi hỏi phân phướng đặc thù và đầy đủ.Từ khi lúa trổ đồng đồng đến lúc lúa chín vàng, ai có được diễm phúc đi ngang qua những xẻo ruộng này sẽ bị níu chưn níu cẳng, nửa muốn đi mà đi chẳng đành, nửa muốn ở cũng chính vì mùi thơm ngào ngạt hấp dẫn của nó. Còn nói gì lúc vần cơm, bà tôi giở nắp nồi ra xới cho đều, đố ai cầm lòng thèm thuồng cho được?

Một màn mỏng trắng đục, quyện tròn thơm phức, cứ to dần để tan biến trong không gian. Tô canh khoai mỡ nấu với con cá trê vàng cắm được chiều hôm qua ở bến sông nhà ông tôi, nơi này lúc nào cũng um tùm dừa nước do ông trồng lấy lá lợp lẫm trại, chòi củi hay kết gào xách nước, tô canh nóng ấy hầu như vẫn còn nguyên vẹn. Cái màn mỡ cá trê cứ nhấp nháy lấp lánh trên mặt được tô điểm thêm đó đây những khoanh nhỏ hành hương xanh nhạt quyến rủ gọi mời. Tôi đang chăm chú ăn thật nhanh vì ngoài sân có mấy thằng bạn hàng xóm trang lứa đang chờ. Có đứa lớn hơn tôi ba bốn tuổi, hằng ngày ở trần trùn trục, chỉ có cái quần xà lỏn dính da, tập bè tập lũ kéo nhau đi thọc keo xanh hay me dốt ở những nhánh me già nhà ông Hội đồng Nghé, gie ra tận sát ngoài đường đi. Bỗng tôi giựt mình, ngoái cổ vảnh tai khi nghe bà tôi nhắc đến tên tôi:


- Ra ngoài rằm, dường như chiều thứ sáu tới thì phải, con đến giáp mặt ông Giáo Sử bảo với ổng, ba má nhờ ổng nhận thằng Thọ vào học lớp đồng ấu năm nay.

Ông tôi nảy giờ ngồi êm ở đầu mâm cơm, nhâm nhi ly rượu đế khai vị với bộ gan gà giò mẹ tôi thái mỏng, do răng cỏ ông tôi lúc xế chiều này thường xuyên hành hạ, làm khổ ông không ít. Ông nẩy lên cự nự, phản đối bà tôi bằng một giọng bất bình, đôi mắt trợn tròng. Ông gằn gằn từng tiếng một tỏ ra dứt khoát chắc cú lắm. Ông cương quyết chớ không lập là lập lững, ậm ờ nửa nạt nửa mỡ, "có thể như vầy, có thể như kia":


- Không được đâu bà. Giáo Sử mà dạy cái giống gì. Vả mà dạy cho tôi chết bất đắc kỳ tử đi! Chết không kịp trông thằng cháu cưng của tôi lớn lên nên người. Ngày chí tối, thằng chả vắng mặt luôn, bỏ trường bỏ lớp, bỏ mặc đám học trò nhỏ nhốn nha nhốn nháo, kết bè kết cánh tự tung tự tác. Năm khi mười họa mới thấy bóng dáng vả lấp ló ở lớp. Bà ơi! Bà đừng có nhìn cái dáng vẻ bề ngoài của vả. Lầm chết đi bà!


Ông nói tiếp:

- Sự thật quá rành rành. Không một ai trong xóm mình có thể nói khác hơn được. Bà có thấy mấy đứa nên thân ở làng nầy? Bà kể cho tôi nghe xuôi tai đi! Đếm trên đầu ngón tay à bà! Mà chưa chắc đã đủ năm ngón. Tôi thách bà kể đủ năm ngón, tôi hứa sẽ cho không vả trọn cái gia tài sự sản của mình để tưởng thưởng công khó của vả.


Bà tôi chưa kịp có phản ứng, ngồi im nhíu mày trầm ngâm suy nghĩ. Ông tôi vồn vã ra chiều đắc thắng:

- Dạy là thằng Đực Lớn, con Tư Yêm nó dạy, chớ Giáo Sử nào dạy. Bà chẳng thấy sao? Giáo Sử thường đi ăn nhậu, học trò vắng thầy như "gà mọc đuôi tôm", tha hồ chạy giỡn, đánh lộn đánh lạo rùm trời tối ngày. Thằng Đực Lớn đúng với cái tên lớn gộc của nó nhiều khi còn công khai ra mặt đứng thị thiền, cáp độ cho chúng nó ăn thua đủ, đánh nhau thả giàn. Mạnh đứa nào đứa nấy xưng hùng xưng bá, làm mưa làm gió, chia phe kết phái làm ông Hoành ông Trấm không bằng.


Ông tiếp lời:

- Bà con có cửa nhà chung quanh trường bao lần lên tiếng trách móc phiền hà với Ban Hội Tề nhưng vả vẫn làm ngơ, xem như nước chảy qua cầu. Trật tự trường ốc đâu còn nữa. Toàn là những gương xấu chớ có gì tốt đẹp đâu? Bà bảo đưa thằng Thọ vào học với Giáo Sử chẳng khác nào đưa con đưa cháu bỏ chợ bơ vơ. Trẻ nhỏ quanh năm bỏ bê sẽ không buông tha thằng cháu cưng của tôi đâu!

Không để bà tôi kịp phân trần, trình bày hơn thiệt, ông tôi được nước lại thao thao một cách quả quyết:

- Bà bảo chiều thứ sáu tới hả? Bà nói chơi hay nói thật chớ? Hay bà định tâm thử tôi? Bà có biết ngày đó là ngày nào không? Hăm ba đó bà!. "Mùng năm, mười bốn, hăm ba; Đi chơi còn thiệt, lựa là..." là... đi học!


Trường Phú Hội, xóm Rạch Rít quê tôi, nơi ông Giáo Sử được bổ nhiệm từ mấy năm nay, gồm vỏn vẹn hai lớp: đồng ấu và dự bị, chuẩn bị cho học trò ra quận lỵ Bến Lức hay Gò Đen thuộc làng Phước Lợi để vào thẳng cấp sơ đẳng. Buổi sáng, thầy dạy lớp đồng ấu, buổi chiều lớp dự bị. Thực tế, ông Giáo Sử ghép hai lớp vào học cùng một lúc. Như vậy, mỗi ngày ông chỉ dạy một buổi thôi. Học trò có những thời khoảng nhứt định trong năm cứ thưa thớt dần vì phải ở nhà phụ giúp cha mẹ quần quật ngày mùa. Dù sao cũng đỡ tay đỡ chân người lớn. Gặp lúc mưa tầm tã, dây dưa ngày tiếp ngày, mực nước lên cao, đồng ruộng bấy lâu khô cằn một màu rạ sẫm vàng và những kinh đào luồng lạch đan quyện nhau chẳng mấy chốc trở thành một biển nước bát ngát trắng xóa.

Học trò bế cửa ở nhà đã đành nhưng đến khi nước rút, bờ mẫu bờ bao ngạn chưa lú hẳn dù đôi đoạn có nhô lên nhưng sình lầy nhảo nhoè nhảo nhoẹt do bị ngấm lâu ngày trong nước, chúng nó cũng không mấy hăng hái cấp sách đến trường. Lớp học lưa thưa không thua gì chùa Ba Đanh. Cả hai lớp lúc này gộp chung lại nhiều lắm chỉ ngo ngoe được hai mươi, hai mươi lăm đứa là cùng, mặc dầu hôm tựu trường cha mẹ đến ghi danh mỗi lớp không dưới bốn mươi. Ông Giáo Sử thuộc hàng giáo viên có "vấn đề" với nhà nước thuộc địa nên bị đưa đến đây, đỉa vắt, muỗi mồng, bù mắt hoành hành đêm ngày, xem như đi đày chung thân khổ sai. Ông không hy vọng sớm có ngày về. Ban đầu, ông gặp rất nhiều khó khăn để làm quen với khí hậu khắc nghiệt, nước nôi độc địa và cuộc sống khó nghèo, thiếu thốn của dân làng. Thét rồi ông cũng quen dần.

 Không mấy chốc, ông hòa đồng với nếp sống của họ. "Nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục". Hơn nữa, ông cũng dư biết rằng ngày ông rời khỏi xóm Rạch Rít hắt hiu buồn tênh của tôi chắc hẳn còn xa xôi lắm. Một ảo tưởng đối với ông là khác. Kinh nghiệm sống trong một chế độ thực dân nhiều bất công áp bức đã giúp ông có những suy nghĩ và nhận xét thực tế để khỏi phải thất vọng về sau. Thỉnh thoảng, Thanh Tra hay Đốc Học đến xét trường lớp. Nhưng ông Giáo Sử chắc mẽm rằng họ bắt buộc phải báo cho ông hay hương chức Hội Tề biết trước ít nhứt một tuần mươi bữa để giới chức trách địa phương có đủ thì giờ chuẩn bị phương tiện tiếp rước, đón đưa cùng lo liệu cơm nước trong suốt thời gian lưu lại ở đây.


Việc ra vào cảnh thổ cùng cốc nơi "hốc bà Tó" này thật khó khăn nhiêu khê vô cùng. Đường bộ chỉ là những bờ mẫu ngoằn ngoèo sạt lở vào mùa mưa, đồng không loáng thoáng một màu nước bạc. Ghe xuồng là phương tiện giao thông tứ mùa nhưng cũng phải sắp xếp trước vì là phương tiện nông nghiệp hiếm hoi, đã đắc tiền lại cần thiết. Thiếu nó, người dân ở đây kể như bị bẻ tay bẻ cẳng, không thể di chuyển làm ăn gì được giữa vùng trời nước mênh mông bất tận này.

Ghe tam bản hay xuồng ba lá ra tận đầu làng rước khách về bến Rạch Chung. Từ đó, xe trâu tiếp tục đưa tận cửa trường, đối diện Nhà Hội nếu là mùa khô, đất đai khô cằn nức nẻ. Xe trâu là phương tiện di chuyển đường bộ duy nhứt vào mùa này. Xe bò hầu như không có. Ngay trên những đoạn hiếm hoi, bờ kinh rộng rãi bằng phẳng mà cả một đời người ở đây, phần đông đều nặng óc thủ cựu cũng chẳng biết đến chiếc xe đạp cót két là gì. Bởi họ không có thói quen hoặc không thích hay không chịu khó tập tành khổ nhọc ngồi trên yên chiếc xe hai bánh chao đảo chồng chành này.

Chỉ vì lý do duy nhứt, họ nghĩ một cách đơn giản và thực tế, họ sẽ không ổn bằng ngồi trên chiếc xe trâu thân quen, dù ì ạch nặng nề nhưng đối với họ vững vàng an tâm hơn. Năm khi mười họa mới có một chiếc xe đạp cổ lổ xỉ của chú chệt già thiến heo thiến gà chầm chậm lướt qua với tiếng sáo lanh lảnh từng chập nhưng dài hơi khiến lũ trẻ cấm đầu chạy lúp xúp theo phía sau xem như một vật gì lạ lắm. Nhờ được báo trước, ông Giáo Sử không chút gì lo lắng cả.

Trái lại, ông vẫn tỉnh bơ, tà tà sinh hoạt theo nhịp độ thầm lặng bình thường vì quá dư giả thì giờ để thu xếp chu đáo. Từ ngày nhận nhiệm sở ở đây, mỗi lần Thanh Tra hay Đốc Học đến xét trường lớp, ông Giáo Sử không được khen ngợi là lẽ thường tình, đương nhiên như vậy do hồ sơ, lý lịch của ông. Kẻ bị đày lúc nào cũng có tội. Không ít thì nhiều. Đó là thành kiến cố hữu dưới con mắt nghi kỵ, áp chế của thực dân. Đôi khi chỉ là những tội tưởng tượng do đầu óc ganh tỵ, cục bộ hẹp hòi hay do tánh ích kỷ, a dua xua nịnh của những người đồng hương mà ra. Vả lại, thực tình mà nói, ông cũng chẳng màn và cũng chẳng có nét thay đổi gì khả dĩ gọi là độc đáo đáng ngợi khen từ ngày đến đây trấn nhậm.

 Nhưng chẳng khi nào ông bị quở phạt hay bị khiển trách nặng lời với những văn bản ký tên đóng dấu đỏ lói lưu trữ kỹ lưỡng trong hồ sơ cá nhân như những năm làm việc ở các nơi khác thuộc vùng châu thổ phì nhiêu, sung túc. Mà khiển trách, quở phạt ông làm sao được nữa? Ở cái đất Miền Nam phù sa thịnh mậu, giàu sang trù phú, cuộc sống quá ư thoải mái dễ dàng... còn nơi nào nghiệt ngã hơn, còn nơi nào là địa ngục trần gian, ngút ngàn khắc khổ để có thể đày ải ông đây? Ông đã ở tận cùng của vực thẳm sâu hút rồi! Cho nên ông chẳng bao giờ tỏ vẻ nao núng trước nghịch cảnh oái oăm ngang trái. Ông xem như ông đã chấp nhận định mệnh an bày, một định mệnh khắc khe như đối với những kiếp đời ở đây mà với thời gian ông đã giành nhiều thiện cảm qua sự ngưỡng mộ và quý mến.


Do vị trí địa dư của xóm Rạch Rít, do bối cảnh sanh hoạt khác biệt của dân làng Thanh Hà, ông Giáo Sử rất thoải mái, dạy cầm chừng, cốt sao cho học sinh vốn ngoan hiền dễ dạy, luôn luôn tôn sư trọng thầy, chúng nó biết đọc biết viết, biết làm bốn phép toán thông thường là cha mẹ chúng vui rồi. Làm ăn lam lũ quanh năm, tất bật từ sáng chí tối, họ để ý chi đến sinh hoạt hằng ngày của con cái. Họ giao đứt cho ông bà nội, ông bà ngoại trông nom dòm ngó và uốn nắn dạy dỗ.

Trong cảnh nghèo khó, con người bị ám ảnh bởi miếng cơm manh áo hằng ngày hằng bữa, làm cho tâm trí trở nên đần độn tối mò. Và sự đói khát chập chờn thường xuyên trong lo âu thắc thỏm khiến họ vô tình lạnh nhạt với việc học hành của con cháu, thờ ơ về tương lai của chúng sau này. Lúc con còn nhỏ khi ở trong gia đình thì họ hoàn toàn trông cậy ở ông bà chăm lo. Đến tuổi đi học, họ phú thác trọn vẹn cho thầy giáo, chẳng những việc dạy dỗ chữ nghĩa mà cả đến việc xử thế và đạo đức làm người nữa. Một ngày nào đó, bỗng dưng họ phát giác con mình đọc được truyện Tàu: Tam Quốc Chí, Hán Sở Tranh Hùng, Phong Thần, Thuyết Đường, Tiết Nhơn Quý Chinh Đông Chinh Tây v.v... Bạch Viên Tôn Các, Lục Vân Tiên hay Gia Long Tẩu Quốc, Gia Long Phục Quốc v.v... là sung sướng mừng húm như được trúng mùa.


Ông Giáo Sử biết rất rành rọt tâm lý của dân làng như vậy nên trong năm phè ra thả nổi, đợi đến cuối năm hả hay. Mà có năm nào ông phụ lòng ký thác của dân làng đâu? Ông được họ kính nễ trọng vì là khác. Quan hôn tang tế, nhóm họ, giỗ quảy mời mọc, không đám nào vắng mặt ông. Chén anh chén tôi, thù qua tạc lại, có lần say mèm, hai ba ngày sau không hề thấy ông đến trường đến lớp, giao khoáng cho thằng Đực Lớn làm gì thì làm. Nó cứ chép bài trên bảng đen rồi hướng dẫn bạn bè cùng lớp đọc vang rân không thua gì lúc có mặt ông. Nhờ sắc vóc "người lớn", nó không khó khăn gì để áp đặt trật tự ở những giờ lên lớp nghiêm túc này. Mới bảy tám năm trấn nhậm ở làng tôi, ông Giáo Sử nhớ cả ngày giỗ từng nhà một như người trong thân trong họ không bằng.

 Rủi có nhà nào quên mời, ông cũng đến trúng ngày phong phóc. Có sai chánh giỗ cũng gặp đúng tiên thường, hậu thường, suốt cả ba ngày liền chưa bao giờ thấy dứt tiệc tùng cùng tiếng cười vui. Bà con vốn hiếu khách, hân hoan và trọng vọng tiếp rước ông thân tình. Ngay những người khách lỡ đường hay tình cờ, không hề được mời mọc trước vẫn được gia chủ niềm nở ân cần không hết lời thỉnh mời tham dự kia mà! Mâm cổ luôn linh đình thịnh soạn, trà rượu không lúc nào vơi. Cái đời làm thầy giáo của ông Giáo Sử cũng phong lưu nơi vùng ít người biết đến này. Một đôi năm, có khi còn lâu hơn nữa, ông được Thanh Tra triệu về họp hành hay để tu nghiệp ở tỉnh lỵ, nơi trường tiểu học bổ túc Phú Lâm.

Bạn bè đồng liêu lúc gặp lại ông, tỏ ra thương hại ông, cuộc đời vùi dập nơi hang cùng ngõ tận, hắt hiu buồn thúi ruột thúi gan, thêm rét rừng quanh năm hoành hành từng cơn nguy hiểm. Ông vẫn giữ thái độ trầm tỉnh yêu đời, hề hà mai mỉa. Trái lại, ông rất hãnh diện. Cái hãnh diện duy nhứt trong đời ông là mãi đến ngày sắp hưu trí về vườn, cô đơn cô độc ngồi quạnh hiu ở gốc đa đình làng như Ông Táo, ông vẫn khoẻ mạnh, ngày ngày ăn ngon ngủ yên. Ông không hề bị những bịnh do nghiệp gõ đầu trẻ gây ra, đại để như ho lao, ho tổn hoặc ngứa ngáy, chốc lở. Có người ngây ngô chưa hiểu hết ý ông nên ông thích thú cười hà hà... Cái cười bằng lòng và mãn nguyện về mình. Ông vừa tủm tỉm vừa hóm hỉnh giải thích gọn hơ:


- Tôi khác hẳn các đồng nghiệp của tôi ở quận ở thành. Tôi là phần tử đứng ngoài rìa vòng hệ lụy của ngành giáo dục tỉnh nhà mà! Thanh Tra Tây chẳng ưa đã đành do bản chất thực dân kỳ thị thâm căn cố đế. Còn Đốc Học ta thì muốn tống khứ, đày ải tôi đi vào vùng xa chừng nào tốt chừng nấy để họ yên thân yên phận, không lo bị bề trên khuấy rầy phiền phức. Đến tuổi về hưu, chắc chắn tôi chưa qua khỏi ngạch tập sự bao nhiêu trong khi đó, đa số bạn bè tôi bết bát lắm cũng thượng hạng ngoại hạng từ lúc mới bước vào tuổi bốn mươi lăm, năm mươi lận. "Ho" ở đây là "ho cờ lát" (hors classe) đấy mà!


Ông khoái chí cười híp mắt:


- Cũng đa số đó được chánh phủ thuộc địa tưởng thưởng huy chương đầy ngực, nào huy chương dạy hay dạy giỏi đúng theo đường hướng của thượng cấp, còn có cả huy chương trung thành tuyệt đối với mẫu quốc Phú Lang Sa nữa. Tôi làm gì có được mấy loại "mề đai" ân sũng đó. Được, cho mà chết đi! Ối! Mà thôi, ngứa ngáy khó chịu, mắc công gãy tới gãy lui chẳng vui sướng gì!


Ông tôi đưa mắt nhìn bà và mẹ tôi rồi đằng hắng nói:

- Thây nó! Thủng thỉnh đi học cũng được. Ngày trước, tôi đến mười hai, mười ba tuổi, tía mới cho đi học với thầy đồ rồi cả một hai năm sau mới gởi đi học chữ quốc ngữ cho hợp với trào lưu mới. Bà không thấy sao? Trông nó phốp pháp nhưng bà tưởng nó lớn lắm à? Mới sáu, bảy tuổi còn khờ khạo lắm, vẫn còn quấn quít cạnh bên mình. Cho đi học sớm như vậy tội nghiệp thằng nhỏ. Huởn huởn lúa thóc vào bồ xong, tôi sẽ tính. Rồi đâu cũng vào đó. Có việc nào không ổn bao giờ đâu bà?


Bà tôi có vẻ cương quyết trong khi mẹ tôi lặng thinh ngồi nghe hai ông bà trao đổi lời qua tiếng lại nhưng ngầm thông cảm cái ý kiến trong sáng và thống nhứt ở nơi hai ông bà là quyết tâm lo cho tương lai mai sau của con cháu. Thái độ đó như vừa để tôn trọng ý kiến cha mẹ chồng, vừa đồng lõa với lời phát biểu của bà tôi:


- Ông nói vậy sao được? Tôi nghe không lọt tai. Cháu lớn trọng rồi. Còn nhỏ nhoi gì nữa! Phải cho nó đi học chớ! Bộ ông tính giữ nó ru rú trong nhà hoài cho dốt hay sao? Thời buổi ganh đua khó khăn này, nó phải học hành đến nơi đến chốn như ba nó hồi xưa mới được.


Bà tôi hạ thấp giọng dần dần để tranh thủ cảm tình của ông tôi:

- Nỗi lo lắng và ao ước của tôi là như vậy. Chữ nghĩa mới quý. Chữ nghĩa ăn hoài không bao giờ hao hụt, chẳng lúc nào hết cả... còn tài sản như ông thấy đó, ngồi không ăn, mỗi năm mỗi vơi, núi non cũng lở. Nhiều người tiền rừng bạc biển, ruộng vườn mênh mông bát ngát, chó chạy cong đuôi nhưng con cháu ỷ y không chịu đi học, ăn xài tiêu pha hoang phí đến đỗi bán sạch sành sanh, chết không có một bụm đất để chôn. Thiên hạ đem dập thây nơi một xó ở gò vô chủ thuộc vạt công thổ sầm uất chôm chổm dứa gai. Biết bao nhiêu trường hợp tương tự còn nhan nhản trước mắt kia mà!


Như chưa vừa ý với những luận điệu của mình, bà tôi viện dẫn thêm:

- Bà con mình có ai mà không nghe một lần câu nói được truyền tụng vang um: "Nhứt Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định". Người nào người nấy đều giàu có bậc nhứt ở đất Sài Gòn hồi tôi còn nhỏ hếu. Ai thì tôi không biết chớ ông Hộ trưởng Trần Hữu Định tức Bá hộ Định có lạ gì với bà con xóm mình. Ông vốn gốc gác ở Chợ Lớn mình đây, giàu có khét tiếng và giàu có nhanh chóng nữa kìa. Lúc nào cũng tiền hô hậu ủng. Sự nghiệp của ông ta thuộc vào hạng kết sù nhờ vào hành nghề địa ốc, xuất nhập cảng hàng vải tơ sợi phục vụ ngành dệt, nhứt là khai thác ngành cầm đồ cũ lấy lời thắt họng. Sau ngày ông ta chết, còn lại những gì? Con cháu tiêu pha bạc bài phá sản. Cũng vì mê chơi, chẳng chịu học hành, không biết đâu là chừng mực, đâu là đạo lý đức độ nên mới ra cớ sự...


Giọng ông tôi bỗng tăng dần cường độ. Quả là giọng đàn ông, nhứt là hạng đàn ông trụ cột trong gia đình những lúc bực mình nổi giận. Nhưng cái nóng tánh trời sanh đó dù sao cũng không đến mức gây nhiều sóng gió trước mặt bà tôi:


- Bà nhắc làm như tôi không thấu lý thấu tình hà? Bao nhiêu năm dài lăn lóc, bao nhiêu bước đi trầy trật trong sương gió với đôi tay chai sần không một ngày rời lưỡi hái chuôi cày, tôi đã biết và cũng đã thấm thía về sự dốt nát thất học ra sao rồi. Bà nhắc làm chi cho tôi thêm buồn!


Ông đưa tay vuốt mái tóc bạc:

- Tôi lại nghĩ thêm. Thật thiệt thòi và tủi nhục vô cùng khi bây giờ tôi nhìn chung quanh mình thấy còn một số không ít bà con bất hạnh, một chữ nhứt một không có để lận lưng làm vốn, lại hăm hở giở những tờ báo cũ gói bánh trái bắt gặp đâu đó ra xem như tiêng tiếc một thời đã đánh mất? Giá nếu không có những hình ảnh đó đây trên tờ báo thì tôi cầm chắc họ đã xem ngược rồi. Tội nghiệp làm sao!


Ông tôi tiếp:

- Tôi có để cháu nó dốt bao giờ đâu mà bà mắc mõ trách móc tôi? Tôi chỉ nói cho đi học sớm tội nghiệp thằng nhỏ thôi. Bà thử coi tôi nói có đúng không?


- Ông nói đúng lắm nhưng chí tình chỉ đúng có một phần tư thôi còn lại ba phần tư kia tôi thấy lờ mờ, u u tăm tăm quá chừng. Tôi nói thật lòng, ông đừng giận tôi. Sáu, bảy tuổi còn nhỏ nhoi gì nữa? Hơn mấy mươi năm trước, cũng tôi lằng nhằng thúc đẩy ông đưa ba nó ra quận rồi lên tỉnh học. Ông có nhớ cho tôi chết đi!


Bà tôi khe khẽ thở ra... Một đỗi sau, bà cất lời như giận lẫy, như ngập ngừng hờn dỗi khi bà tự xét mình đã quá đủ tuổi già để hồi tưởng dĩ vãng, dù đôi lúc sự quay trở về quá khứ của bà ẩn hiện một chút gì nhớ nhớ quên quên. Bà xa gần nhắc nhớ một vài kỷ niệm xưa đang chợt bừng thức dậy trong ký ức bà. Những kỷ niệm bà đã gìn giữ trân quý trong tự hào và hãnh diện chừng ấy năm trời, giờ đây bà muốn ông tôi bình tâm sống lại với nó:


- À mà ông có nhớ thật đấy chớ. Nhưng chỉ tiếc ông nhớ một hai ngày là cùng. Nhậu vào là ông quên tuốt luốt hết. Nói ông quên thì ông lại hờn mát, không bằng lòng. Sự thật thì ông mau quên quá mà! Lắm lúc chỉ cần ngáp dài một cái là ông phủi hết những gì có trong lòng ông. Hồi đó, tôi cãi với ông rùm trời rùm đất còn hơn giặc sắp đến bên nhà. Đến lúc con thành danh thành tài, ông bảo công khó của ông, nào lo xuôi lo ngược, nào tính trước tính sau. Gì gì cũng do một tay ông cả. Ôi thôi đủ thứ lo... chỉ một mình ông, gia đình mình mới có ngày nầy.


Ông tôi không trả lời bà tôi nữa, ra dáng suy nghĩ. Ông thổi cơm, và hấp tấp như thói quen ở mỗi bữa ăn. Ngừng một chập, ông xuống giọng vả lả làm lành với bà tôi. Thật lạ lùng làm sao?! Cái nước nạp của ông tưởng chừng như sấm sét sẽ ụp đến ngay trong gia đình bỗng chốc đã biến đâu mất. Vì ông biết bà tôi vốn ít nói lắm. Mà bà đã nói thì đã có suy nghĩ đắn đo cẩn trọng. Ông xuống giọng:

- Thôi, được rồi. Chiều mai, tôi sẽ qua nhà ông Thầy Huế nhờ ổng nhận dạy thằng Thọ. Tôi thấy dường như ông ta có dạy hai ba đứa gì đó, coi bộ có kết quả lắm.


Ông lại nhíu mày như cố moi móc từ trong sâu thẳm của trí nhớ vốn đã có nhiều triệu chứng sa sút do tuổi đời tác hại, xem như một định luật của trời đất không một ai có thể cưỡng chống lại được. Ông ngồi run đùi như muốn cạn ý hết lời với bà tôi sau khi tìm ra giải pháp cứu tinh, dung hòa mọi ý kiến chống đối từ trước:


- Ờ... ờ.... Tôi nhớ thằng Xã Tàn có nói với tôi dạo trước khá lâu, đâu hôm trong năm thì phải, thằng con trai trưởng của nó nhờ ông Thầy Huế chăm lo dạy dổ, lúc ra quận Bến Lức học, luôn luôn đứng nhứt đứng nhì. Trong khi đó, đám học trò bê tha của Giáo Sử rớt lộp độp như lá rụng mùa thu. Nhà ông Thầy Huế không xa nhà mình mấy. Khỏi ngôi vườn ông Hương Sư Chương quẹo mặt, cách vài xẻo ruộng là tới. Tiện lắm đó bà.


Thì ra ông bà tôi ăn ở chung sống với nhau xem như êm đềm hạnh phúc lắm nhưng đôi lúc cũng có những ý kiến bất đồng thường ngày, những xung khắc nhau không sao tránh khỏi như câu chuyện hôm nay dẫn đến cãi cọ. Nhưng được một cái là rốt cuộc đâu cũng vào đấy. Tánh của ông tôi là như vậy đó, ồn lên một đỗi rồi làm lành lại ngay. Tôi được mẹ tôi cho ăn xong, chạy giỡn ngoài sân khá lâu với con Vện và con Mốc mà ông bà và mẹ tôi hãy còn ngồi đầy đủ ở mâm cơm. Ba bốn quả mãn cầu dai chín cây mà tôi lọt thọt đeo theo sát gót ông tôi hái chiều hôm qua lúc chập choạng tối, sợ trao trảo tinh mắt ăn hổn ăn hào lúc hừng sáng, mấy trái mãn cầu to lớn ngon ngọt ấy hãy còn nguyên vẹn trên dĩa. Cả ba chưa ăn tráng miệng. Điếu thuốc rê của ông tôi vấn to bằng ngón trỏ dán ở cột chái hiên nhà trước lúc ông được tôi mời vào ăn cơm đã tắt ngủm từ bao giờ, tàn thuốc rơi sóng soải ở sàn đất. Câu chuyện dong dài về ông Thầy Huế vẫn chưa dứt...


**




Ông Thầy Huế, gốc người Miền Trung, vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, quê hương của tằng tổ tôi ngày xưa thì phải, nếu trí nhớ của tôi còn tốt. Ông bà tôi cũng như dân xóm Rạch Rít, cứ thấy người nói giọng trong ấm trọ trẹ Miền Trung thì gọp chung lại gọi là người Huế. Có lẽ Huế là kinh đô của triều đại Việt Nam gần đây nhứt nên bà con tôi dễ nhớ dễ quen tên chăng? Hơn nữa, từ trước, sĩ tử Miền Nam thỉnh thoảng khăn gói mang "lều chỏng" đi Huế ứng thí mỗi khi triều đình nhà Nguyễn mở khoa thi hội, thi đình hay sĩ phu và quan lại trấn nhiệm ở vùng đất mới ráo hổi này cũng thường "lai kinh" do chiếu chỉ vua gọi về chầu. Dân làng nôm na gọi "họ đi Huế". Như trường hợp "người học trò khó" đất Nam Kỳ Lục Tỉnh, cụ Phan Thanh Giản, người đổ tiến sĩ đầu tiên của phương Nam, trên đường về Kinh để nhậm chức ở Quảng Ngãi, trực chỉ Con Đường Cái Quan đi Huế xa vạn dặm, đã để lại hậu thế một bài thơ chan chứa láng lai ân tình:


Muôn dặm đường xa mới tới Kinh

Bao nhiêu non nước bấy nhiêu tình

Rừng không người vắng chim kêu rốn

Trăng lặng sao mờ gió thổi rinh.


Ông tôi kể rằng: Đối với người dân xóm Rạch Rít, ông Thầy Huế đến đây lúc nào không ai biết và cũng không ai quan tâm để ý tìm hiểu làm chi. Ở vùng đất khẩn hoang tất bật, đất trời bất biết này, người tứ xứ đến lập nghiệp không phải ít. Một vài tháng đã thấy có những gương mặt mới, lạ hoắc lạ huơ, nhưng hiền hòa lam lũ cùng với vợ con nheo nhóc lủ khủ. Chồng thì trắng tay, vợ cũng tay trắng. Họ chẳng hơn nhau gì nhưng cùng chung một ý chí phấn đấu cho tương lai, thống nhứt những bước đi tới, hợp nhau qua một hướng đời cố gắng ngoi lên khỏi cảnh đói nghèo triền miên để xây dựng một mái gia đình ấm no hạnh phúc, tình nghĩa tròn đầy. Mạnh ai nấy lo phần việc đa đoan của mình. Ai đâu rổi rảnh, dư giả thì giờ, bỏ công khó theo dõi dòm ngó công việc của thiên hạ bàng quan cho bận tâm mệt trí. Chỉ biết những năm gần đây, ông Thầy Huế rất có uy tín trong thôn xóm. Ông được lòng bà con từ đầu thôn cuối xóm, có thể nói chẳng sót một người.

 Ai ai cũng giành cho ông một sự tiếp đón niềm nở với cảm tình nồng hậu, chan chứa nghĩa ân. Hỏi đến nhà ông, người nào cũng rành. Ai ai cũng biết. Tuy nhiên, đôi lúc cũng buồn cười lắm. Chỉ vì do bản tánh nông dân nói năn có đầu có đuôi, có trước có sau nên hầu như họ thường hay vòng vo tam quốc. Nhiều người lẩn quẩn cứ chỉ chỏ lia lịa. Họ tỉnh bơ bảo bọc qua bên này, rẽ qua hướng kia, quành tới quành lui, đánh thêm một hai vòng nữa rồi đi riết độ tàn nửa điếu thuốc... Ấy thế rồi khách cũng tới phóc nhà ông thôi. Thầy dạy đôi ba đứa trẻ trong xóm, không bao giờ lấy tiền thù lao, dù một đồng xu cắc bạc để cạo gió những lúc ể mình. Tôn chỉ của Thầy là thế. Bất di bất dịch.

Không hề thay đổi. Gia đình nào có món ngon vật lạ mang biếu Thầy gọi là đền ơn đáp nghĩa, công khó của Thầy trong việc khai thông vỡ lòng con cháu họ là đủ lắm rồi. Một chục xoài thanh ca đầu mùa gốc Cái Bè Cái Mơn, da căng thơm phức, một cặp bưởi ngọt loại bưởi ổi Biên Hoa, ruột trắng ngà tươm nước vào dịp Tết Nguyên Đán để Thầy chưng dĩa quả tử, nửa chục quít đường trái chiến trong bóng, con cá lóc vừa nhảy hầm béo mập tươi rói, con vịt xiêm tơ sà, đôi gà trống thiến nặng trìu trịu v.v... thường là quà cáp nghĩa tình, biểu lộ lòng biết ơn chơn thành của họ để Thầy ăn lấy thảo.

Nhưng Thầy vẫn cằn nhằn thoái thác, chối từ. Họ phải nài nĩ ỉ ôi năm lần bảy lượt, hờn lên giận xuống Thầy mới chịu nhận. Họ rất trọng quý Thầy vì dù cho chữ nghĩa kém cõi nhưng tình cảm và đạo lý nơi họ có thừa. Vả lại, dần dà họ rất thấu hiểu giá trị và vai trò thiêng liêng cao cả của người Thầy đối với tương lai con cháu họ qua những bài ca dao hơn một lần trong đời, họ đã nghe đây đó:


- Mấy ai là kẻ không thầy

Thế gian thường nói đố mầy làm nên.

- Muốn sang thì bắc cầu kiều

Muốn con hay chữ phải yêu mến thầy.

- Ngày nào em bé cỏn con,

Bây giờ em đã lớn khôn thế này.


Cơm cha, áo mẹ, công thầy,

Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao!

.......


Ông Thầy Huế còn biết xem mạch cho toa, nên giữa vùng hoang dã Rạch Rít còn gì quý bằng có sự hiện diện cứu tinh hiếm hoi của vị lương y tại chỗ. Trong khi đó, nơi nhiều làng lân cận giàu có, sung túc gấp bội, gia đình bệnh nhân phải lặn lội hay chống chèo ra tận chợ quận mới vang lơn cầu thỉnh được thầy thuốc. Đường xa diệu vợi, các vị lang y thường thối thác viện nhiều lý do nếu không phải là những người giàu có tiếng tăm. Trái lại, nơi xóm tôi, mỗi khi trong nhà gặp trời trở gió, có người đau ốm, cảm nặng, trẻ nhỏ nóng mê sản làm kinh v.v... dù đêm ngày hữu sự chưa kịp mời, Thầy nghe được, bất chấp giờ giấc thời tiết nắng mưa, xăn xái đến giúp xem mạch cho toa.

 Thầy không chút chần chờ do dự hay đòi hỏi kỳ kèo thù lao này nọ. Thầy thường tâm sự, phương châm của Thầy không ngoài bốn chữ vàng đã nhập tâm từ lúc tầm sư theo nghề: "Lương y từ mẫu". Thầy còn thêm biệt tài xem thiên văn địa lý. Có lẽ nhờ sự hiểu biết và khả năng thấu triệt lẽ huyền bí của khoa địa lý thiên văn này mà Thầy được bà con càng trọng vọng hơn. Vì bà con tôi vốn gắn chặt với cổ tục và mê tín dị đoan từ bao nhiêu thế hệ, đã thâm căn cố đế ăn sâu vào tiềm thức họ. Họ đã trưỏng thành và sống với những tập tục ấy xem như một việc đương nhiên trong từng hơi thở hằng ngày của họ. Việc quan hôn tang tế, cưới hỏi, đi xa, dự tính làm ăn, cất nhà, dựng đòn vong... nhứt nhứt mọi việc trong làng, từ ngày Thầy đến đây ổn cư đến nay, đều phải có ý kiến của Thầy. Thiếu ý kiến tối hậu đó kể như mọi việc đều đình chỉ, gát lại chờ Thầy cho bằng được.

Chính Thầy quyết định cuộc đất, phương hướng, giờ giấc an táng, sao cho đúng mạch đúng huyệt của bà con tôi, để con cháu chẳng những không long đong, vất vả khổ cực về sau mà còn có cơ thịnh phát nữa là khác. Thậm chí có những gia đình làm ăn khấm khá, quyết định rời bỏ đồng đưng đồng bàng, ruộng rừng ruộng thuộc tạo dựng được nơi xóm tôi để đi làm ăn nơi khác, hy vọng cuộc sống mới sẽ đỡ vất vả hơn. Nhưng đến lúc chết, con cháu vẫn trở về lại xóm nhờ Thầy chỉ dẫn cho một chéo đất có "long mạch" hay "hàm rồng" để an táng cha ông. Vì họ đinh ninh nhờ vậy, họ dù không giàu có tăm tiếng lẫy lừng nhưng chắc sẽ không còn nghèo khó cơ cực như kiếp ông cha ngày trước. Thầy góp lời, bàn sâu tính kỹ trong hầu hết những cuộc định vợ gả chồng, xem tuổi nào đại kỵ phải tránh, nếu không sẽ đoãn mạng, tuổi nào hợp, dù có khắc khẩu đôi chút cũng không sao. Bà con tôi kể, cũng nhờ Thầy mà trong xóm có những cặp vợ chồng thuận thảo sanh con dò dọc, rất hạnh phúc đầm ấm.


Đám nhốc con của họ từ lúc nhỏ trời thương trời nuôi, năm nào cũng xân xẩn, phơi phới lớn lên như thổi. Đến lúc nhổ giò trưởng thành lại tiếp tục nối nghiệp cha mẹ lao vào ruộng nương, đào ao lấp vũng phát triển đất mới nhằm duy trì dòng dõi con nhà nòi, chúng nào biết có bệnh tật ốm đau là gì. Ngay cả một viên thuốc Tây thuốc Mỹ, chúng cũng chưa hề biết mặt mũi nó tròn méo, dài ngắn, màu sắc đen trắng, xanh đỏ ra sao bao giờ.

Túng cùng lắm, trong những trường hợp bất đắc dĩ ể mình, chúng chỉ uống ba mớ thuốc tán, thuốc hườn bày bán la liệt ngay ở các tiệm chập phô trong xóm...Nhiều cặp vợ chồng hòa thuận hạnh phúc như vậy luôn luôn nhớ công ơn Thầy, Tết nhứt không quên khăn áo chỉnh tề, trịnh trọng đến chúc thọ Thầy cùng với lễ vật tươm tất. Uy tín Thầy ngày càng gia tăng. Cả dân làng kế cận nghe tiếng đồn đãi về Thầy đến nhờ chỉ dạy rất đông. Tông tích ông Thầy Huế phủ một màn bí mật dầy đặc. Riêng ông tôi biết rõ ngọn ngành ngay từ thuở ông Thầy Huế lang thang đi bán thuốc dạo trên chiếc ghe lường có mui che mưa che nắng kín đáo, xuôi ngược quanh năm trên sông nước, từ đầu thôn cuối xóm, làng này qua làng khác để cứu đời và cũng để sinh nhai.



Lúc ấy, nhà ông Hương Quản Ó có thằng con bệnh hoạn rề rề, chữa chạy đổi thầy thay thuốc như trở áo hằng ngày vẫn không thuyên giảm chút nào. Nhà ông Hương Quản Ó đối diện Gò Bướm cũng gọi là Gò Vua, nơi ngàn thu an nghỉ của hầu hết dân làng một khi họ rời khỏi kiếp sống trần gian phiền toái rối nhùi này. Ai chết cứ đem ra đó chôn. Lâu ngày chày tháng, mả mồ xiêu giạt trở thành mả lạng. Nhiều lớp con cháu tha phương làm ăn tứ xứ, không buồn về dẫy mả ngày tư ngày Tết. Gò Vua được bà con gọi là gò ma. Ít người vảng lai. Nhà cửa lưa thưa năm ba cái chung quanh gò, trông có vẻ cô đơn lạnh lùng lắm. Không biết gò có ma quỷ thực sự hay không?

Và có ai đã trực diện gặp quỷ ma lần nào chưa? Chỉ biết ở mỗi lần họp mặt, quay qua quay lại chào hỏi, tay bắt mặt mừng chẳng được mấy chốc, bà con tôi lại xáp vào ăn nhậu rồi cái chất nồng cay của rượu đế lậu đúng độ đúng chữ giúp họ thoát ra khỏi cảnh lao nhọc hằng ngày để đưa hồn mình chơi vơi lạc vào chốn mông lung mơ hồ thích thú. Họ bật ra thuật nhiều chuyện ma quỷ lâm ly rờn rợn tưởng chừng chỉ có trong tiểu thuyết đường rừng. Đôi khi, họ cao hứng đi quá đà nên có những câu thực sự vô cùng cảm động nhưng cũng có những đoạn ngô nghê vô lý đến độ buồn cười.

 Ấy vậy, họ vẫn xăn xái tranh nhau kể rất nhiều chuyện mà mỗi ngươi đều cam đoan có thật một trăm phần dầu. Họ kể nhiều không biết cơ man nào nghe cho xiết. Nhiều người còn khẳng quyết rằng đêm đêm đi cấm câu giữa đồng sâu hay câu tôm câu cá ở sông rạch mịt mù dừa nước, từng chập theo từng cơn gió đưa tới, họ nghe rõ ràng những lời oán than rên rĩ của những oan hồn uổn tử, ngay cả tiếng chạy rầm rập và tiếng ngựa hí, thét gào tiếp nối không ngưng. Họ giải thích rằng ngày xưa, gò là nơi từng xảy ra những trận tử chiến và là nơi đóng quân, dưỡng quân của hai vì vương đế Gia Long và Nguyễn Huệ trong thời kỳ tranh giành mưu bá đồ vương. Sự thật không biết ra sao nhưng bà con tôi có vẻ tin lắm.


Gò Bướm nổi tiếng qua sự đồn đãi này và oan hồn vất vơ vất vưởng thường phá phách những nhà lân cận. Ông Hương Quản Ó tin như vậy. Ông rước đồng bóng, đập bồn đập bát rình rang đêm ngày. Cả thầy bùa thầy pháp cũng được thỉnh mời đến ếm tà ma quỷ quái. Ai chỉ đâu, ông Hương Quản Ó nhắm mắt lao theo đó, chẳng kể tốn kém tiền bạc chi cả. Chung cuộc, bệnh tình thằng nhỏ không hết, trái lại còn có mòi trầm trọng thêm. Gặp được ông Thầy Huế, nhờ phước chủ may thầy, thằng nhỏ tiệm tiến hết bệnh dần. Nó lợi nghỉnh rồi rong chơi chạy giỡn không mấy chốc. Ơn sâu nghĩa nặng, cứu tử huờn sanh đứa con trai muộn màng duy nhứt nối dõi tông đường nên ông Hương Quản Ó và cả gia đình ông nhứt tề quý trọng, tôn sùng ông Thầy Huế như bực danh y thuở xa xưa huyền bí, cả Hoa Đà, Biển Thước những y sư bên Tàu chắc cũng không bằng.


 Sau đó, ông Thầy Huế được ông Hương Quản Ó tặng một ngôi đất sát cạnh vuông vườn thuộc cơ ngơi của ông để cất nhà định cư sinh sống, không còn vất vả lang bạt như trước nữa, lúc tuổi đời chất chồng khá nhiều. Ông Thầy Huế vào Nam có dắt theo đứa cháu trai làm tiểu đồng, ông có người sớm hôm hủ hỉ, không đến đỗi cô đơn quạnh hiu. Ông tôi còn biết ông Thầy Huế không phải là người thường tình, vô tích sự, chỉ ưng sống với nghề bốc thuốc và xem thiên văn. Qua những lần tiếp xúc đàm đạo lúc trà dư tửu hậu hay khi xướng họa thi phú, ông Thầy Huế tỏ ra có nhiều tâm sự và chí hướng. Ông tôi tâm đắc và cứ nhắc mãi bài thơ Đường luật, tám câu năm vần mang một cái tựa rất mực bình dân chân quê: "Mảnh Sành" của ông Thầy Huế. Thầy tự ví để ký gởi nỗi lòng trắc ẩn, dằn dặt ray rức không bao giờ nguôi nơi mình. Ông Thầy Huế thuộc lớp sĩ phu Miền Trung, nơi sản sinh những tâm hồn bất khuất, yêu nước nồng nàn, cái nôi của cách mạng dân tộc chống thực dân và phong kiến vào đầu thế kỷ trước. Ông quả có dính liếu quốc sự, chống Pháp xâm lăng cướp nước và triều đình Huế quan liêu bất lực. Có lẽ những người đồng hành đồng chí cùng tham gia những phong trào bí mật với Thầy, kẻ bị kết án xử tử hình qua các máy chém lưu động, người bị tù tội đày ải chung thân cấm cố, một đi không hẹn ngày về tận Côn Đảo xa khơi.

Tổ chức bị mật thám liên bang phá vỡ. Thầy bắt buộc phải đổi vùng, vào miền đất mới Nam Kỳ tránh tai họa, tránh sự truy lùn gắt gao bủa vây ngày càng thắt chặt của thực dân đế quốc trong thời kỳ hưng thịnh, đang thẳng tay đàn áp mọi âm mưu nổi dậy. Ông tôi đoan chắc, không những đổi vùng, ông Thầy Huế còn đổi cả tánh danh nữa. Hương chức làng Thanh Hà cũng không làm khó dễ gì Thầy cả. Sự hiện diện của Thầy trong xóm làng trở nên quen thuộc và cần thiết. Vả lại, họ cũng nghĩ rằng với tuổi ngang ngữa sáu mươi, tóc muối tiêu tuổi xế chiều, Thầy không còn là phần tử tích cực có thể gây vạ lây cho họ. Mà thật vậy. Từ ngày thất bại, tuổi đời trĩu nặng trên vai, Thầy như miếng "mảnh sành" bỏ xó vườn, nhưng tiết tháo của Thầy vẫn trong sáng vẹn toàn. "Mảnh sành" phế bỏ đâu đó, đôi lúc vẫn được thu dùng làm chướng ngại giữ thành chống kẻ xâm lăng, đằng đằng oai khí và hữu hiệu... Cơm nước xong, ông tôi kết luận:


- À, chiều nay có đám giỗ ở nhà Hương Hào Giáp. Thế nào cũng sẽ có mặt ông thầy Huế đến dự. Tôi đoan chắc như thế. Và tôi sẽ nhờ ông giúp một tay xem sao?



**



Buổi sáng hôm đó, mặt trời đỏ gay bắn những tia nắng ấm quen thuộc xuyên qua những rặng đùng đình đủng đỉnh hãy còn rũ rượi chung quanh đình làng như quấn quít nhau còn muốn ngủ nướng. Trong chốc lát, những tia nắng mong chờ ấy đuổi vội vàng những hạt sương thủy tinh giăng mắc đó đây trên rìa cỏ bờ kinh và cũng là lúc mẹ tôi nắm tay dắt tôi đến trường lần đầu tiên trong đời. Trường đây có nghĩa là nhà ông Thầy Huế. Tôi mang chiếc cặp bằng đệm lác mát rượi trơn láng nên mẹ tôi khéo léo kết một quai vải để tôi quàng gọn hơ trên vai.

Vì mẹ tôi sợ cái cặp quá nặng so với sức vóc của tôi, sẽ tuột khỏi tay tôi. Khổ nỗi, cái quai vải có bông hoa sặc sỡ do mẹ tôi dùng một đoạn vải dư thừa khi may áo Tết của mình. Nó là đề tài trêu phá của mấy thằng bạn tinh ranh của tôi. Chúng nó bảo màu sắc hoa hoè như vậy thuộc về lãnh vực của đàn bà hoặc của đám nhí nhảnh con gái. Nhiều lúc bị chọc quê quá đà, tôi rất bực mình nên khi về nhà thường cự nự mẹ tôi. Nhưng dần dần tôi cũng quen mắt.

 Trong cặp, một quyển vở còn thơm mùi giấy in, một quyển tập đọc "Đồng Ấu Giáo Khoa Thư" mới toanh, bọc bìa giấy kiếng màu tiêm tất, một bút chì, thước gỗ có khẻ tấc, phân, ly màu trắng, cán bút mực với ngòi rễ tre nhọn quắt, sáng trưng. Thật quá đầy đủ đối với một thằng nhóc con như tôi đang ngấp nghé ngưỡng cửa từ chương chữ nghĩa. Ấy thế, trước khi lên đường, mẹ tôi mở cặp ra nhiều lần để kiểm soát chu đáo. Một tay tôi xách tòn ten bình mực tím, ông tôi cẩn thận đặt vừa vặn trong lon sữa bò cũ, nhản hiệu "Con Chim" đã phai mờ. Trên vành lon sữa, ông tôi có gắn thêm cái quai vòng cung bằng kẽm giúp tôi xách bình mực không chao đảo lật đổ, mực sẽ dính vào tay hay quần áo.


Hôm nay là ngày mẹ tôi trông chờ từ bao nhiêu năm qua. Người diện cho tôi có vẻ đứng đắn khác hẳn mọi hôm. Tôi mặc quần xà lỏn mới, đen huyền, áo sơ mi trắng phếu màu bông cây bưởi ông tôi trồng trước nhà. Quần áo ủi thẳng thóm, hồ vải dầy dục, đi đứng cử động nghe sột soạt vì chưa dập mình khiến tôi rất ngượng ngùng với bà con họ hàng khi phải đối diện với họ. Tôi bỏ áo trong quần ra vẻ cậu học trò... nhà quê ngày khai trường... làng.

Mẹ tôi không quên bỏ trong cặp một củ khoai mì dài chưa được nửa gang tay, một đót khoai lang bí nấu chiều hôm qua và một trái chuối sứ chín vàng hườm để tôi ăn lúc thầy giáo cho nghỉ xả hơi. Thói quen của đám học trò khó nhà quê, thịt da còn đóng phèn, gãi đến đâu đều để dấu đến đó. Chúng tôi ăn qua loa đỡ bụng như vậy suốt cả năm học vẫn không thấy chán. Dĩ nhiên, vừa đi mẹ tôi vừa nói không ngớt miệng, cố ý đánh lạc hướng sự thấp thỏm lo âu của tôi. Những câu chuyện mẹ tôi nói gần xa, không mạch lạc chi cả về lớp học, về mấy thằng bạn đồng lớp tôi sắp gặp trong chốc lát, về thầy giáo, về tương lai mai hậu v.v... nhứt nhứt hàm ý giúp vui, đôn đốc và khuyến khích tôi.

Chí tình mà nói, lúc ấy tôi nào quan tâm lưu ý đến những lời nói trấn an và thuyết phục dong dài của mẹ tôi. Tôi vẫn một mực lặng thinh, lầm lũi lần theo gót mẹ. Thỉnh thoảng, tôi hỏi mẹ tôi những câu bâng quơ không dính dáng, chẳng có dây mơ rễ má chi về buổi tựu trường nầy, một ngày vừa quan trọng và vừa có ý nghĩa đối với mẹ tôi. Có lẽ tôi đang hoài nghi chăng? Có lẽ tôi không tin tưởng những gì mẹ tôi nói từ nảy giờ vì dường như tôi vẫn tiêng tiếc khung cảnh bảo bọc đầm ấm, tự do thoải mái và thân tình ở gia đình bấy nay? Chắc hẳn là thế.


Lớp học của tôi vỏn vẹn có bốn đứa. Thật le hoe ít oi quá so với cảnh tưng bừng náo nhiệt ở trường Nhà Nước. Nhà cửa của Thầy tôi, vốn độc thân, nên chật hẹp, vừa đủ để Thầy tạm sống gói ghém ở tuổi gần đất xa trời. Bàn ghế dăm ba cái với một bàn thờ cây tạp đặt ngay giữa nhà nhưng lúc nào trên vách thờ cũng hực hỡ những câu liểng đối Hán văn toát lên những ý từ tỏa rộng tình thương và đạo đức truyền thống với nét bút rồng bay phượng múa của chính Thầy tôi. Nhìn quanh quẩn, ngó trước ngó sau thấy lạnh tanh một cảnh thâm u cổ kín nhứt là khi chúng tôi ngồi im re, dán mắt nhìn Thầy lúc chép bài và làm bài. Lắm lúc, chúng tôi nghe rõ ràng tiếng ve kêu sầu rên rĩ từ vòm me, khóm tre khóm trúc không xa, tiếng dế gáy rả rích re ré từng chập nơi hiên nhà sau hay sát kẹt vách cách nơi chúng tôi ngồi đôi ba thước hoặc tiếng con thạch sùng trắng bông mập ú tắc lưỡi não nề từ trên đòn tay hay kèo nhà để sau đó uốn éo nặng nề biến mất đâu đó ở trần nhà.

Ngoài tôi ra có thằng Đực Nhỏ, thằng Hai Đớt và thằng Bảy Rái. Ba thằng bạn nối khố của tôi. Nhà chúng nó ở cạnh nhà ông bà tôi nên việc thân tình giữa chúng tôi là một điều rất dễ hiểu. Ngày nào chúng tôi chẳng gặp mặt nhau, ít ra cũng một lần. Phần nhà cửa chật hẹp tồi túng nên ông Thầy Huế chỉ nhận dạy hạn chế con cháu những nơi ơn nghĩa hay thân tình mà thôi. Sự lo âu của tôi từ khi rời khỏi căn nhà hương hỏa lần lần tan biến lúc nào không hay vì ba thằng bạn học cùng lớp, tôi đã quen chúng nó từ khuya rồi. Nhờ vậy, tôi không bỡ ngỡ mấy. Có chăng là sự chạm mặt với Thầy tôi trong hoàn cảnh mới lạ này. Tôi thường trộm nhìn Thầy.

Có lúc Thầy tỏ ra rất mực vui vẻ thân tình nhưng cũng có lúc như trang trọng nghiêm khắc đến phát sợ. Ấy thế, mẹ tôi cũng dẫn tôi tới giới thiệu từng thằng một. Mẹ tôi làm như bọn chúng tôi xa lạ lắm, chưa hề quen biết nhau bao giờ. Và mỗi lần giới thiệu, mẹ tôi không quên dong dài nhắc nhở, dặn dò mấy đứa chúng tôi phải ngoan ngoản chăm học, tuyệt nhiên không cãi cọ nhứt là đánh lộn đánh lạo sẽ bị thầy giáo quở phạt, bà con cười chê. Nhờ chúng tôi quen biết trước như vậy nên mẹ tôi an tâm ra về rất sớm, sau khi người nói chuyện riêng một đỗi với ông Thầy Huế. Tôi nhìn theo mẹ quầy quả trở lưng, lặng thinh, đôi mắt long lanh lưu luyến. Tôi như đang tiếc nuối một khoảng thời thơ dại bắt đầu vút bay phũ phàng khỏi tầm tay mình!


**



Thời gian "như thể thoi đưa" vụt qua vun vút, không chờ không đợi. Mới đó, giựt mình đã thấy cái thời thơ ấu không vướng buồn phiền hệ lụy nơi chôn nhau cắt rốn của tôi đã qua khá lâu rồi. Dĩ vãng lạnh lùng và vô tình đã quay lưng đi ngược chiều cuộc sống. Nhưng giờ đây, tôi tự xét mình cũng đã đủ tuổi lớn khôn và cũng đã có ít nhiều kinh nghiệm thăng trầm sướng khổ trong trường đời đầy sóng gió để ngoái trở về sống lại với những kỷ niệm ngày xưa. Vừa vui vừa buồn. Một "ngày xưa" mới đó đã hơn xa nửa thế kỷ rồi. Xóm Rạch Rít nơi tôi chào đời không sao thoát khỏi bao cuồng phong bão táp của lịch sử. Vùng đất hoang vu không đầy một bụm tay này so với cả nước Việt Nam, đất rộng thênh thang. Nơi đây, tằng tổ tôi cùng lớp người tiên phuông phiêu lưu lập nghiệp khác không hề có một phút một giây nghĩ đến bao nhiêu tang tóc ngút ngàn thương đau, bao nhiêu dâu bể đầm đìa lệ máu ở những thập niên gần đây của đất nước. Một đất nước thiêng liêng mến yêu nhưng triền miên dằn xé trong chém giết hận thù qua cảnh "gà nhà bôi mặt đá nhau" sinh tử.


Ông bà tôi đã mất không lâu trước ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp. Mộ phần ông bà nay vẫn còn nằm im trơ trọi nơi vạt đất hương hỏa hoang vắng, tháng năm um tùm lau sậy, đưng lác và lùm buội hắt hiu tại làng Thanh Hà nghèo khổ. Nơi này, nắng mưa sương gió mặc tình bủa giăng đêm ngày như thuở nào ông bà tôi còn trong tuổi thanh xuân, khí lực dồi dào, tràn đầy nhựa sống, đã từng đội trời đạp đất bất chấp và thách thức tất cả để vương lên dựng nghiệp. Ông Giáo Sử tuyệt tích giang hồ, bặt tăm bặt dạng từ dạo dầu sôi lửa bỏng, thuở mùa thu cách mạng, "sơn hà nguy biến", toàn dân đồng thanh đứng lên dâng hiến đời mình để bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam muôn thuở. Lâu lắm về sau, nghe đâu ông bị Việt Minh Cộng Sản thủ tiêu vì ông đã quen với lối sống tự do phóng túng đầy ấp tình người ngày nào ở xóm Rạch Rít quê mùa buồn tênh của tôi.

Ông không sao chấp nhận được một cách phi lý mọi sự ràng buộc rúng ép, kềm kẹp một chiều của thiểu số người cuồng ngông không tưởng, rấp tâm muốn áp đặt bằng võ lực và hận thù, một hệ thống suy nghĩ, một nếp sống hoàn toàn xa lạ với nền tảng đạo đức cổ truyền, một đường lối hành động theo luật lệ riêng tư nhằm phục vụ bè nhóm hẹp hòi ích kỷ. Ông đã chết oan ức cũng như bao nhiên con dân hiền hòa vô tội khác vào thời buổi ngả nghiêng của đất nước. Riêng Thầy tôi, ông Thầy Huế, người khai thông vỡ lòng cho tôi suốt mấy năm liền cũng không còn nữa.

Chỉ mấy năm liền ngắn ngủi ấy có sá là bao so với những tháng những năm dài đăng đẳng của một kiếp con người nhưng nó lại dai dẳng bền lâu, ẩn chứa bao nhiêu công khó, bao nhiêu hy sinh của Thầy tôi. Thầy quả đã soi sáng từng bước đi chập chững dò dẫm vào đời của tôi. Và chỉ trong ngần ấy thời gian, trong ngần ấy tháng ngày, Thầy đã hun đúc trong tâm hồn trong trắng của tôi một nền tảng vững chắc về đạo đức làm người và phương châm ứng xử qua cái tâm lành và nhân cách trong sáng của Thầy. Chính đó là căn cơ cội rễ của niềm tin nơi cuộc sống và cuộc đời của tôi sau này.


Như ông bà tôi, Thầy đã thấm đẫm vùng đất Rạch Rít hắt hiu của tôi. Thầy không rời bỏ cuộc đất thân thương này mà Thầy có cơ duyên chọn lựa từ mấy kỷ nay. Và một khi đã dứt khoát chọn lựa, bản tánh trung nghĩa thủy chung cố hữu của Thầy theo đúng phong cách người xưa, không cho phép Thầy hành xử như một thân cây vô tri vô giác ngả nghiêng nghiêng ngả để xoay theo hai chiều gió đối ứng. Nghĩa là khi vui thì ở, khi buồn thì đi. Thầy đã nằm yên nơi Gò Bướm, cái chéo đất thơ mộng của làng tôi với cảnh vật thiên nhiên trong lành quyến rủ gọi mời.


Tôi từng mơ ước sau những năm dài lăn lóc vật lộn với đời, một ngày nào đó, lúc tóc đã bạc, việc thế gian đua chen tranh giành đã gát hẳn ngoài tai, tôi sẽ trở về làng xưa xóm cũ, sống cảnh ẩn dật thanh thản, dấu đời mình trong cảnh thiên nhiên, tịch mịch cô liêu. Cái ước mơ nhỏ nhoi, đơn sơ nhưng hợp tình hợp lý đó nào ngờ bị súng đạn hận thù và bánh xe xích sắt khát máu của bọn chăn trâu đồ tể, đá cá lăn dưa cộng sản hiếu chiến Miền Bắc nghiền nát từng mảnh vụng li ti đau đớn từ ngày quốc hận 30/04/1975. Tháng 6 năm 1979, sau thời gian mấy năm bị vùi dập trong những "chiến dịch cải tạo", "đánh tư sản mại bản", "kiểm kê công thương nghiệp" và "bày trừ văn hóa đồi trụy" v.v... do cộng sản độc tài độc trị chủ trương nhằm trả thù và cướp của của bà con Miền Nam, tôi lặng lẽ cúi đầu tủi nhục, thấm thía bước xuống chiếc tàu cây định mệnh.

Chiếc tàu tuy nhỏ hẹp, chiều dài không hơn mười lăm thước, máy móc vá vếu nhưng cũng đủ giúp tôi bồng bềnh ra biển khơi trong một chuyến phiêu lưu ly xứ, thập tử nhất sanh như chỉ mành treo chuông. Lúc ấy, tôi có tâm trạng uể oải chán chường, phó mặc buông xuôi theo nghịch cảnh nhưng lạ làm sao nhiều lúc trong tôi lại sáng rực hẳn lên một niềm tin sắt đá. Dù thế nào đi nữa, tôi cũng sẽ đến được bến bờ đất hứa. Tôi sẽ hít thở không khí tự do trong lành đã mất, tìm lại một chút nào thanh thản bình an trong tâm hồn. Sóng gió hãi hùng trên biển cả mênh mông vô tận và thời gian ngóng đợi trông chờ dằn dặt ở các trại tỵ nạn Mã Lai, Nam Dương... rồi cũng trôi qua không mấy chốc.

Ước mơ thầm kín của tôi đã thành hiện thực. "Bỉ cực thới lai". Qua rồi những cơn giông bão. Qua rồi những khổ ải, trầm luân lê thê nghiệt ngã. Mặt trời đã hé lên sáng rực niềm tin trước mắt tôi. Nhưng rồi cuộc đời ly hương ray rứt vui ít buồn nhiều lại đẩy đưa tôi từ nơi này sang nơi khác, không biết bao nhiêu trạm đời, chỉ trong khoảng thời gian mấy năm ngắn ngủi. Không khí tự do tôi ao ước kiếm tìm trong những ngày sống ngột ngạt vô hồn nơi "thiên đường" quê nhà, nay xem như thừa thải, đôi khi quá đà theo nhận thức chân quê cố hữu của tôi. Nhưng sao sự bình an tâm hồn trong cuộc sống "thượng vàng hạ cám" hằng ngày tựa hồ như thiếu vắng, trống không trong tôi là khác.


Miền Bắc Pháp lạnh lẻo, nơi tôi ổn cư, ngoài mùa đông kéo dài lê thê buồn thảm với tuyết trắng mênh mông, với gió rét thấu xương từng cơn. Mùa hè đẹp trời, nắng ấm vỏn vẹn chỉ đôi ba tháng vèo bay là cùng, gọi là may mắn lắm. Trong bối cảnh lưu đày xa lạ, lắm ưu phiền và tiết trời chán chường buồn nãn triền miên như thế, tôi càng thấy cô đơn và cô độc hơn lúc nào hết. Tôi nhớ quê hương.Tôi nhớ xóm Rạch Rít! Tôi nhớ ông bà và mẹ tôi. Tôi nhớ ông Giáo Sử và nhứt là ông Thầy Huế ngày xưa. Tôi nhớ chòm xóm, bà con cật ruột, ngay cả cây cỏ chim chóc quen thuộc... tất cả những gì đã gắn liền với cuộc sống của tôi trước đây, từ gốc rạ khô nằm mẹp dưới chân người, cọng cỏ dại chết rũ quăn queo ở vệ đường đến những lời răn dạy ngà ngọc quý hiếm của ông bà tôi, của mẹ tôi, của Thầy tôi thuở tôi còn ở trần trùn trục rong chơi, khét nắng hôi trâu, hực mùi rơm rạ và bùn non xà xịn.

Lắm lúc, tôi từng bị những trận đòn răn đe đáng đích, không đến đỗi nhừ tử như thuở nào của thế hệ ông bà và cha mẹ tôi, những trận đòn dạy dổ nên thân của người lớn mà tôi không hề có phản ứng oán trách giận hờn. Vì tôi hiểu người lớn đa số rất sáng suốt và chủ động, có thương yêu mới dạy dổ đòn răn. Xa rồi. Thật xa rồi. Tất cả đã là dĩ vãng. Ngày ấy qua mau... Nay tóc đã muối tiêu, tuổi sắp xế chiều, nhưng sao những hình ảnh thân thương ấy vẫn rõ nét trong tôi. Những hình ảnh chợt đến chợt đi đó cứ chập chờn trên xóm Rạch Rít buồn tênh của tôi thấp thoáng ẩn hiện xa xa... Thì ra, con người phải có quê hương là vậy.


-***-



Như Nước Trong Nguồn


Năm chưa tròn ba tuổi, tôi mồ côi cha lúc còn lửng thửng nắm tay níu áo, lẻo đẻo theo sát bên gót mẹ tôi không rời. Định mệnh oái oăm quả đã giành cho tôi một cuộc sống tình cảm không được cân bằng như đối với bao nhiêu đứa trẻ khác cùng trang lứa và một tương lai hẳm hiu quá sớm. Dù vậy, về sau, tôi vẫn tìm được trong cảnh tình trái ngang éo le đó một chút gì an ủi vỗ về qua câu nói dân gian, xuất phát từ nền tảng vững chắc của những kinh nghiệm sống thực, được tích lũy từ nhiều thế hệ:


"Mồ côi cha ăn cơm với cá,

Mồ côi mẹ lót lá mà nằm".


Cha tôi chẳng may qua đời vừa mới bước vào tuổi hai mươi sáu hai mươi bảy, cái tuổi nhựa sống căn đầy, hứa hẹn một ngày mai huy hoàng, sáng rực như ánh trăng ngày rằm. Thêm nữa, ông bà tôi vốn cần cù lam lũ một nắng hai sương, vai oằn gánh nặng, đã hy sinh suốt một đời người với những giai đoạn thăng trầm đầm đìa mồ hôi nước mắt, chỉ cốt để nuôi dưỡng, chăm sóc, theo dõi hướng dẫn, mong sao cho con mình mau khôn lớn trưởng thành. Ông bà đã tận tình giúp đỡ và khuyến khích động viên cha tôi sau khi đi hết cấp tiểu học ở trường Sơ đẳng Gò Đen, tiếp tục đeo đuổi việc ăn học đường dài ở tận Sài Gòn phồn hoa đô hội.

Sự hy sinh trong âm thầm đó của ông bà tôi xem như một cái gì lớn lao trọng đại lắm, vượt hẳn trí tưởng tượng phong phú của bà con xóm tôi lúc bấy giờ. Hơn nữa, đây là một trường hợp vô cùng hiếm hoi cả trong tổng nhà nữa. Có người khi nghe nói tới việc này vẫn giựt mình, nhảy nhỏm ngạc nhiên. Họ cứ ngờ ngợ, hít hà hùi hụi, tưởng chừng như họ còn đang rong chơi ta bà và thích thú trong một giấc mơ êm đẹp mà họ đinh ninh sẽ không bao giờ và chẳng bao giờ có cơ thực hiện viên mãn được. Nhờ vậy, cha tôi được bà con trong thôn ấp xem như người duy nhứt trong làng thuở ấy may mắn có học thức và đổ đạt thành danh.

Ông bà tôi hãnh diện biết bao vì cả tổng nhà vào thời xa xôi đó cũng chẳng có được một người thứ hai thành công như cha tôi trong chốn từ chương chữ nghĩa, vốn đòi hỏi lắm công phu kiên trì và nhiều gian truân khổ hạnh. Hôm được tin cha tôi thi đậu mãn khóa trường Sư Phạm Sài Gòn, bà tôi mừng vui nhưng rất kín đáo trong khi ông tôi thiếu điều đánh mõ la làng để bà con đầu trên cuối xóm đều hay biết. Dĩ nhiên sau đó, ông bà đập bò giết heo... tổ chức ăn mừng linh đình trọng thể.


Nhưng ở đời, ông Trời già nơi thăm thẳm chín tầng cao hay cắc cớ lắm. Ông thường trêu cợt và làm khó dễ con người mỗi khi ông hờn mát, buồn vui thất thường. Khi buồn, ông làm mưa làm gió, gây giông tố bão bùng. Lúc vui, ông gieo ánh sáng ấm áp tạo nên một bầu trời quang đảng trắng trong. Bà con tôi quê mùa tin như thế. Cho nên có những nạn nhân khốn khó của ông không ngần ngại cho rằng ông độc địa nữa là khác. Thế gian thường truyền tụng những câu nói bình dị và dễ nhớ: "Trời cho ai nấy hưởng" hoặc "Có phước mà không biết". Thực tế, có bao giờ ông Trời bao la rộng lượng cho ai được hưởng hạnh phúc trọn vẹn và lâu dài bao giờ đâu? Cha tôi qua đời đột ngột vì mắc phải chứng bệnh thương hàn vào một thời các nhà khoa học lừng danh trên thế giới chưa khám phá được thuốc men và phương pháp trị liệu hữu hiệu như bây giờ. Sự ra đi oan uổn và quá sớm đó gây một vết thương lòng âm ỉ, nhức nhối không bao giờ lành đối với ông bà tôi.

Cái nhức nhối âm ỉ triền miên đó gậm nhấm hai ông bà chí đến ngày vĩnh viễn từ giã cõi đời phiền toái, rối nhùi, lắm chuyện này. Đêm đêm, hai ông bà thường thức khuya dậy sớm, chong ngọn đèn bong bóng lờ mờ, ngồi bất động uống trà, mặt đối mặt. Không khí trong nhà vào những giờ phút này vắng vẻ, hắt hiu u trầm hơn lúc nào hết. Hầu như đêm nào cũng như đêm nấy. Hai ông bà có thói quen ngồi lặng thinh trong thanh vắng như để đếm thời gian lạnh lùng trôi qua bên những chum trà Bạch Hào Kỳ Chưởng nóng hổi và thơm phức. Cả giờ hay hơn nữa, không người nào nói với người nào được một lời. Đôi lúc, đối với hai ông bà, thời gian như dừng hẳn lại, trái với quan niệm thường tình, cho rằng thời gian qua mau như thoi đưa, chẳng chờ chẳng đợi một ai cả.



Công việc của ông, ông tự làm trong thanh thản. Của bà, bà lo liệu lấy trong sự chậm chạp của tuổi già. Mỗi người ắt có một tâm sự dày vò, một niềm đau ray rức riêng tư, dù hai ông bà có muốn chia xẻ với nhau cũng chẳng thế nào hóa giải trọn vẹn được. Nhưng có một điều chắc chắn, không thể nào phủ nhận được là ông bà tôi đã hòa nhập tròn đầy vào nhau từ sau biến cố nhức nhối tột cùng trong gia đình để cùng chung thấm thía cái cảnh oái oăm "tre già khóc măng"?! Một đôi khi, hiếm hoi lắm, cả hai thầm thì to nhỏ vừa đủ nghe trong tiếng lê thê thở dài về sự bất công của tạo hóa quyền uy đã cướp đi mạng sống của những người hãy còn quá trẻ với khát vọng đang cuồn cuộn hừng hực vương lên. Và hai ông bà cũng thường trách khéo ông Trời để chi hai ông bà đã quá xa cái tuổi "thất thập cổ lai hy", trở thành người vô dụng, ngày ngày ăn bám xã hội, vẫn cứ tiếp tục lê la mãi kiếp sống thừa, một gánh nặng trầm kha và lãng phí cho thôn làng và nhân quần.

Phải chi ông bà có một phép nhiệm mầu nào đó giúp thay thế chỗ bất hạnh của cha tôi thì đối với hai ông bà còn gì sung sướng và mãn nguyện cho bằng! Từ dạo "tre già khóc măng", ông bà tôi đâm ra thất vọng, ngao ngán chán chường. Cả hai không còn thiết nghĩ đến việc chắt mót giờ giấc để làm việc, không còn quan tâm đến chuyện bạc tiền và đua chen bươn chải nữa. Đối với ông bà tôi, cuộc đời quả thật vui ít buồn nhiều, quả thật phù du hư ảo, chợt có chợt không, chợt đến chợt đi trong lạnh lùng và khắc nghiệt. Cả hai hay tâm sự với bà con là trên đời chẳng có gì tồn tại lâu dài, chẳng có gì bền vững bất diệt cả. Cho nên kể từ đó, ông bà tôi càng tăng cường thêm những việc làm phúc đức như giúp đỡ những người gặp khó khăn trong điền đất hay trang trại, phân phát lúa nếp tích âm, cơm gạo tích đức...

 Vì ông bà tôi ý thức rằng chết già và chết giàu rốt ráo cũng thế thôi, chẳng có ý nghĩa gì. Có những cảm xúc lúc trầm ngâm suy tư, có những ý nghĩ tình cờ đến rất vội vàng với ông bà tôi trong một phút giây nào đó. Nhưng những ý nghĩ và cảm xúc ấy lại nhanh chóng lướt qua để ngỡ ngàng tan biến vào miền ký ức hoang sơ, không bao giờ trở lại nguyên vẹn được nữa. Nhưng quả thật lạ lẫm làm sao! Sự thương nhớ nhớ thương qua biết bao kỷ niệm êm đềm và những hình ảnh tươi trẻ yêu đời ngày xưa của cha tôi ẩn hiện đâu đó trên vách nhà vẫn luôn luôn đậm đà rõ nét trong tâm thức của hai ông bà như một chút gì dịu dàng dễ chịu, một chút gì lâng lâng hạnh phúc, khiến hai ông bà mỗi khi ra vào cứ phải tắc lưỡi thở dài lưu luyến, cứ phải bồi hồi tiếc nuối mãi không thôi... Cho dù mãi những lúc về sau, cha tôi đã ra đi xem như từ nhiều năm nhiều tháng qua rồi.


Riêng ông tôi hay đi đó đi đây đoạn tháng qua ngày, quây quần vui chơi bên cạnh bạn bè thân quen để lãng quên phần nào những dằn xé nhớ thương trong lòng. Ông vắng mặt năm mười ngày, nửa tháng là việc thường. Có khi còn lâu hơn nữa. Báo hại cứ chiều chiều, lúc trời chập choạng, bà tôi âm thầm lần mò ra đầu ngõ để mòn mỏi hằng giờ trông ngóng từ đầu trên xóm dưới, đợi chờ người về. Bà hy vọng trong ngôi nhà từ đường thênh thang cổ kín sẽ có thêm những tiếng nói và những bước chân của ông tôi làm ấm lại một không gian tẽ lạnh triền miên.

Nhưng thời gian vô tình lại đẩy đưa ông tôi càng thêm biền biệt. Dần dà, ông tôi mải mê đi tìm nguồn vui tạm bợ trong những cuộc chơi đen đỏ. Ông bỏ mặc bà và mẹ tôi, một người sầu khổ khóc con, riêng mình lặng lẽ, cặm cụi chăm lo cai quản cơ ngơi sự nghiệp gia đình, một người lẻ bạn, đau đớn khóc chồng trong câm nín, tình duyên chẳng được bao năm đã dang dở phũ phàng. Căn nhà rộng thênh thang và trang nghiêm nằm ngay giữa ngôi vườn mênh mông sầm uất của ông bà tôi trở nên trống vắng quạnh hiu đến độ lạnh lùng khó tả. Bà con lối xóm có dịp tạt ngang qua, tỏ vẻ tôn trọng hoàn cảnh của ông bà tôi nên không còn đánh tiếng lảnh lót vọng vào thăm lom chào hỏi như lệ thường. Tiếng cười vui những ngày đoàn tụ gia đình thuở nào đã hoàn toàn tắt hẳn.

Những ánh mắt đen nhánh nhưng uể oải, lờ đờ như mất thần, chất chứa u buồn sầu khổ của các phần tử thân thương ruột thịt trong gia đình và cả trong trang trại nữa dường như cũng đang trùng hợp một màu với không ít những tấm trướng cùng hoành phi liển đối tang chế còn treo lủng lẳng lấp lánh dọc ngang ngang dọc đó đây hoặc được đóng khắc trên các vách buồng hay những cột cái đen huyền bóng láng ở nhà khách. Không hiểu vì sao ông bà tôi chọn lựa và gìn giữ ngần ấy những bức nguyên vẹn như vậy. Mỗi đêm, nơi căn nhà thâm nghiêm trong không gian trầm lắng đó, ánh đèn dầu loại đèn chong leo lét trên bàn thờ khi mờ khi tỏ, hắt lên cùng một nhịp đều đặn càng tăng thêm vẻ liêu trai giữa cảnh âm dương hư thực và sự huyền bí mông lung của đất trời. Sự hiện diện của hai người đàn bà thầm lặng, đầy ấp tâm sự và nỗi niềm riêng tư làm cho nó thêm thê lương ảm đạm vào giờ phút này đã đành mà ngay cả ở những buổi hoàng hôn hấp hối, lúc khói cơm chiều uể oải, la đà trên những mái tranh mái lá chung quanh.


Mẹ tôi ở vậy nuôi nấng dạy dỗ tôi. Người tiếp tục sống chung với ông bà tôi một thời gian khá dài nơi ngôi nhà hương hỏa, sừng sững trên mảnh vườn tạo dựng được từ đời huyền tổ và tằng tổ tôi tức từ đời ông sơ ông cố tôi để lại, thuở đám Tây thực dân phiêu lưu, râu xồm bụng bự, vừa đặt chân lâm le thôn tính đất Nam Kỳ lục tỉnh. Cảm thương hoàn cảnh góa bụa quá sớm của mẹ tôi nên ông bà tôi rất quan tâm, để ý và chiều chuộng mẹ tôi. Trong khi đó, mẹ tôi rất mực bằng lòng tìm được nguồn an ủi duy nhứt, xem như một lẽ sống có ý nghĩa lúc ấy qua sự chăm sóc, dồn tất cả tình thương yêu trìu mến của người vào tôi. Một sự an ủi vỗ về rất xứng đáng vì mẹ tôi quả thật là một người đàn bà Việt Nam nơi cố thổ làng quê đã thừa hưởng một truyền thống trong sáng, không hề sống cho chính mình. Sự thương yêu ra mặt của ông bà tôi đôi lúc làm cho gia đình các bác tôi ganh tỵ.

Các bác ấy có những cơ ngơi xúm xít không xa nhà ông bà tôi bao nhiêu, ngày ngày đều có qua lại thăm hỏi. Nhứt là phía các bác gái tôi, ngọn nguồn đầu mối xuất phát nhiều điều lắm chuyện. Sự ganh tỵ này tuy không đắng cay, đay nghiến gay gắt nhưng đôi lúc cũng ngột ngạt khó chịu lắm. Bác Hai gái tôi, con ngưòi không đến đổi tối dạ, tâm trí chẳng đến độ đần độn tối mò, u u tăm tăm. Nhưng bác vốn ít học do tục lệ khắc khe "trọng nam khinh nữ" của người xưa, chỉ lo cho con trai ăn học thành danh thành tài làm rỡ ràng gia tộc để ngửa mặt với đời, còn con gái giữ gìn, bo bo nhốt kín trong nhà, then cài cửa đóng. Các cụ bảo con gái học hành khổ nhọc chi cho mau phai tàn nhan sắc vì sau này lập gia đình sẽ có chồng nuôi, cũng đầy đủ đàng hoàng.

Cũng theo các cụ đã được thực tế hùng hồn chứng minh một thời, ông chồng là trụ cột, là chủ gia đình, giống như cái nốc nhà vững chắc, che nắng che mưa, chống chọi phong ba bão táp đến từ mọi hướng để bảo vệ chở che mọi người. Phái đàn bà con gái có cần gì phải bận tâm lo nghĩ tương lai mai hậu. Vì sau này, họ sẽ chẳng có thiếu thốn chi cả. Do vậy, chữ nghĩa của bác gái tôi tròn trèm lá me lá mít còn chưa đầy. Trình độ của bác chỉ vừa đủ để ký tên trên tờ khai hôn thú lúc xuất gia hay khi chia gia tài về sau. Khổ nỗi, mỗi lần như vậy, bác bẻn lẻn sổ hai nét ngang và thẳng đứng làm dấu chữ thập. Cho dù bác có chăm chú, chầm chậm o bế trông cái miệng tròn vo nhưng nét chữ vẫn cứ run run như răng lưỡi cưa lộng của thợ chạm.

Ấy thế, về đường ăn nói cao thấp, có lớp lang tuồng tích, bác gái tôi rất mực lưu loát lanh lẹ, lịch lãm bặt thiệp hơn người. Và chính vì vậy, về sau nhứt là nơi đất tạm dung này, khi hồi nhớ khoảng thời thơ ấu nhẹ dạ non lòng, ngây ngô dại khờ của mình như "ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung", tôi càng thương yêu bác hơn cũng như tôi càng thương yêu gắn bó với xóm làng ruộng rẫy, với đất nước Việt Nam khốn khó của tôi qua những cái hay cái đẹp, những nét tinh hoa cao quý mà cũng qua những cái đáng trách, đáng ghét.

Bác tôi quả còn hơn xa những người đàn bà bất hạnh khác trong xóm tôi, những người chưa từng thấy cây viết mực viết chì màu sắc đen vàng xanh đỏ, hình thù mập ốm dài ngắn ra sao. Một chữ nhứt quá ư là đơn giản, các bà vẫn bù trơ bù trớt. Mỗi khi cần phải ký tên trên những văn bản chính thức, gia đình họ tổ chức một bữa ăn thịnh soạn có gà vịt tôm cá, có rượu đế cay nồng đựng trong hũ dung tích năm mười lít... rồi mời hương chức Hội Tề có trách nhiệm đến tham dự chung vui. Vị này sau khi ăn nhậu hả hê no nê xong, cứ thư thả ngồi bệt ở đầu bộ ván ngựa nơi gian nhà trên, lấy cái ống bôm xe đạp ra lăn tay điểm chỉ họ làm bằng. Tiếp đó, ông ta bệ vệ xem như quan trọng lắm, lần mò lấy con dấu đồng đã lận lưng sẵn, le lưỡi liếm tới liếm lui đôi ba lượt mới nhẹ nhàng đóng dấu đỏ lói kể như giấy tờ từ đây đã hợp lệ.



Dù kém chữ nhưng trái lại, bác tôi tỏ ra rất mực thực tế và nhạy bén. Nhờ lăn lóc va chạm đời rất sớm từ lúc lập gia đình vừa tròn mười sáu tuổi nên bác có nhiều kinh nghiệm sống như người từng trải. Bác thường hay quanh co xa gần trách khéo ông bà tôi, những lúc cả hai ông bà đều vắng mặt, sau này chết con mắt sẽ mở to bằng cái tô, cái tô... loại tô con Rồng miệng rộng. Trong lúc bất mãn giận dỗi, bác vừa nói vừa ra dấu căn giản đủ cả năm ngón tay gân guốc cứng đờ và đôi mắt trợn tròng tròn quây. Ý bác gái tôi muốn nói ông bà tôi ăn ở không công bằng, nặng về phía mẹ tôi, thương yêu tôi nhiều hơn mấy đứa cháu nội khác, con của bác

Những lần trách móc ấy rồi cũng lọt vào tai hai ông bà. Bình tĩnh, bà tôi không giận không hờn. Bản tánh của bà như thế. Tấm lòng vị tha, thương yêu trong sáng của bà giúp bà lùa xa những cố chấp nhỏ nhen hẹp hòi mà bàng nhân thiên hạ lục lục thường tình thường gặp nhan nhản khắp nơi trong xã hội chẳng mấy ai có được. Bà tôi rất tế nhị, cân phân từ lời ăn tiếng nói. Bà thừa một dịp họp mặt đông đủ và vui vẻ trong gia đình, vừa nhẹ nhàng, vừa khéo léo giải thích qua nụ cười cởi mở rạng rỡ cố hữu:


- Tội nghiệp, nó mồ côi cha. Mẹ nó chiếc bóng quá trẻ. Má thương tụi nó không hết là lẽ thường. Bây đủ lứa đủ đôi, "đồng vợ đồng chồng tát biển Đông cũng cạn" kia mà. Bây không nên so bì ganh tỵ với mẹ con tụi nó.


Đó là những lần rất mực hiếm hoi vì bà tôi vốn ít khi tâm sự. Bà chịu đựng câm nín, dồn nén tình cảm và ý nghĩ của mình. Bà sống nhiều với nội tâm. Bà dè dặt, thận trọng. Bà không thố lộ cái phần riêng tư đó của mình cho một ai khác. Trái với ông tôi, con người rất hề hà dễ dãi và vui tánh, bà tôi thường lặng im nhưng sự lặng im qua cái nhìn hắt hiu se buồn với đôi mắt u ẩn sâu hút của bà, chỉ ngần ấy thôi cũng đủ để nói lên đầy đủ tất cả những gì bà tôi muốn nói và cần phải nói. Bà thương yêu tôi, quý mến mẹ tôi, chỉ để bụng để dạ, kín đáo gìn giữ trong sâu thẳm bí mật của lòng mình. Bà không hề nói ra bằng miệng một cách công khai rạch ròi vì sợ cảnh con cháu vốn đông đúc sẽ có lúc hời hợt so bì rằng bà nghiêng nặng bên này, nhẹ bỏ bên kia.

Mẹ tôi cũng thuộc gia đình tăm tiếng trong làng, học đến trình độ năm thứ ba thứ tư trường áo tím Gia Long, chuẩn bị thi bằng Thành chung ngày xưa. Vốn theo Tây học rất sớm như cha tôi, mẹ tôi may mắn được rất nhiều cơ hội tiếp xúc với nền văn minh kỹ thuật Âu Mỹ qua sách báo và những lời giảng dạy của một ít giáo sư người Pháp yêu chuộng tự do dân chủ, quý trọng công bằng và lẽ phải. Nhứt là khi các vị này đã từng cổ xúy phá vỡ những ràng buộc, những khuôn khổ và qui tắc của nền phong kiến xa xưa. Ấy vậy, mẹ tôi vẫn không sao vượt thoát khỏi bức tường che chắn kiên cố ấy, tuy vô hình nhưng đầy quyền lực.

 Thì ra mẹ tôi dù được xem là mẫu người mới trong xóm làng nhưng thực sự mẹ tôi vẫn là một phụ nữ Phương Đông thuần thục, một phụ nữ Việt Nam muôn đời muôn thuở, được nuôi dưỡng và dạy dỗ bởi những bà mẹ thấm đẫm giáo lý truyền thống của tổ tiên ông bà. Bao giờ cũng sống trọn vẹn vì hạnh phúc gia đình và cho sự nghiệp của đại gia đình, nếu cần phải hy sinh bản thân mình cũng chẳng chút đắn đo nghĩ suy. Bức tường tình cảm và nếp sống cũ gia phong đó đối với các bà mẹ, xưa nay xem như một sự tự nguyện, tự giác. Một chấp nhận của những thế hệ trước, đến nay vẫn là khuôn vàng thước ngọc được trọng vọng đề cao. Việc mẹ tôi tự bó mình trong khuôn khổ nề nếp "xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử", "lấy chồng phải gánh giang san nhà chồng" chẳng có gì là lạ cả.


Ở vùng đất khẩn hoang, nơi chôn nhau cắt rún của tôi, dĩ nhiên công việc đăng đăng bề bề, quanh năm không ngừng tay, họa hoằng chỉ vào những dịp lễ lộc, Tết nhứt mới được nghỉ đôi ba ngày xem như là phúc đức lắm. Dù vậy, mẹ tôi không phải vất vả, quần quật như bao nhiêu người đàn bà chơn quê vô phước khác trong xóm trong làng, suốt năm suốt tháng mãi lúi húi lao vào cuộc mưu sinh tối mày tối mặt, trần thân lai khổ. Tội nghiệp! Họ không hề có hân hạnh nhìn thấy một ngày nào trong đời, đôi vạt áo của mình được khô ráo ấm áp. Suốt năm, họ mải mê lặn hụp nơi đồng chua nước mặn, da dẻ mốc cời, phèn ăn bám vàng sậm đủ chẵn mười đầu ngón tay ngón chân.

Còn nói gì đôi chân trần thì cả hai đều chai sần nức nẻ, chỗ này nổi u chỗ kia nổi cục, hà lại ăn khuyết sâu hóm, làm rổ lốm đốm sẫm đen. Tội nghiệp! Họ chưa bao giờ có diễm phúc nếm được một đôi giờ hạnh phúc thoải mái, một đôi khắc đồng hồ ngọt ngào, thanh thản dễ chịu dù ngắn ngủi chóng qua trong suốt cuộc đời hàn vi nghèo khó và tất bật của mình. Trái lại, buồn thay, họ chỉ biết hầu như toàn là những gì cay đắng xót xa, chua chát chán chường. Ông bà tôi lúc bấy giờ đã có cơ nghiệp vững vàng, nhà ngói ba gian hai chái, lẫm trại rải rác đó đây, người ăn kẻ ở không thiếu gì. Bà con xa gần động tịnh có ngay. Nhờ được đùm bọc như vậy, mẹ tôi vui lây với sanh hoạt náo nhiệt hằng ngày nơi vùng khẩn hoang lập ấp ấy.



**


Năm tôi lên bảy tuổi, nhân một bữa cơm chiều vui vẻ khá thịnh soạn, lúc mặt trời hãy còn hừng hực ở chân trời xa, trong câu chuyên giữa ông bà và mẹ tôi, bà tôi âu yếm nói:

- Mới ngày nào đẻ ra nằm trọn một mo cau tơ, ẵm bồng rã cánh tay, xệ bả vai, nay sắp thành người lớn không bằng.

Mẹ tôi mỉm cười biểu đồng tình:

- Còn mấy tháng nữa đến ngày tựu trường. Thằng Thọ sẽ đi học đó má. Tính kỹ ra kể cũng trễ so với tuổi nó.


Bà tôi xoè bàn tay, lấy đầu ngón cái chầm chậm nhẫm tính. Chỉ vài giây sau, bà càu nhàu trách khéo ông tôi:

- Thì cũng tại tía con cứ mãn cưng chiều nó nên mới ra cớ sự. Đáng lý ra năm nay nó phải ngồi lớp dự bị mới phải.


Sau này, nhiều lần tôi được nghe mẹ tôi thường kể lại những khi vui miệng. Lúc mẹ tôi gần ngày khai hoa nở nhụy, ông bà tôi vốn dự liệu trước từ lâu do thói quen suy nghĩ và lo xa của con nhà nông rặc nòi, tâm trí thường xuyên bị ám ảnh bởi những bất trắc về thời tiết nắng hạn gió bão và nhứt là mùa màng thất bát nguy cấp. "Nhân vô viễn lự, tất hữu cận ưu". Ông tôi luôn luôn nhắc nhở lưu ý con cháu như vậy. Và ông đã lo xây cất xong một "nhà sanh" nơi chéo đất ở cuối vườn nhà. Nhà nhỏ, gọn gàng. Mái lá. Phênh vách kín đáo dù làm bằng tre, bện lá dừa nước.

Bên trong cũng đầy đủ tiện nghi cần thiết. Không thiếu thứ gì mà chẳng thừa chi cả. Ông tôi còn lo xa hơn nữa. Chiều chiều, khi mát trời, ông cắt sẵn một mớ mo cau, cả hai ba chục đủ đầu. Loại mo cau tơ lùn tịt, gốc nở nang, tàu lá đẫy đà xanh mướt. Trong xóm, ông tôi là người có dáng vẻ bên ngoài nghiêm nghị, khắc khe do ông giữ chức vị Hương Chủ trong ban Hội Tề làng. Nhưng càng lâng la gần gủi ông mới thấy rõ bên trong của ông không phải như vậy.

 Một người nhân ái, được tiếng dễ dãi rộng rãi lắm. Ông không quan tâm để ý đến những chuyện lặt vặt, những chi tiết nhỏ nhặt. Việc gì ông cũng xuề xòa chấp nhận, xem như một đương nhiên trong đời không ai tránh khỏi được. Cho nên thói thường, người ta sẽ lầm chết đi khi xét con người qua cái bề ngoài của họ. Đôi lúc, bà tôi bực mình, bảo ông tôi bun thùa không vén khéo. Ấy vậy, để chuẩn bị tươm tất sự chào đời của tôi, ông lại quan tâm tuyển chọn, lựa từng cái mo cau một. Mo phải mềm mại to lớn, không một chút tì vết. Xong, ông đem chùi rửa, lau kỹ lưỡng, cất giữ cẩn thận trong buồng kín đáo, nơi chỗ mát mẻ sạch sẽ, cốt giữ cho mo luôn luôn được mịn màng và dịu dàng.


Đến ngày sanh của mẹ tôi, ông bà tôi sai chú Thặm, cháu gọi bà tôi bằng cô ruột, nhanh chân chạy xuống bến sông tát nước xuồng ba lá rồi mau tay bơi nổi sóng nổi gió. Chiếc xuồng nhún nhảy nhịp nhàng, cứ chồm lên hụp xuống lướt nhanh tới phía trước vì chú mong sao sớm rước cho bằng được bà Hai Khánh. Bà là mụ vườn nổi tiếng trong vùng. Bà được bà tôi tín nhiệm để lo trước lo sau cho mẹ tôi. Bà tôi rất tin dị đoan như bao nhiêu người đàn bà chơn chất khác ở thôn quê chưa hề biết đến một loé ánh sáng văn minh kỹ thuật của thời đại. Theo bà tôi thì mọi việc đều phải khẩn trương nhanh chóng, không được trù trừ để mẹ tôi sinh nở được mau lẹ suông sẻ. Bà tôi tin như vậy. Và sự tin tưởng này khiến bà không hết lời thúc hối chú Thặm làm cho chú vừa chạy vừa cài nút áo với cái dầm thậm thượt lắc lư trên vai.

Thời buổi đó rước mụ sanh về nhà nhiêu khê trắc trở lắm. Nhứt là ở vùng đèo heo ngăn cách. Gia đình nào khá giả lắm mới làm được việc này, tốn kém không ít. Trong khi đó, bao nhiêu bà mẹ quê mùa trong vùng tự lo liệu sanh lấy hoặc nhắm mắt trông cậy, phú thác tuyệt đối vào mẹ chồng qua những kinh nghiệm bản thân. Bà Hai Khánh, chắc chắn không có ăn học gì nhiều về khoa hộ sản. Bất quá bà học lóm ở những người đi trước, những người có lòng thương yêu tận tình chỉ dẫn cho bà qua từng bước một. Vả lại, nếu bà có thiện chí muốn cầu học tận tường, học đến nơi đến chốn thì cũng chẳng một ai nơi vùng khỉ ho cò gáy trắc trở này có đủ kiến thức để chỉ dẫn truyền dạy cho bà. Dù vậy, bà tôi không ngớt lời bảo bà Hai Khánh mát tay lắm.

Một khi bà chịu nhúng tay vào thì nhứt định "mẹ tròn con vuông" và mau mắn nữa. Nội cái tên cúng cơm "Hai Khánh" của bà cũng đủ để đảm bảo uy tín bà bấy nay. Những người ở các làng lân cận hay xa xôi đến nhờ vả bà, lúc đối diện với bà đều đồng thanh biểu lộ sự trân quý cung kính và sự tin cậy vô điều kiện đó. Cả với bà tôi nữa. Bà không hề dấu giếm sự thán phục bà Hai Khánh trước chỗ đông người. Có khi bà tôi còn ngợi khen bà Hai hết lời, khiến cho tình cảm của bà con tôi đối với bà mụ vườn duy nhứt này càng gia tăng gấp bội. Và thực tế, bà Hai Khánh quý mến của bà con tôi chưa một lần phụ lòng họ. Vi bà không làm họ thất vọng bao giờ.



Lâu lắm về sau, khi tôi đã lớn đại rồi mà mỗi khi nhắc đến bà Hai, lúc ấy đã nằm yên thân yên phận trong lòng đất quê nhà, thảnh thơi nơi một chốn mông lung nào đó ở cõi Vĩnh Hằng, mẹ tôi tỏ ra không bao giờ nguội lạnh tình cảm đối với bà. Trái lại là khác. Qua dáng buồn buồn nơi đôi mắt hiền từ của mẹ tôi, dường như trong lòng người ở giờ phút ấy đang dấy lên một cảm giác rưng rức vừa thương nhớ vừa biết ơn bà Hai. Thói thường, tiếng lành đồn xa và dài lâu. Hình ảnh bà Hai Khánh vẫn còn đọng trong ký ức tập thể của bà con chòm xóm tôi từ mấy thập niên sau khi bà mất. Và mẹ tôi tin chắc rằng nó sẽ đọng mãi mãi như thế đến tận mai sau nữa.

Vì thỉnh thoảng tên tuổi bà được nhắc nhớ với lớp hậu sinh như một tấm gương pha lê đánh dấu một trách nhiệm cao độ và sự can đảm có thừa của một mẫu người tiên phong dấn thân nơi vùng đất mới còn hoang sơ. Bà Hai đã nhận lời thì mỗi lần cầm chắc kết quả như mong muốn. Bà tôi cứ nhắc đi nhắc lại câu nói này mãi. Bà nói như để cho chính mình được an tâm hơn? Và cũng để cho mọi người trong gia đình an lòng nữa? Họ không phải lôi thôi lóng nga lóng ngóng, đi tới đi lui, bụm đầu bụm trán, bận tâm lo nghĩ viễn vong chi cả. Bà tôi nhắm mắt tin tưởng ba bó vào một giạ, dù bà Hai Khánh sanh tôi không có đến cái kéo để cắt rốn. Và cái cuống rốn tươi hồng đầu đời này, dài không hơn một gang tay nhưng thấm đẫm huyết thống dòng tộc được ông tôi trang trọng gói ghém cẩn thận và chôn giữ đâu đó trong ngôi vườn hương hỏa như thầm nhắc nhớ tôi sau này nơi chốn cội nguồn mãi mãi tạc dạ ghi tâm.

Thế mới lạ! Thế mới hay mới tài! Sau này, có người nghe nói lại, vẫn thắc mắc hoài nghi. Họ không hẳn tin. Thực ra, bà Hai đã chọn lựa kỹ một ít mảnh chai bén, khi dùng bà lau sạch, khử trùng bằng nước đun sôi tiêm tế lắm. Tuy lớn tuổi nhưng đôi tay bà vẫn lanh lẹ, gọn hơ so với vài cô gái ở tuổi thanh xuân chưa chắc đã qua mặt được bà. Nhờ sự mát tay của bà và phước đức của ông bà và tổ tiên nhiều thế hệ xa xôi của gia đình cả hai bên nội, ngoại tôi nên tôi còn sống nhăn đến ngày nay. Nói thế vì vào thời khoảng đó, nhiều bà mẹ ở thôn ấp hẻo lánh hắt hiu tự sanh con lấy với những hiểu biết hộ sản rất lù mù lại giới hạn. Họ vụng về lúng túng, thêm thiếu thốn phương tiện, thật đáng thương làm sao! Con cái của họ đa số không chết sẩy thai thì cũng chết non chết yểu sau đó không lâu, chỉ vài ba tháng chào đời. May mắn lắm sống được đôi ba tuổi là cùng.


Nếu để ý, người ta thấy nhiều gia đình ở vùng đất hoang vu cùng cốc này sinh con dò dọc lủ khủ. Có những gia đình quá đông con, đếm muốn hụt hơi, cả chục mười ba mười bốn, nối đuôi sít sao, mỗi đứa không hơn nhau được nửa cái đầu. Họ mau con mau cái, như thách thức thi đua sanh năm một. Có khi đầu năm sanh con trai, cuối năm sanh con gái theo đúng quan niệm nơi chốn quê mùa: "trời sanh voi sanh cỏ", mỗi đứa con là bổng lộc Trời ban cho. Con người vốn dĩ nhỏ bé yếu đuối phải thuận theo ý Trời để tồn tại. Hơn nữa, chẳng một ai chết đói chết khát ở xứ sở này nếu biết phấn chấn, kiên nhẫn cần cù, làm việc tận tâm tận lực.

Vì vậy, họ chẳng cần quan tâm âu lo đến tương lai trước mặt của đám trẻ? Mà quả tình dẫu họ có ý thức và trách nhiệm âu lo quan tâm đi nữa nhưng chắc chắn tương lai trước mặt của con cháu họ vẫn một màu u u tăm tăm, mịt mờ không lối thoát, cũng vẫn phải nắm cán cuốc cầm chuôi cày nắng mưa quanh năm. Nhưng khốn thay, họ chỉ nuôi được một hai đứa chót là cùng. Những đứa trẻ ngây thơ khờ dại, tốt số hiếm hoi này mang những cái tên dài thậm thượt như chị mười hai, anh mười ba, chú út mười bốn.... Đám trẻ sống sót, thoát khỏi cuốc xuổng của "nhà vàng", chúng nó không hề biết mặt mày, chẳng nghe nói đến một lần tên tuổi những anh những chị xấu số sinh trước chúng nó bao giờ cả.


Mẹ tôi sanh xong, bà Hai Khánh bước tréo ra ngoài báo cho ông bà tôi đang thấp thỏm ngóng đợi tin mừng, đứng ngồi không yên. Bà vui quá đổi vui sau khi đã làm trót lọt nhiệm vụ khó khăn được ông bà tôi giao phó. Bà vừa hớn hở cười, vừa lập bập:

- Con trai, hoàng nam.

Ông tôi mừng rối rít. Vì ông tôi rất thích có con trai và cháu trai hơn là con cháu gái. Dòng họ được duy trì, đảm bảo đã đành. Nhưng ông tôi thường thố lộ, với con gái có lắm chuyện phải lo. Cho nên càng đông con cháu trai càng tốt. Ông tôi rất hãnh diện và tự hào về số đông đúc con cháu này mà ông bão là con nhà nòi, nối truyền tánh khí hào phóng lang bạt nhưng kiên nhẩn cần cù, ham thích làm việc bất chấp nắng sương mưa gió. Ông cũng bảo chẳng có nỗi buồn và niềm đau nào chất ngất cho bằng một dòng tộc không con nối dõi, để cho thiên hạ đàm tiếu mỉa mai là dòng họ đó xem như đã tiệt nòi tiệt giống. Nay ông an tâm hơn. Bà tôi cũng không dấu được niềm vui của mình, phụ họa vào:


- Ông thấy không? Lẩm rẩm tôi đoán không sai mà. Cứ trông vợ thằng Mười (mẹ tôi) lúc bụng chữa dạ mang đi đứng, xê dịch, tôi biết ngay cầm chắc thế nào ông và tôi cũng có thêm một đứa cháu nội trai.


Tôi được đặt nằm gọn trong mo cau do ông tôi chuẩn bị từ trước. - thôn quê xa tít tắp thời buổi đó làm gì có cân để biết tôi nặng bao nhiêu kí lúc lọt lòng mẹ, cất tiếng oa oa chào đời. Lúc nảy, ông bà tôi hãnh diện bảo tôi nằm một mo. Hình ảnh tròn đầy này xem như chắc hẳn tôi không thuộc hàng trẻ sơ sinh cà nhong cà nheo teo nhách, gầy đét mo nang, ốm yếu như chim sâu vịt đẹt hoặc loại cá lẹp tâm nhang. Nói vậy chớ cũng có những trường hợp ngoại lệ. Nhiều đứa bạn trong xóm tôi, lúc sanh ra èo uột nhưng rồi chúng nó cũng lớn lên cứng cáp vạm vỡ, sung mãn như cây bần, cây dẹt ven theo sông rạch quê nhà.Tôi rất bằng lòng sung sướng được ông bà và mẹ tôi, kẻ trước người sau, lần lượt tâng bóc khen ngợi hết lời. Sau cùng, ông bà cùng mẹ tôi thống nhứt ý định đưa tôi đến học ở nhà ông Thầy Huế trong xóm.

Ông tôi xác nhận không biết bao nhiêu lần rằng nơi trường nhà nước, thầy giáo có thói quen bê tha phó mặc và dạy chiếu lệ chờ ngày cuối tháng lảnh lương nhà nước. Một thành kiến khắc cốt khó có thể trong đầu hôm sớm mai gột rửa được đối với ông tôi. Và chắc ông cũng đã căn cứ vào những chứng cớ hiển hiện đâu đó để có những ý kiến quá đổi khắc khe như vậy cho đến ngày ông qua đời. Ông tôi cứ lập đi lập lại, nhắc tới nhắc lui mãi như để gieo niềm tin vào bà và mẹ tôi, rằng ông Thầy Huế là người có đầy đủ uy tín trong làng trong xóm. Ở ông có một cái gì khang khác so với những bực chăm lo gõ đầu trẻ đã từng đến trấn nhậm ở vùng đất tân lập nầy bấy nay.

Ngoài việc dạy dỗ con cháu chữ nghĩa thánh hiền, triển khai chương trình giáo dục của nhà nước, ông rất quan tâm khai hóa những tâm hồn non trẻ của chúng tôi về cái đạo làm người, cốt tủy vẫn là ở sự nhập tâm những điều trí nhân dũng khí cao quý, những đức tính từ ái, khoan hòa trong sáng để lập nghiệp lập thân hầu gánh vác những việc phúc lợi chung, ghé vai xây dựng thôn ấp bản làng và nếu có thể được, giúp dân giúp nước ở tương lai. Ông quả là một bực Thầy đúng nghĩa cao cả của danh từ này và vượt xa hơn nữa, ông chính là một người cha kính yêu, thực sự đã thay thế những đấng sinh thành của chúng tôi.


**



Lật bật ngày tựu trường đã qua được mấy hôm. Nó có vẻ thân mật, phảng phất không khí đầm ấm tự tin trong gia đình, chớ không rộn rịp như ở trường nhà nước nơi đầu làng. Sau mấy ngày đầu hơi rụt rè bỡ ngỡ, lũ chúng tôi gồm bốn đứa, con cháu nơi ơn nghĩa mà thầy tôi nhận dạy vỡ lòng không lấy một dồng xu cắc bạc thù lao. Tôi thấy cần thiết phải lập lại điều này một lần nữa vì ngay cả lúc ấy, nghĩa cử đó quả thật hiếm hoi nơi mà cuộc sống hằng ngày vốn dĩ khó khăn khắc nghiệt vô cùng. Chúng tôi quen dần dần với sinh hoạt mới nơi trường ốc, lạ hoắc la huơ này, tuy có những ràng buộc giờ giấc phải tuyệt đối tôn trọng nhưng không đến đổi ngột ngạt khó thở cho lắm. Mỗi sáng, mẹ tôi thức dậy sớm, chuẩn bị đâu đó đầy đủ rồi đưa tôi đến đầu ngõ nhà Thầy tôi.

Vì mẹ tôi sợ khi tôi đi ngang ngôi nhà cổ kinh dinh thênh thang, rêu phong mái ngói của ông Hương Sư Chương có bầy chó thiến ba bốn con, mập ú na ú nú, mực có, vá có, cò có thường hay hùa nhau chạy dọc chạy ngang ven theo bờ tre, chen lấn sủa vang, hùm hổ như muốn ăn tươi nuốt sống khách lạ thấp thoáng ngoài rào. Sự có mặt của người lớn dù sao cũng đảm bảo hơn. Bận về, buổi sáng hay buổi chiều, đều có ba thằng bạn đầu đời chí thân của tôi, Đực Nhỏ, Hai Đớt và Bảy Rái.

Chúng thuộc hàng chằn ăn trăn quấn, ngày ngày rong chơi ta bà phá chùa phá miễu mà vài bà đứng tuổi hiếm con muộn cháu hay độc thân khó tánh, xấu miệng xấu mồm, thích lâng la "ngồi lê đôi mách", thường bô bô không ngớt miệng tiên tri theo kiểu mấy ông thầy bói mù chống gậy lê la kiếm cơm hay mấy bà sờ mu rùa bất đắc dĩ, bảo là đám ranh con, trời đánh thánh đâm, nhứt định sau này chém chết cũng trở thành "phá gia chi tử". Chẳng những chúng nó không sợ, trái lại còn cặp bè cặp lũ huýt sáo chọc phá đám chó hùa rậm rật nầy của ông Hương Sư để cười vui. Tôi tháp tùng chúng nó nên mẹ tôi cũng an tâm phần nào.


Một ngày học ở nhà ông Thầy Huế không có gì thay đổi từ năm này sang tháng nọ. Ngày nào như ngày nấy: vẫn tập đọc, chép bài, trả bài, vẫn tính nhẩm, làm toán đố v.v... Dù vậy, Thầy tôi cũng không tuyệt đối tuân phục hay nói đúng ra bị ràng buộc bởi chương trình giáo huấn từ chương, khắc khe và nhồi sọ của Thanh tra Đốc học nhà nước thuộc địa ấn định. Chúng tôi tỏ ra rất thích thú đối với sự tự do không gò bó đó của Thầy tôi, nhứt là lúc thun giản Thầy cho nghỉ xả hơi ở mỗi buổi học. Thường ngày, vào buổi sáng, chúng tôi đến trường rất đúng giờ.

Riêng mẹ tôi cứ nhắc tôi mãi: "đi học phải đúng giờ, tan trường về nhà phải đúng giấc". Việc này chúng tôi phải tuyệt đối tôn trọng và áp dụng. Dần dà đã trở thành một nề nếp. Chẳng mấy chốc, tôi quen dần với giờ giấc mới bắt buộc này. Nhưng nhứt định không hề có lần nào chúng tôi trễ học cả. Có khi chúng tôi còn hẹn hò đến sớm nửa tiếng đồng hồ để gặp nhau chơi giỡn. Giờ nhập học tùy theo công việc của Thầy tôi. Thầy đã trọng tuổi, chậm lụt, dứt việc nhà giờ nào, Thầy bắt đầu dạy giờ nấy. Thầy chẳng tỏ ra chút gì hối hả cả. Chúng tôi cũng thoải mái đợi chờ, không bao giờ có vẻ gì nôn nóng.



Thầy tôi cũng như ông nội tôi vốn ghiền thuốc lá vào hàng tiếng tăm nổi như cồn ở cái xóm nghèo chí tử này mà bà con tôi vui miệng hay do tự ti mặc cảm, bảo lớn không bằng một bụm tay, dân tình thưa thớt quen tên biết mặt nhau cả. Ngón tay của các ông cháy nám xám sạm hay ngà sậm. Hàm răng vàng, bóng lưởng. Trong nhà, nơi một vài gốc cột, nhứt là ở dãy hành lang hay cạnh bàn ăn cơm, Thầy tôi, cũng như ông nội tôi có thói quen dán các điếu thuốc hút lỡ dỡ. Bạ đâu dán đấy. Khi thèm thuốc, các ông chỉ cần vói tay lấy, có thuốc hút ngay. Các ông không mất thì giờ chờ vấn lâu lắc. Thuốc hút của các ông phải là thuốc đặc biệt ngon. Thuốc dở thuộc loại dỏm, Thầy tôi nửa đùa nửa thật, bảo để giành cho bần cố. Dù thèm chết chịu, các ông không khi nào mó tay đến. Hút nhức đầu. Hại sức khoẻ. Hậu quả sẽ chết non, giảm thọ. Uổng lắm. Phí phạm một đời.

Người ta vốn dĩ chỉ sống có một lần kia mà! Cả hai tự chọn lựa trồng giống thuốc ngon nổi tiếng, lá lớn mịn màng để giành hút quanh năm. Trước nhà Thầy tôi có hai vồng thuốc dài, chạy từ đầu ngõ chí mí mương liên ranh với ngôi vườn trồng chuối già lùn và mía huyết bên cạnh. Thầy tôi quan tâm o bế săn sóc từng cây thuốc một. Thầy kén chọn phân phướng thích hợp để thuốc có mùi vị hạp với sở thích của mình. Loại thuốc đó đố ai có. Độc nhứt vô nhị mà. Dù cố tìm đỏ con mắt, lục lạo khắp đầu trên cuối xóm cũng phí công thôi. Thầy tôi rất hãnh diện, bằng lòng sung sướng mỗi khi mời mọc khách khứa hút chơi một đôi điếu với những lời giải thích, giới thiệu lê thê bất tận.


Như ông tôi, cứ mỗi lần mẹ tôi đi chợ ở quận lỵ Bến Lức hay chợ Gò Đen thuộc làng Phước Lợi, có khi một tháng, có khi hai tháng một lần, căn dặn nhắc tới nhắc lui mẹ tôi phải nhớ mua cho bằng được bánh dầu. Bánh dầu tức bã đậu phọng sau khi người ta ép lấy hết chất dầu, xác được đóng thành bánh dẹp dẹp, tròn tròn cỡ mâm thau ăn cơm. Bánh dầu mua về, băm nhỏ rồi đem trộn với phân chuồng bón thuốc tuyệt đỉnh. Mỗi khi ông tôi gởi mua bánh dầu, ông không quên bước tréo qua nhà báo Thầy tôi biết để cùng gởi mua ké một ít.

Nhờ vậy, các vồng thuốc của Thầy tôi tốt lắm, tốt không thua bao nhiêu mấy vồng thuốc của ông tôi. Hơn nữa, hai ông cũng thường qua lại trao đổi thêm kinh nghiệm, cùng thi nhau theo dõi sâm soi từng gốc thuốc. Phận sự bọn chúng tôi trong khi chờ Thầy lên ván mạ dạy học là đi bắt sâu ở các vồng thuốc ấy, nhứt là vào mỗi buổi sáng, mặt trời lấp ló chưa lên hẳn, không khí mát mẻ, sâu bọ còn thung thăng trườn mình trên cành lá nỏn nà đòng đọng sương mai. Lúc này, chúng nó chưa chui rút vào những nơi trú ẩn kín đáo, mắt người khó tìm thấy. Thầy tôi, con người quắc thước và hết sức chuẩn mực, râu dài hoa râm trông rất đẹp lão. Thầy vốn có nụ cười thường xuyên hiền lành tươi rói, đôi mắt sáng quắc lạ kỳ, toả rộng nét thông minh bẩm sinh thiên phú, ít khi chúng tôi bắt gặp trong đời. Do đó, Thầy rất dễ chiếm được cảm tình của những người đối thoại. Thầy chậm rãi nói với chúng tôi:


- Bây còn tỏ con mắt. Thầy lớn tuổi rồi, mắt thấy lem nhem lù mù dù có mang cặp mắt kiếng lão mua cả bảy tám năm nay. - gốc vồng thuốc kia, có một hay hai con sâu to tướng mắc ôn, những con sâu chết bầm đã cắn tiện ngang của Thầy hai gốc thuốc đang phát sởn sơ. - mấy gốc kế cận, chúng nó cũng bắt đầu ăn lá non lốm đốm. Chắc cũng mới hồi hôm này thôi. Thầy bực mình quá. Bây ráng bắt cho bằng được kẻo đêm nay chúng nó cắn phá thêm vài gốc nữa, mất toi công khó chăm sóc dưỡng trồng của Thầy bấy nay.


Trong những câu chuyện hằng ngày với chúng tôi, Thầy tôi thường hay nhắc đến tuổi già của Thầy, xem như một thời kỳ đương nhiên phải đến và đã đến. Thầy chấp nhận định luật của trời đất một cách bình thản, không hề thắc mắc nhưng đôi lúc cũng bực mình khi đứng trước những việc mà Thầy tự thấy mình bất lực. Nhưng đối với chúng tôi lúc bấy giờ nhìn Thầy, thấy tuổi thọ của Thầy đã quá đủ và quá đẹp. Nhứt là với riêng tôi, khi tôi bùi ngùi tưởng nhớ sự ra đi quá sớm ngày nào của cha tôi. Buổi chiều cũng vậy. Không sót một chiều nào cả.

Trước khi vào học, thằng Bảy Rái được Thầy tôi tín nhiệm giao cho phận sự tưới bầu. Bầu ở giai đoạn đang phát để cho bông cho trái, đòi hỏi nhiều nước lắm. Mỗi trưa, Bảy Rái tưới một hơi ít lắm cũng ba bốn chục gào. Nhờ sức vóc như trâu cui trâu cổ của nó, nó chẳng thấy thấm tháp vào đâu. Nó tưới lúc nào cũng đắc lực, lanh lẹ, mạnh dạn. Tuy tưới liên tục không ngừng tay nhưng nó không có vẻ gì bơ phờ mệt nhọc cả? Trông nó khoẻ re là khác. Nhiều khi chúng tôi chọc phá nó, quát um rùm trời rùm đất:



- Bảy Rái ơi! Mầy ráng quá, coi chừng xệ dái, "tức ké" nghe.

Nó cười hăn hắc đắc ý, lộ hẳn hai cái răng cửa to bằng tấm thớt trắng buốt. Còn lại ba đứa chúng tôi, ốm yếu hơn, nhiều lúc thằng Bảy Rái chọc quê bảo là đám bún thiêu, nhát thây dở ẹt, xớ rớ xọt xẹt đâu có làm khỉ gì nên thân, chỉ quen thói quẹt lọ. Chúng tôi làm những công việc lỉnh kỉnh khác, tùy bữa Thầy tôi nhờ đến nhưng không ngoài đại thể như phơi củi, nấu nước pha trà, quét sân quét nhà, dọn chuồng trại, rải lúa mót cho gà vịt ăn v.v... Thét rồi chúng tôi quen với sinh hoạt độc đáo và đặc thù ấy của nhà trường. Phận sự đứa nào, đứa nấy tự nguyện tự giác lo lấy. Không đứa nào làm eo làm xách, dùng dằng nạnh hẹ chi cả. Trái lại, khi hết phần việc của mình còn sẵn sàng xáp lại giúp bạn một tay chẳng chút nề hà.

Chẳng những vậy, chúng tôi không quên biểu lộ niềm vui, lúc nào cũng cười nói sùi bọt mồm bọt mép, kéo dài dẻo nhẹo như kẹo bạch nha đầu mùa. Giữa buổi học, Thầy tôi cho nghỉ xả hơi khoảng một khắc đồng hồ. Thật quá ngắn ngủi đối với chúng tôi, vốn ham chơi, thích tự do nô đùa. Bù lại, mỗi lần Thầy tôi có khách, chúng tôi được thả giàn, thoải mái muốn làm gì thì làm. Khi nào khách ra về mới tiếp tục học lại. Những lúc ấy, Thầy tôi nhiều lần căn dặn chúng tôi nếu có đi tiểu phải nhớ tiểu trong cái hũ nhỏ Thầy chôn dưới đất, ở cuối vườn. Thầy chôn nửa trên nửa dưới để hũ vững vàng chắc chắn. Thầy dùng nước tiểu giữ lâu ngày cốt làm giảm nồng độ rồi pha loảng với nước mương tưới thuốc tốt lắm. Đứa nào lỡ bị Thầy bắt gặp không tiểu trong hũ, Thầy cằn nhằn, rầy la trách cứ.


Trong giờ xả hơi, chúng tôi hay chơi kéo mo. Hai đứa kéo, hai đứa chễm chệ ngồi trên mo, đứa trước nắm chặt lấy tàu mo, đứa ngồi sau đeo sát eo đứa trước. Cứ chơi như vậy ngày nầy qua ngày nọ không nhàm chán. Mo rách, tìm mo cau tơ khác không thiếu gì, nhan nhản trong vườn, còn kén chọn mo tốt nữa. Mệt đổ mồ hôi nhuễ nhoại, chúng tôi vào hiên nhà sau của Thầy tôi uống nước mưa đã khát. Nước mưa của thầy tôi đặc biệt lắm. Nhà ông bà tôi không sao có được. Nước nhà lá chứa trong lu mà bà con tôi thường dùng để tấn chung quanh nhà ngăn ngừa ăn trộm đào ngạch, lâu ngày trổ màu thành nâu nâu như màu trà Bạch Hào Kỳ Chưỡng hay Nghi Bồi Nhâm của Thầy tôi hay của ông bà tôi. Chúng tôi rất thích uống nước mưa màu nâu nâu quen thuộc ấy với cái gáo sọ dừa đèo đen mun, láng o, chỉ lớn bằng nắm tay, có cán tre dài đôi ba tất tây.


Thời gian lặng lẽ len lén lướt qua rất nhanh. Trên đường "sôi kinh nấu sử" để lập thân dài dằn dặt với những thành công và không ít thất bại, tôi lại có thêm một số rất đông bạn bè khác ở mỗi niên học mới. Một số các bạn chí cốt này đến từ khắp mọi miền đất Nam Kỳ Lục Tỉnh. Trường ốc càng thêm vui vẻ nhộn nhịp hơn. Nhưng buồn thay! Những trò chơi mọc mạc quê mùa thuở ấu thời dưới mái trường nơi nhà ông Thầy Huế rồi cũng biến mất dần dần đi lúc nào tôi không hay. Vì vô tình, tôi nào có để ý đến. Có điều chắc chắn là mấy thằng bạn nối khố ngây thơ khờ dại ngày xa xưa ấy của tôi, tôi không bao giờ quên chúng nó được. Chúng nó vẫn làm cho cuộc sống tôi thêm tươi đẹp ấm cúng. Có lẽ do những ấn tượng tốt đẹp và kỷ niệm ban đầu trong đời con người khó thể nhạt nhòa chăng?

Thầy tôi có thói quen, khi nào chúng tôi chăm, học, thuộc bài, làm bài giỏi, toán trúng v.v.... hay kể chuyện đời xưa cho chúng tôi nghe. Những chuyện xưa tích cũ như Tấm Cám, Trầu Cau, Bạch Viên Tôn Các, Chú Cuội gốc đa... những chuyện lịch sử về Rồng Tiên, Thành Cổ Loa, Bà Trưng Bà Triệu, Phù Đổng Thiên Vương, Hồ Hoàn Kiếm, Hội Nghị Diên Hồng... thấm đẫm gương hiếu trung tiết liệt, chan chứa tình tự quê hương dân tộc, cả những cốt truyện thời đại của các cụ Trần Phong Sắc, Nguyễn Chánh Sắt... đăng ở các sách quảng cáo dầu Nhị Thiên Đường hoặc được tái bản bày bán nhan nhản ở chợ làng, chợ quận xem như chúng tôi thuộc vanh vách lão thông, nằm lòng còn hơn cháo nấu nhừ.


Qua đó, chúng tôi thêm thương yêu, quý trọng và kính mến Thầy tôi hơn, dù rằng đến lúc này, rất ít khi chúng tôi được nghe người lớn nhắc nhở vị trí vô cùng quan trọng của các bực Thầy trong xã hội, đứng trên hẳn người cha trụ cột trong gia đình, cũng như phải "tôn sư trọng đạo" bao giờ. Chúng tôi được học hỏi rất nhiều về nhân cách hiếm hoi và nếp sống thanh bần trong sạch của Thầy tôi cũng như về mặt văn chương chữ nghĩa mà Thầy đã dầy công dạy dỗ, ngoài những buổi phẩm bình sâu sắc những lời hay ý đẹp của người xưa với tất cả tấm lòng hướng thượng cao cả và trong sáng như trăng rằm. Từ dạo đó, chúng tôi đã nhập tâm lúc nào không hay.



**


Mấy bữa nay, bỗng dưng trời nắng đổ lửa, toé hào quang. Đứng gió càng thêm bực bội khó chịu thiếu điều nghẹt thở. Ở vùng đất mênh mông cùng cốc này, ngày mùa trời mưa mù trời mù đất, u buồn thúi ruột. Nhưng khi trời nắng gay gắt như hôm nay, nước ở những vũng trâu nằm ấm hỉm, có nơi quá cạn toát lên những làn hơi nóng mong manh tan loãng nhanh chóng. Thầy tôi không rời cái quạt lông lớn đại, dùng lâu đời, cán quạt lên nước sậm đen, lông tưa rách nhiều chỗ. Giàn bầu vẫn chiếc giàn tre lẻ loi xập xệ, cất tạm bợ, dùng chỉ trong một mùa duy nhứt mà thôi.

Nó nằm ngay cạnh mương ranh, chụp lên một phần chéo sân trước nhà Thầy tôi, nơi chúng tôi thường tinh nghịch rình rập lừa bắt mấy con ong bầu đen huyền mập ú để ép nó vào thành thùng thiếc nghe tiếng re ré vui tai... mãi đến khi chúng nó ngất ngư chới với mới ưng buông thả chúng nó về với thiên nhiên vồng liếp. Giàn bầu quá đổi gần gủi thân quen ấy với mấy thanh tre ngang còn ló lên chổ này chỗ kia vài mũi đinh rĩ sét nhọn hoắc dễ sợ, hôm nay nó xụ lá buồn hiu. Mấy chục trái bầu một màu xanh nõn nà, chen chúc lòng thòng dưới giàn tre, trái nào trái nấy dài cả thước tây, thường hay cụng đầu cụng trán chúng tôi mỗi khi lơ đễnh. Hôm nay, quả thật chúng không còn nét tươi mướt mượt mà như những ngày trước, mặc dầu thằng Bảy Rái đếm đủ chẵn chòi ba chục gào mỗi bữa trưa. Nó đoan quyết với Thầy tôi, nó tưới cật lực, tưới đúng mức. Vì nó đếm thẳng thừng không sót một gào nào cả.



- Rái à! Hôm nay con ráng tưới thêm vài chục gào nữa cứu giàn bầu nhé. Không cứu kịp nó sẽ chết rũ nay mai. Thầy sẽ thưởng công lao khó nhọc bất thường này cho.


Thầy tôi chập chập đưa mắt nhìn lên trời, đâm chiêu trông ngóng một cơn mưa nghịch. Những cơn mưa trái mùa cứu tinh cũng thường hay ùa đến bất thình lình vào những tháng này, nhưng Thầy đành thất vọng thở dài nói với Bảy Rái như vậy. Nó lật đật te te nhanh chân phóng về hướng sàn nước nơi cuối bến sông, vói tay lấy cái gào bằng lá dừa nước Thầy tôi có thói quen treo lủng lẳng ở một nhánh ổi cận đấy mỗi lần Thầy xử dụng xong.

Chỉ trong nháy mắt, nó đã có mặt ở giàn bầu và bắt đầu làm việc ngay. Bữa trưa đó, chúng tôi phụ với Bảy Rái tưới gấp đôi mọi hôm. Đứa nào cũng làm tận lực. Chúng tôi mong được rồi sớm, xem Thầy thưởng công cho Bảy Rái thứ gì. Chờ đợi ngóng trông mãi, chúng tôi cảm thấy trong người mình bồn chồn còn hơn lúc nắng hạn, đồng ruộng khô cằn nức nẻ, bà con nông dân ngóng cổ trông mưa không bằng. Dù nóng ran cả ruột mà chẳng đứa nào trong đám chúng tôi áng chừng được Thầy sẽ thưởng Bảy Rái ra sao. Thầy tôi ngồi trong nhà nhìn ra ngoài sân, tỏ vẻ bằng lòng lắm khi thấy chúng tôi xúm xít làm việc. Tưới xong vào học đã thấy Thầy tôi bày sẵn chu đáo vĩ vèo trên ván mạ, bàn viết của chúng tôi mà cũng là ghế ngồi của Thầy tôi nữa, một dĩa ê hề nào củ từ sần sùi, khoai lang bí đỏ au tươm mật tận ngoài vỏ, một nãi chuối cau chín thon thon vàng hườm. Thầy trò chúng tôi quay quần thân mật nhưng vẫn trong giới hạn lễ phép tôn sư, trọng kính người trên trước. Tất cả cùng ăn như thói quen nơi thôn quê rẫy bái ngày mùa. Sau khi ngã lưng đâu đó nghĩ trưa mươi phút ngắn ngủi, bà con nông dân xóm tôi hay tìm bỏ bụng qua loa nhấm mớ gì đó để an tâm tiếp tục ra đồng làm việc đến xế chiều hay chập tối. Trong nhà có thứ gì, liếm láp thứ ấy. Thường nhứt là khoai sắn. Họ cũng chẳng đòi hỏi gì hơn được no bụng để có sức làm việc. Nhờ có nhiều loại như khoai mì, khoai lang, khoai bí, khoai từ, thậm chí cả khoai mỡ nữa, đổi bữa không đến đổi ngán. Hơn nữa, ăn chung với chuối, ngọt và ngon miệng. Gặp mùa mưa, có dưa gan, dưa leo, dưa chuột, vừa hái ở vồng tươi rói, ăn với đường thốt nốt, còn chi so bằng. Những lúc này, chúng tôi thấy đời mình lên hương không giới tuyến. Nó vút cao thấu tận chín từng mây xanh mây trắng. Thầy tôi không ngớt nhắc nhớ lũ chúng tôi cùng Thầy ăn tự nhiên thoải mái. Và Thầy bắt đầu kể chuyện đời xưa. Mặc dầu sống nhiều năm ở xóm Rạch Rít khổ hạnh của tôi, chung đụng hằng ngày với dân tình Miền Nam rặc giống rặc nòi, Thầy đã cố gắng đổi giọng nói để hòa đồng địa phương mới, nơi Thầy chọn ký thác những ngày cuối cùng trong đời. Ấy thế, Thầy tôi không sao xóa bỏ được hơi hướm trọ trẹ của con người nơi vùng đất Miền Trung xa xôi, quê hương Thầy, nhứt là ở các âm không dấu. Tôi để ý Thầy phát âm trong ấm, êm tai làm sao! Trước khi vào câu chuyện, Thầy tôi còn nhắc khéo thằng Hai Đớt, ba giò bốn cẳng phóng nhanh lại bếp đẩy củi vào lò để ấm nước mau sôi.

Thầy đang chờ pha trà vì Thầy tôi ghiền trà không thua gì ghiền thuốc lá. Mấy cái nợ phong lưu một thời này đã được văn gia thi sĩ ca tụng qua nhiều thế hệ dường như Thầy tôi đều nếm đủ cả. Nó lúi húi đẩy củi, phùng đôi má, thổi mấy hơi thật dài thật dài làm phát ra từng đợt gió hù hù... quyện bụi than và tàn lửa đỏ óng ánh bay tứ hướng. Bếp lửa phực lên hừng hực từng chập, soi đỏ gương mặt đắc ý của nó nhưng cũng làm nổi bật lên những đường nét gian truân khắc khổ quá sớm so với lứa tuổi trẻ măng của nó. Xong xuôi đâu đó, nó quýnh quán chạy nhanh về chỗ mình. Nó hấp tấp ngồi ịch xuống, vảnh tai cùng chúng tôi chăm chú lắng nghe Thầy tôi. Thầy đang bắt đầu dìu dắt chúng tôi lạc vào không gian huyền thoại với một ma lực kể chuyện cực kỳ lôi cuốn, hấp dẫn. Thầy tôi kể:


"Ngày xưa, nơi vùng rừng thiêng nước độc, núi non trùng điệp hiểm trở, có một gia đình nông dân nghèo xơ xác, sinh sống cô lập hẳn với xóm giềng thị tứ. Nhà gồm bà mẹ góa với đứa con trai duy nhứt còn độc thân. Bà mẹ già yếu lắm. Bà không còn bao nhiêu ngày trước mặt. Người dân chơn chất ở xóm Rạch Rít mình thường nói nôm na là già khú đế, da mồi nhăn nheo, tóc sương lưa thưa, má hóp sâu lúng, đi đứng khó khăn chậm lụt sau bao nhiêu thập niên bầm dập thăng trầm. Nhưng bà không bao giờ chịu nổi cảnh nằm khoèo vô tích sự buồn hiu.

Hằng ngày, bà vẫn làm việc bếp núc lặt vặt, ghé mắt trông trước trông sau, coi trong coi ngoài, mong giúp con mình sớm tạo dựng cơ ngơi sự nghiệp. Ít ra cũng sẽ hơn những ngày khó nghèo triền miên của bà. Có lẽ vì mồ côi mồ cút rất sớm, thiếu sự dạy dỗ, hướng dẫn của người cha trụ cột nên đứa con không đủ điều kiện học hành. Vả lại, sự học hành thời buổi ấy rất khó khăn nhiêu khê. Do vậy, sự hiểu biết của anh ta rất nong cạn hời hợt. Đó cũng là một điều dễ hiểu. Trái lại, anh ta lớn như tằm ăn lên. Tướng tá không mấy chốc trở nên vặm vỡ, đi đứng nhậm lẹ gọn gàng, làm việc đồng áng như trâu cui từ hừng đông tờ mờ sáng đến đỏ đèn tối mò chưa bao giờ biết mệt. Mỗi ngày, ngày nào cũng y như ngày nấy, khi cơm tối xong, anh còn thức đêm đến khuya, lặn lội soi chim soi cá, bắt ếch bắt nhái ven theo ao hồ, trước đây hàng bao nhiêu thế kỷ là miệng núi lửa từng sát hại cả vùng đồi núi nầy. Dù vậy, tờ mờ sáng hôm sau, anh vẫn đúng giờ cày thá ví inh ỏi cả gốc rừng, tươi tắn khỏe khoắn".


Ngừng một chút, Thầy tôi khe khẽ bảo thằng Hai Đớt bước xuống bếp xem nước sôi chưa để Thầy tôi châm vào bình. Thầy tôi uống trà điệu nghệ lắm. Số người như Thầy tôi rất hiếm. Trong xóm không biết có được người thứ hai hay không, dĩ nhiên là ngoài ông tôi? Bình trà của Thầy tôi thuộc loại đồ xưa thật xưa, chung quanh có hình những tiên ông đạo cốt theo các tích xưa của Trung Hoa cổ thời. Thêm bốn chum trà nhỏ hếu để vừa vặn trên một cái dĩa cũng xưa, thuộc về thời nhà Minh nhà Thanh gì đó bên Tàu.

 Bộ trà này theo Thầy tôi hiếm hoi, đắc giá lắm do nước men của nó bây giờ không sao có được. Thầy tôi quý nó, cẩn thận tưng tiu mỗi khi dùng, sợ lỡ tay làm bể, mất đi một kỷ vật, có tiền chưa chắc đã mua lại được. Trái hẳn với ông tôi luôn uống trà bằng tô con Rồng. Cái tô này cũng xưa không kém mà ông tôi rất hãnh diện với khách khứa bạn bè tri âm tri kỷ mỗi lần ông lấy ngón tay trỏ búng thật nhẹ vào thành tô nghe coong coong, coong coong... rồi áp tai lắng nghe để thưởng thức tiếng ngân nga kéo dài bất tận và trong ấm. Trong khi Thầy tôi đang chờ đợi, bỗng có tiếng la hoảng hốt vọng lại từ phía nhà bếp rồi dứt hẳn ngay sau đó:


- Ái! Nóng quá!

Hai Đớt với bản mặt vác hất lên trời, không quan tâm chi cả, a thần phù chụp lấy cán ấm. Nó xớn xơ xớn xác không để ý cán đã lật qua một bên, bị lửa đàn gần muốn cháy đen. Nhưng không sao. Chẳng hề gì cả. Tay nó quá chai lì đi nhiều do thường xuyên làm lụng vất vả phụ cha mẹ nó. Nó đứng chết trân, gồng mình chịu đựng một đổi. Người xưa từng nói và nói không sai, ông Trời già đầy uy quyền bắt tội cái này thì lại bù cho cái kia ngay sau đó. Trong mỗi cái rủi bao giờ cũng có cái may theo đúng luật bù trừ mà bà con tôi rất tin tưởng. Một sự tin tưởng để sống sau những lần vấp váp. Một sự tin tưởng để có sức mạnh làm lại cuộc đời. Cái nóng buốt đau thấu mây xanh đó thoáng qua nhanh thôi và thằng Hai Đớt chỉ xuýt xoa hít hà nhè nhẹ vừa đủ nghe. Nó vội vàng xách ấm nước trao cho ông thầy. Lũ chúng tôi tưởng chừng như mặt mày nó sẽ rân rấn đỏ hoe và nó sẽ xò câm, xụi lơ xui xị như bánh tráng mới ra lò đem phơi nắng gặp phải cơn mưa bất thình lình hoặc nhăn nheo bèo nhèo giống như tàu lá chuối héo rũ. Nhưng không. Tuyệt nhiên không. Nghĩ xằng bậy như vậy, chúng tôi quả đã lầm to và đánh giá không đúng mức người bạn nối khố của mình. Hai Đớt đôi lúc lừng khừng thật nhưng đừng tưởng nó yếu mềm tiu nghiểu dễ dàng như thế đâu.


Nó can đảm có tiếng. Ở những trò chơi vật lộn, bị đè gần nín thở, mặt mày đỏ gay, gân cổ phồng to lên mà nó vẫn chưa chịu thua kia mà. Chúng tôi đâm chiêu nhìn nó. Miệng nó nở nụ cười toe toét, lộ hàm răng hô trắng phếu. Nó làm thinh, chẳng nói năn chi cả, ung dung xăn tay áo rồi giơ tay lên hãnh diện cho chúng tôi xem lòng bàn tay nó còn đỏ au. Nó lại đưa bàn tay áp vào mặt và khoái chí bảo với chúng tôi tay nó hãy còn ấm hỉm. Thầy tôi uống trà rất đúng bài bản người sành sõi. Thầy tráng bình cẩn thận nhiều lần, xong bỏ vào một nhúm trà rồi châm nước vào.

Chờ ra trà, Thầy chậm rãi cầm bình nâng lên cao rót vào chum. Bọt trà nổi lên như bong bóng nước tí teo, hệt như lúc trời mưa như trút, ngồi bó chân bó cẳng ở thềm nhà Thầy tôi trông ra ngoài sân và lặng lẽ đếm từng bong bóng nước mưa tí teo tự hình thành rồi lại vỡ tan chỉ trong chốc lác. Như không vừa ý vì trà còn lợt, Thầy tôi bưng chum bốc hơi nghi ngút đổ vào bình, tiếp tục rót lại như khi nảy. Trà đã ra đậm, Thầy tôi mới chịu đưa chum kề môi, thổi thổi hai ba hồi ngắn, xong uống một ngụm nhỏ. Nhìn Thầy uống trà không biết ngon dở thế nào nhưng chúng tôi bắt thèm không khác gì thèm ăn bánh trái vặt vậy. Nhưng những động tác quen thuộc hằng ngày ấy của Thầy tôi làm cho tôi càng thêm thầm phục tài khéo léo điêu luyện của Thầy. Tôi cũng từng bắt chước Thầy tôi, lấy nước mưa mái lá màu nâu nâu trong hàng lu vú sau nhà Thầy, nhại y không sai chạy những cử chỉ của Thầy nhưng khốn thay những giọt nước phần lớn bị gió đàn nên tung toé ra ngoài khỏi miệng tô. Thầy uống được một chum, tiếp tục câu chuyện bỏ dở:


- Thầy kể đến đâu rồi?

Miệng Thầy lâm râm:

- Già quá nên lẩm cẩm lú lẩn, chợt nhớ chợt quên.

Chúng tôi nhao nháo:

- Lúc Thầy nói về người con.


Thầy gật nhẹ đầu tỏ vẻ đồng ý với chúng tôi rồi tiếp tục với đôi mắt vương vướng một nỗi buồn ít khi bắt gặp nơi gương mặt xương xương phúc hậu và rộng lượng của Thầy:

"Bây giờ là thời phong kiến cực thịnh nhưng vua thì rất ít có minh quân, quan lại hiếm người hiền đức, biết thương dân mến nước. Số thanh liêm chính trực đếm trên đầu ngón tay. Đại đa số trở nên giàu có, sống trên nhung lụa trong khi người dân khố rách nách mang, ngày hai buổi quần quật cật lực vẫn không đủ ăn, thậm chí đến ngày tư ngày Tết không sao sấm nổi một bộ đồ mới cho vợ con để gia đình được vui vẻ hạnh phúc. Người con trong truyện Thầy kể đây không thoát khỏi định mệnh khắc nghiệt ấy. Làm việc nặng nhọc, ăn uống thiếu thốn, thất học, bao nhiêu năm vật lộn với tuyết sương mưa gió vẫn không ngốc đầu lên nổi. Những bất công cứ chồng chất trên đầu trên cổ, nhiều lúc khiến anh ta cáu kỉnh đến độ điên tiết bất thường. Bao lần giận dữ, anh ta trách mắng mẹ nặng lời khi bà làm điều gì phật ý anh".


Thầy tắt lưỡi, giọng trầm hẳn xuống:

"Hằng ngày, anh ta cày cấy ven rừng. Ruộng lại quá xa nhà. Buổi trưa, anh thả trâu ra gò để trâu tự do thong dong ngoạm cỏ hay nghỉ ngơi tùy sở thích, nhơi lại ba mớ rơm rạ ăn vội vàng chiều tối hôm qua. Riêng anh, anh ngồi ở gốc cây có bóng mát, chờ mẹ gánh một đầu giỏ cơm, một đầu chình nước để anh ăn uống no nê, tiếp tục làm việc đến chiều, khi mặt trời khuất bóng hẳn sau các dãy núi đồi xa xa mới chịu về. Làm nghề nông nặng nhọc mau đói lắm. Mỗi khi mẹ anh gánh cơm đến trễ, anh hạch sách mẹ đủ điều. Có khi không cầm nổi cơn nóng giận vì đói khát, anh nặng tay đánh mẹ".


Đôi mắt Thầy tôi đượm một nỗi buồn hun hút. Hướng thẳng về lũ chúng tôi đang chăm chú lắng nghe, thầy bàng hoàng:

"Bà mẹ ngày càng đâm ra sợ con. Tội nghiệp! Trước mặt con mình, bà có thói ít nói, quen ngồi im re khép nép. Với thời gian phũ phàng len lén trôi qua mau, bà đã già yếu lắm rồi, quá xa cái tuổi "thất thập cổ lai hy" mà ngày xưa người đời thường mơ ước. Công việc làm mỗi ngày trở nên chậm chạp, lúc nhớ lúc quên, đầu đuôi lẫn lộn. Dù bị bạc đãi, đánh đập đau đớn, khi u đầu trầy trán, khi bầm tay tím thẳm năm ngày mươi bữa, bà vẫn một mực thương yêu trìu mến con như thuở nào, lúc đứa con duy nhứt cưng chiều của bà còn bé bỏng, bám víu vào bà để trưởng thành nên vai nên vế. Nước mắt bà càng hoen tròng bao nhiêu, bà càng cầu nguyện và tha thứ con bà bấy nhiêu. Bà ráng sức làm cho con bà toại ý, vừa lòng, nhưng sức bà từ nay có giới hạn. Bà không còn ở tuổi thanh xuân yêu đời, con trai con gái "mười bảy bẻ gãy sừng trâu", tràn đầy nhựa sống nữa".


Thầy thở dài chua chát:

"Bữa nọ, trời đã quá ngọ lâu rồi. Đứa con thả trâu ra gò cả tiếng đồng hồ vẫn chưa thấy tăm dạng, bóng dáng mẹ gánh cơm đến cho anh ăn như thường nhựt. Cơn đói dày vò, cấu xé hành hạ cơ thể anh, đang thúc bách đòi hỏi một nguồn bổ dưỡng và sinh lực mới. Sự chờ đợi mòn mỏi càng làm cho thời gian thêm dài lê thê bất tận. Chờ mẹ quá lâu, anh lấy con cúi rơm kê đầu, nằm tạm dưới gốc cây nghỉ trưa, mong cơn đói bớt dày vò.

Dù vậy, trong lòng, anh vẫn không thôi ấm ức tức giận. Anh trông ngóng mẹ tới để hỏi cho ra lẽ. Gió rừng ngang ngược, cứ chập chập lạnh lùng thổi ào ào suốt cả buổi sáng, bỗng dưng đến giờ phút này lịm dần dần để sau đó xào xạc lất phất từng cơn. Gíó mát dịu dàng phơn phớt thân hình nở nang lực điền của anh những đợt không khí trong lành dễ chịu. Anh đang thiêm thiếp, giựt mình nghe tiếng chim ó vang rân. Chợt nhìn lên, anh thấy trên chót vót ngọn cây một ổ sáo sậu đen huyền. Anh để ý mỗi lần sáo mẹ tha mồi về gần đến ổ, đàn sáo con kêu lên inh ỏi, chen lấn nhau há miệng chờ rước lấy mồi. Xong, chúng mới chịu im lặng. Sáo mẹ tiếp tục bay đi xa để một đổi, sáo lại trở về ổ với mồi ngon ngậm ở mỏ. Đám sáo con lại kêu rân lên lần nữa rồi im lặng khi mẹ chúng bay đi".


Chúng tôi vẫn bị cuốn hút vào câu chuyện Thầy kể và đinh ninh Thầy tôi lúc nào cũng giành cho chúng tôi một cái hậu rất ư nhẹ nhàng, thấm đượm tình nghĩa và đạo lý, dù cốt chuyện lắm lúc éo le ngang trái, nhiều lúc khiến đôi mắt chúng tôi rơm rớm. Nhưng không hiểu sao, Thầy tôi lại ngừng ngang câu chuyện. Thầy vẫn ngồi im đó, không màng uống thêm một chum trà.

Sự im lặng dù ngắn ngủi nhưng cố tình cố ý này của Thầy tôi cũng đủ làm cho chúng tôi bồn chồn chột dạ lắm. Thầy tôi có thói quen thỉnh thoảng giữ một đôi phút im lặng những lúc Thầy nhận thấy phải im lặng cho hợp cảnh hợp tình. Nhưng khi Thầy phát biểu thì xem như là một sự cần thiết rất đúng giờ đúng lúc. Rồi gương mặt Thầy tôi đổi sắc hân hoan với hai mắt sáng quắc hẳn lên. Ngước nhìn về phía chúng tôi, Thầy nói tiếp:


"Ban đầu, anh ta xoè đôi tay gân guốc còn lốm đốm bùn đất, cố thử đếm xem sáo mẹ bay đi bay lại bao nhiêu lần. Nhưng chẳng bao lâu, anh lại thôi, không sao đếm được nữa. Bất giác, anh ta ra chiều suy nghĩ hung lắm. Bây giờ, trong cảnh thinh lặng của núi đồi chập chùng và cảnh mênh mông u trầm của đồng ruộng không một bóng người, anh chợt hiểu ra rằng sáo mẹ thương đám sáo con vô bờ bến, không ngừng bay đi tận những nơi xa xôi hiểm trở để tìm kiếm mồi ngon béo bổ mang về cho con ăn. Sáo mẹ luôn luôn nhịn miệng, không để chúng đói, tranh ăn kêu la cào cấu với nhau. Nhờ vậy, sáo con chóng lớn, đủ lông đủ cánh tung bay giữa bầu trời bao la quyến rủ, chờ ngày thực sự rời khỏi hẳn vòng tay bảo bọc chở che của mẹ để lang bạt đó đây, lần mò khám phá không gian xa lạ chung quanh nhưng cũng đầy cạm bẫy bất trắc".


Dường như có một cái gì đó đang khe khẽ nhói lên trong lòng Thầy tôi. Tuổi già của Thầy là như vậy đó. Vui chưa hết cuộc đã thấy Thầy thâm trầm như có một nỗi buồn đâu đó sắp đến với Thầy. Hay Thầy đang sống vội vàng ở những ngày còn lại lúc cuối đời này chăng? Thầy cố gắng đè nén những cảm xúc và tiếp lời:


"Anh ta liên tưởng đến mẹ anh. Sự hối hận bắt đầu xâm chiếm tâm hồn anh. Anh thương mẹ anh vô cùng. Anh nhớ công lao của mẹ đối với anh và khắc khe trách mình về những sai trái, những hành động tàn nhẫn vũ phu đối với mẹ bấy lâu. Anh định bụng, chút nữa đây, khi mẹ anh mang cơm nước đến, anh sẽ quỳ bên chân mẹ, khẩn khoản xin mẹ rộng lượng tha thứ những tội lỗi anh từng gây ra mà mẹ anh đã nhẫn nhục chịu đựng, không một lời dù nhỏ nhẹ thở than hay trách móc. Anh sẽ ôm chầm lấy mẹ, hứa suốt đời còn lại sẽ mãi mãi tôn kính và phụng dưỡng mẹ tử tế. Chỉ có thế, anh mới chuộc lại được những lỗi lầm xưa".


Thầy tôi hớp thêm mấy ngụm trà nữa, lấy giọng:

"Đang nghĩ ngợi mông lung, bỗng từ trên cao nhìn xuống chân đồi, anh thấy mẹ đang còng lưng, lum khum nặng nhọc, gánh cơm nước băng qua từng con suối cạn, từng bờ mẫu quằn quoèo trơn trợt, từng gò đất lồi lõm, khi ẩn khi hiện sau những rặng cây dầy mịt. Anh ta vụt đứng phắt dậy. Anh đang nôn nóng xót xa. Lòng anh như dao cắt. Khi anh hồi tưởng và hình dung bà mẹ khắc khổ của mình suốt cả đời đi chân đất, kham khổ gánh gồng ngay từ thời thơ ấu của anh. Anh càng đau khổ khi hiểu ra rằng trí tưởng tượng của con người dù có phong phú cách mấy nhưng sự thật nhiều lúc còn phong phú hơn gấp bội. Như sự thật hôm nay, một sự thật, đáng tiếc thay, đến rất muộn màng nhưng vẫn không sao so sánh với trí tưởng tượng của anh.

Càng nhìn xuống chân đồi, anh càng nao nao thót ruột. Tim anh đau nhói. Anh thấy thương mẹ nhiều hơn bao giờ hết. Anh cuốn cuồn đâm đầu chạy u như bay xuống đồi mong rước lấy gánh cơm và chình nước. Vì lúc bấy giờ, anh mới thực sự hiểu rằng, với tuổi chỉ mành treo chuông của mẹ anh, gánh cơm anh ăn hằng ngày quả là gánh nặng ngàn cân trĩu đè trên vai mẹ. Chẳng những thế, mẹ anh còn leo lên đồi cao, băng suối, vượt bao nhiêu chướng ngại vật nữa. Giờ đây, anh thấm thía khi biết thêm rằng mỗi đoạn đời dài đăng đẳng của mẹ anh chẳng khác nào con đường làng quê lồi lõm thân quen, quanh co uốn éo, con đường trắc trở hun hút, chập chùng suối rừng, ghềnh thác nơi dưới chân đồi xa kia mà mẹ anh đã phải cố gắng và âm thầm vượt qua hằng ngày, từ bao nhiêu năm tháng qua chí đến bây giờ, khi đang ngấp nghé tuổi già ướm rụng. Anh càng đau lòng khi trông thấy cảnh tình ấy của mẹ. Anh ta vừa chạy như bay xuống đồi, vừa gọi to, bảo mẹ anh thôi đừng gánh nữa, hãy ngừng ở đó để anh xuống nhận".


Giọng Thầy tôi trở nên lắng trầm, buồn bã nặng nề hơn:

"Từ dưới chân đồi, mẹ anh phập phồng, thấp thỏm lo âu. Bà nhìn ngược lên hướng đồi cao, thấy con mình hùm hổ tuông chạy xuống, có vẻ khẩn cấp khác hẳn thường ngày. Bà sợ hãi thất sắc. Bà sợ hôm nay bà đem cơm nước tới trễ hơn mọi lần trễ khác, con bà chắc nổi cơn thịnh nộ. Nó sẽ đánh đập bà tàn tệ hơn những lần trước. Tâm trí quá rối loạn, bà vội vàng đặt ngay gánh cơm và chình nước xuống gò, định bụng đâm đầu chạy tháo một mạch về nhà, hy vọng sau khi ăn uống no nê hả lòng hả dạ, chiều về con bà sẽ nguôi ngoai hết giận. Tuổi cao sức yếu, phần vì hấp tấp, chẳng may bà té đập đầu vào tảng đá to, u nần với nhiều cạnh bén ngót, máu tuông lai láng. Bà trút hơi thở cuối cùng không lâu sau. Một bà mẹ hiền từ, gương mẫu, rộng lượng đã vĩnh viễn ra đi thiên thu vĩnh biệt, như bao nhiêu bà mẹ vô danh khác từ giã âm thầm cõi đời ô trược này".


Mắt Thầy long lanh đỏ hoe. Chúng tôi ngồi im phăng phắt cũng se sẽ sục sùi. Chúng tôi đưa mắt về phía Thầy tôi như đang chờ đợi những lời vàng ngọc kế tiếp của Thầy. Thầy tôi rất mực trầm tĩnh nhưng giọng Thầy lúc này không mấy vui:


"Khi đứa con đến nơi, anh ta chỉ còn biết ôm ghì lấy mẹ khóc nức nở. Mẹ anh đã ra người thiên cổ. Kẻ âm dương, người trần thế, ngàn năm chia cách từ đây. Ngay giờ phút này, anh phải sống cô đơn, quạnh quẽ. Anh nhớ những hy sinh cao cả vô bờ của mẹ anh đối với anh, những hy sinh đó giờ phút này tuần tự diễn ra trước mắt anh, mang chở một ý nghĩa đậm đà cứ quặn xoáy tâm hồn anh. Cái cảnh đầm ấm ngày nào mẹ con nương tựa gần gủi vui vầy bên nhau không còn nữa khiến anh càng thêm thương nhớ tiếc nuối vô bờ. Càng nhớ thương mẹ trong lúc lương tâm mãi cắn rứt, anh càng kêu la thảm thiết. Nước mắt anh mãi mãi lai láng tuông trào...".



Thầy tôi nghèn nghẹn:

"Trời đã nghiêng thấp lúc nào anh không hay. Màn đêm từ từ phủ xuống vô tình. Anh vẫn ngồi yên đó một mình, ôm ghì lấy mẹ trong đôi tay gân guốc của anh mà khóc. Anh khóc liên tục. Anh khóc suốt ngày suốt đêm. Hai hàng nước mắt không còn là hai giòng nước trong suốt thủy tinh nữa mà trở thành hai giòng máu tươi phún ra từ khoé mắt. Hối hận, phẫn uất vì sự hối hận của mình không được đấng vô hình quyền uy tối thượng đoái hoài, anh tiếp tục kêu la vang vọng núi đồi. Máu không ngừng chảy. Anh kiệt sức, chết theo mẹ".


Thầy tôi lại ngừng ở đây thêm một lần nữa. Không khí nặng nề bao trùm lớp học. Bên vách nhà, tiếng dế ra rả đưa buồn đến bên tai chúng tôi làm tăng thêm vẻ u ẩn lắng trầm của căn nhà nhỏ xinh xắn, cửa nẻo mở toát với cánh cửa bằng tre đan chầm lá dừa nước dùng khép hờ mỗi đêm mà bao nhiêu lần Thầy tôi tỏ ra rất bằng lòng và tự hào về tánh tình thật thà chơn chất, không tham lam của bà con chung quanh. Cảnh dương gian trần thế sẫm hẳn lại lạ kỳ trong đầu óc non nớt của chúng tôi, đang chạnh lòng thương cảm nỗi đắng cay buổi chiều tà, bóng xế trăng nghiêng của một bà mẹ lắm lao đao và quá nhiều lận đận. Chúng tôi vẫn còn ngẩn ngơ, lắng tai chờ Thầy kể tiếp. Nhưng Thầy tôi khoan thai vói lấy chum trà và kết luận:


"Đây là câu chuyện xưa bên Tàu nói về ông Thần Tài mà ngày còn nhỏ Thầy được nghe các cụ già kể, nay nhớ cốt chuyện, Thầy thêm thắt đôi chút cho hợp với tình tiết và cảm quan Việt Nam. Người con hối hận chính là ông Thần Tài đấy. Từ đó, theo truyền thuyết, ông nguyện sẽ đem đến cho người đời nào là tiền của, nào là bạc vàng dư thừa để họ trở nên giàu sang, có đầy đủ phương tiện vật chất hầu phụng dưỡng mẹ cha vào khoảng cuối đời, do mọi khả năng sút giảm trầm trọng, phải sống nhờ vã và trông cậy vào con cái. Ông muốn tránh cho họ khỏi phạm tội lỗi chỉ vì cuộc sống nghiệt ngã mà sanh tâm bạc đãi các bậc sinh thành trước lúc họ xuôi tay trở về với lòng đất quê hương. Cũng theo truyền thuyết Trung Quốc, do nước mắt và máu chảy khuyết hai má nên mặt mũi ông Thần Tài xấu xí, dị họm, đôi khi dễ sợ nữa là khác. Ai may mắn trông thấy ông đều sợ hãi, té ngửa chết ngất ngay. Mấy ai còn giữ được sự bình tĩnh hầu xin ông ban cho sự giàu sang phú quý. Đại ý là như vậy. Thôi đã đến lúc làm toán đố"...


Chiều hôm ấy tan học, tôi chậm rãi hướng theo bờ kinh, trở về nhà cùng với ba thằng bạn. Qua khỏi lùm cây nhà ông Hương Sư Chương, tôi thấy mẹ tôi đứng bất động chờ tôi ở đấy từ lâu như hằng bữa. Tôi khoác tay ra dấu với mẹ, tôi đã thấy người. Mẹ tôi cũng khoác tay lại với tôi. Gặp mẹ sau mấy giờ vắng mặt, tôi hân hoan vô cùng, nhứt là hôm nay tôi lại được điểm cao về bài toán đố. Tôi sẽ khoe với mẹ, chắc chắn thế nào mẹ tôi cũng khen thưởng tôi. Tuy vậy, hôm nay, sự quấn quít của tôi bên mẹ có cái gì khác lạ trong tâm hồn. Tôi không sao nói nên lời. Hôm ấy và mãi mãi về sau, bên tai tôi cứ văng vẳng lời huấn dạy thâm sâu, chí tình chí nghĩa của Thầy tôi qua lời nói của người xưa, ngăn ngắt cao cả nhứt trong đời mỗi con người:



"Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế"

(Cha mẹ còn sống trong nhà như Đức Phật ở thế gian).


**



Tôi từ giã quê hương tôi vạn bất đắc dĩ, điều mà từ thuở thanh xuân mộng mơ, ham thích phiêu lưu lang bạt để khám phá những điều mới lạ, tôi chưa bao giờ có một lần nghĩ đến. Ngày ấy, một thằng bạn vong niên kết nghĩa, sau 30 tháng Tư 75 ngoéo tay thề sống chết có nhau, đèo tôi trên chiếc xe "Honda đam" cũ kỹ già nua mới mua chỉ được vài tháng để làm chưn làm cẳng, đến khi bắt buộc phải vứt bỏ cũng chẳng còn gì đáng giá để phải tiếc nuối. Chiếc xe ì ạch trực chỉ cây số 74 trên đường Sài Gòn đi Long Hải, Vũng Tàu. Dọc đường, khi qua khỏi thị trấn Biên Hòa một đổi không được bao nhiêu cây số, nó lại làm khó làm dễ chúng tôi không ít. Bánh xệp. Dĩ nhiên, chúng tôi tìm nơi vá xe không khó do cái nghề sửa chữa xe hai bánh đang thạnh hành, xuất hiện nhan nhản ở khắp các ngã tư đường và trục lộ giao thông chính yếu. Nhưng khổ nỗi, trong lúc chờ đợi lâu lắc, chúng tôi vốn đã cải trang nhằm đánh lạc hướng công an và bọn nằm vùng lại phải đội nón lụp xụp che khuất mặt mày vì sợ có người biết mặt tình cờ trông thấy.


Ở đời, may rủi ai đâu ngờ được. Nhứt là ở thời buổi "khí thế cách mạng" đang lên, lòng người hời hợt nhẹ dạ, có lắm đổi thay không sao đoán lường trước được. Theo kế hoạch bí mật trong tổ chức và đúng theo dự tính từ mấy hôm nay của bạn tôi, gia đình tôi sẽ được nó bố trí đưa xuống chiếc ghe định mệnh dài không quá mười sáu thước, mang số đăng ký VT 3399 để bềnh bồng ra biển khơi. Thành phố nghiệt ngã tang khó, thành phố buồn hiu dãi chết mang cái tên nguyền rủa Hồ Chí Minh, dần dần khuất hẳn trong tầm mắt hận thù và chán chường, khi chốc chốc tôi ngoái nhìn lại phía sau.

Thành phố ngày hôm qua và ngày hôm nay đó, nơi tôi đã trải qua một nửa đời mình vẫn in dấu sâu đậm trong tâm trí tôi, với bao nhiêu kỷ niệm buồn vui xô bồ nhưng gắn bó keo sơn với con người tôi, con người của những ngày vui xưa xa hun hút và của cả bây giờ quá khắc nghiệt phũ phàng. Những cái ngoái nhìn chốc chốc về phía sau, tôi có cảm tưởng như một động tác máy móc để níu lấy, để ôm ấp nâng niu, để gìn giữ những gì đã quá gần gủi nhưng lại sắp cách xa nghìn trùng và mãi mãi? Tiếng máy nổ trầm đều và nặng nề của chiếc Honda trật thượng không đủ sức mạnh đưa tôi ra khỏi vùng tưởng tiếc ngổn ngang đang dằn xé, ray rức nội tâm mình. Phải chăng là cái hồn quê hồn nước, hồn phường khóm, hồn phố xá thân thương quen mắt từ mấy mươi năm qua... ở giờ phút trầm thống tột cùng này đang trào vọt không thôi trong tôi để rồi tôi lại thêm bùi ngùi, thẫn thờ biết rằng mình đang đi trên con đường ngập tràn xót xa cay đắng, con đường lưu vong mất nước.

Đôi mắt tôi cứ rơm rớm mãi. Cảnh phân ly chia lìa nào mà chẳng vậy. Nhưng lạ một điều là tôi không khóc được. Có lẻ nước mắt chỉ để giành cho riêng tôi nên lúc ấy tôi phải dồn nén nó tận trong sâu thẳm lòng mình chăng? Cái thành phố dấu yêu, thành phố Sài Gòn bất diệt, muôn thuở rực rỡ hào quang, thành phố biểu tượng niềm tin quật khởi, hứa hẹn một ngày vinh quang tươi đẹp của toàn dân Miền Nam lúc bấy giờ đang oằn oại phía sau tôi để nhạt nhòa theo từng cây số đường, dưới lớp khói xe đen ngòm cuồn cuộn quyện tròn rồi lan tỏa trong không gian. Thành phố một thời trong đời tôi đó, tôi nguyện sẽ luôn luôn ấp ủ trong lòng đến hơi thở cuối cùng.


Mắt tôi bỗng ràng rụa sau khi định tâm hoàn hồn, tạm thời ổn định một chổ ngồi xép re ở khoan tàu, đã đông nghẹt, chật nức như nêm lớp lớp người mặt mày hoảng hốt lo âu. Sau này, khi sống sót đến đảo Kéramot thuộc quần đảo Anambas ngoài khơi Nam Dương, lúc nhà chức trách địa phương đến kiểm tra để lập thủ tục chuẩn bị cho phép đi định cư tỵ nạn ở một đệ tam quốc gia, tôi mới biết con tàu cây nhỏ hẹp mong manh này chứa đến 349 nhân mạng lớn nhỏ.

Đó là chưa kể những người xấu số đã bỏ mình trong chuyến hải trình thập tử nhứt sinh và đã được lần lượt vùi xuống lòng biển sâu cuồng nộ một màu đen thăm thẳm. Mùi hôi nặc nồng xông lên rất khó chịu. Tôi có cảm giác như mình đang ngạt thở giữa nắng hè oi bức nặng nề. Chừng ấy cực hình càng tăng thêm nỗi xót xa, đau đớn ê chề của người đi chưa biết đâu là bờ bến đổ. Một chuyến đi không ngày mai?! Một chuyến đi cuối đời?! Hình ảnh cuối cùng tôi giữ lại về quê hương nghiệt ngã và bất hạnh của tôi, từ ở đáy sâu khoan tàu là diện tích không hơn một thước vuông của cửa hầm trổ lên ăn thông boong tàu.

Qua diện tích nhỏ hẹp đó, tôi chẳng thấy gì cả về đất nước thân yêu của tôi ngoài những đám mây xám uể oải đang la đà chen chúc tiếp nối nhau không đứt đuôi trên nền trời lần lần đen sậm hơn, như bắt đầu báo hiệu một cơn giông to bão lớn sắp đến. Nhưng cái đau đớn tột cùng trong tôi lúc ấy là dung nhan sầu khổ, rõ nét của mẹ tôi thoáng hiện trước mắt như một tượng đá đêm đông. Mẹ tôi đã chết trong lòng khi hấp tấp vụng về dấu mặt ôm hôn tôi, lúc người bịn rịn chia tay tôi trong câm nín nghẹn ngào. Dù vậy, trong phút giây đau đớn tận cùng đó, tôi lại nghe tiếng mẹ tôi khe khẽ lâm râm một đôi câu ngắn ngủi:


- Ông Trời sao lại giành chi cho má phải chứng kiến bao nhiêu cảnh chia ly tang tóc của những người ruột thịt!

Trong vòng tay rã rời kiệt quệ, tôi cảm nhận sự rung rẩy yếu ớt của mẹ tôi đang ấp úng. Đôi môi người luôn mấp máy. Mẹ tôi đã ngoài bảy mươi lăm tuổi, tóc sương da mồi lốm đốm. Thêm vài chứng bịnh trầm kha của tuổi già vẫn tiếp tục đeo đuổi theo mẹ tôi từ mấy năm sau này. Lúc ra đi, tôi sợ người không chịu nổi sóng gíó bão bùng của chuyến hải trình sinh tử, đoán trước cam khổ nguy hiểm chực chờ hằng giờ hằng phút. Tương lai như chỉ mành treo chuông. Biết đâu là bờ bến đến?! Biết đâu là giờ giấc thầm mơ được đặt chân lên đất liền?! Vả lại, mẹ tôi tỏ ý nhiều lần muốn được chết trên quê hương ấm cúng nghĩa tình, chết trong vòng tay thương yêu đùm bọc của bà con quyến thuộc và chòm xóm láng giềng, nghèo tiền nghèo bạc nhưng trong lòng đầy ấp nghĩa ân. Người sợ sẽ phải gởi thân trên mảnh đất lưu đày vô định, tứ cố vô thân, hẩm hiu cô độc. Hơn nữa, mẹ tôi còn nghĩ xa. Cái tánh cố hữu của mẹ tôi những lúc gặp khó khăn bất trắc. Mẹ tôi ái ngại nghĩ rằng mình sẽ là một gánh nặng cho con cái trên bước đường xây dựng sự nghiệp, làm lại cuộc đời nơi xứ lạ với đôi bàn tay trắng. Mẹ tôi sợ sẽ làm vướng bận chúng tôi, loai hoai vì chữ hiếu mà phải may một, khó xử.


Hôm điện tín của đứa cháu gái đánh qua Pháp báo cho biết vắn tắt, mẹ tôi đã mãn phần đúng ngày 22 tháng 5 năm 1988. Liên tiếp mấy thơ sau, cháu tôi thuật lại tỷ mỷ từng chi tiết những ngày cuối cùng của mẹ tôi, nơi căn phòng người chất chứa bao nhiêu kỷ niệm về tôi, mà người giữ gìn săm soi lúc nhớ con thui thủi một mình, cái tư thế nằm trên giường lúc mẹ tôi lâm chung... Những ngày cuối cùng đó, mỗi khi chợt tỉnh, mẹ tôi không ngớt kêu gọi nho nhỏ tên tôi từng chập. Người khẩn khoản bảo bà con bao bọc chung quanh làm thế nào cho người gặp được tôi một lần cuối cùng mới an tâm thanh thản trước khi nhắm mắt, phủi sạch nợ trần.

Cháu tôi đoán biết mẹ tôi không còn sống được mấy hôm nữa, mắt đã hết thần sắc, tay chân cử động yếu ớt hầu như bắt đầu bị liệt. Nó lập mưu đưa đứa em họ của tôi vào phòng, dối rằng tôi mới vừa về. Mẹ tôi cố gắng nhướng đôi mắt lờ đờ lạc thần nhìn tròng trọc đứa em họ tôi. Có lẽ không nhận rõ dáng vóc và giọng nói quen thuộc ngày xưa của tôi chăng nên mẹ tôi chẳng có chút phản ứng mừng vui nào cả. Người quay vội vào vách rồi thiếp đi. Mẹ tôi mất lúc quá khuya. Cháu tôi đoán như thế. Cháu tôi mệt mỏi thức trắng dờ mấy đêm liên tiếp để ở sát bên cạnh mẹ tôi, theo dõi săn sóc người lúc bịnh tình trở nặng nên không rõ mẹ tôi mất đúng vào giờ nào. Nó phát giác lúc hừng sáng, chắc cũng không lâu sau khi mẹ tôi đã vĩnh viễn ra đi. Mẹ tôi nằm nghiêng nghiêng một bên trên chiếc gối mới may do tôi gởi vải về tháng trước, áo gối hãy còn loan ỉ nước mắt trông chờ tuyệt vọng...



**




Ở đất tạm dung miền Bắc Pháp, làm gì có loài chim vịt để được nghe nó kêu khắc khoải theo con nước lớn nước ròng những lúc hoàng hôn hấp hối, khi mặt trời sắp phụp hẳn xuống chân trời mênh mông xa tít tắp, nhường chỗ cho màn đêm huyền bí trùm phủ vũ trụ. Tuy nhiên, dù vắng tiếng con chim vịt kêu chiều u buồn gợi nhớ gợi thương đó, nhưng sao nó cứ quặn xoáy vào tâm tư trí não tôi, bắt tôi phải nhớ ray rức đậm đà. Có lẽ hồn xưa làng cũ đã hòa nhập vào hồn tôi từ những tháng những năm qua để trổi dậy ở giờ phút ly hương dằn xé này? Tôi nhớ mẹ tôi không nguôi. Tôi nhớ hình ảnh thân thương, nhớ những lời răn dạy ngọc ngà quý báu, nhớ những hy sinh cao cả vô bờ người giành cho tôi suốt cuộc đời ba đào sóng gió trên quê hương tôi máu lửa triền miên.

Lập thân nơi xứ người trong hoàn cảnh trắng tay nghiệt ngã ê chề, thời gian lần lửa đã mang lại cho tôi những tiện nghi vật chất quá ư dư thừa. Những gì tôi cầu nguyện và ước mơ trong những lúc vấp ngã ở trường đời, tôi đều được cả. Những gì tôi mong muốn trong lúc kiếm tìm cũng đã đến với tôi. Ngay cả những thứ không đáng giá là bao, những cái không ra gì cả mà ngày xưa mẹ tôi ưa thích hay xử dụng hằng ngày, dĩ nhiên tôi đều có đầy đủ. Nhưng dù không đáng giá, không ra gì, nó lại là một động lực hoài niệm để tôi tưởng nhớ một người thương không còn nữa! Xin cám ơn Thượng Đế. Xin cám ơn Bề Trên cao vòi vọi đã ban phát cho tôi quá nhiều ân sũng. Nhưng sao tâm thức tôi thỉnh thoảng cứ xô đẩy, lùa xa thật xa tất cả, chỉ để lưu giữ lại vỏn vẹn hình ảnh thánh thiện và trong sáng ngày cũ của mẹ tôi. Nhiều đêm, tôi không ngủ yên được. Thỉnh thoảng giựt mình thức giấc với đôi mắt thao láo giữa cảnh tĩnh lặng tuyệt đối chung quanh. Nhớ mẹ, bất giác tôi gọi thầm:




- Mẹ ơi!

- Mẹ ơi!


Nhưng màn đêm sao cứ vẫn đen huyền, quạnh quẽ im lìm. Không một âm thanh dù nho nhỏ vọng đáp lại. Rồi những câu ca dao êm đềm quen tai ngày xưa của mẹ tôi khi người ru tôi mỗi trưa trên võng cứ văng vẳng bên tai tôi với âm hưởng ngọt ngào, chan chứa ân tình. Một nỗi buồn man mác xâm chiếm, gậm nhấm tâm hồn tôi. Tôi lịm dần theo lời ru cũ:


- Gió mùa thu mẹ ru con ngủ

Năm canh chầy thức đủ năm canh....

- Chiều chiều chim vịt kêu chiều

Bâng khuâng nhớ mẹ chín chìu ruột đau...


Rồi bỗng dưng hình ảnh Thầy Tử Lộ đội gạo nuôi mẹ trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư của những năm mài đủng quần quanh bên ván mạ nhà ông Thầy Huế hay trên ghế trường tiểu học ngày xưa càng làm cho tôi thêm nhói đau. Tôi xót xa tiếc nhớ những năm dài trước đây, nhứt là những ngày tháng oan nghiệt ngay sau tháng Tư Đen u tối, mẹ tôi âm thầm và nhẫn nhục lặn ngụp trong thiếu thốn trăm bề nơi "thiên đường cộng sản" mà nơi xa xôi ngăn cách, tôi đành bất lực.


Tôi chẳng làm được một chút gì để làm vơi trong muôn một, đôi phần khổ đau vật chất và tinh thần của người. Vốn biết cuộc đời là cõi tạm như ông bà tôi thường nói, một nơi để mọi người cùng đến và cùng đi, và sự sinh ly tử biệt là lẽ đương nhiên của Đất Trời, không có gì là lạ cả, nhưng thực tế mẹ tôi vẫn còn lảng vảng đâu đó, ẩn hiện trong cuộc sống của tôi. Và trong những nỗi dằn dặt nhớ thương thương nhớ dậm đà đó, tôi lại ngậm ngùi vọng tưởng đến thầy tôi, ông Thầy Huế ở xóm Rạch Rít dịu vợi, người đã gieo vào lòng tôi những năm chập chửng vào đời, tình mẫu tử thiêng liêng, tinh tuyền và cao đẹp.


                                                                           -***-


                                            Hương Lòng Thắp Muộn


            Có những bài học thuộc lòng trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư của Nha Học Chánh Đông Dương thuở còn mài đủng quần ở cấp tiểu học hơn nửa thế kỷ trước, không sao tôi quên được. Nhưng có một điều kỳ lạ là càng trọng tuổi, những bài học vừa ngăn ngắn vừa thâm trầm ý nghĩa ấy, đã từng là nguyên do rầy la quở phạt và đòn roi của thầy cô mỗi khi chúng tôi miệt mài ham chơi, lơ là chểnh mảng, càng rực sáng trong tâm thức tôi. Và giờ đây, nơi đất tạm dung nghìn trùng xa cách, tôi càng thấy mình thêm hạnh phúc sung sướng hơn với những kỷ niệm xa xưa thuở ấu thơ, những khi được dịp hồi hướng tưởng nhớ quá khứ. Rồi trong tĩnh lặng, tôi được thì thầm ngân nga những vần điệu, những tiết tấu đã in dấu sâu đậm một thời.

Có lẽ tôi không thoát khỏi định luật chung, bất di bất dịch của những người từng trải đang cận kề cái điểm tận cùng của cuộc sống? Dù họ sống vào thời nào, cả bên Đông lẫn bên Tây. Họ thích lang thang trở về quá khứ, sống với dĩ vãng. Vì họ chỉ thấy khoảng thời gian đã qua này, nhứt là chuỗi ngày ấu thơ khờ dại, lắm dự tính, nhiều mộng mơ nhưng ít khi được thực hiện viên mãn tròn đầy trên mảnh đất chôn nhao cắt rốn của họ. Khoảng thời gian ấy đối với họ đương nhiên là đẹp hơn hết. Như ý nghĩa và tính chất lãng mạn của bài ca dao "Vì Nhớ Mà Buồn" vẫn lãng đãng chập chờn trong ngăn ngách kỷ niệm phức tạp của tôi. Và mỗi lần nhớ đến, hầu như trăm lần như một, nó đều khơi động nơi tôi nhiều xúc cảm, lắm thổn thức nghẹn ngào:



Đêm qua ra đứng bờ ao

Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ

Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao mờ!

Buồn trông con nhện giăng tơ

Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai?...


Làm sao tôi lại vô tình có thể quên được những bài thơ tuyệt tác vượt không gian và thời gian như những bài Đường thi tuyệt đẹp "Qua Đèo Ngang Tức Cảnh" của Bà Huyện Thanh Quan Nguyễn Thị Hinh, "Mùa Thu Ngồi Câu Cá" của Cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến... Âm hưởng trầm buồn, hồn thơ man mác láng lai, đã vĩnh viễn lưu lại trong lòng tôi bao nhiêu xao xuyến ngập tràn. Cái "ngõ trúc quanh co khách vắng teo" của "một mảnh tình riêng" lúc đối diện giữa "ta với ta" trong bối cảnh gợi thương gợi nhớ, giờ đây, phải chăng là tiếng nấc u buồn thấm thía, mông lung dằn dặt bất tận, phải chăng là niềm ray rức nằng nặng, vò xé không thôi con người lưu vong nơi tôi?

Chắc hẳn là như vậy. Nhưng thỉnh thoảng, nó có một sức mạnh tinh thần huyền bí vô bờ bến, cứu rổi tâm hồn lắm tổn thương của tôi, giúp tôi hóa giải xóa nhòa phần nào nỗi buồn hiện tại, dù chỉ trong một thoáng ngắn ngủi qua mau. Đó là những lúc bất chợt nó đến với tôi, âm thầm lặng lẽ dẫn dắt đưa tôi vào khoảng trống không lạnh lùng sâu hút của những đêm cô đơn cô độc. Nhờ đó và qua đó tôi được dịp thả hồn phiêu dạt vượt trùng dương vạn dậm về tận quê xưa làng cũ, bến nước ruộng đồng ngày nào:


...Về đâu bến mát sông sâu thì về

Nhớ quê thương mẹ trăm bề

Hành trang nửa mảnh trăng thề ngày xưa

Nửa đời, sớm nắng chiều mưa

Làm thân cô lữ gió đưa mây sầu

Về đây bến lạnh sông sâu

Tuyết giăng đầu núi, canh thâu lệ tràn...

(P.H. - 1980)



Mà thật vậy. Cái bí ẩn ngàn đời không bao giờ thay đổi của những tâm hồn bơ vơ lạc lõng nơi đất lạ quê người, cái khúc mắc xót xa chán chường nơi khách ly hương chỉ vì một lý do ngang trái đắng cay nào đó bắt buộc họ phải bịn rịn vấn vương, đớn đau xa rời thôn ổ cội rễ, vẫn là sự hoài tưởng dõi trông về miền cố lý, vẫn là nỗi nhớ nhung muôn đời muôn thuở hướng vọng quê cha, quê mẹ, quê mình:

Ở đây có bốn mùa đất lành trời rộng

Sao trong lòng vẫn xót những cơn mê

Mới chợt hiểu dầu Đào Nguyên, Thạch Động

Từ ngàn xưa Từ Thức vẫn quay về.

(V.K.)


Riêng với tôi, ngoài những bài học thuộc lòng được diễn tả qua những tình cảm khúc chiết sâu sắt hay lâng lâng ngọt ngào của tiếng mẹ nồng thơm hương lúa đồng đồng, một số thi phẩm chọn lọc của Alphonse de Lamartine, "Milly ou La Terre Natale", "Le Lac"; của Victor Hugo, "L'Enfant", "Océano-Nox"... cùng biết bao nhiêu bài thơ thích chí của nhiều ngôi sao sáng chói khác trên nền trời thi ca Pháp quốc, đã thực sự đóng khung chắc nịch trong trí nhớ tôi. Còn nhiều, nhiều lắm. Nhiều đến đỗi tôi không sao kể cho xiết được. Trong số những thi phẩm đã lưu dấu vượt không gian và thời gian đó có một tuyệt phẩm của tác giả Félicité Robert de Lamennais (1782-1854) không sao tôi quên được, từ khi có dịp thưởng thức nó nơi trường ốc quê nhà cách đây nửa thế kỷ tròn.

Ông vốn là một nhà văn và cũng là thi sĩ trong trường văn trận bút Pháp tăm tiếng một thời mà nội dung và vần điệu ưa thích ngày nào, giờ đây, trong hoàn cảnh lưu vong oái oăm nghiệt ngã, vẫn thường bừng dậy trọn vẹn trong tôi. Khiến tôi càng thêm thấm thía với những nỗi đắng cay nhục nhằn của kiếp sống lưu lạc buồn tủi nơi xứ người. Ông gốc là một linh mục, sanh ở Saint Malo, được văn gia thi giới biết đến qua tác phẩm "Paroles d'un Croyant" (Lời của một Tín đồ Ngoan đạo) xuất bản năm 1834. Và thi phẩm được tôi nhắc nhở hôm nay chẳng qua là bài "Kẻ Lưu Đày" (L'Exilé) với điệp khúc lờn vờn xoáy quặn con tim:


"L'Exilé partout est seul"

(Kẻ lưu đày ở đâu cũng cô đơn).


Quả không sai. Và tôi tin chắc khó có người nào nghĩ khác hơn được. Đó là một thực tế. Một sự thật muôn đời của loài người. Do sự cô đơn cô độc ấy, người lưu đày dù bị bắt buộc hay tự nguyện thường đắm mình trong quá khứ để tìm những phút giây an ủi vỗ về ở những kỷ niệm vui buồn đeo đẳng nơi ký ức. Trên đất tạm dung, ngỡ ngàng xa lạ, đối diện với thực tế khó khăn, đôi lúc phũ phàng bẽ bàng, họ tủi thân tủi phận, tiếc nuối nhớ thương, vọng hướng về đất tổ, quê cha quê mẹ quê mình cũng là lẽ đương nhiên. Họ nhớ thương say đắm mảnh đất ông cha từng đổ mồ hôi và nước mắt đầm đìa qua bao nhiêu thế hệ đoàn kết nương tựa, đồng tâm nhứt trí, nắm tay nhau dày công vung bồi xây dựng. Nơi đây, họ sinh trưởng và lớn lên giữa một vùng núi non chập chùng hùng vĩ, sông nước bao la hữu tình. Bây giờ họ chỉ mong muốn được trở về đấm mình trong thanh vắng, hít thở không khí trong lành thơm thơm hương đồng vị đất đã ăn sâu vào tâm hồn họ.

Những cảnh vật thiên nhiên và thơ mộng này do tạo hóa quyền uy tối thượng đã ân sũng và rộng rãi ban hiến cho họ. Rồi từng lớp tiếng gọi vừa âm thầm vừa thiêng liêng của dĩ vãng càng ngân nga trong sáng mãi mãi thôi thúc, nhắc nhớ họ sức mạnh tiềm ẩn của dòng họ, của đại khối dân tộc trên bước đường phiêu lưu khẩn hoang lấn đất ở dãy đất phương Nam. Và các văn gia, thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ tài hoa tranh đua nhau dâng hiến tài nghệ mình để ca tụng, tô vẽ vừa nhẹ nhàng như cơn gió thoảng, như áng mây bay, vừa sôi động như sóng gầm thác đổ, như bão giông cuồn cuộn trào dâng. Bởi họ có thương yêu, có gắn bó nên giờ đây mới nhớ. Và họ vẫn nhớ vẫn thương mãi mãi suốt cả kiếp người. Và nhức nhói hơn nữa là bởi họ có mất mát và đã mất mát tất cả nên nỗi nhớ niềm thương càng thêm chất ngất vút cao. Không một hoàn cảnh nào, không một sức mạnh nào có thể hóa giải hữu hiệu được.


Người tỵ nạn Việt Nam trong cộng đồng hải ngoại, từ hơn mấy mươi năm nay, nhứt là những người trong tuổi ướm rụng, có một quá khứ nằng nặng dài lê thê đeo đẳng sau lưng mình, có thói quen hay nhắc nhớ thuở xa xưa ấy, nay dù đã bị lớp bụi thời gian vô tình phủ mờ đôi chút. Họ cố tìm kiếm trong các ngăn ngách chằng chịt và phức tạp của vùng tâm thức mình, một chút gì đó gắn bó với nguồn gốc cội rễ, thường là những cảnh đẹp, nét diễm kiều của quê hương cách ngăn diệu vợi. Họ lâng lâng bắt gặp đâu đây những con đường mòn một màu nâu sậm, quanh co uốn éo rất thân quen với tầm mắt họ, nơi họ từng in dấu chân tung tăng liếng thoáng, rong chơi khét nắng hôi trâu thời son trẻ hồn nhiên. Nơi đây những bờ mẫu trơn trợt lún phún cỏ mai cỏ chỉ cùng vài loại hoa dại úa màu vào mùa mưa dầm mịt trời mịt đất, bị cắt khoản từng đoạn do lỗ trỗ bể vỡ, nước chảy róc rách.

Nơi kia con lộ đất đỏ nhỏ hẹp hai bên lề um tùm bóng mát của những cây cổ thụ vài trăm năm hơn. Con lộ chỉ vừa đủ cho hai chiếc xe bò leo lề tránh nhau trong khổ nhọc, nhưng là con lộ duy nhất từ thuở tổ tiên họ chí đến ngày hôm nay vẫn chạy dài ngút mắt, cắt ngang xóm nghèo với những chiếc cộ trâu xuôi ngược ngùn ngụt rơm rạ và thóc lúa. Xa xa trong tầm nhìn, những chiếc xe bò nặng nề không ngớt rên rĩ cót két trầm buồn trong cảnh lặng lẽ hắt hiu của những buổi chạng vạng, lúc nhà nhà nơi thôn xóm lần lượt bắt đầu lên đèn dầu mù u leo lét. Rồi những làn khói bếp cơm chiều vội vã cũng thi nhau lan tỏa uể oải trên mái tranh mái lá. Họ sung sướng trong cảm giác đê mê toại nguyện bằng lòng đã hoàn tất tốt đẹp công việc cực nhọc trong ngày.

Cảm giác nầy ẩn hiện một chút gì mênh mông sâu rộng, còn rơi rớt khi họ cùng đưa mắt lặng lẽ nhìn ngắm mặt trời hực hở đỏ ửng đang từ từ khuất dạng sau chòm cây hay đám lá tối om dầy mịt nơi cuối chân trời. Chút gì mênh mông sâu rộng đó sẽ nhường chỗ cho màu sẫm tối chầm chậm chiếm lấy không gian, mang lại thôn ấp làng quê sự dịu dàng thơi thới, như để đền bù cả một ngày dài oi nồng đẫm mặn mồ hôi, nặc nồng mùi rơm mùi rạ khô cằn vào những mùa gặt hái. Họ khấp khởi đứng trước một lạch nước nhỏ, lờ lững trườn mình trên cánh đồng ruộng lúa bát ngát, nhấp nhô chỗ này chỗ nọ vài bóng xuồng câu lẻ loi bất động. Hoặc vài chiếc tam bản chở khẩm chí mí be cứ uể oải lênh đênh xuôi dòng về một nơi xa xôi nào đó như những chiếc thuyền không bến.


Trên cảnh thổ êm đềm nên thơ, đôi khi đến mức độ lạnh lùng ấy, rải rác xa mút, một vài điểm đen thẳm những rừng chồi rừng thưa vừa được khai khẩn lở dở, họ bùi ngùi dừng chân trên bãi cỏ xanh rì, trên những gò nổng hoang vu, nơi tuổi trẻ trong trắng yêu đời của họ được thể hiện tròn đầy qua những trò chơi truyền thống của cha ông ngày trước như đánh trổng, u mọi, thả diều, đá cỏ gà... vào mỗi buổi chiều trời trong gió mát. Và nơi đó cũng chính là nơi có những nấm đất đơn sơ nhỏ nhắn, xúm xít xan xát, chùm nhum với nhau, chỗ ông bà, cha mẹ cùng bà con chòm xóm, những người vừa lạ vừa quen của họ đã vĩnh viễn nằm xuống, hãnh diện trong tự hào, trong toại nguyện ở cuộc sống thế gian. Họ cảm thấy lòng buồn rười rượi chứng kiến cảnh một bác nông dân già khắc khổ lúc chiều xuống vẫn hì hục còng lưng ở nán lại tiếp tục phác hoang một góc rừng chồi dang dở.

Trong khi đó, ven theo rặng tre ngất nghểu cao vút kết nối những vuôn vườn liên ranh với nhau, một đứa trẻ lên tám, lên mười... mình trần trùn trục, quần vá nhiều mảnh, chắc hẳn là con của bác, ngả ngớn nằm ngửa trên lưng trâu, chậm rãi hướng dẫn cả đàn lớn nhỏ thông thả rảo bước về chuồng trại. Theo sau là một bà gầy ốm mệt nhoài, có lẽ là vợ bác, đang vất vả quảy một gánh đồ nhật dụng gồm có rá cơm, chình nước... và một ít rau cỏ mọc hoang nơi các gò nổng mà bà hái vội vàng vào giờ nghỉ trưa.


Khuya khuya, họ trở mình thức giấc, hai con mắt thao láo nhưng đôi tai vẫn lắng nghe rõ ràng trong thâm u huyền bí, tiếng vạc ăn đêm ven theo sông rạch thầm lặng qua màn sương lạnh; tiếng gà vịt nhốn nha nhốn nháo kêu quang quác như vỡ chợ khi bị chồn đèn chồn mướp mưu mẹo, rình mò vồ vập bất thình lình; tiếng chó tru tréo hay giựt mình thức giấc sủa vu vơ dưới ánh trăng thanh; tiếng mấy con tắc kè mình mẫy đầy những đốm xanh đốm đỏ tròn tròn tặc lưỡi từng loạt năm mười tiếng nặng nề ngắt khoảng, thoát ra đâu đó từ mái chùa rêu phong không xa hay ngay ở vòm me cổ thụ cạnh nhà; giọng hát vọng cổ hoài lang của người thiếu phụ trông chồng biền biệt nơi xa xôi ngân nga du dương não nuột quặn thắc con tim, vang lên từ những thuyền câu nơi bến vắng sầm uất... Bao nhiêu hình ảnh không thể phai mờ. Bao nhiêu tiếng động quá quen tai.

Bao nhiêu tình tiết quặn xoáy con tim. Bấy nhiêu cũng đủ để trói buộc họ với mảnh đất nhân ái hiền hòa của quê nghèo khổ hạnh. Và với ngần ấy cũng đủ để kết chặt họ với bà con thân quen, trân quý qua những truyền thống muôn đời muôn thuở, không ba hoa nói thánh nói tướng, không phát ngôn bừa bãi quá đà. Trái lại, lúc nào họ cũng vẫn giữ một mực kín đáo ít lời, biết chỉ biết để bụng nhưng lòng vẫn hiểu được lòng. Những con người thật thà chất phác này còn tỏ ra rất trọng kính thương yêu nhau qua tính nhân nghĩa hào hiệp, cương trực thẳng thắn, mến mộ tiết tháo. Họ thăng hoa đề cao liêm sĩ khí khái sáng trưng "ninh thọ tử bất ninh thọ nhục" dù dưới dạng chơn quê đơn thuần. Họ mộng mơ, nhớ nhung. Họ tưởng tiếc, bồi hồi. Họ cố tìm trở về kỷ niệm xưa để qua đó, mong được giải bày phần nào tâm sự mình. Mỗi người mỗi khắc khoải trầm buông, mỗi tâm sự riêng tư thầm kín. Có thể nhớ thương vu vơ một cánh cò trắng trửng giỡn trên cây bần nước đơn độc ven sông ven rạch. Có thể kể lể một sự giận hờn ấm ức, uất nghẹn trong lòng.

Cũng có thể diễn tả nỗi dày vò chán chường, những thất vọng tột cùng khi họ va chạm thực tại với phong tục tập quán và nếp sống hoàn toàn trái ngược với truyền thống mẫu mực hấp thụ đã khắc cốt ghi tâm. Do ray rức nội tâm trong hoàn cảnh oái oăm ly hương ngang trái, họ có nhu cầu cầm viết trước hết cốt để giải tỏa những u ẩn triền miên nặng trĩu của chính mình. Và họ viết như một lẽ sống. Họ viết theo tiếng lòng thôi thúc réo gọi không thôi. Không hề có sự gò bó gượng ép, lao lách cúi lòn. Không hề bị kềm kẹp bởi một nguyên tắc và đường hướng chỉ đạo độc tôn độc quyền của một cá nhân hay tập đoàn, hoặc giai cấp nào cả. Họ có đầy đủ tự do diễn đạt những gì họ cảm nghĩ và suy tư. Họ cầm viết một cách tự nhiên, phóng túng. Họ cầm viết hy vọng níu lấy quê hương ấp ủ mộng lành, bám vào cảnh cũ người xưa làm nơi nương tựa. Họ cầm viết để xoa dịu vết thương lòng, đã hơn mấy thập niên cay đắng len lén vụt qua mau, vẫn chưa có triệu chứng lành lặn như mong muốn.


Bấy lâu nay, tôi may mắn có nhiều dịp nói phớt qua về cái chéo quê hương Rạch Rít khổ hạnh, buồn tênh của tôi. Việc nầy không ngoài qui luật ngàn đời "thương thương nhớ nhớ" của "Kẻ Lưu Đày" mà không biết sao tôi đã thấm thía rất sớm khi còn lặng hụp ở trường ốc. Nhưng với tôi, ở giờ phút trầm lắng này còn thêm một chút niềm riêng, gói ghém trong những kỷ niệm sâu đậm giữa tôi và một người khuất núi mà tôi hằng thương yêu trọng kính. Kỷ niệm giản đơn. Kỷ niệm bình thường. Bình thường như bao nhiêu kỷ niệm khác rất mực bình thường trong đời. Mới hay ở đời, những vật dụng dù đáng giá hay vô giá, những đồ đạc thường dùng hằng ngày rất quen tay quen mắt, nếu đã cũ kỹ đến thời điểm cần phải phế thải, người ta có thể dứt khoát vứt đi không khó, dù lòng có đôi chút bâng quơ sắt se lưu luyến chẳng đành.

Nhưng ngược lại, có những kỷ niệm càng cũ kỹ bao nhiêu, người ta lại càng trân quý cố gìn giữ, không thể vứt bỏ đi dễ dàng được. Như trường hợp của tôi. Bao nhiêu kỷ niệm xa xưa vẫn cứ lắng đọng, chìm sâu trong miền ký ức phức tạp của tôi, nhiều lúc tôi tưởng chừng như nó đã vĩnh viễn nằm im lìm trong quên lãng để sau cùng chết rũ trong đó. Nào dè, thỉnh thoảng, nó lại cục cựa nhóm dậy sáng trưng với đầy đủ cả những chi tiết và tình tiết buồn vui sướng khổ ngày nào, đôi lúc quá bất ngờ nhưng đầy ấp hấp dẫn cuốn lôi. Thật rõ ràng lạ lẫm làm sao! Thật bí hiểm nhiệm mầu! Rồi tôi lại gìn giữ, nắm níu lấy nó để ấp ủ trong lòng. Tôi lại tưng tiu và tiếp tục tưng tiu mãi mãi cho đến nay đầu đã hai thứ tóc, vẫn đậm đà sáng trưng khôn tả.


Năm ấy, tôi có tổ chức "ăn thôi nôi" đứa con trai đầu lòng, đứa cháu đích tôn muộn màng của mẹ tôi do tôi lập gia đình rất trễ, ngoài ba mươi tuổi đời. Theo phong tục tập quán vùng đất Miền Nam, nhứt là ở những nơi thôn quê cùng cốc còn giữ khăng khăng nề nếp cũ và lối sống xưa, trẻ con sơ sinh vừa tròn một tuổi được ông bà và cha mẹ tổ chức ăn mừng trọng thể ngày này để kỷ niệm cái móc thời gian đầy ý nghĩa của một đời người. Bà con nông dân ở xóm tôi cũng như ở nhiều vùng khác nôm na và thật thà hiểu một cách đơn giản là kể từ ngày đó, trẻ con bước hẳn qua một khúc quanh mới để trầm mình vào một giai đoạn khác trong cuộc sống.

 Nó không còn nằm chèo queo co quắp, không ngớt làm trận làm thượng hoặc nhỏng nhẻo khóc la thét gào đòi sữa trên chiếc võng mịn màng đong đưa kẽo kẹt hằng ngày hằng đêm hay trong chiếc nôi tre tồi túng chật chội nữa. Nó đang chập chững từng bước một vương vai đi vào đời? Chẳng riêng gì bà con ít học chữ nghĩa lem nhem trong xóm, đa số có sự hiểu biết và suy nghĩ giới hạn mà chính mẹ tôi cũng hiểu như vậy qua bao lần nhắc nhở, giải thích cho tôi. Nhưng sau này, tôi có nhiều dịp lâng la để nghe những bậc trưởng thượng, cựu trào trong xóm, những bậc trượng triều trượng quốc thông thạo chữ nghĩa Thánh Hiền, những người đáng được tin cậy qua những tìm hiểu uyên bác và kiến thức thâm sâu. Các cụ chụp lấy dịp tốt hay đính chánh, bảo rằng không phải "ăn thôi nôi" như đa số bà con tôi đã hiểu lầm bấy nay, mà chính phải nói là "ăn tôi tôi" mới đúng hơn.

Các bậc có học thức nhưng kém may mắn, không đổ đạt nghè cống để thăng quan tiến chức này, giải thích dong dài hai chữ "tôi tôi" xuất phát từ chữ Tàu chữ Hán gì đó mà các cụ còn viết rất đẹp trên giấy hồng thắm như gieo niềm tin nơi bọn trẻ chúng tôi. Lần hồi, người dân quê mùa đọc trại ra là "thôi nôi" và được truyền tụng đến ngày nay. Tôi vốn dĩ thuộc vào hàng tối tăm chữ Nho, chữ Hán, nghe vậy thì biết vậy. Biết đại khái. Nhưng trong thâm tâm thú thật tôi không rõ thực hư, sai trúng ra sao? Mà thực ra tôi cũng chẳng màng tìm hiểu cặn kẽ làm gì! Nhưng là nếp xưa tục cũ, thì thôi cứ hiểu và noi theo như vậy. Cũng chẳng chết chóc gì ai. Và cũng chẳng ai phiền hà lôi thôi chi cả. Vì suy cho cùng, nó chẳng giúp, cũng chẳng cho ai một chút gì để làm giàu làm có chi thêm mà trái lại, nó chẳng bớt đi, cũng chẳng giới hạn phần nào cái có hiện tại của họ cả, để họ phải nghèo khổ túng quẩn thêm.

Hơn nữa, đây là một dịp quý hiếm để họp mặt đông đủ gia đình cùng thân quen lối xóm cho vui. Vả lại, theo tôi nghĩ một cách thô thiển và thực tế, tôi mến chuộng hai chữ dân dã "thôi nôi" hơn chỉ vì hai chữ ấy còn gợi lên hình ảnh tốt đẹp của chiếc nôi đã được lưu truyền từ bao nhiêu đời, đã chất chứa bao nhiêu tình cảm láng lai của những bà mẹ Việt Nam muôn đời với các đức tính trong sáng muôn thuở, trong sáng như ánh trăng rằm vằng vặt. Hơn nữa tôi càng nghĩ thêm hai chữ ‘thôi nôi’ tuy mộc mạc nhưng thể hiện tròn đầy tính chất độc lập và tự chủ của người Việt Nam mình, thay vì cứ đi truy nguyên tìm hiểu xuất xứ nơi nền văn chương văn hóa Trung Hoa cổ thời. Không hiểu tôi có chủ quan và cục bộ hay không trong nhận xét? Nhưng xét cho cùng cũng giống như trường hợp tổ tiên ta ngày xưa đã lắm công phu sáng chế ra chữ Nôm nhằm nói lên tính đối kháng ảnh hưởng trầm trọng của dân tộc bá quyền phương Bắc.


Gia đình tôi vốn không được đông đảo lắm, so với những tộc họ khác, lại có huông hiếm con muộn cháu. Cha tôi là con thứ mười trong gia đình mà anh chị em của cha tôi chỉ vỏn vẹn còn sống sót đôi ba người. Đa số đều chết sớm. Có người sau này tôi chưa hề nghe nói đến tên tộc một lần. Nói chi những kỷ niệm được ông bà tôi nhắc nhớ còn hiếm hoi hơn. Mà có khi ông bà tôi không muốn nhắc tới để tránh khơi lại vết thương lòng. Chỉ khi gần đến Tết Nguyên Đán, nhân những ngày tảo mộ, ông tôi có hướng dẫn và chỉ bảo cho chúng tôi biết, nơi này là mả của bác tôi, của chú tôi, nơi kia là mả của các cô tôi. Vỏn vẹn chỉ có thế trong sự trầm lặng của ông tôi.


Thường trong gia đình mọi người đều tránh nói theo sự cấm kỵ của ông bà tôi, là dòng họ có nhiều người chết yểu. Một cách nói mất nhiều thiện cảm đối với người trong cuộc. Vả lại, đây cũng là một thảm trạng xã hội nhức nhối, bắt gặp nhan nhản ở thôn ấp tôi vào thuở quá xa xưa hỗn mang đó. Tôi lại theo tập tục phía bên nội tôi, rất quí chuộng con trai. Có lẽ do chịu ảnh hưởng thời phong kiến xa lắc xa lơ nhập tâm lúc nào không hay, con trai là người sẽ nối dõi tông đường, duy trì dòng họ? Ông tôi cũng hay dẫn lời người trước thường phát biểu xem như một thói quê đã ăn sâu bám rễ: ‘Tích cốc phòng cơ, dưỡng nhi đãi lão’. Nuôi con chỉ mong đợi lúc mình về già sẽ được con săn sóc lo lắng cho, cũng giống như dự trữ lúa thóc trong nhà là để phòng ngừa những khi đói kém.

Mà ‘đãi lão’ theo như sự hiểu biết đơn giản của ông tôi là chỉ có con trai mới đảm đương trông nom chu đáo cha mẹ. Còn con gái một khi lớn lên lập gia đình phải xa rời tổ ấm của ngôi nhà từ đường để đi ‘gánh gian sang nhà chồng’, dần dà lơ là bổn phận làm con để sau cùng quên hẳn ‘chín chữ cù lao’, quên hẳn cái câu trong Kinh Thi thể hiện tròn đầy chữ hiếu: ‘Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao’. Thời xưa là như vậy nhưng so với bây giờ thì khắc hẳn. Quan niệm hẹp hòi lỗi thời đó đã thay đổi từ nhiều thập niên trở lại đây, nhứt là từ sau Thế chiến thứ hai, con người có nhiều biến chuyển về mọi mặt. Trai hoặc gái đều được cha mẹ tiếp đón, dưỡng nuôi dạy dỗ và đối xử bình đẳng như nhau.


Nhiều tuần trước, mẹ tôi ngày chí tối cứ mãi loay hoay lo nghĩ, bụng dạ chẳng yên chút nào. Người lúi húi tính tới tính lui, sắp đặt trong ngoài để được chu toàn đâu vào đó. Việc mẹ tôi lo lắng như vậy chẳng có gì lạ đối với tôi. Tánh của mẹ tôi là như vậy. Cái lo của người như một cái gì rất tự nhiên như hết ngày tới đêm, như mưa thì phải từ trên trời đổ xuống đất chớ không thể ngược lại. Ngày trọng đại mong chờ đã đến. Hôm ấy, thật tình mà nói, mẹ tôi tổ chức rất tiêm tất, đúng theo tập quán xưa. Dù vậy, người cũng cố gắng gói ghém đến mức tối đa, giới hạn những chi tiêu ở mức độ vừa vừa phải phải. Nếu xét cần thiết, mẹ tôi chẳng chần chờ, nhưng tuyệt đối không xa xí phí phạm. Bàn thờ gia tộc hừng hực lư đồng sáng choang, nơi đó mẹ tôi vọng hướng tổ tiên, ông bà, cha mẹ hai bên nội ngoại với tấm lòng thơm thảo cung kính.

Tấm lòng đó của mẹ tôi bắt nguồn từ sự biết ơn sâu xa những người dày công khai sáng dòng tộc. Trên bàn dài đặt trước bàn thờ được trưng bày đầy đủ mười hai bộ tam xên với những con cua chọn lựa chắc thịt, những trứng hột vịt luộc và những thỏi thịt heo ba rọi nhuộm màu đỏ thắm. Ngoài ra, mẹ tôi còn kèm theo những chén chè đậu, thơm thơm mùi nước cốt dừa và mùi lá dứa. Bao nhiêu chén chè là bấy nhiêu dĩa xôi trắng để cạnh bên, đơm vung mô tròn. Mẹ tôi sắp xếp ngay ngắn thẳng hàng trên bàn dài trải nắp trắng tinh được đặt ngay giữa nhà. Bà con, bạn bè xa gần cùng thân quen lối xóm được mẹ tôi mời thỉnh từ đôi ba tuần trước để tỏ lòng cung kính khách mời. Họ đến tham dự đông đảo, nhộn nhịp và thân tình. Hầu như không thấy thiếu vắng một khuôn mặt nào cả, những khuôn mặt mẹ tôi thường gặp gỡ, niềm nỡ trao đổi huyên thuyên hằng ngày. Không khí chung vui nói cười rộn rả không dứt.


Đã nói là "ngày ăn thôi nôi", ngày vui đánh dấu hạnh phúc của gia đình, mẹ tôi nhứt định không quên cho con tôi "bắt thôi nôi". Việc này không thể thiếu được. Thiếu là mất đi hết ý nghĩa của ngày trọng đại này. Theo mẹ tôi, một đời người chỉ có một lần duy nhứt mà thôi. Nhiều lần, mẹ tôi xác nhận như vậy. Không thể bỏ qua và cũng không thể đập dập làm chiếu lệ được. Hình như mẹ tôi cốt ý tranh thủ sự biểu đồng tình của tôi và của toàn thể các thành viên lớn nhỏ khác trong đại gia đình, những người đã có những triệu chứng manh nha trong đầu về sự chểnh mảng và thờ ơ đối với ngày lễ truyền thống này. Vì họ cho rằng đây chỉ là một hủ tục phải được đào thãi, nó chẳng mang đến kết quả gì cả. Chí tình mà nói, không hiểu mẹ tôi có thực sự tin hay không tin?

Việc này chỉ riêng có mẹ tôi mới có thẩm quyền trả lời dứt khoát. Nhưng người chỉ âm thầm xúc tiến chớ không hề nói năn phát biểu. Hoặc người chỉ làm theo thói tục lâu đời một cách máy móc nhằm nhắc nhớ chúng tôi một truyền thống còn sót lại, nay không có cũng được, mà nếu có cũng không sao, chẳng chút ảnh hưởng đến nếp sống. Vì đây không hẳn là một hủ tục đi ngược với trào lưu tiến hóa chung, nhứt định phải cương quyết bày bát, đã phá vứt bỏ bằng mọi cách. Từ sáng sớm tinh mơ, mẹ tôi đã thức dậy âm thầm, tự ên một mình lo liệu, chuẩn bị rất chu đáo và êm thắm trong khi mọi người trong nhà còn đang an giấc nồng. Trong gia đình, mẹ tôi cũng như hầu hết các bà mẹ mẫu mực đáng kính khác trên thế gian, đã soi sáng tuyệt vời và dài lâu ngôi nhà từ đường nơi chúng tôi sinh sống hằng ngày bằng tất cả sự dịu dàng trìu mến, tận tụy hy sinh vô bờ bến.

Mẹ tôi tự lực cán đán hầu hết mọi việc khó dễ, lớn nhỏ, trong ngoài. Người lầm lũi riêng lo một mình. Khi nào thấy cần thiết lắm, vạn bất đắc dĩ, mẹ tôi mới ưng réo gọi nhờ vã người khác giúp một tay. Tôi bỗng sực nhớ, thảo nào trong kho tàng văn chương sử sách tôi từng đọc trong đời, nhiều bà mẹ được người đời tôn vinh như một nữ thánh. Tôi thiết tưởng đây không phải là điều quá đáng, trái lại rất chí lý. Và biết bao nhiêu người con sinh sống nơi quê nhà hay tha phương cầu thực khắp năm châu bốn biển, từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, gồm đủ mọi thành phần giàu sang khó nghèo, đổ đạt trọng vọng hay thất học hẳm hiu, đã từng biểu lộ những ray rức của mình. Vì họ cảm thấy chẳng bao giờ họ nói lên hết lòng biết ơn sâu đậm của họ, chẳng bao giờ họ trả được cái ơn dưỡng dục to lớn biển trời ấy đối với tình thương yêu trong sáng và sự hy sinh cao cả, chất ngất vô bờ bến của người mẹ.



Hôm ấy, thức dậy, tôi thấy mẹ tôi đã bày sẵn từ hồi nào một cái tràn lớn bằng tre đan, chứa nhiều loại vật dụng thường dùng tượng trưng như cục đất, hòn đá, cái lược, cái gương, cán viết, cái kéo, cây thước gạch hàng v.v... và cả bộ bài cào nữa. Bộ bài cào đã cũ mèm, lên nước xám xịt mà mẹ tôi tình cờ khám phá vì được gìn giữ ngót nghét hơn hai ba thập niên nơi một kệ cây trong buồng vắng. Ngày trước, bạn bè tôi năm ba đứa chút chít phá phách thường dùng nó để đánh bài cào vùa, xạt cắt tê ăn thua vuốt mũi hoặc kéo dà dách, lương lẹo lừa gạt nhau len lén bắn đít... ở hiên nhà sau rồi cãi cọ to tiếng những ngày lễ lớn nghỉ học.

Khi trông thấy dáng dấp và điệu bộ quá ngạc nhiên của tôi, mẹ tôi bật lên cười ngất. Người lanh tay chỉ vào bộ bài cào rồi lấy giọng hóm hỉnh, vui vẻ dong dài nói với con cái trong gia đình. Mẹ tôi bảo, ngày xưa, ông nội tôi thuộc vào hàng có tiếng phong lưu trong xóm. Cả làng, cả tổng ai cũng nghe danh ông. Tiếc thay là cái danh bê tha lãng tử, bạc bài phá gia phá sản. Sau khi thành công cả mấy thập niên liên tiếp phá rừng, vỡ đất khẩn hoang, đến lúc về già thua buồn vì sự ra đi rất sớm của cha tôi nên ông hay đi đó đi đây mua vui tạm bợ qua những sòng đỏ đen, tiêu xài phóng túng. Tứ sắc, cắt tê, dà dách, xệp, ỏ, câu tôm... thứ gì ông cũng biết khá rành rọt. Nhưng những thứ đó sau này nhằm nhò gì ông.

Ông hay bảo với bạn bè đồng điệu, chơi mấy thứ đó ngồi lâu cầu cưa cầu nhầy cả ngày cả đêm đau lưng, tê đôi chưn, nhức khớp xương lại mỏi mắt... Như vậy sẽ làm hao mòn sức khoẻ. Kẹt tay con lắm, ông mới mó tay vào mấy bộ bài nhỏ lá ấy vì ông cho là mất quá nhiều thì giờ, ăn thua cắc ca cắc củm từng đồng từng cắc. Ông đâm ra làm cái hốt me, ăn thua nhanh chóng cấp tốc hơn. Ông tới lui khắp nơi trong quận trong tỉnh, vắng mặt đôi ba ngày nửa tháng hay hơn nữa mới lần mò về nhà. Mỗi lần ông xê dịch đó đây, đám tả hữu tà lọt làn chàn rậm rật theo ông đông lắm. Họ tình nguyện hiến thân, kẻ chèo ghe đưa đón, người trông lo cụm nụm đồ tế nhuyển và cũng để ông tôi sai lặt vặt những lúc cần đến. Nhưng dường như tất cả đều mong muốn và thích thú được theo phục vụ ông tôi như vậy. Vì họ hy vọng sẽ được hưởng chút ít hơi hướm tiêu pha, hoang phí thả giàn của ông tôi những lúc ông may mắn ăn nhiều trúng lớn. Nhưng thói thường, có mấy người trông thấy cái nghề cờ bạc đưa ai đến tột đỉnh của giàu sang phú quý bao giờ? Trái lại tán gia bại sản, sạt nghiệp, mang tai mang tiếng là cầm chắc.

 Nhiều người đến chết trong cô đơn cô độc, nằm co quắp nơi nhà lồng chợ, không một tấm ván bó thân, được người dân động lòng đem chôn ở nghĩa địa công cộng. Việc may mắn của ông tôi thỉnh thoảng cũng có xảy ra nhưng xem như hiếm hoi lắm. Một đôi lần trong suốt cả năm dài. Và những lần may mắn ấy thực tế cũng chẳng mang đến cho gia đình ông tôi một chút gì cụ thể cả. Bất quá chỉ đủ để cho ông tiêu xài huy hoàng, sướng tay nhằm để tiếng mà thôi. Cũng vì ham mê làm cái hốt me, ba thứ "yêu yêu túc túc", xoay qua trở lại, đáo tới đáo lui, được mất thế nào không biết, nhưng bà tôi chỉ biết mỗi một việc tai hại lúc bấy giờ là ông tôi tuần tự cứ bán dần đi phần lớn số ruộng nương dầy công tạo lập được trong thời thanh xuân lam lũ, vất vả chật vật. Cũng may cho gia đình dòng tộc tôi, không lâu sau đó ông kịp dừng chân đúng lúc, giữ lại nhấm mớ ruộng tốt, hằng năm lấy huê lợi dưỡng già.


Mẹ tôi rất sợ cái đam mê bạc bài tán gia bại sản của ông tôi trong dòng máu con cháu nhà nòi của anh em chúng tôi. Người bảo, có sự hiện diện của bộ bài cào cốt để thử xem trong số này có đứa nào thừa hưởng chút ít máu đỏ đen của ông tôi hay không, hòng sớm cảnh giác đề phòng, theo dõi hướng dẫn và giáo dục kịp thời kịp lúc, tránh phải ăn năn hối hận về sau khi đã quá muộn màng. Mẹ tôi nói vậy cho vui miệng chớ thật ra người có bao giờ mong muốn con tôi bắt nhằm bộ bài cào hứa hẹn một tương lai tối om đen ngòm bao giờ đâu. Mẹ tôi còn một ám ảnh khác luôn đeo đẳng theo người luôn. Nguyên mẹ tôi không may phải bỏ học nửa chừng khi đang học ở trường Áo Tím Sài Gòn, do một biến cố bất ngờ vừa xảy ra trong tộc họ.

Sau này, mẹ tôi hay nói đùa là mẹ tôi tuổi sửu, cái tuổi khổ cực như trâu nên cuộc đời dù có cố gắng ngoi lên cũng khó rời khỏi ruộng nương rẫy bái. Bà ngoại tôi thình lình qua đời vì bị cảm cúm quá nặng sau một bữa cơm chiều trễ tràng. Bà nằm xuống thật êm ái, ra đi nhẹ nhàng thanh thoát trong sự chưng hửng ngỡ ngàng của mọi người trong gia đình và sự bất ngờ tột cùng của bà con lối xóm. Vì một lẽ rất dễ hiểu, họ chưa hề nghe bà ngoại tôi đau bịnh dây dưa nhiều ngày nhiều tháng làm phiền phức con cháu trong nhà. Mà thật vậy, đến chết bà không hề dùng một viên thuốc ta hay thuốc tây. Ông ngoại tôi chọn lấy một quyết định rất nhanh.

Do ông không thể chần chờ lâu ngày được, vì nhà cửa ông vốn kinh dinh với ruộng vườn thênh thang mà ông lại đơn chiết, trong ngoài không có người tín nhiệm trông coi quán xuyến. Hơn nữa, công việc ngày mùa đăng đăng đê đê, dồn dập thúc hối ông không thôi. Một mình ông không sao kham nổi. Nhiều đêm ông thức đến khuya, cân nhắc lợi hại, tính tới tính lui nát ốc chẳng lối ra. Ông mãi trằn trọc không sao ngủ yên giấc được.

Ông chỉ mong tìm một giải pháp cứu tinh thích nghi với hoàn cảnh. Nhưng rốt cuộc, ông buộc lòng đành nhờ vã người bà con thân tín bơi xuồng ra quận đánh điện tín lên Sài Gòn gọi ngay mẹ tôi phải bỏ học để về quê phụ giúp ông trông coi mấy đứa em còn nhỏ dại. Đồng thời hụ hợ tiếp tay ông trong những việc đồng áng, nhứt thiết cần phải có bóng dáng của một người đàn bà. Một giải pháp bất đắc dĩ làm cho ông rất đau lòng, dằn xé ông mãi đến những năm cuối đời. Mẹ tôi biết rõ và thấm thía những việc nặng nhọc quần quật, trần thân lai khổ, sớm tối quanh năm dập dồn ở thôn quê, nhứt là ở những vùng đèo heo hút gió cách trở, vui cũng ở đây, buồn cũng ở đây, chẳng biết kêu ca chia xẻ cùng ai khác bên ngoài làng xóm.

Chẳng những mọi người từ lớn đến nhỏ cứ chúi mũi vào công việc khẩn hoang, lập vườn lên rẫy mà còn luôn luôn phải đối đầu với mọi chông gay bất trắc, bệnh tật chực chờ, thời tiết đổi thay thường xuyên xảy ra không đoán trước được. Dù rằng lúc bấy giờ, sinh hoạt nông nghiệp nơi quê tôi đã có phần nào đi vào nề nếp. Bà con tôi không còn quá nghiệt ngã, đầu tắt mặt tối mịt trời mịt đất, ngày đêm quần áo ướt dầm như thuở xa xưa. Trái lại, nhiều nơi đất đai đã thành khoảnh, ruộng vườn bắt đầu cho huê lợi đáng kể. Và bà con có đôi chút thảnh thơi hơn, dễ sống hơn. Họ đã có đủ ăn đủ mặc, đã có nhà có cửa che thân, che nắng che mưa. Đối với họ, được bấy nhiêu tiện nghi đó xem như quá may mắn, tràn đầy hạnh phúc rồi. Vốn an phận thủ thường, họ chẳng mơ ước gì hơn.


Suốt những năm chung sống hạnh phúc bên cạnh mẹ tôi, trước khi người giã từ cõi đời phiền nhiễu ô tạp này, mẹ tôi tỏ ra rất sung sướng nhìn ngắm, theo dõi từng đứa anh chị em chúng tôi lớn lên, ngay từ lúc chúng tôi còn ghì níu bám víu, ôm siết đôi vú mẹ rồi ngã ra ngủ lăn chiên, đến khi chập chửng biết đi từng bước, té lên té xuống, lúc nào cũng quanh quẩn bên người. Nhưng cái chân phúc tràn ngập đó đôi khi làm cho mẹ tôi lo âu, nơm nớp hoảng sợ. Sự hoảng sợ lo âu của mẹ tôi quả có nguyên do, có căn cơ vững chắc vì mẹ tôi cảm nhận rằng sự đời vốn dĩ không đơn giản, suông sẻ chút nào cả. Mẹ tôi nghĩ thêm một cách mộc mạc thuần đơn rằng, thói thường ở thế gian phiền hà lắm chuyện, cái gì tốt đẹp, tròn đầy như niềm vui hạnh phúc hiện tại của mẹ tôi, sẽ không bao giờ vững chắc và tồn tại lâu dài được. Một trực giác cứ đeo đuổi mẹ tôi luôn.

Cho nên để duy trì và củng cố chân hạnh phúc có thật trong tầm tay hy sinh cần cù của mình, mẹ tôi chỉ có một cách duy nhứt nhằm thể hiện lòng biết ơn của người là cầu nguyện ở các Đấng Thiêng Liêng uy quyền vô hình. Những đấng khuất mày khuất mặt này, mẹ tôi rất sùng kính quí trọng. Những lời cầu nguyện hằng đêm của mẹ tôi, thực sự tôi chẳng nghe được gì đầy đủ, thực sự tôi chẳng hiểu được gì rõ ràng cả. Vì mẹ tôi chỉ lâm râm nho nhỏ sau khi cho chúng tôi vào mùng, tấn ém chu đáo, soi đèn bắt muỗi xong rồi âu yếm sờ trán anh em chúng tôi từng đứa một, yên chí rằng chúng tôi không có đứa nào trúng mưa trúng nắng cảm nóng. Thỉnh thoảng, người thừa một dịp thuận tiện, thường nhứt là nhân một bữa cơm chiều quây quần đông đủ bên nhau để triển khai có ngằn có lớp, lời cầu nguyện ấy qua những lời khuyên nhủ, nhắc nhở chúng tôi cố gắng học hành, bền chí dồi mài kinh sử. Theo mẹ tôi thì chính đó là con đường duy nhứt để mai kia tránh cho anh em chúng tôi rơi vào cảnh bẽ bàng ngang trái của mẹ tôi thuở thiếu thời.



Sau ngày được ông tôi gọi về quê, kể như thường xuyên mỗi sáng sớm, lúc trời hãy còn tối bửng, mẹ tôi có phận sự đánh thức mấy đứa em dậy để sửa soạn đi học. Mười bốn, mười lăm tuổi đời, mẹ tôi bắt đầu tập tành đóng vai trò người mẹ thuần lương đảm đang bất đắc dĩ ấy rất sớm. Nhờ đó, sau này người thủ diễn chu toàn, trọn vẹn thiên chức một bà mẹ hy sinh thầm lặng đến hơi thở cuối cùng. Cặp vở, mo cơm mang theo để dùng buổi trưa đã chuẩn bị và kiểm soát xong xuôi, mẹ tôi lặng lẽ đưa cô em đến trường.

Ngôi trường làng với mái ngói tường vôi, nền gạch cao ráo nổi bật hẳn lên giữa cánh đồng bát ngát xanh mướt nhìn từ phía xa. Khốn nỗi, dì tôi nhỏ hơn mẹ tôi tròn trèm một kỷ, dì không có khiếu từ chương chữ nghĩa đã đành, thêm cái chơi lại lấn cái học.

Mỗi ngày, dì đều dùng dằng dủng dẳng, dẫy nẫy cự nự ngay từ lúc chuẩn bị cặp vở. Dì càu nhàu trận thượng trên suốt lộ trình. Dì kiếm chuyện này, tìm chuyện nọ, đặt điều đủ chuyện, nêu mọi lý do, viện bao khó khăn mong được ở nhà tranh thủ đánh đôi đánh đọ, xảnh xẹ xí xọn với trang lứa thất học. Mà khó khăn không phải ở những chuyện bày vẽ khiếu nại. Khó khăn lại chính ở ngay trong đầu óc bít bôi của dì. Dì nào có biết, từ xưa đến nay, thời nào cũng vậy, chữ nghĩa Thánh Hiền, sự hiểu biết thấm nhuần từ chương và sự thành công trong công khó sách đèn của con người được tổ tiên ông bà thức thời xem như của quý bất tận. Vì theo nhận xét và kinh nghiệm quí giá của những bậc này, tiền tài vàng bạc cả khối, gia sản cơ ngơi sự nghiệp dù có đồ sộ lớn lao cao vòi vọi như núi như non cũng có ngày cạn kiệt. Còn chữ nghĩa vẫn còn nguyên vẹn đó mặc phong ba bão táp, vật đổi sao dời trong kiếp sống. Các cụ còn kể nhiều trường hợp điển hình quanh quẩn trong tỉnh nhà như để chứng minh lời nói của mình. Biết bao nhiêu tỷ phú, triệu phú tên tuổi, lúc chết không có lấy một bộ ván gỗ tạp hay một vạt giường tre để nằm.

 Có người không có một thum lá hay một chòi tranh để trú thân lúc cuối đời. Đến lúc cảm thấy giờ giấc theo ông theo bà đã cận kề, họ không còn con đường cứu rổi nào khác hơn là cố lê lết ra tận nhà lồng chợ ở quận ở tỉnh, ngã tấm thân trần trụi gầy đét, nằm co rúm chèo queo, chết trên thớt thịt làm phiền lòng chú chệt già chủ nhân. Mỗi lần gặp lỗ trỗ bể vỡ, dì ngồi bệt xuống bờ mẫu, thoái thoát không chịu lội qua, dù nước chỉ chảy lé đé vừa chấm mắc cá là cùng. Quát rầy, dì khóc bù lu bà la như trong nhà bối rối, có tang khó không bằng. Mẹ tôi phải nai lưng cỏng dì qua khỏi lỗ trỗ. Ấy vậy, dì vẫn tiếp tục làm trận làm thượng chan chát, tiếp tục dẫy nẫy dùng dằng một hồi lâu sau. Cái nư của dì tôi to lớn lắm, ít có trẻ nhỏ nào cùng lứa tuổi so bằng. Dì dám nghĩ dám làm và làm toàn những chuyện kinh thiên động địa so với cái tuổi ‘ăn chưa no lo chưa tới’ của dì. Dì coi trời bằng vung. Nhiều khi dì gan lì thí mạng cùi, bạo dạng bất chấp hậu quả những việc làm của mình ra sao. Dì không ngần ngại liệng nguyên cặp vở xuống ruộng ngập nước.

 Mẹ tôi phải nhanh chân nhảy ùm xuống mau tay vớt lên, kẻo ướt sách vở và nhứt là tập viết, thầy giáo sẽ biên thơ tay hoặc nhắn người quen trong xóm mắng vốn ông tôi. Tức nhiên sẽ là một bất hạnh lớn không lường trước được đối với mẹ tôi. Đến xế chiều, trống trường vừa điểm, báo hiệu đã tới giờ tan học. Chưa kịp đi rước, mẹ tôi đã thấy dì nhảy tót lên cây ổi xá lị từ hồi nào chẳng biết. Dì đủng đa đủng đỉnh, đánh đeo trên chót vót ngọn cây, đong đưa ngả nghiêng theo chiều gió. Dì quất hết trái này đến trái khác, hồn nhiên tỉnh bơ. Mẹ tôi sợ lưng tim, kêu réo, toát mồ hôi hột. Nhiều lần người phải xuống nước nhỏ, lấy lời lẽ ngọt bùi cố năn nỉ ỷ ôi, thuyết phục dì luôn miệng. Mà khổ nỗi ít khi mẹ tôi có hy vọng đạt được kết quả. Những lúc đó, dì cười ngắc nga ngắc ngoẻo thách thức. Dì nhướng mắt nheo nheo từ trên cao nói vọng xuống:



- Chị cắt công để tâm lo lắng làm gì cho mệt xác, thêm chóng già. Tôi đâu còn nhỏ nhít gì. Không phải là lần thứ nhứt tôi leo cao như vầy đâu. Đã biết bao nhiêu lần rồi chị không thấy đó thôi. Mà nếu lơ đểnh, lỡ té, sẽ có bà đỡ tôi. Chị yên chí đi. Không sao cả.


Như để mẹ tôi an tâm, dì còn quả quyết lớn tiếng khoe với mẹ tôi là dì đã từng trợt chân té mấy lần, nhưng lần nào dì cũng níu được một nhánh để gượng lại. Dì lại cười ngất lần nữa. Trông dì hãnh diện lắm khi dì ong óng xác nhận dì chẳng có chết chóc bao giờ đâu? Mẹ tôi quả thật trần thân với dì. Đưa em vào trường xong, mẹ tôi quày quả lui gót và tạt ngay vào chợ chòm hỏm trong làng, vốn nhốm rất sớm mà tan cũng sớm để mua vội vàng vài loại thức ăn thông thường cho gia đình cùng công cấy. Cũng may là cái chợ chòm hỏm nầy le hoe ít người, ai ai cũng biết mày biết mặt nhau cả. Giá nếu là chợ quận hay là chợ ở những thị trấn đông đảo sầm uất, chắc chắn sẽ vất vả hơn và mất thì giờ nhiều. Bà con tôi có nhận xét thống nhứt như vậy. Và mẹ tôi cũng tin.

Người tin không hẳn bằng lời mà chính do kinh nghiệm những lần đi chợ Tết ở đây, nhứt là chợ chiều ba mươi, người người chen chúc mua đổ bán tháo, chạy đua theo kim đồng hồ cho kịp về nhà chuẩn bị rước ông bà. Nhưng dù sao, mẹ tôi tỏ ra rất mực bằng lòng với cái chợ chòm hỏm trong làng, cũng đầy đủ không thiếu món gì trong số thức ăn và hàng hóa thực dụng nơi quê nghèo hẻo lánh, nơi mà bà con tôi không đòi hỏi gì nhiều ngoài khả năng tài chánh gói ghém của họ. Vả lại, vốn quen biết nhau, không bà con xa cũng láng giềng gần nên không hề có cảnh nói thách trên trời dưới đất và trả giá kỳ kèo lên xuống từ đồng xu cắc bạc. Cũng chẳng có những trò lọc lừa, lươn lẹo gạt gẩm "mua lầm, bán không lầm" nên mẹ tôi cũng dễ mua. Có khi người bán còn tỏ ra thân mật, rộng rãi biếu xén thêm cho người mua nhắm mớ rau thơm đủ loại, tép rong nhỏ hếu hoặc con cá trào cửng cở cườm tay trẻ con bụ bẫm. Cử chỉ này tuy có tánh cách tượng trưng nhưng thể hiện tròn đầy và trung thực tình nghĩa lân bang thôn xóm mặn mà đậm đà.



Trưa hè nóng bức đổ lửa, mỗi ngày mẹ tôi phải gánh cơm hoặc nếp, gánh nước trà Huế nóng cho công cấy xúm xít ăn tại chỗ, ngay trên các bờ mẫu hay những gò đất, xa năm bảy cây số đường là thường. Ruộng tiếp nối ruộng, hắt hơi nóng ngột ngạt đến chóng mặt. Những lúc ấy, bà con cầu mong sao có một đám mưa muộn để được mát mẻ dễ chịu hơn. Nhưng ác thay, bờ mẫu ngày mùa trơn trợt như thoa dầu trét mỡ. Nếu bất ý kể như té lăn cù chổng gọng như trở bàn tay. Gặp hôm trời bỗng dưng mưa ầm ầm giữa đường là cả một sự bất hạnh trong ngày.

Gió mái giữa đồng. Người lạnh run cầm cập, chỉ biết trông cậy vào chiếc áo tơi nhưng vẫn chẳng thấm vào đâu. Về nhà còn vịt gà heo cúi không ngớt réo gọi. Còn cơm nước cho ông tôi, cho các dì tôi ăn, phải đàng hoàng tử tế chớ không thể "chặt khúc nấu nhừ" cho qua bữa qua ngày. Biết bao nhiêu chuyện thúc hối dồn dập người làm không hở tay. Về sau mẹ tôi có nhắc nhớ khoảng thời gian nầy và cho rằng việc người lo lắng cùng chia xẻ với những thân nhân không làm cho người bất bình. Vì nếu không có những hy sinh đó, con người như bị đui chột về phương diện tình cảm.



Một hôm, thằng Ba Nô, nhà ở cạnh bên ngôi vườn ông tôi chỉ cách có một cái mương ranh vừa cho tôi nhảy qua nhảy lại không chút khó khăn, nó qua vạt hộ mấy trái dừa rám để nạo rắc lên xôi nếp. Nó vốn rất dễ thương và sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Tác nó không ốm, không mập gì hung. Tánh nó lại mềm mỏng khôn khéo, ăn nói nhỏ nhẹ. Nó được bà con xóm tôi thương mến nhờ cái tài hiếm hoi hát bài chòi. Nó ca sáu câu vọng cổ hoài lang nhại theo tài tử thời danh Tám Thưa trong bài Dừng Gót Phong Trần cũng mùi mẫn lắm. Dù có nhiều đoạn nó ca rớt lên rớt xuống nhưng không vì vậy thính giả mất vui mất hứng. Trái lại là khác.

Còn nói vè Thầy Thông Chánh, Sáu Trọng hoặc Cậu Hai Miêng ở Gò Công cũng như kể những mẫu chuyện ngô nghê hệt hạt do nó sắp xếp lớp lang, chọn lựa tình ý càng lôi cuốn hơn. Ở vạt đất nghèo nàn hiu hắt của quê tôi, không biết nó học lóm nơi đâu và ai đã chỉ dẫn tận tường cho nó mà không hiểu sao nó rất rạch ròi những chi tiết khá đúng về Thầy Thông Chánh và Sáu Trọng. Cái đó mới lạ và nhiều bà con có chút ít học thức rất đỗi ngạc nhiên. Nó kể thao thao cuộc đời éo le oan nghiệt của Thầy Thông Chánh, từ lúc còn là một viên thông ngôn gương mẫu nơi tỉnh lẻ, ngày ngày bình thản "sáng vác ô đi tối vác về" ở thị xã Trà Vinh xa xôi, đến khi uất ức phẫn nộ hay tin vợ mình sanh tâm ngoại tình. Thầy không một chút ngần ngại và can đảm cầm súng nhắm thẳng trực diện, bắn vào tình địch của mình. Mà tình địch của Thầy ác thay lại là một tên biện lý người Pháp, lúc ấy quyền thế một cõi, đằng đằng sát khí, từng hò hét ra lửa. Dự mưu của thầy không may, chẳng đưa đến thành công như ý muốn vì thầy bắn hụt tên phá gia cang tàn ác này nhân ngày đại lễ Quốc Khánh 14 tháng 7 hằng năm của Mẫu quốc tại tỉnh lỵ. Thầy bị bắt ngay tại phạm trường.

Và không lâu sau, thầy bị kết án tử hình về tội cả gan dám sát hại một tên thực dân Pháp chánh gốc, đang tại chức, nhứt là nó còn là đại diện ngành tư pháp đương thời. Thầy bị xử tử sau khi đã thất bại nhiều lần tự kết liễu đời mình trong chốn lao lung khổ ải.Thằng Ba Nô tỏ ra nhiều thương cảm đối với nạn nhân xấu số ở thời điểm trầm luân đen tối của đất nước. Có một điểm đáng thương tâm là hôm đưa thầy ra tòa để xét xử, người con gái của thầy đã cả gan như cha mình ngày trước, cũng cầm súng nhắm trực chỉ tình địch của thầy để trả thù cho người cha thương yêu bất hạnh, bị bó tay và bất lực nơi vành móng ngựa. Cũng như lần trước, tên biện lý ác ôn vô đạo này lại may mắn thoát nạn trong đường tơ kẻ tóc. Cô bị bắt và sau đó tự sát, chết khi tuổi còn xuân vì lúc ấy cô chưa quá hai mươi?



Mỗi lần thằng Ba Nô nhắc đến đây, giọng nó không tránh khỏi nghẹn ngào nuối tiếc. Nó nghẹn ngào vì cô Ba, một cái tên rất giản đơn và chân quê mà người đời biết đến, đứa con gái mẫu mực của Thầy Thông Chánh đã trả ơn sinh thành của cha và báo hiếu cha mình một cách quá dũng cảm, đáng khâm phục và ngưỡng mộ dài lâu. Hay cô còn một hậu ý kín đáo nào khác, không thể thố lộ cùng ai trong hoàn cảnh bị kềm kẹp, đất nước mất tự do? Nhưng nó càng nuối tiếc hơn vì cô Ba là một bậc sắc nước hương trời. Cô đẹp lộng lẫy. Đẹp kiêu sa. Mới vừa tròn mười bảy tuổi mà tên tuổi cô vang lừng khắp cả đất Nam Kỳ Lục Tỉnh và có thể cả "năm xứ" trong liên bang Đông Dương nữa. Cái đẹp chim sa cá lặn đó của cô đã được Nha Bưu Điện Đông Dương tận dụng khai thác, cho in hình cô trên các tem thơ và hãng xà bông tối tân, qui mô lúc bấy giờ của ông Hội Đồng Trương Văn Bền ở trung tâm Chợ Lớn cũng không bỏ qua một dịp hiếm hoi để in ảnh cô trên các nhản hiệu nhằm hấp dẫn thị hiếu khách hàng bản xứ. Nói bà con tôi ở đây dễ dãi lắm khi nghe thằng Ba Nô kể chuyện nhiều lần cùng một đề tài, chưa hẳn là đúng.


Nhưng ít ra cũng đúng trong trường hợp có một không hai này. Dù ít học hay mù chữ hẳn nhưng họ cũng tỏ ra thương cảm hoàn cảnh trái ngang đầy bất công do thế lực thực dân thời cực thịnh, thẳng tay áp bức cả người vô tội. Mà chắc cũng do ít nhiều tự ái dân tộc thời mạt vận của đất nước, đang trổi dậy từng chập trong lòng họ chăng? Thằng Ba Nô được trọng vọng không có gì lạ cả. Hễ có đám cưới đám hỏi nhứt là đám giỗ hay cúng Kỳ Yên hằng năm trong làng, bà con thường yêu cầu nó biểu diễn giúp vui. Nó cứ bổn cũ soạn lại nhưng vẫn được bà con hoan nghinh, bu quanh mấy lớp đứng ngồi im re, lắng tai há miệng chăm chú theo dõi nghe nó để cuối cùng vỗ tay bôm bốp khen đáo để. Do một lẽ đương nhiên rất dễ hiểu. Có người sau khi nghe còn nhớ chút ít những gì nó kể. Có người lại không ngơ. Nghe qua rồi kể như lọt ngay ngoài tai. Mà thú thật, số người nhớ thì nhớ không hơn một con nắng chiều.


 Cho nên, nó có kể đi kể lại bao nhiêu lần mà người nghe vẫn cứ chăm chú như mới được nghe lần đầu tiên trong đời. Con người chín chắn của thằng Ba Nô dĩ nhiên được mọi người tin cậy tín nhiệm. Hôm nay, lưỡi mác của nó tuần tự xán xuống ngọt xớt. Mấy trái dừa rám, loại dừa bị to lớn tròn quây nặng ì ì vừa vạt xong được nó chất xan xát ở phía chái hiên nhà bếp. Kẻ đứng người ngồi, lớn nhỏ quây quần chung quanh, nói cười luôn miệng, khen nó nức nở. Nó hăng tiết vịt, huơi huơi vung vít lưỡi mác nhiều vòng nhanh nhẹn gọn hơ. Miệng nó còn bô bô khoe mình giống hệt viên tướng Triệu Tử Long đang tả xông hữu đột ở trận Đương Dương, xả thân liều chết phò Á Đẩu, giải thoát ấu chúa khỏi vòng vây càng lúc càng thắt chặt ngặt nghèo của đại quân Thào Tháo. Nó hừng chí biểu diễn quá đà.



Người em gái áp út của mẹ tôi lửng thửng cạnh bên. Dì này nhấp nha nhấp nhô, thụt tới thụt lui sao đó để thằng Ba Nô bất dung vạt một cái ngon tay, đầu chót mũi của dì lòng thòng, máu me tuông chảy xối xả. Mọi người đều kinh hoàng hoảng sợ, dựng cả tóc gáy, hồn vía lên mây. Mạnh ai nấy tranh nhau cầu cứu, kêu la inh ỏi làm ầm cả xóm. Người người tất tả chạy đến đông nghẹt, ý kiến thì nhiều nhưng rốt cuộc chẳng giải quyết được gì. Cũng may! Lưỡi mác không ăn sâu mấy, chỉ phớt lớp da chót mũi. Nhưng cảnh tượng máu me làm mọi người điếng hồn. Mẹ tôi quá bối rối, hồn phi phách tán, mặt mày xanh như tàu lá non với đôi mắt mẹ tôi trông như vô hồn. Người không biết phải phản ứng ra sao. Ông tôi còn đang bị níu chân níu cẳng, dang tấm lưng trần cháy nắng do quanh năm mang nặng gánh đời thê nhi, nỗi lo cơm áo hằng bữa ở tận ngoài đồng xa như thường ngày.

Khốn nỗi, trong gia đình tôi, chẳng một ai biết tiếng Tây tiếng u, không người nào một lần rời khỏi lũy tre xóm làng, trừ mẹ tôi. Cả xóm chắc cũng chẳng ai được dịp đặt chân lên đất Sài Gòn, Chợ Lớn xa xôi lộng lẫy, ‘ngựa xe như nước’ bao giờ. Cầm máu tàm tạm, lại cũng mẹ tôi tay ôm cô em xuống chiếc xuồng ba lá mảnh mai thon dài, bơi toé khói ra tận ga xe lửa Gò Đen nhằm đón chuyến xe trưa cấp tốc đi băng bó cứu chữa ở thành phố. Xe lửa qua khỏi thị trấn Phú Lâm, lù đù tiến vào khu dân cư đông đúc, bắt đầu chạy cà rịt cà tang, rít còi âm ỉ từng chập lưu ý bộ hành và nhứt là trẻ con tập trung chơi giỡn trên đường rầy.

 Chuyến xe nặng nề, dài sọc chẳng biết được bao nhiêu toa nối đuôi nhau khít đeo này không còn chạy bon bon phong phóng tới phía trước như lúc ở các vùng quê Bình Chánh, Bình Điền, Tân Kiên, An Lạc... Ngồi trên xe mẹ tôi càng nóng hơ, mong sao cho mau đến nơi. Trong khi đó, dì tôi do những cơn dau dằn xé tiếp tục thúc thít không thôi. Nước mắt dì vẫn đầm đìa từng chập, dù mẹ tôi hết lời an ủi. Đến Cây Gỏ, Minh Phụng... suốt tận trạm Cây Mai, thấy bát ngát những luống cải, vồng hành vồng hẹ thẳng hàng ngay lối, bao nhiêu loại hoa màu do mấy chú khách trú Triều Châu chen chúc nhau trồng từng khoảnh xanh um tươi mướt, mẹ tôi thêm ngao ngán khi tưởng nhớ những buổi chiều, lúc trời hãy còn rơi rớt chút nắng hoe vàng, mẹ tôi hối hả cật lực tưới cải tưới rau rả cánh tay, xệ cả đôi vai. Đêm đêm nằm ngủ, mẹ tôi nghe ê ẩm, rêm cả mình mẫy, rụng rời tứ chi. Ấy thế, sáng sớm hôm sau lại phải dậy sớm tiếp tục như thường nhật.

Dù vậy, mẹ tôi cứ tấm tắt khen thầm kỹ thuật trồng trọt của họ. Mẹ tôi đâu ngờ mấy tay Ba Tàu Chợ Lớn "Triều Châu trôi sông lạc chợ" này lúc nào cũng bị ám ảnh bởi tiền bạc, lợi nhuận thương trường, tha hồ xử dụng loại phân người họ moi móc ở những nhà vệ sinh công cộng lộ thiên. Loại nhà vệ sinh này nhan nhản trong các ngõ hẻm chằng chịt ở thành phố lúc bấy giờ. Họ quảy về, pha nước giếng câu bằng cần vọt rồi đem tưới trực tiếp lên rau cải, bảo sao hoa màu không xanh um, lớn như thổi? Xe lửa đến Cây Mai, đậu lại giây lát để khách buôn bán xuống hàng hóa chuyển thẳng đến chợ Bình Tây. Sau cùng xe tiến vào ga Chợ Lớn không mấy chốc. Cũng may, từ cái ga kinh dinh này đến nhà thương thí Chợ Rẩy không xa mấy. Chị em mẹ tôi thả bộ một đỗi, lần mò tìm đến nơi không gì khó khăn.




Cuộc đời vất vả trăm đắng nghìn cay của mẹ tôi tưởng chừng như đã hoàn toàn khóa kín trong muôn ngàn ngăn ngách của ký ức chằng chịt quá phức tạp, nhưng thỉnh thoảng từ từ hé mở ra gợi nhớ những ngày cũ. Đó là những lúc được người thuật lại tỷ mỷ từng chi tiết cho chúng tôi cùng nghe với nỗi canh cánh chán chường, đòng đọng nơi ánh mắt. Và tôi nhớ mãi những chuyện kể này của người qua giọng nói ngăn ngắt xúc động, qua những lời lẽ chân tình đến độ là lạ, quí hiếm làm sao. Dường như mẹ tôi không bao giờ quên và cứ sống lại mãi với thời thanh xuân lắm lao đao lận đận đã qua, pha lẫn những tiếng tắt lưỡi thở dài não nuột.

Do vậy, mẹ tôi khẳng định như đinh đóng cột, chỉ có con đường duy nhứt là lúc còn nhỏ tuổi, phải cố gắng học hành đến nơi đến chốn, sau này làm việc trí óc nuôi thân mới thơi thới nhẹ nhàng hơn. Mẹ tôi cũng tin rằng chính con người tự mình vẽ cho mình một bầu trời trong xanh tươi sáng để tận hưởng dài lâu, cũng như tạo một địa ngục để tự mình chôn mình suốt cả đời. Theo mẹ tôi thì con đường học hành sẽ dẫn dắt con người đến tương lai tươi sáng ấy, tránh sa chân vào địa ngục trần gian. Thương con, mẹ tôi như phơi trải hết gan ruột mình, như dốc cả lòng tin tưởng vào cuộc đời, vào cuộc sống để mong thuyết phục chúng tôi. Mẹ tôi bảo rằng con người suy cho cùng chỉ có một thời thuận tiện nhứt để học hành thành đạt và cả một đời đăng đẳng về sau để tận hưởng những gì do sở học mà có. Và cái thời thuận tiện nhứt đó chính là tuổi ấu thơ, lúc còn trong vòng tay bảo bọc của mẹ cha. Mẹ tôi đã thấy trước cái chân lý bất di bất dịch ấy. Người cố làm đủ mọi cách để anh chị em chúng tôi thấu hiểu tận tường hầu chụp lấy thời cơ có một không hai đó. Và sau này dù vật đổi sao dời, tương lai có ngang trái hẩm hiu, chúng tôi sẽ không có lý do hoặc lời lẽ nào để phiền trách gì mẹ tôi được. Mẹ tôi cũng không quên lưu ý chúng tôi rằng ông Trời uy quyền tuy xa mà gần, rất sáng suốt và công bằng. Ông sẽ trả công khó và tưởng thưởng xứng đáng những ai chịu kham khổ, trì chí trong việc học hành thi cử để lập thân. Mẹ tôi mong muốn tránh cho chúng tôi suốt một đời khổ cực, dúi đầu cấm cổ trong nghề nông chân lấm tay bùn nhưng thực tế không hưởng được gì gọi là tương xứng. Hôm con tôi "bắt thôi nôi", tôi để ý thấy mẹ tôi quấn quít cạnh bên, lăn xăn tới lui đứng ngồi không yên. Thằng nhỏ bò qua bò lại tỉnh bơ. Nó thụt tới thụt lui không ngớt. Nó còn thích thú "làm xấu", chọc cười bà con cô bác tham dự, luôn luôn cổ võ khích lệ nó không hết lời. Có người còn khuyến khích tôi nên chụp vài tấm ảnh kỷ niệm để sau nầy chọc quê nó.

Thằng nhỏ khó tánh lắm. Mỗi ngày, nó không ngớt khóc la đòi ẵm bồng hoặc được ru ngủ trên võng, đôi lúc bị người lớn cự nự rầy la. Hôm nay bỗng nhiên nó trở nên một ‘nhân vật’ cực kỳ quan trọng. Nó được cha mẹ tôi cho mặc áo quần mới. Giày vớ tươm tất hẳn hoi. Mái tóc mềm mại đen huyền được người lớn chải một tiền hai tiền thẳng thóm. Nó bằng lòng sung sướng ra mặt, cứ vui cười hớn hở. Cái tràn bày biện dụng cụ được đặt gọn gàng ở sàn gạch bông, bóng nhoáng mát lạnh. Nó chòm tới rồi thụt lùi lại như chẳng màng chi cả. Mẹ tôi và bà con bao quanh đồng thanh khuyên bảo, kêu gọi cổ vỏ, vẫy tay thôi thúc, nức lời khen ngợi nó mỗi khi nó nấn ná, mon men bò lại gần bên cái tràn. Mới hay đối với trẻ con non dại, làm cho nó khóc hay chọc cho nó cười nhiều lúc cũng khó nhưng rốt cuộc ai cũng có thể làm được. Nhưng khi bảo nó làm đúng theo ý người lớn muốn, thật khó giàn trời. Mất biết bao thì giờ. Có khi chỉ gánh lấy thất bại. Cả nhà vui vẻ tâng bốc nó:


- Thằng nhỏ giỏi đến!

- Thằng nhỏ ngoan quá!

Nhiều bà lớn tuổi ở tuốt ngoài thôn xóm xa tít tắp đến chung vui với mẹ tôi trong niềm vui quý hiếm này, tỏ ra bức tai bức tóc, nôn nóng chưa biết phải làm sao. Bỗng thằng nhỏ thấy cục đất, có lẽ màu đen sẫm đập mạnh vào nhản quan nó nên rống mắc phóng tới định chụp lấy cho bằng được. Mẹ tôi liền vả lả với nó mấy lời nâng niu trìu mến rồi lanh tay xoay cái tràn, cốt ý lách hòn đất ra xa về hướng đối nghịch để vuột khỏi tầm tay nó. Người xích tới xích lui cái tràn, cứ loay hoay xoay hướng cái cán viết về phía nó. Cử chỉ của người rất tự nhiên, xem như không có sự hiện diện chăm chú nhìn của những người đứng ngồi chung quanh. Tội nghiệp mẹ tôi.

Người mong muốn con tôi hôm nay phải bắt trúng cho bằng được cái cán viết hay ít ra cũng cục tẩy hoặc cây thước gạch hàng... để sau này cuộc đời nó khấm khá hơn những mẫu đời rách bươm tơi tả, dãi dầu cơ cực mà người bắt gặp không mấy khó khăn từ đầu trên xóm dưới ở quê tôi. Đối với mẹ tôi, "con hơn cha là nhà có phúc" kia mà. Vả lại, dù biết rằng ở đời, hạnh phúc là một cái gì bao la mông mênh, một trạng thái vô hình mà người đời luôn tìm kiếm vì chẳng bao giờ người ta cho là đủ cả. Nhưng nếu được như vậy, mẹ tôi lấy làm toại ý, mãn nguyện bằng lòng vô cùng. Ước mơ thầm kín bấy nay của mẹ tôi chỉ có thế. Người chắt chiu ấp ủ để bụng nhằm gìn giữ riêng cho lòng mình. Một cõi thầm kín. Mỗi ngày, có một thời khắc nhứt định, thời khắc mà mẹ tôi rất tôn trọng, không thể bỏ qua, dù phải bận bịu việc làm đến đâu.

Đó là mỗi buổi tối trước khi người chuẩn bị đi ngũ. Mẹ tôi không theo một nghi thức bắt buộc nào cả, chỉ một mình đối diện với chính mình nơi khoảng trống vắng mênh mông của đêm tối. Mẹ tôi ngồi im trong thầm lặng dưới ánh sáng lờ mờ leo lét của ngọn đèn dầu. Người lâm râm cám ơn các đấng Thiêng Liêng, cầu nguyện Đất Trời, khấn vái những người khuất mày khuất mặt cũng chỉ có thế thôi. Tuy không hẳn tin ở ngày sau ra sao nhưng trong lòng, mẹ tôi thấy mình thật sự nhẹ nhỏm, thật sự lâng lâng sung sướng. Mẹ tôi hy vọng thằng nhỏ con tôi khi lớn lên sẽ cầm viết, ăn học đàng hoàng, đổ đạt càng cao càng tốt, lập thân sinh sống cũng nhờ cây viết hơn là suốt đời không cách nào buông bỏ nổi đòn sóc, cán cuốc hay vòng hái, chuôi cày. Sau cùng, thằng nhỏ lí lắc cũng lần mò bắt được cái cán viết cây màu vàng mơ, đánh "vẹt ni" láng bóng. Tôi không thể nào và hẳn cũng không đủ khả năng tối thiểu để mô tả cho hết ý hết lời, gương mặt rạng rỡ sáng rực và niềm sung sướng bất tận của mẹ tôi lúc ấy. Người khấp khởi thở phào, lộ vẻ sung sướng ra mặt:


- Mẹ họ! Thằng chết bầm! Hú hồn! Hú vía! Cục đất... cực lắm cháu ơi! Trần thân não nề không gì bắng! Suốt cả một đời chỉ có nước cầm lưỡi hái, làm ăn èo uột nhập nhầy hoặc nắm chuôi cày lầm lũi đi theo sau đít trâu, chẳng có chút tương lai chi cả.


Mẹ tôi chầm chậm ngồi ghé một bên mép ghế như thói quen, vẻ mặt hân hoan tột cùng còn hơn người bắt được vàng ròng không bằng. Căn nhà hương quả, mấy thế hệ chung sống bên nhau, bên ngoài quanh năm trông rất thơ mộng. Lúc nào cũng loáng thoáng bóng tre bóng trúc, nhứt là cây xanh tứ mùa nồng nàn mùi hoa quả, đặc biệt là hương cau hương bưởi và những cây ăn trái ngày xưa ông tôi trồng sát bên hè, căn nhà quá quen thuộc với tầm mắt hiếu kỳ khám phá của tôi từ khi lửng thửng mới biết cất tiếng gọi bập bẹ hai tiếng mẹ cha, giờ phút này bỗng nhiên trở nên vui nhộn, rộn rả tiếng nói cười. Không khí gia đình đông đủ sôi động chộn rộn để hực sáng và bừng hẳn lên từng chập song hành với sự lạc quan tin tưởng của mẹ tôi. Người khe khẽ như để kết luận:


- Mô Phật! Suýt chút nữa, thằng cháu đích tôn yêu quí của tôi lại theo vết chân thằng cha nó hơn hai mươi mấy năm về trước, nhè a thần phù lao vào bắt nhằm cục đất đen thủi đen thùi cho nên sau này cha nó long đong lận đận, cực khổ trần thân, chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần, có lúc tưởng chừng như không thể ngốc đầu lên nổi.



Mẹ tôi nay đã ra người thiên cổ. Còn đâu bóng mát của cây cổ thụ sum xuê, nơi vững chắc duy nhứt để tôi nương tựa gởi thân những lúc sa chân thất bại. Còn đâu bến sông hiền lành trên mảnh đất quê hương hiền lành để tôi tự tin, nhắm mắt neo con thuyền đời mình lúc chồng chành ngửa nghiêng phải đối đầu gió to sóng dữ. Còn đâu! Còn đâu nữa...! Giờ đây, tôi đã nhận ra và thấm thía cái giá trị lớn lao, chất ngất tuyệt vời về sự vắng mặt, không một ai có thể thay thế được của mẹ tôi mà ơn trên đã ban tặng làm đẹp cuộc đời và cuộc sống của tôi.

Một giá trị tinh tuyền, trong suốt thủy tinh mà tôi càng cảm thức đúng nghĩa khi tôi bồi hồi thấy mẹ tôi đã thực sự không còn bên cạnh tôi nữa. Tôi nhớ mẹ tôi... Người quả đã khổ tâm vì tôi rất nhiều do thuở nhỏ, tôi thuộc vào hàng lục lăn lục lữa, quanh năm không ngớt lang bạt giao du khắp đầu thôn cuối xóm với đám phá đình phá miễu, ngày ngày a tòng nhau làm toàn những chuyện trời buồn đất thảm. Không một hang cùng ngõ hẹp nào trong xóm trong làng, không một vạt đất chéo vườn nào nơi "hốc bà tó" quê nhà mà thiếu dấu chân tôi. Dù lắm lúc quá bất bình và buồn phiền trong thầm lặng về những sai quấy của tôi, mẹ tôi vẫn vui vẻ, vẫn ân cần ẩn nhẫn, lựa lời hơn thiệt khuyên bảo thuyết phục tôi. Người không hề nặng tiếng quở mắng tôi một cách thậm tệ. Có lẽ, mẹ tôi, con người rất cương nghị và thấy xa nên tin tưởng ở lề lối và phương châm phương hướng giáo dục kiên trì nhưng hiệu quả con cái trong nhà của người chăng?



Tôi thương mẹ tôi... Tôi quý mến mẹ tôi... Người đã để hết tâm hồn, trí lực và nhẫn nại dẫn dắt đưa tôi vào nề nếp kỷ cương của trường ốc. Người không ngớt dùng văn chương chữ nghĩa, đạo lý luân thường, góp ý góp lời, lặng lẽ uốn nắn, âm thầm hướng dẫn tôi đến tuổi trưởng thành thành nhân. Và cuối cùng để tôi có được ngày hôm nay. Từ một đứa trẻ vẫn được mẹ tôi ôm trum trủm trong lòng khi tôi mới biết đứng chựng rồi không lâu sau không ngần ngại, cũng chẳng biết thẹn thùng cởi truồng tồng ngồng tắm sông tắm rạch, chạy giỡn dưới những trận mưa đầu mùa kéo dài cả một hai tiếng đồng hồ hoặc dan nắng đầu trần rong dọc theo bờ mẫu ngoằn ngoèo ven bưng, bắt cua bắt còng, bắt ếch bắt nhái v.v... Không ngờ, nay tôi may mắn nên người, đường đường là trụ cột vững chắc trong một gia đình hạnh phúc tương đối tròn đầy. Bao nhiêu công khó của mẹ tôi. Bao nhiêu hy sinh của người. Biết bao mà kể cho hết những tháng năm dài nhẫn nại kiên trì trong tình thương không giới hạn của mẹ tôi.



"Mẹ ơi! Con đã từng bắt trúng phóc cục đất quê hương, cục đất đen xì ngày xưa hôm "bắt thôi nôi" để mẹ buồn lo thất vọng một thời. Con vốn mồ côi cha rất sớm lúc vừa được tròn ba tuổi đời. Cuộc đời thiếu cha là nỗi bất hạnh, là niềm đau bất tận của con người trên thế gian. Con lại biết thêm rằng đòn roi có nặng có nhẹ dù ‘mẹ có đánh hằng trăm không bằng cha con hăm một tiếng’. Nhưng mẹ đã từng khổ với con và mẹ không ngớt âm thầm chịu đựng. Hôm nay, con tin chắc mẹ đang hiện diện đâu đó nơi cõi huyền bí vĩnh hằng. Con biết và tin rằng Thượng Đế tối cao đã mở rộng cánh cửa Niết Bàn đón rước mẹ ngay từ lúc mẹ giã từ chia tay con. Vì mẹ rất xứng đáng được hưởng ân sủng tuyệt vời đó. Con nói ‘đâu đó’ vì đối với con, nó quá xa xôi diệu viễn, nó quá mông lung mơ hồ. Vì con không còn được dịp cuối cùng nhìn ngắm, nắm đôi tay run rẩy của mẹ để nghe mẹ nói những lời thương yêu, để thấy mẹ cười vui rạng rỡ như ở những tháng ngày tràn trề hạnh phúc bên nhau. Và cũng để nghe những lời huấn dạy xuất phát từ một tấm lòng. Giờ đây, con chỉ tìm về với mẹ trong niềm đau quặn thắt:



Ngó lên nhang tắt đèn mờ

Muốn nuôi cha mẹ bây giờ còn đâu?


"Và ngược lại, khi bình tâm nghĩ kỹ hơn, hai chữ "đâu đó" này sao cũng quá gần gũi thân tình đối với con. Do một phép lạ nhiệm mầu!? Hay do một niềm tin? Vì một lẽ giản đơn, đơn giản như hơi thở hằng ngày của con. Vì mẹ vẫn luôn luôn hiện diện trong sâu thẳm của lòng con. Và nếu hôm nay mẹ có linh thiêng, con chắc mẹ sẽ ngậm cười nơi vùng thanh thản an lành của chín suối. Cục đất quê hương năm xưa mẹ nâng niu, để tâm vò nắn trong lòng bàn tay âu yếm tỏa rộng "một mảnh tình riêng" vừa bao la vừa bất diệt ngày con "bắt thôi nôi", con vẫn canh cánh cưu mang nó với mình. Con vẫn gìn giữ trọn vẹn ảnh hình sâu đậm đó trong trí tưởng, trong cuộc đời thăng trầm, trái ngang dang dở, trong suốt cuộc sống lưu vong xa xứ xa quê, xa cái xóm Rạch Rít thân thương ngàn đời, nơi chôn nhao cắt rún của mẹ và của con.

Và chắc chắn con sẽ nhớ mãi mãi đến hơi thở cuối đời. Vì thực sự những hình ảnh đó đã lắng đọng và khắc ghi vĩnh viễn trong con từ lâu rồi. Cây viết ngày trước con chối từ không chịu mó tay vào chọn lựa cho đúng với ý muốn và ước mơ của mẹ, giờ đây, mẹ đã toại nguyện sau hơn hai mươi mấy năm đăng đẳng trông chờ. Vì đứa cháu nội đích tôn, đứa cháu mà mẹ đã giành cho nó sự khắng khít mến thương đặc biệt hơn hết, đã không phụ lòng mẹ hằng thầm kín ấp ủ. Nó đã bắt cây viết ngày ‘thôi nôi’ và nay đã sinh sống bằng nghề trí óc. Con chỉ tiếc có mỗi một điều và đó cũng là niềm đau nhức nhối trong đời con, là khi đứa cháu cưng của mẹ đã thành danh thành tài, mẹ không còn trên thế gian để con được trông thấy sự sung sướng và niềm hãnh diện vời vợi thể hiện nơi gương mặt phúc hậu dịu hiền, thuần lương muôn thuở của mẹ. Thói thường người ta nói:


Con gái giống cha giàu ba họ

Con trai giống mẹ khó ba đời!


"Cái khó nghèo tận cùng này mà bà con của con thường nói, nghèo chí tử, nghèo tàn nghèo mạt đến cất đầu không lên nổi nữa. Con không biết xưa nay thực tế có đúng phong phóc như vậy hay không? Nhưng có điều là lúc mới lọt lòng nơi cái chòi lá đơn sơ, tuy nhỏ bé vừa để xoay trở nhưng xinh xắn ở cuối chéo đất hương hỏa quê nội con, con vốn đã có những nét phơn phớt giống gương mặt trời ban cho mẹ. Mẹ đã từng hãnh diện về điều này. Rồi tháng ngày trầm luân khổ ải, dâu biển tới tấp không thôi... Những ngày tháng khắc nghiệt phũ phàng ấy đã biến đổi hình hài dáng thể con để con càng ngày càng hao hao giống mẹ như khuôn đúc. Ấy thế mà nỗi ám ảnh ngàn đời kia không lúc nào đến với con. Dù trong một giây. Dù trong một khắc ngắn ngủi chóng qua. Vì sao? Vì con biết rằng tất cả những "cái khó" dù nhẹ nhàng tạm bợ hay khắc khe nghiệt ngã đến đâu, mẹ đã âm thầm nai khuôn lưng mảnh mai gầy yếu để gánh vác thay cho con rồi. Và mẹ đã thể hiện điều đó trong suốt cuộc đời của mẹ. Một cuộc đời đầy nước mắt kéo dài quá xa cái tuổi "cổ lai hi".



"Hôm nay, nhân tiết thu se lạnh, cây cối trụi lá trơ cành, cảnh vật u ám buồn hiu, ngồi một mình đối bóng, con nhớ đến mẹ, mắt hoen tròng, lòng thầm muốn nói lên hai tiếng ‘Cám ơn’ mẹ. Nhưng con chợt nghĩ, dù hai tiếng ‘Cám ơn’ đó có thành thật và chất ngất đến đâu vẫn không đủ đối với những gì mẹ đã hy sinh cho con. Nhiều lần, con cũng nghĩ thêm, giá nếu con có trả muôn đời muôn kiếp đi nữa, cái ơn trời biển láng lai đó của mẹ vẫn hãy còn nguyên vẹn. Con nhớ mẹ! Và mẹ có biết không? Con hỏi để mà hỏi chớ chắc mẹ đã biết. Cứ mỗi lần cầm viết con càng thêm nhớ thêm thương mẹ. Cây viết đối với con đi đôi với hình ảnh sáng ngời thánh thiện và công đức biển trời bao la của mẹ. Cây viết mẹ từng phập phồng ngóng đợi, tha thiết mong chờ.

Cây viết mẹ từng hy vọng suốt một đời người. Nhìn cây viết con nhớ thương mẹ vô ngần. Nhớ mẹ, con lại cầm viết. Cầm viết để mong bắt gặp lại hình ảnh thân thương trân quý của mẹ, cái đẹp tự nhiên thiên phú trời ban cho những người có cái tâm lành. Mà thật vậy, trong suốt kiếp sống trần gian mẹ không cầu kỳ chải chuốt, không sặc sở loè loẹt trong trang sức. Thêm mái tóc dài bồng bềnh theo từng cơn gió thoảng, gương mặt đôn hậu thuần lương, ánh mắt đen huyền long lanh, phảng phất một chút gì không trọn vẹn, một chút gì nửa buồn nửa vui lẫn lộn. Không biết con nói có quá lời không? Và cảm nghĩ cùng nhận thức của con có thiên vị, chủ quan phần nào chăng?

Con người ở đời không một ai hoàn hảo cả, nhứt là khi cuộc sống hằng ngày lắm nghiệt ngã trái ngang. Nếu như mẹ có những lúc yếu mềm thường tình, nếu như mẹ có sơ sót vụng về trong cuộc sống trước đây, con nghĩ rằng những cái vấp váp ngoài ý muốn đó không thể làm vẩn đục tấm gương thủy tinh mẹ đã lưu lại trong sâu thẳm lòng con. Cầm viết, con cố gắng trong muôn một, ghi lại quảng đời long đong, trăm đắng nghìn cay của mẹ. Cuộc đời đó dính liền với xóm Rạch Rít khổ hạnh của tổ tiên dòng tộc, của mẹ, của con, chéo đất quê hương mỹ miều mẹ luôn gắng bó luyến thương.



"Hôm nay, với những dòng mộc mạc thô thiển này, con kính dâng hương hồn mẹ. Con kính dâng để hoài niệm, hồi hướng một kiếp người công dày đức trọng gọi là một nén "Hương Lòng Thắp Muộn" của con vậy".



-***-


No comments: