Saturday, May 13, 2017

VÕ PHƯỚC HIẾU * MỘT THUỞ YÊU NHAU II




Từ dạo mùa thu năm đó, sau khi Út Quyên đã đi biền biệt, cô Chín Thú bắt đầu thấm thía về ý nghĩa sâu đậm của hai chữ «vắng mặt» hay «vắng bóng» người mình yêu. Thói thường sự vắng bóng lâu ngày của người yêu trong những cuộc tình ngang trái cách biệt là những liều thuốc đắng độc hại cứ ngấm ngầm tàn phá dần dần tinh thần và thể xác người trong cuộc. Sự sống quá đỗi tàn nhẫn đối với những người đang trông chờ. Cô Chín không sao thoát khỏi được định luật nghiệt ngã đó. Bây giờ nỗi khát khao gặp lại Út Quyên để được nghe giọng nói rổn rảng chân tình nhưng chan chứa tình cảm của chàng càng làm cho sự đau khổ tâm linh lẫn thể chất của cô càng dâng cao ngùn ngụt bấy nhiêu. Cô hồi nhớ những đêm trăng trữ tình hai người quấn quít bên nhau dưới những tàn dừa, tàn chuối… 
 
để thầm thì trao đổi lời thề thốt cùng bao nhiêu dự tính cho tương lai. Qua rồi, có chăng nay chỉ còn đòng đọng trong lòng chực chờ trổi dậy bất cứ lúc nào. Bao nhiêu lần cô nhìn nhận mình dốt, dốt chữ nghĩa, dốt lời ăn tiếng nói, dốt trong giao tế và xử sự hằng ngày, những cái thứ dốt đó khiến cô thua sút kém cỏi mọi người, nhưng ngược lại cô rất hãnh diện mình là người giàu tình cảm, giàu cảm xúc nhạy bén, giàu nhận xét phán đoán bẩm sinh thiên phú. Nhờ vậy giúp cô phân biệt được trắng đen tốt xấu, phải trái phân minh, biết đối xử nghĩa tình trước sau như nhứt. Cũng nhờ vậy cô ăn ở lương thiện và giữ mình đúng với tinh thần đạo đức do ông bà xưa truyền lại. Chính niềm tự hào của cô dựa vào căn bản nầy. Và cũng chính niềm tự hào đó cô nguyện một lòng một dạ giành giữ riêng cho Út Quyên, dù hoàn cảnh trái ngang kẻ Bắc người Nam, kẻ gốc biển người chân trời chưa biết ngày tháng nào sẽ gặp lại.

Trên thế gian, không có gì qua mau bằng năm tháng, như thói thường người đời hay nói. Thời gian vùn vụt như bóng câu qua cửa. Nhưng năm tháng trông chờ mong đợi đối với cô Chín sao quá dằn dặt, quá nặng nề. Cô trông nó qua mau để hy vọng ngày gặp mặt sum hợp với Út Quyên được cận kề hơn. Cô nghĩ đơn giản như thế để tiếp tục nuôi dưỡng nó trong cuộc sống hằng ngày. Hy vọng là ý nghĩa duy nhứt của cô lúc nầy. Vì cô phải sống, làm chủ đời mình, chớ không phải chỉ có hiện diện trong cuộc sống. Tuy nhiên thực tế không đúng như ý muốn của cô. 
 
Đêm đêm cô không sao ngủ an giấc được, từng chập cô cứ trăn trở trở trăn, mãi dằn co đấu tranh với bản thân trong nỗi nức nở uất nghẹn. Những ngày qua lần lượt trở về với cô thật rõ nét. Cô nhớ mồn một không hề sai sót. Quá khứ tiếp nối lại không ngưng với dòng cảm nghĩ của cô. Nhưng quá khứ nào? Chẳng qua là quá khứ êm đẹp giữa cô và Út Quyên được thăng hoa từ những chi tiết nên thơ nhỏ nhặt không sao cô quên được. Nó đã ăn sâu vào tiềm thức cô. Nó đã vĩnh viễn khắc ghi trong lòng cô. Chỉ chờ một cơ hội nào đó để cục cựa lay động thức dậy. Mà thức dậy một cách mãnh liệt. Nhưng rồi cô mãi tự vỗ về và tìm lời an ủi mình khi cô cho là mình còn có niềm tin tưởng tuyệt đối ở sự chia ly bất đắc dĩ hôm nay. Đó chỉ là một thời gian ngắn ngủi chớ không thể nào kéo dài lâu được. Hơn nữa cô lại có thừa can đảm.
 
 
 Mà can đảm nơi cô được cô diễn đạt lắm lần là khả năng và quyết tâm chiến thắng mọi chông gai bất trắc trên bước đường thăng tiến, chiến thắng mọi hoàn cảnh dù bi đát đen tối đến đâu. Can đảm đối với cô là như thế, chớ không phải là trạng thái tinh thần không biết sợ hãi. Dù nói thế nhưng cô cũng thường hay khóc thầm lắm. Nhứt là vào những đêm khuya, một mình vò võ trong cô đơn vắng lặng. Những giọt nước mắt của mụn tình đầu đời giống như suối nguồn cứ róc rách, tỉ tê chảy dài lâu không bao giờ ngưng. Và những kỷ niệm tình tứ thơ mộng của thuở chớm biết đắm đuối yêu nhau, cho dù sau nầy vì một hoàn cảnh éo le trắc trở, dang dở lỡ làng nào khiến cô phải ngậm ngùi chia tay, những kỷ niệm đó chẳng sao tắt lịm vĩnh viễn trong con người cô được. Chẳng khác chi bốn mùa xuân hạ thu đông cứ tiếp diễn tuần tự theo một chu kỳ nhứt định. Cô trung thành với giấc mơ thuở ban đầu. Cô trung thành với Út Quyên là chính cô trung thành với bản thân mình. Sự trung thành đối với người yêu không thể xem như thoáng qua, phiến diện, không vững bền.


Rồi tiết lạnh buổi đầu xuân len lén đến với mọi nhà làm cho cô thêm trĩu nặng ưu phiền. Tiết lạnh bất thường kéo dài của năm đó khiến gia đình cô ít khi đi ra khỏi vuông đất vườn nhà, ra khỏi cơ ngơi ‘tứ đại đồng đường’ đầy ấp tình nghĩa thương yêu. Việc qua lại tới lui trông nom thăm viếng hoặc đỡ đần bà con chòm xóm cũng lơi dần dần đi. Ngày ngày họ lúc thúc quanh quẩn bên nhau, đi tới gặp mặt, đi lui cũng gặp mặt, gặp mãi như vậy càng thêm lờn mặt rồi đâm ra nhàm chán buồn tẽ. Nhứt là đối với những người có tâm sự riêng tư như cô. Cha mẹ và anh em cô hẳn nhiên biếng đi lễ chùa như thói quen bấy nay, dù họ có tiếng rất mến mộ đạo. 
 
Một sự lơ là hay thiếu sót không qua được đôi mắt chú ý của cô. Sự việc hiếm hoi đáng trách và không thể tha thứ nầy khiến cô chùn chân, càng tồi túng thêm gấp bội. Dù họ hiện diện trong gia đình nhưng không giúp ích gì cô được nhằm cải thiện cuộc sống nội tâm mà cô rất cần lúc nầy để lùa xa nỗi nhớ. Sự thực họ không phải thờ ơ, dửng dưng vô tình đâu, nhưng vì không thấu hiểu tận tường để đánh giá đúng mức phần trăn trở kín đáo trong tâm hồn cô. Cô Chín vẫn uể oải tiếp tục làm những việc lặt vặt hằng ngày trong thầm lặng và miễng cưỡng. Cô làm như để làm lấy lệ. Chỉ có thế thôi. Chớ thực sự tâm trí cô dường như để tận đâu đâu.


Ngày tháng ngóng trông đợi chờ dù đã đi qua nhanh chóng trong đời người vốn đôi ngã phân ly cách biệt, nhưng đối với cô sao dằn dặt kéo dài lê thê buồn tẽ hơn bao giờ hết. Cô không sao so sánh được. Túng cùng, cô lại tìm ra được một lối thoát. Cô tỏ ra phấn khởi với suy nghĩ hiện tại của mình và mạnh dạng gát qua một bên quá khứ từng đeo đuổi và làm khổ cô không ít. Người ta thường nói dĩ vảng chỉ để làm nền tảng vững chắc cho tương lai nhưng với cô chỉ làm nặng nề cho hiện tại mà thôi. Cô vui mừng nghĩ ra một cách nhằm giúp giải thoát mình khỏi trạng thái lo âu bế tắc như lòng đã dặn lòng. Cô mong đánh đuổi nỗi buồn đeo đẳng dằn dai bằng việc bắt đầu viết thư cho Út Quyên theo đúng địa chỉ của chàng đã cẩn thận trao cho cô trước khi lên đường từ Sài Gòn sang Lào. Cũng may cho cô là cái địa chỉ ngắn ngủi qua đôi dòng nguệch ngoạt nầy cô vẫn trân quý gìn giữ luôn bên mình như giữ bóng hình của một người vậy. Việc viết thư, cô thật thà nghĩ tưởng dễ dàng không khác chi việc bếp núc cửa nhà sớm chiều hằng ngày, nhưng thực sự chẳng dễ gì đâu. 
 
Nhứt là đối với cô. Nó đương nhiên là một thôi thúc nhằm hóa giải ẩn tình nhưng cũng là một cực hình khó tả mà cô rất khó vượt qua. Vì nếu có thành công vượt qua được cũng phải trầy vi tróc vãy chẳng vừa. Lý do là cô không thể chế ngự nhanh chóng được, do trình độ học vấn của cô có giới hạng. Đến lúc cầm viết trước những trang giấy trắng tinh tuyền cô mới ý thức một điều là chữ nghĩa dường như vô tâm vô tình trốn chạy lẫn tránh cô. Bây giờ cô mới kịp thời ý thức rằng sự ngu dốt thất học đưa đến thua kém là con đường thênh thang dẫn dắt trực chỉ bế tắc. Cô hối tiếc cái thời son trẻ đã bê tha hờ hững với chữ nghĩa học đường. Đã quá muộn rồi! Cô cắn bút hằng giờ. Không phải vì nhu cầu đắn đo suy nghĩ mà chính vì cô chẳng biết mình nên bắt đầu từ đâu và bằng cách nào. Tiếng lòng dồn dập đến với cô không ngưng, nhưng nét mực lượm thượm không sao theo kịp đà.


Thuở nhỏ cô chỉ được hai ông bà Năm Giàu cho ăn học đến cuối lớp ba trường làng rồi không cho đi học tiếp lên trường quận. Đường sá sông nước vốn xa xôi, vừa cách trở vừa tốn kém mà con gái dù có học xa cũng chẳng để làm gì. Có giúp chi thiết thực cho hai ông bà nơi bối cảnh khẩn hoang vỡ đất rất cần nhân lực. Cô cũng chẳng có ý kiến phản đối chi cả mà chỉ bằng lòng chấp nhận như một người con ngoan ngoản chí hiếu, lúc nào cũng một mực vâng lời mẹ cha. Ông Năm Giàu đôi khi ngồi uống trà hay nhậu lai rai thường nói:


- Con gái mà! Học đến trình độ đó là vừa rồi. Đủ để coi bỏ thẻ tính tiền lúc nhân công đong lúa bán cho lái buôn không sai chạy hoặc chẳng thiếu sót là được. Đủ để tính tiền bớt lên bớt xuống lúc thay mặt bà Năm đi chợ làng chợ quận là đạt yêu cầu. Vả chăng dù có học xa đi nữa cũng chẳng giúp ích được chi cho cá nhân nó, rồi khi lấy chồng sớm hôm vẫn lúc thúc trong nhà lo cơm nước cửa nhà cho chồng cho con thôi. Hơn nữa việc khổ nhọc học hành khuya sớm sẽ mau làm tàn phai nhan sắc. Phí uổn cả tuổi xuân.


Nhưng suy cho cùng, việc cha mẹ cô cho cô ăn học đến cở đó cũng là một hy sinh to lớn của hai ông bà Năm Giàu. Nếu ngay thẳng so sánh với đại đa số trang lứa của cô đều thất học, mù chữ cả. Hoàn cảnh xã hội thời buổi đó không cho phép, chớ không thể đổ lỗi cho riêng hai ông bà Năm Giàu được. Vả chăng lúc ấy cô Chín cũng tự an ủi và bằng lòng với trình độ tối thiểu của mình. Cô nghĩ ngay đến trường hợp những bực đàn anh trong xóm, một khi dứt cấp trường làng có thể ra giữ một chức vụ trong ban bệ hội tề, cũng rỡ ràng tông môn dòng tộc, đường đường một cõi, đâu có kém chi ai. Đêm đêm cô mất quá nhiều thì giờ. Cô thức trắng, mải miết ngồi viết, o bế từng nét chữ, gò bó từng dòng từng đoạn văn, đã chậm chạp lại quá kỹ lưỡng.
 
 Cô thận trọng trong việc lựa ý chọn lời cốt làm sao cho phù hợp với tâm trạng trắc ẩn buồn lo của mình, làm sao cho chàng thấu hiểu nỗi lòng khắc khoải, trông ngóng chỉ một tin vui duy nhứt ở chàng. Mà ý và lời dù có xuất phát từ tấm lòng chân thật đâu phải dễ dàng thoát ra từ đầu óc bít bôi bẩn chật của cô. Dù vậy, cô cũng ráng sức không bỏ cuộc nửa chừng, khi nghĩ rằng càng kiên trì chải chuốt thành câu bao nhiêu, cô càng toại nguyện bấy nhiêu. Và thư nào thư nấy chung cuộc cũng được cô hoàn tất trong khổ nhọc, đầy đủ bốn trang giấy khổ tập vở học trò chớ có ít oi chi đâu. 
 
Ngặc một nỗi, từng dòng từng đoạn suốt bức thư cô chắt chiu ký gởi tâm sự mình đều đầy dẫy những lỗi chính tả thông thường rất buồn cười, những lỗi sơ đẳng của những trẻ nhỏ lớp tư lớp năm. Do thực tế cô không hề học hơn các lớp vỡ lòng nầy. Ngoài lỗi chính tả, câu văn hầu hết đều sai văn phạm, kéo dài lê thê cả nửa trang giấy hồng, biểu tượng tình yêu nồng thắm, nhưng không chấm phết chi cả. Đôi khi còn có những chữ phản nghĩa trầm trọng. Giá nếu có người được diễm phúc và tin cậy được phép đọc qua, chắc họ sẽ bật lên cười nghiêng cười ngửa, cười đến bể bụng. 
 
Tuy nhiên, cô cũng ráng đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần mà vẫn không sao thấy được những khuyết điểm quá tai hại ấy. Phải chăng do tình cảm lấn lướt khiến cô chỉ chú tâm đến phần khúc mắc nầy mà quên phức những chi tiết chung quanh nền tảng văn phạm bắt buộc chăng? Dù sao cô vẫn nghe lòng nhẹ nhõm do an tâm mình đã chu toàn xong ý muốn. Sự thành công hi hữu ngoài sức tưởng tượng nầy của cô không phải chỉ là mục đích kiếm tìm đơn thuần mà chính là bước đầu cho phép cô nhìn xa hơn, cho phép cô được đối thoại với người mình yêu. Chẳng những cô bằng lòng thỏa mản với việc làm hiện tại mà còn thấy diễn tiến rực rỡ những ngày sắp tới nữa.


Một khi thư đã viết xong trong cố gắng tối đa, cô đã nhờ người bà con kín miệng được cô tin cẩn mang đi gởi đúng theo thể thức hiện hành nơi trạm bưu điện ở quận. Và sau đó, ngày qua ngày, cô vò võ ngóng đợi, trông đứng trông ngồi tin tức hồi đáp của chàng. Một tiếng chó sủa rầm rật ngoài cổng vườn làm cho cô dáo dác hồi hộp không yên. Cô hy vọng… Cô mong chờ… Hy vọng và mong chờ mòn mỏi… Nhưng chung cuộc bức thư tâm tình lại bị anh trùm già của nhà việc mang đến tận nhà hoàn trả lại sau vài tháng gởi đi với vỏn vẹn chỉ một giòng chữ ngắn ngủi của cơ quan bưu điện bên đất Lào, nơi góc chéo của phong bì: «Người nhận không có ở địa chỉ nầy». Tuy thất vọng nhưng cô lại nuôi một chút hy vọng mong manh là chàng bận việc làm ăn không có mặt ở nhà vào thời khoảng đó. Cô lại tiếp tục cầm viết mỗi khi tưởng nhớ chàng. Phải viết để giữ vẹn niềm tin. Phải viết để giữ vẹn hy vọng. Nhưng rồi cứ mỗi lần thư bị hoàn trả, cô đều biến sắc, quá đỗi ngạc nhiên. 
 
Cô không sao hiểu được nguyên do. Tay cô rung rẩy rục rè đón nhận những bức thư bị hoàn trả, tai cô không sao nghe rõ ràng những lời an ủi chí tình của người phát thư. Cô khổ tâm và thất vọng tận cùng. Cô không biết mình nên kêu ca cùng ai và gõ cửa cầu cứu nơi đâu. Cô đang ở tận đường cùn. Chung quanh cô chẳng có người nào đau khổ và thất vọng như cô để có thể chia xẻ và an ủi cô. Vì chỉ có người cùng hoàn cảnh mới cảm thông và thấu hiểu được khổ tâm của cô. Từ đây cô sẽ mất dấu Út Quyên, mất hẳn rồi. Từ đây cô không còn một chút hy vọng dù mong manh đi nữa hòng giúp cô gặp lại chàng cả. Cuộc đời của cô sao lắm éo le ngang trái. Cô đã từng sống trong niềm vui hạnh phúc tuyệt vời nhưng cũng lắm phen lún vào đáy sâu của vực thẳm khổ đau. Như trường hợp của cô hôm nay. Rõ là hai thái cực đối ứng nhau cô không sao thoát ra được.


Trong nỗi thất vọng tột cùng đó, cô thầm nghĩ chắc hẳn chàng chẳng may gặp phải một tai nạn hiểm nghèo và đã vong mạng dọc đường chăng? Cô nghĩ dại như vậy. Rồi cô lập lại mãi trong đầu hai chữ ‘biết đâu…!’. Để rồi ngay sau đó cô lại bỏ lững, không dám trút hết ý nghĩ đen tối cứ lờn vờn trong đầu mình. Ý nghĩ đưa đến một viễn ảnh không được tốt đẹp. Vì cô tin chắc rằng Út Quyên chẳng khi nào là người bạc nghĩa bạc tình, ong bướm gió trăng, khi trong trí cô lảng vảng lời thề của chàng mãi mãi yêu cô đến phút cuối đời. Con đường thiên lý dẫn dắt đưa chàng qua đất Lào chập chùng chông gai, trùng điệp núi rừng, quá nhiêu khê trắc trở với những thác ghềnh hùng vĩ nhưng cực kỳ hiểm nguy một khi lỡ bước. Bà con chòm xóm mỗi lần gặp cô, khi nhắc nhớ đến Út Quyên, không ngớt khơi dậy những chướng ngại khó vượt qua nầy. Cô nào biết sự thật như thế nào nhưng nó ám ảnh cô luôn. Ám ảnh ngay cả trong giấc mơ. Trong đời, cô chưa một lần ra khỏi lủy tre làng hay con sông ranh, cô chẳng biết ai để thăm hỏi, phanh phui manh mối kiếm tìm. 
 
 
Nhưng bỗng nhiên sau hai năm dài bặt tin bặt tích, một phép lạ đến với cô trong một ngày quang đảng với nắng ấm chan hòa. Cô khấp khởi vui mừng nhận được một bức thư của Út Quyên, bức thư đầu tiên từ ngày hai người chia tay giã từ nhau ở bến nước sông nhà để chàng xuống đò ngang trực chỉ ra quận. Cô mừng quá đỗi mừng. Cô vui mừng tưởng chừng như mình vừa sống lại qua một cơn giông bão chết người. Đôi mắt cô đỏ hoe vì sung sướng. Cô không khóc được vì nước mắt cô đã cạn dòng những đêm cô đơn lẻ loi tưởng nhớ người yêu dặm ngàn xa cách. Anh trùm nhà việc sau khi trao thư, bải buôi đôi câu vô tích sự vừa lui gót, cô vội áp bức thư vào ngực vào tim mình, lặng lẽ hình dung một tin vui bất chợt. Chỉ liếc nhìn nét chữ quen thuộc của Út Quyên là cả một bầu trời hạnh phúc bủa vây chung quanh cô. Cô chỉ mong đêm hôm đó mau đến để cô có thì giờ một mình trong phòng riêng hầu nghiền ngẫm bức thư cho thỏa thích, đền bù những tháng ngày trông chờ mong đợi hoài công.


Mặc dù nội dung bức thư khá dài cả bốn trang giấy với chữ viết khít đeo nhỏ hếu, nhưng đại ý không mấy lạc quan. Giọng văn thỉnh thoảng đượm một nét buồn nãn chán chường trầm trọng. Cô thất vọng chùn chân. Cô động tâm, đọc đi đọc lại mãi không biết bao nhiêu lần chỉ mong nắm rõ được nội dung. Cô cố tìm hiểu tận tường ý chánh chàng cố gởi gấm trong đó. Mà thật khó cho cô. Nỗi khổ nầy càng làm cho cô bối rối hoan man hơn. Nhưng không sao, cô vụt định thần nghĩ rằng nội dung dù có lạc quan hay bi đát đến đâu hoặc có chán chường bế tắc cùn đường đi nữa nhưng đối với cô không quan trọng cho lắm. Hay do trình độ học vấn và hiểu biết có mức độ nên cô không thấu đáo hết tình tiết trong thư chăng? Không hẳn như vậy. 

 
Vì cô vẫn khấp khởi vui mừng thầm hiểu rằng đây là một bằng chứng hiển nhiên người mình yêu vẫn còn sống trên cõi trần và chàng sẽ không bao giờ mất dấu nữa. Chàng vẫn còn yêu cô và bức thư vừa nhận được phải chăng là chỉ dấu để xác nhận tình yêu của chàng đối với cô, không bao giờ đổi thay. Chàng là người thủy chung trước sau mà. Cô như người sắp chết đuối giữa biển khơi, bắt đầu nắm níu cái phao của chàng để hy vọng trở lại, để tiếp tục sống.

Thư Út Quyên báo cho biết khi lặn lội cực kỳ vất vả khổ nhọc và quá tốn kém sang được đến đất Lào, anh mới té ngữa thiếu điều đứng tim chết ngất. Anh hoàn toàn thất vọng, bơ vơ vì ông chú của anh, người từng long trọng hứa hẹn với cha mẹ anh sẽ nâng đỡ anh lập thân trên đất lạ chẳng may qua đời trong một tai nạn xe cộ, khi chưa quá tuổi bốn mươi lăm. Cái tuổi tràn đầy nhựa sống và cao vọng, cái tuổi dầy dạn kinh nghiệm đời để thành công. Một biến cố trọng đại đối với anh, một khi chân ướt chân ráo vừa mới đặt chân lên đất lạ. Bao nhiêu công sức, bao nhiêu tiền của đầu tư vào chuyến đi đầy hứa hẹn xem như bỏ sông bỏ biển cả. 
 
Gia đình người chú sau cảnh tang khó chợt đến bất thình lình đã thu gọn cơ ngơi gia cảnh không còn ở nơi tỉnh lẻ Savannakhet nữa. Anh lân la tìm hiểu và nghe người địa phương láng giềng nói họ đã dọn về thủ phủ hành chánh Vạn Tượng. Việc nầy cũng khá mù mờ, không lấy gì chính xác cho lắm để vững tin. Mà dù có chính xác đi nữa, anh không có phương tiện nào để đích thân đến Vạn Tượng, nơi phồn hoa đô hội thênh thang lại lắm người hầu mong tìm kiếm. Mà tìm kiếm để làm gì một khi chú anh không còn nữa.
 
 Anh càng bế tắc hơn vì khi di chuyển, gia đình vợ con chú anh vô tình không lưu lại một lời nhắn gởi nào, nhứt là địa chỉ cụ thể. Cơn lốc nào đã dành cho anh thê thảm đến thế! Bây giờ anh chỉ còn trông cậy vào khả năng tháo vác của anh để sinh tồn qua ngày. Thói thường người ta hay nói, hạnh phúc trong đời phần lớn tùy thuộc vào sự may mắn. Nhưng phần anh, anh không được may mắn nên cái vận hắc ám đến với anh quá phũ phàng khiến anh trở tay không kịp. Tứ cố vô thân, anh bị tấn vào chân tường không lối thoát. Hơn nữa con đường tháo trở về quê quán thăm thẳm dịu vợi. Đường đi đã khó nhưng đường về càng khó khăn hơn lúc tài chánh kiệt quệ. Hơn nữa, một khi ra đi, anh long trọng có hứa ngày về phải trong thành công viên mãn. Anh nguyện không để người yêu thất vọng và xóm giềng dị nghị, đàm tiếu. Bây giờ tiến thoái lưỡng nan. Anh chưa biết mình phải tính thế nào, nhưng có một điều là niềm tin lập thân trân quý ấp ủ, âm thầm dưỡng nuôi trong lòng khi rời quê hương của anh bỗng dưng tắc ngủm.


Trong khi đó việc làm nơi đất Lào bắt đầu gặp nhiều khó khăn, do nền kinh tế ở vương quốc bé nhỏ hiền hòa Pathet Lan Xang, Xứ Triệu Thớt Voi nầy có triệu chứng khủng hoảng khá trầm trọng. Chỉ vì lý do thời sự ngày càng căng thẳng khiến giới chủ nhân băn khoăn, không dám bạo dạng đầu tư để phát triển cơ sở. Họ ù lì chờ cơ hội thuận lợi hơn. Bấy giờ anh trở nên cô đơn, trôi sông lạc chợ, lang bạt trên đất nước người, xa lạ từ phong tục tập quán đến ngôn ngữ, thêm nguồn tài chánh khiêm nhường cắc ca cắc củm mang theo để xoay sở buổi ban đầu đang trên đà cạn kiệt dần. Bấy giờ anh đang đứng trước một thực tế chưa biết phải định liệu ra sao. Anh ví mình như con thuyền nhỏ vừa tách bến sông nhà chẳng được bao lâu rủi gặp phải giông bão ập đến thình thình nên không sao biết được bến bờ sẽ đến. 
 
 
Nhưng có một ưu điểm nơi anh, ưu điểm ở những giờ phút tuyệt vọng. Anh là người có thừa can đảm, anh không thể bỏ cuộc nửa chừng để cố gắng lên vững tay chèo tay lái. Chiến tranh đang lấp ló đó đây giữa hai cường quốc Á Châu là Nhựt Bổn quân phiệt ôm ấp giấc mộng xâm lăng bành trướng mở bờ cỏi xuống phía Nam và Trung Hoa lục địa đang đứng trước ngưởng cửa nồi da xáo thịt giữa Cộng sản dưới sự lãnh đạo độc tài chuyên chính của Mao Trạch Đông và Quốc Dân Đảng dưới quyền điều khiển không nhân nhượng của Thống chế Tưởng Giới Thạch có chủ trương thiên về khối dân chủ tự do. Cả hai quốc gia hùng mạnh nhứt trong vùng Đông Nam Á lúc nầy đang kình chống và chạy đua võ trang tối đa nhằm chuẩn bị thanh toán tiêu diệt nhau, thề sống không đội trời chung, chỉ vì mối thù truyền kiếp. Về phía các quốc gia Đông Dương lúc bấy giờ là thuộc địa của Pháp, cũng bị ảnh hưởng dây chuyền giữa hai thế lực kềm kẹp. 
 
 
Thời cuộc ở những nơi nầy sôi động nguy hiểm chẳng vừa. Một mặt đảng Cộng sản Đệ tam dưới sự lãnh đạo của Liên bang Sô Viết, núp dưới chiêu bài giải phóng dân tộc, lén lút nổi dậy hoạt động đánh phá lẻ tẻ nhiều nơi gây khó khăn đời sống người dân. Trong khi gót giày xâm lược của quân phiệt Nhựt ngắm nghé âm vang theo chánh sách Đại Đông Á, người Á Châu tiến lên làm chủ đất nước mình. Sự xáo trộn trầm trọng về hai mặt chánh trị và xã hội có thể xảy ra bất cứ lúc nào và chẳng một ai lường trước được hậu quả.
 
 Tình trạng dầu sôi lửa bỏng đó dĩ nhiên có ảnh hưởng trực tiếp không tốt đến nền an ninh của quốc gia Việt Nam và cả vương quốc Lào nói riêng. Một quốc gia từ muôn thuở vốn an lạc bình yên trong tinh thần Phật giáo, thấm nhuần thuyết từ bi hỉ xả, bao dung và hòa bình qua câu nói thường ngày của người dân thật thà bình dị «bò pền nhắng», không sao, chẳng có gì đâu, chan chứa nhân sinh quan chung sống thứ tha hài hòa với mọi người và mọi dân tộc lân bang. Vì lẽ đó, âu lo hoạt động hay khuếch trương của những nhà sản xuất nơi đất Lào đương nhiên bị khựng lại thảm thương, có nguy cơ kéo dài không biết chấm dứt vào thời điểm nào.

Bây giờ, tài chánh kiệt quệ càng kiệt quê hơn, Út Quyên bất đắc dĩ phải xin vào làm công việc không thường xuyên trong một cơ sở khai thác gỗ nơi rừng sâu để tạm nuôi thân qua tháng đoạn năm tàn chờ thời cơ. Công việc vất vả nặng nề nhưng anh không còn con đường nào khác. Nhìn chung chỉ có ngành nầy còn nguôi ngoai lây lất qua ngày. Cuộc sống bấp bênh vừa đủ để anh chi tiêu từng ngày từng bữa. Nhưng có còn hơn không ngơ. Anh cho biết thêm không thể nào tạo dựng ngay được một cơ ngơi khá vững vàng để nhanh chóng rước cô Chín qua xem cho biết sự tình và sau ngày cưới hỏi sẽ cùng nhau chung sống như anh đã dự tính trước đây.


Dù thế nào đi nữa, anh cũng hứa và hứa chắc chắn anh vẫn tiếp tục phấn đấu, phấn đấu trong trách nhiệm đến cùng, không bao giờ chấp nhận bỏ cuộc nửa đường. Chỉ với một điều kiện duy nhứt, nếu cô Chín bằng lòng chấp nhận chờ đợi anh thêm một thời gian nữa. Với tinh thần lạc quan và vững tin ở sức mình, anh bảo việc tái hợp của hai người chắc sẽ không còn lâu đâu. Anh sẽ vượt qua mọi thử thách trên bước đường tiến thân. Rõ ràng anh nuôi ảo tưởng trước thời cuộc. Mà thời cuộc quốc tế và địa phương lúc bấy giờ biến chuyển rất nhanh. Phản ứng của cô Chín ra sao? 
 
Cô có thể nào làm khác hơn được? Cô sẽ sống chờ đợi người yêu đến ngày sum hợp? Định mệnh nào sẽ dành cho cô trong những năm tháng sắp tới? Có khi nào Út Quyên tưởng tượng cảnh oái oăm ngang trái cô sẽ lọt vào vòng tay một người đàn ông nào khác chăng? Tất cả đều là những câu hỏi không có lời giải đáp thích ứng. Tương lai nào ai biết trước được bao giờ! Mà sự thực nơi lãnh vực chưa được khám phá trong tâm hồn cô chỉ có mỗi mình cô biết chính xác mà thôi. Do vậy chỉ có một người duy nhứt có câu giải đáp nằm sẵn trong đầu óc khả dĩ có thể chấp nhận được. Đó chính là cô Chín Thú, người trong cuộc. Nhưng đối với cô, nếu hời hợt nghĩ sằn bậy thiếu chiều sâu, nghĩ đến một sự oái oăm, gãy đổ sang ngang thật là lố bịt. Không khi nào cô tưởng tượng đến bao giờ. Cô không phải là loài bướm ong bay lượn nhởn nhơ đó đây, ‘khi vui nó đậu, khi buồn nó bay’. 
 
Cô đã từng thề thốt một mực giữ chữ thủy chung trước sau vẹn toàn, dù có phải trải qua bất luận một hoàn cảnh hay tình huống oái oăm ngang trái nào. Cô nhứt định giữ tròn lời hứa hẹn năm xưa. Cô giữ bức thư của chàng luôn luôn bên cạnh mình, đêm đến sau khi lấy ra xem xong, cô ấp ủ dưới gối nằm đầu giường như một cái gì quý nhứt trong đời. Lâu ngày chày tháng, tờ giấy thư trở nên vàng sẫm, nhăn nheo trông như bị vò xếp nếp. Có nơi rách tưa rìa chút đỉnh cho nên sau đó cô đem cất nó kỹ lưỡng trong tủ áo quần. Cô để nó cạnh bên bức ảnh đen trắng bán thân phóng lớn chàng chụp và âu yếm gởi về tặng cô từ thủ phủ Sài Gòn trước khi lên đường trực chỉ vương quốc Lào ngày nào. Bức ảnh duy nhứt anh chụp trước một công viên người qua kẻ lại đông như kiến, mặt mày tươi cười, hớn hở yêu đời. Phía sau bức ảnh đẹp đó, một lưu vật chứng minh tình cảm của chàng đối với cô có đề rõ ngày tháng năm và chữ ký dưới hàng chữ ngắn nhưng đượm tình: «Hôn em thắm thiết». Cô gìn giữ như một tài sản vô giá và đêm đêm khi bốn bề yên lặng chỉ lấy ra xem dưới ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu mù u vô tình đồng lõa.


Rồi một năm khác trôi qua kế tiếp một, hai, ba năm nữa. Cô Chín Thú thêm một lần bặt tin Út Quyên. Cô suy nghĩ mãi chẳng biết lý do nào xuôi khiến chàng giữ im lặng dài lâu đến thế. Trong nỗi cô đơn và thất vọng tận cùng nầy, cô quên hẳn yếu tố thời gian phũ phàng lặng lẽ trôi mau để xô đẩy cô càng rời xa người yêu. Và quan trọng hơn, nghiệt ngã hơn là cuốn theo những giờ phút hy vọng. Có phải sự vắng mặt kéo dài đến ngạt thở của người yêu đã để lại sau lưng cô một liều thuốc độc đắng chát có tác dụng ngấm ngầm chầm chậm là sự lãng quên, để nói theo nhận xét và kinh nghiệm của những bực từng trải, sành sõi lõi đời nơi chốn tình trường? 
 
Rồi như một phép lạ, không trông chờ, không ngóng đợi, bỗng dưng cô lại nhận được thư chàng. Cứ như thế theo một nhịp cách khoảng lâu lâu năm bảy tháng mới có một bức. Niềm tin nơi cô bỗng trở lại sáng trưng hơn lúc nào hết. Khi thì nội dung rất phấn khởi do anh đã tìm được một việc làm tương đối tốt, việc làm cố định, vừa nhẹ nhàng vừa gần nơi nhà trọ của anh. Thu nhập hằng tháng đương nhiên khả quan hơn cho phép anh lo lắng sắp xếp mọi việc lớn nhỏ nhằm đưa cô qua Lào một chuyến để biết cuộc sống sung mãn của anh và thừa dịp biết thêm cái đẹp của xứ người. Anh dong dài hết lời giới thiệu đất nước Lào như một thiên đường trần gian, nơi đó tình người đẹp tuyệt vời qua những đức tính hiền lương, thuần hậu dễ dãi, sống ẩn tàng thanh tĩnh, tâm thân an lạc, không biết oán thù giận dữ, không biết tranh đua ganh tị nhỏ nhen bất chánh, không hề hại người làm lợi cho riêng mình. Hạnh phúc của họ rất bình dị giản đơn. 
 
Dù anh mới qua chỉ được vài năm, tuy không là bao nhưng lại là một duyên hạnh ngộ kỳ bí khiến anh đâm ra thương yêu để gắn bó với xứ sở mới nầy. Nghĩ ra cũng lạ thật. Tình cảm con người quả phức tạp và khó hiểu. Thêm vào đó còn có những cảnh trí thiên nhiên nguyên sơ điệp điệp trùng trùng, một cảnh quang phong phú tuyệt vời trời riêng bang cho. Tất cả có ma lực lôi cuốn gọi mời từ bao nhiêu thế kỷ qua, chưa hề bị bàn tay tàn phá hủy hoại của con người trần tục. Họ luôn bị ám ảnh về cuộc sống đua đòi ích kỷ, nhắm mắt chạy theo vật chất tiền tài và lợi nhuận. Núi đồi, rừng rậm, sông nước, thác ghềnh hùng vĩ tĩnh mặc quyến rũ làm chóa mắt anh những khi anh hồi nhớ thôn làng bảng quán của anh toàn là một vùng đồng bằng mênh mông bát ngát, diệu viễn dân dã. Hai cảnh đối ứng nhau một trời một vực, chỉ có đến xem tận mắt mới thấy được sự khác biệt của nét đẹp trời cho.


Anh còn hứa sẽ đưa cô tham dự những buổi lễ hội truyền thống được tổ chức định kỳ tại địa phương. Nơi đó có những cô gái trẻ trung đương độ, ăn mặc sắc màu sặc sỡ, những y phục cổ truyền còn duy trì ít khi thấy nơi các đô thị hiện tại, nhịp nhàng uyển chuyển trong điệu múa «lăm» theo tiếng «khèn» đặc trưng muôn thuở của dân tộc Lào. Khi thì du dương êm tai trầm đều, lúc lại nhẹ nhàng vui nhộn lôi cuốn. Chính anh đã từng tháp tùng theo chân bạn bè tham dự những ngày lễ hội tưng bừng ấy mà ngay trong lần đầu tiên, anh đã hết lời trầm trồ thán phục, ngợi khen. Anh đoan chắc cô Chín sẽ bằng lòng qua cái nhìn mới mẻ trong đời. 
 
Dịp khác, dịp sau cùng, nội dung đen tối bi quan hơn. Anh cho biết anh vừa mới cảm thấy thấm thía cảnh thất nghiệp lần đầu trong đời. Việc nầy anh không thể đoán trước được. Dù là tiên là thánh cũng đành bó tay, huống hồ là người trần tục thường tình như anh. Nó đến rất bất ngờ. Nó đến trong đầu hôm sớm mai khiến anh trở tay không kịp. Anh đành buông xuôi trong nuối tiếc, phải buông bỏ những dự tính ấp ủ chắt chiu. Anh xin lỗi cô vạn bất đắc dĩ đã để lọt khỏi tầm tay mình bao nhiêu dự tính tốt đẹp vừa qua. Hơn nữa, những giành dụm ky cỏm tích tiểu thành đa bấy nay, nguồn hạnh phúc duy nhứt của anh cũng giảm sút dần dần theo với thời gian để sau cùng tiêu tan thành mây khói chiều hôm. Anh bật lời than thở qua những dòng đong đầy bi hận chán chường là ở đời tai họa vận rủi chẳng khi nào đến đơn độc một lần và những xui xẻo bất hạnh dù anh có muốn tránh né cũng không sao né tránh được.


Lật bật Út Quyên rời khỏi quê hương bảng quán, rời khỏi cố thổ chôn nhao cắt rún của anh tính đến nay vừa tròn tám năm. Thời gian tám năm nầy dài hay ngắn tùy thuộc vào nỗi mong chờ trông đợi, tùy theo niềm vui hay tâm trạng chán chường thất vọng của cô Chín. Tám năm, cũng là lúc cô Chín nhận được một bức thư thật ngắn, bức thư cuối cùng với nội dung không đầy một nửa trang giấy. Lần nầy chữ viết nguệch ngoạt, không được rõ ràng do viết bằng bút chì, nét chữ quá phóng không khác chi của những đứa trẻ ở trường làng trường tổng. Sự kiện nầy thể hiện tâm thần anh không được ổn định. Nhiều đoạn lại lờ mờ khó hiểu do suy nghĩ không được nhất hoán. 
 
Cô phải đọc đi đọc lại lắm lần và cố gắng giảng nở con ngươi tối đa mới nắm được hết ý tình gởi gấm trong thư. Dù vậy nội dung chính được tóm gọn vỏn vẹn trong một vài câu thôi nhưng với bấy nhiêu cũng đủ gây một chấn động nơi người đọc là cô Chín. Định mệnh không phải như anh hằng mong muốn. Định mệnh đó không cho phép anh sống ích kỷ, chỉ lo và dành riêng cho bản thân mình. Anh không thể nào nhẫn tâm đến như thế được. Người đàn ông được đánh giá đúng mức là một người đàn ông phải qua sự cảm nhận trung thực trong lòng. Do vậy, anh bấm bụng, can đảm dùng lời lẽ dịu ngọt thuyết phục để khuyên cô Chín thôi từ đây đừng trông mòn mỏi, đừng đợi hoài công ở anh. Một người hoàn toàn thất bại. Một người đang đứng trước ngỏ cụt chân tường. Anh hoàn toàn trắng tay như thuở anh rời quê hương xứ sở dấn thân theo tiếng gọi của tương lai. Bây giờ anh thất bại ở mọi lãnh vực, thất bại đến đỗi anh tự xét khó có cơ hội ngốc đầu lên nổi ở những chặn đường sắp tới. Anh thực sự yêu cô, yêu cô với tất cả tấm lòng chân thành như ngày nào, như thuở đầu đời. Mà một khi đã yêu thì phải tạo dựng hạnh phúc đích thực cho người mình yêu. Đôi khi vì hạnh phúc của người yêu, anh phải hy sinh hạnh phúc của chính mình. Anh thuộc lớp người điển hình biết tự trọng và có trách nhiệm. Giá trị thực sự của con người trước sau không bao giờ thay đổi mà chỉ diễn đạt khác nhau tùy trạng huống và hoàn cảnh. Anh không thể ơ thờ lãnh đạm, phó mặc cho may rủi để cô kéo dài thêm mãi sự đợi chờ và hy vọng không có ngày mai hầu mai một héo hắc cả thời xuân mộng.





Tiền bạc giành dụm bấy nay cứ vơi dần đến mức nguy hiểm do ngồi không ăn mãi núi non cũng lở, dù rằng giờ đây anh vẫn tiện tặng đến mức tối đa, vừa đủ cho cuộc sống bấp bênh hằng ngày. Anh không hội đủ phương tiện tài chánh để trang trải chi phí đưa cô qua với anh như đã hứa, nơi mà anh xét không thể nào tạo được một mái ấm cho cô. Cơ sở cuối cùng nơi anh làm việc bị phá sản cũng như biết bao nhiêu hảng xưởng lớn nhỏ đủ các ngành nghề khác trong tỉnh. Các chủ nhân bất đắc dĩ đã quyết định đóng cửa vĩnh viễn nhằm cứu vớt được phần nào hay phần nấy. Họ hy vọng thu hồi được một số vốn để chuẩn bị cho cơ hội thuận lợi sắp tới. Họ chấp nhận hy sinh hiện tại để hướng về tương lai. Đúng như một nhà văn đã từng viết đại ý như sau: một người sáng suốt đã tiên đoán trước mưa dông gió bão thay vì chờ đến lúc ướt đẫm vì ông Trời. Một lần nữa anh rơi vào hố sâu của tuyệt vọng. Anh cảm thấy cuộc đời mình thật oái oăm bi đát làm sao. Từ ngày trưởng thành toàn đưa anh đến những cảnh tình bất hạnh cho mình và cho người khác. Nhứt là cho cô Chín. Việc nầy anh phải tránh bằng mọi giá. Thôi thì cô Chín hãy bình tĩnh sáng suốt. Cô cứ xem như anh đã chẳng may vong mạng ngay từ lúc chia tay giã từ mà hay hơn. Đó là lời khuyên của anh lúc chấm dứt bức thư. Cô Chín nên quên, quên hết và can đảm làm lại cuộc đời mới. Tuổi thanh xuân của người con gái chỉ có một lần, không bao giờ và chẳng bao giờ trở lại. Dưới bức thư có đánh một dấu thập giá cũng lạ và ký tên.





Bức thư đã gởi đi, nhưng khi trở về nơi trú ngụ, anh bần thần dã dượi. Anh hối tiếc, quả thật mình đã sai lầm và lại lầm to. Anh khắc khe trách mình trong phút giây cầm lòng không đặng, anh thiếu suy nghĩ chín chắn và đã tỏ ra mình là một anh hùng rơm. Anh sẽ gánh lấy hậu quả không lường. Anh bấn loạn tinh thần không biết làm sao gỡ rối. Vì thật ra anh không sao quên cô Chín được. Anh yêu cô và yêu mãi mãi. Yêu với tất cả lòng thành. Yêu đến lúc cuối đời. Anh không thể sống thiếu vắng cô. Cô là nguồn sống duy nhứt của anh. Bây giờ anh ăn năn hối hận về việc làm thiếu thận trọng, việc làm bốc đồng của mình. Nhưng mọi việc đã trễ mất rồi. Bức thư đã nằm gọn ở nhà bưu điện cách nơi anh trú ngụ cũng khá xa. Chắc giờ đây nó cũng được sắp xếp lên đường xuôi về Nam? Đó là bức thư cuối cùng cô Chín nhận được từ đất Lào anh gởi về. Nước mắt cô tuông rơi lả chả, rơi trên bức thư oan nghiệt nhưng lòng thầm trả lời, cô mãi mãi sẽ không bao giờ bỏ cuộc, bỏ chàng dễ dàng được. Cô không thể quên người yêu cô trọng kính và ngưỡng mộ. Người yêu đầu đời. Người yêu chọn lựa. Trong khi chàng không ghi địa chỉ, không để một chi tiết nào khả dĩ giúp cô có cơ lần mò tìm biết về nơi chốn trú ngụ hiện tại của chàng. Chàng cố tình hay vô ý sơ sót? Cô đặt cho mình biết bao giả thuyết. Mà giả thuyết nào cũng không làm cho cô vừa lòng một khi cô cân phân nguyên do. Hay là chàng quả tâm muốn trốn lánh, muốn cắt đứt mọi liên lạc bên nhà nhằm tạo điều kiện để người yêu dễ dàng có một quyết định dứt khoát?





Từ dạo đó đến những năm dài về sau, cô không sao có thêm một tin tức nào nữa của anh. Anh vẫn biền biệt bặt tâm bặt dạng. Mặc cho cô cứ trông cứ chờ. Mặc cho cô cứ ngóng cứ đợi trong mòn mỏi. Thêm vào đó, còn có một bế tắc khác nơi cô khiến cô càng mất thần. Cô không quen biết một người nào bên đất Lào xa xôi có thể giúp cô phăng ra manh mối để mong tìm kiếm chàng. Chàng đã biến mất hẳn rồi. Có thật vậy hay sao? Làm như chàng đã thực sự đi vào một thế giới nào khác lạ! Một miền miên viễn của hồng ân diễm phúc chăng? Cha mẹ cô, anh em cô, cả bà con quyến thuộc xa gần cũng thường quọt quẹt bên tai cô mỗi khi họ đối mặt cô: «Cái thằng nầy chắc đã chết mất rồi! Có đâu bặt tin biền biệt như vậy! Cũng đã bao năm chớ phải đâu một sớm một chiều?!». Lâu ngày chầy tháng, nhiều lúc cô cũng tin như thế. Không tin sao được. Tin để mà quên và để tiếp tục bám sống.






**


Bấy giờ có một sự kiện tối quan trọng vừa mới xảy ra nơi ngôi chùa cổ duy nhứt trong làng tôi. Xưa nay ngôi chùa với mái cong, vách ván, sàn đất khó nghèo nầy do một thầy cúng già mà hầu hết bà con lớn nhỏ trong làng quen miệng gọi là thầy tụng. Các bực trưởng thượng thổ công thuộc lớp trượng triều trượng quốc trong làng cho biết thầy thuộc về môn phái Cổ Sơn Môn, đến trụ trì bảo quản nhà chùa và chăm lo Phật sự qua công nghiệp phục vụ bá tánh sùng đạo từ nhiều thập niên. Thầy có góc gác nơi vùng sông nước rặt nòi miền Nam Kỳ Lục Tỉnh tận cuối mũi quê hương. Vùng đất quê mùa hẻo lánh với rừng tràm rừng đước nước lợ bao la bạt ngàn, nhưng sản sinh những người dân chơn chất mộc mạc, hiền hòa lương thiện. Thầy đến chùa không biết từ lúc nào, nhưng chắc chắn phải lâu lắm. Ngay các bậc chăn dân trong những ban bệ hội tề tiền nhiệm liên tục cũng chẳng biết đích xác. Nhưng tôi nhớ rõ những lời kể lại của ông tôi khi còn sanh tiền.




Vì lúc ông tôi còn trai trẻ ngày ngày vóc tâm lao vào vùng đất hoang vu sầm uất nầy để khai khẩn ruộng rừng, lên giồng lên rẫy đã thấy có mặt thầy ở đây rồi. Bây giờ ông tôi đã bước vào khá xa cái tuổi ‘cổ lai hi’, như vậy suy đoán ra thì thầy đến làng tôi ít lắm cũng hơn nửa thế kỷ. Sau đó thầy sớm hội nhập và hòa đồng cùng nhân tình địa phương để trở nên người của vùng đất mới. Thầy có pháp danh là Chánh Niệm, nhưng bà con già trẻ lớn nhỏ trong thôn xóm tôi không khi nào gọi thầy đúng với cái tên chan chứa âm hưởng đạo hạnh tuyệt vời nầy.
 Không biết sao họ lại đồng thanh gọi ngắn gọn và thân mật là thầy Chánh. Mãi đến đời tôi, tôi cũng noi theo thông lệ đó, tiếp tục gọi thầy như vậy. Thầy là một trong những nhân vật hiếm hoi, không có không được nơi làng tôi. Còn ngôi chùa nơi thầy trụ trì chắc cũng có một cái tên mang ý nghĩa cao đẹp rút từ trong kinh điển Phật pháp trong sáng như bao nhiêu cảnh chùa lớn nhỏ khác rải rác khắp nơi trên đất nước Việt Nam. Nhưng từ thế hệ nầy tiếp nối thế hệ khác, bà con làng tôi không bỏ thói quen nôm na gọi là chùa thầy Chánh. Rồi từ dạo đó, chùa mang cái tên như vậy. Cái tên dân dã bất di bất dịch đứng vững trong lòng mọi người, không phân biệt biên cương của tín ngưởng. Mà nếu có người lạ cắc cớ đến hỏi tên thật, tên chánh thức của chùa, không chắc có một người nào trả lời đúng được. Tên chùa đã chết hẳn theo với tập quán của người dân.


Với Phật giáo, một đạo giáo lâu đời nhứt ở Việt Nam, từ thuở các vua nhà Lý nhà Trần, có lúc trở thành quốc giáo, tôi không rành về những hệ phái khác nhau như Bắc tông, Nam tông, Đại thừa, Tiểu thừa… rồi Phật giáo nguyên thủy v.v… quá phức tạp đối với sự hiểu biết nong cạn của tôi. Nhưng có một điều chắc chắn khiến tôi còn nhớ như in và tin được là lúc sanh tiền, khi tôi còn nhỏ thỏ thẻ quanh quẩn bên chân ông tôi, tôi từng nghe ông đôi lần có nói sơ lược về môn phái Cổ Sơn Môn. Có thể chỉ vì môn phái khá đặc biệt nầy hiện diện lâu đời và độc nhứt trong làng tôi chăng? Vì ngoài ra ngay từ thuở nhỏ, ông tôi chẳng có thấy một hệ phái Phật giáo nào khác đến sinh hoạt trong làng. Theo ông tôi, trong đạo Phật chỉ có những người tu hành theo môn phái Cổ Sơn Môn mới có một tập quán khá đặc biệt, một lối sống riêng lẻ nếu so sánh với các hệ phái Phật giáo khác. Họ có quyền lập gia đình, nghĩa là có vợ có con, có nhà cửa và sự sản riêng tư. Mà nhà cửa ở đây chính là ngôi chùa nơi các thầy cúng tiếp nối nhau trụ trì và chung sống với vợ con.


Trong những bữa cơm thường ngày, họ cũng ăn mặn với thịt cá, tôm cua, heo bò, vịt gà v.v… như những người đàn ông bình thường khác trong xã hội. Ngay cả phong cách sống cũng chẳng có chút phân biệt nào. Việc chay lạt được họ tự nguyện áp dụng trong những ngày lễ lớn định kỳ hay ngày rằm nguơn. Hoặc giả những khi thấy cần đến, khi rau quả nhà chùa cùng một lúc được thu hoạch thặng dư. Thầy Chánh thuộc môn phái Cổ Sơn Môn nầy. Tôi nghe để mà nghe, chỉ có thế thôi, nhưng thực hư chẳng biết như thế nào. Lúc ấy còn quá trẻ tôi chẳng để tâm tìm hiểu làm gì. Nhưng đến bây giờ tôi vẫn nhớ như vậy vì ông tôi tánh tình cởi mở hay đùa vui với mọi người, nhưng đôi lúc cũng khắc khe khó khăn lắm. Đây chẳng qua là cái tật bất biến không thể tránh khỏi của những người già cả ướm rụng.


Có lần ông cố tôi mất vào tuổi trượng triều trượng quốc, cái tuổi thọ rất hiếm hoi thời buổi xa xôi ấy. Vì là nhà tương đối khá giả thêm có chút ít tiếng tăm trong làng nên đám tang ông cố tôi được gia đình quàng lại cả tuần lễ hơn, kèn trống inh ỏi mỗi ngày, từ tưng bửng sáng đến chiều hôm không dứt. Dĩ nhiên ông tôi có sai gia nhân đến thỉnh mời thầy Chánh để lo phần tang lễ, tụng kinh và đưa linh. Nhà ông cố tôi ở cách ngôi chùa của thầy Chánh độ chừng nửa giờ bách bộ thong thả nhàn nhã như người đi du hí ngoạn cảnh. Nếu gấp rút, thời gian nầy không thể hơn một khắc đồng hồ. Sau mỗi lần tụng một thời kinh xong, thầy không chịu ở nán lại trò chuyện với khách khứa hoặc dùng cơm nước. Thầy quyết định trở về chùa ngay để tạm nghĩ. Vì thầy cho như vậy là tiện lợi và thoải mái hơn là ở lại trong khi tang gia bối rối, khách khứa rậm rật không dứt, thêm bị bận rộn níu kéo bởi ăn nhậu rượu chè nữa. Việc nầy thầy cố tình tránh né do dĩ lỡ say sưa mất thể thống. Chờ đến giờ tụng kinh kế tiếp thầy mới đến đúng giờ, chẳng khi nào đến trễ, nhứt là lần kinh chót khá khuya. Thầy rất tôn trọng trách nhiệm của mình, của người hướng dẫn tinh thần.

Càng được ngưỡng mộ nể trọng thầy càng tỏ ra là người đứng đắn gương mẫu để không phụ lòng họ. Những lần kinh khuya đó, ông tôi chắc cũng ỷ vào uy quyền của một chức sắc quan trọng trong ban bệ Hội Tề nên yêu cầu thầy vui lòng đi tắm rửa sạch sẽ mới cho phép ra hành lễ. Lời yêu cầu nầy của ông tôi xem ra quá đáng và vô lý làm sao. Chỉ vì ông tôi ngần ngại việc phòng the chăn gối của thầy trước đó sẽ làm ô uế buổi lễ, vẩn đục hương linh người quá cố. Tội nghiệp thầy! Tội nghiệp một người hiền hậu cục mịch, không chấp nhứt, bất bình giận hờn, thương ghét để ngoài tai. Thầy hiểu ý nên ung dung, không tỏ vẻ phàn nàn phản đối chi cả. Tánh tình thầy quả là như vậy, không hề biết phiền hà, xứng đáng tiêu biểu một người tu hành mẫu mực.







Dù ông tôi hay tếu để giúp vui chòm xóm và độc đoán như vậy nhưng ông rất đồng ý về việc những nhà tu hành nói chung và những người mặc áo cà sa Phật giáo nói riêng, nếu có lập gia đình đàng hoàng danh chánh ngôn thuận thì chẳng có gì phải đàm tiếu, phê phán hay chỉ trích cả. Người ta đường đường chánh chánh giữa thanh thiên bạch nhựt, chẳng giấu giếm một ai. Theo ông, tập quán đó còn hơn những vị mặc áo nhà tu lại đang tâm dối đạo, gạt gẫm những người mộ đạo, âm thầm lén lút làm những điều mờ ám, nhứt là phạm vào những điều cấm kỵ về thuần phong mỹ tục. Cũng vào dịp vừa có vẻ khôi hài, vừa có nét trịnh trọng nầy, tôi mới phát hiện vợ thầy Chánh là người cùng chung một xóm một làng với tôi. Bà thuộc gia đình nông dân vừa đủ ăn đủ mặc nhưng rất hiền hậu, chất phác, bằng lòng với cuộc sống hiện tại, không đua đòi quá trớn, không mang tai mang tiếng. Một nét đặc biệt ở bà là bà tỏ ra rất ưng ý mãn nguyện với vai trò làm vợ cũng khá đặc biệt của mình. Vợ một nhà tu hành thường khoác áo cà sa đi đây đi đó với con cái đùm đùm đề đề chạy giỡn rạn đất trong khu vi nhà chùa. Bà không hề thấy ngượng ngùng khi nghe bà con gọi bà không bằng cái tên cúng cơm cha sanh mẹ đẻ mà bằng ba tiếng ‘vợ thầy cúng’, ‘vợ thầy tụng’ hoặc lịch sự hơn ‘vợ thầy Chánh’.





Thầy Chánh giống như những nhà sư thuộc các môn phái Phật giáo khác cũng cạo đầu trọc lóc láng o. Mỗi lần đi chủ lễ ma chay, tang tế hay cầu an cầu siêu… thầy mặc một bộ đồ bà ba màu nâu sẫm, màu đất quê hương, đầu đội chiếc mũ đan cùng màu, chân đi chân trần, trông rất bình dị giản đơn. Thỉnh thoảng thầy mới mặc áo cà sa màu vàng sậm. Do thầy không kiểu cách để phân biệt với bà con dân dã. Thầy quả thuộc lớp người rất mực bình dân, đúng như ý nghĩa đích thực của tĩnh từ nầy. Đến lúc làm lễ, trước khi trang trọng thắp nhang lên đèn, gõ mõ tụng kinh, thầy mặc vào mình chiếc áo lễ màu đen hoặc màu nâu đất rộng thùng thình. Đôi khi không biết vì lý do gì, hoặc gặp lúc khẩn cấp hay sao, thầy chỉ choàng chiếc áo đó trên vai mình. Việc nầy không ngoài ý hướng thể hiện tấm lòng kính trọng người quá cố và chắc cũng để cho quan cảnh giờ làm lễ thêm phần trang nghiêm trọng thể. Vợ con thầy Chánh đều cư ngụ chung với thầy ngay trong khuông viên nhà chùa. Việc nầy rất tiện lợi cho vợ thầy tham gia giúp thầy trong những việc nhẹ nhàng như quét dọn sạch sẽ trong ngoài và nhứt là lo phần sự thắp đèn và nhang khói các bàn thờ Phật lúc chạng vạng tối trước khi đóng cửa chùa. Dĩ nhiên không khi nào bà quên dọng chuông công phu đúng giờ giấc. Đó là những lần bà thay mặt thầy khi thầy vắng mặt đi hành lễ. Tuy nói là nói như vậy nhưng thực sự những trường hợp nầy cũng ít khi xảy ra vì thầy đã cẩn thận dự kiến đầy đủ trước khi lên đường. Kỳ dư ngôi chùa trở nên vắng vẻ đìu hiu. Do bà con ngày thường quần quật không hở tay nên chẳng có việc gì cần thiết phải đến chùa, trừ những ngày lễ định kỳ. Bà rất an tâm không bị khuấy rầy nên riết rồi cũng quen dần với cảnh quạnh quẽ lạnh lùng cực độ đó.





Chùa nghèo. Nghèo lắm. Chung quanh chùa có nhiều tháp lớn nhỏ cao thấp chen lẫn nhau nhưng đa phần bị bỏ bê lâu ngày không trùng tu đúng mức nên rêu phong lốm đốm âm ỉ nhiều nơi xanh rì. Lý do nhà chùa không hội đủ điều kiện tài chánh và nhân lực để sửa sang phục hoạt và việc nầy quá tốn kém. Những ngày lễ Phật, lũ nhỏ theo chân cha mẹ lợi dụng những nơi thâm u kín đáo nầy để chơi những trò rượt bắt trốn kiếm, tha hồ cười giỡn rậm đám lắm. Những tháp cổ kính ấy có cái được xây dựng sát bên vách chùa dường như có hậu ý để chống đỡ mái hiên nhà chùa ngăn ngừa những trận mưa to dông bão vào các tháng lập đông? Hay che chắn trừ quỷ ma? Những hàng mai già hai bên lối đi dẫn thẳng vào chánh điện, gốc to cằn cỗi nhưng qua mùa xuân vẫn đơm nụ vàng đồng nhứt tuyệt đẹp. Và những cây sao, cây dương, cây trôm, cây sò đo, cây gáo… cao ngất nghễu cuối vườn quến chim chóc ganh đua tranh nhau líu lo ríu rít không bao giờ dứt.







Ngoài ra trong sân chùa còn có hai cái giếng sâu, không xa một hồ sen khá rộng đập vào nhãn quan khách khứa nhờ những đóa hoa nở muộn rực rở sắc màu. Vào mùa nắng gắt, đồng khô cỏ cháy, ao làng khô cạn sát đáy nên chiều chiều những cô gái trẻ trong thôn xóm kéo nhau đến xin gánh nước về uống, không ngớt trâm trớt cũng nhộn nhịp lắm. Chùa được xây cất theo kiến trúc những nhà cổ xưa, cửa chánh điện trổ về hướng sông, tuy sầm uất nhưng không hẹp lắm, rất thuận lợi cho ghe xuồng thiện nam tín nữ đến tham dự những ngày lễ lớn. Những lúc đó ghe xuồng lớn nhỏ đa số là xuồng ba lá hay tam bản lỡ nối đuôi nhau cả một đoạn sông dài tạo thành quang cảnh tấp nập tưng bừng. Trong khi đường bộ gồm toàn những bờ đê, bờ bao ngạn nhỏ hẹp bao bọc ruộng rừng hay ruộng tân lập thường bị sạt lở ở những lổ trổ hay trở nên trơn ướt lầy lội vào ngày mùa. Hệ thống giao thông cổ lổ đó không được trông nom và bảo quản đúng mức nên việc di chuyển trở thành nhiêu khê trắc trở. Nhờ vậy tuyến sông nước đã góp phần tạo cho ngôi chùa một bối cảnh thuận lợi để mọi tín hữu tới lui chăm lo việc tu hành. Quả thật vị trí đó của chùa là điều kiện lý tưởng cần thiết cho sinh hoạt tâm linh tinh thần của người dân xóm làng tôi.





Thầy Chánh sinh sống nhờ dựa vào lòng hảo tâm cúng dường rộng rãi của Phật tử trong làng, cả những làng lân cận và nhứt là nhờ lợi tức khiêm nhường qua kinh kệ mõ chuông khi có những gia đình tang tế thỉnh mời thầy đến làm lễ, hoặc tụng niệm cầu an giải bịnh. Nhưng chí tình mà nói, những lợi tức bất thường nầy đối với gia đình thầy chẳng thấm vào đâu. Bất quá vừa đủ gói ghém hằng tháng. Trên thực tế, thỉnh thoảng thầy còn được sự tiếp tay đắc lực của một số đạo hữu tình nguyện đến làm công quả nên phần tốn kém chi tiêu của nhà chùa cũng được giảm thiểu đôi chút. Những đạo hữu nầy có thói quen mặc áo lam, cứ tưng bửng sáng đến, chiều tối mò ra về, chớ ít khi họ ở lại chùa qua đêm. Những lúc không có người đến làm công quả, nhà chùa cũng không kém phần nhộn nhịp nhờ sự hiện diện của đám trẻ nhỏ đôi ba đứa thay phiên nhau đến giúp việc lặt vặt hoặc để vợ chồng thầy sai biểu những lúc cần đến. Đám nầy là con cháu của những người vốn chật vật khó nghèo quanh năm suốt tháng, nhà ở chung quanh chùa. Nói chung quanh để nói theo sự thẩm định của những người mạnh khoẻ, nhưng thực ra chúng nó đi cũng rã chân rã cẳng. Chúng đến giúp nhà chùa để bớt một miệng ăn hằng ngày trong gia đình chúng nó. Bớt được bữa nào hay bữa nấy. Thầy Chánh vẫn tiếp đãi chúng nó đàng hoàng tử tế với tấm lòng rộng rãi thương yêu trẻ con bất hạnh sớm nhuốm mùi kham khổ. Thầy coi chúng nó như con cháu ruột của thầy. Trong những bữa cơm đạm bạc thân mật, chúng quây quần dùng bữa cùng với gia đình thầy, không có sự phân biệt vai vế và cũng không có hàng rào cách ngăn nào cả. Cuộc sống của thầy nhờ vậy xem ra rất an lạc thanh bần, năm tháng chú tâm chăm lo Phật sự, cho dù hằng ngày thầy vẫn bận bịu nợ trần nghiệp thế với vợ con đông đúc quấn quít một bên. Trong cuộc sống, thầy dứt khoát biết phân biệt ranh giới giữa đạo và đời, nguyện với lòng không để bên nào xâm phạm làm bại hoại bên nào. Do vậy thầy được bà con xa gần quí mến, kính nể trọng vì.





Hôm nay thầy Chánh vừa viên tịch trong sự thương yêu mến tiếc vô bờ bến của cả xóm làng tôi. Một sự mất mát quá to lớn khó có thể bù đắp được trong ngắn hạng đối với bá tánh sùng đạo đã đành mà ngay cả với những người do gia duyên ràng buộc, hoặc do cuộc sống từng trải qua nhiều biến động nghịch chiều nên không tin nơi Trời Phật và trong đời chưa một lần đặt chân đến chùa thầy. Một sự chia xẻ tròn đầy của mọi tầng lớp. Kể từ nay, bỗng dưng có một khoảng trống không đáng quan ngại về phương diện tập quán, tâm linh cùng tín ngưởng của họ. Tang lễ của thầy được tổ chức rất trọng thể chưa từng thấy ở làng tôi từ cả mấy thập niên qua. Cũng may, thời gian dài cảm thấy sức khoẻ sút giảm đáng quan ngại nên trước khi viên tịch, thầy đã nghĩ xa thấy rộng. Thầy đã cẩn thận mời được một thầy cúng trẻ tuổi cùng môn phái với thầy thỉnh thoảng đến tiếp tay giúp thầy trong việc Phật sự vào những ngày lễ lớn, Tết nhứt và rằm nguơn. Hoặc những khi thầy ể mình đau ốm do những chứng bệnh già, phải tịnh dưỡng đôi ba ngày hoặc nửa tháng.







Thầy trẻ nầy có pháp danh là Quang Trí. Tuy đã bước qua khỏi tuổi thanh xuân nhưng thầy vẫn còn độc thân, cứ đi đi về về những khi nhà chùa cần đến sự giúp đỡ của thầy. Cũng giống như trường hợp của thầy Chánh Niệm, bà con làng tôi không gọi thầy là thầy Quang Trí mà gọi vắn tắc là thầy Trí. Những khi được thầy Chánh kêu gọi nhờ đến, thầy chưa bao giờ từ chối, trái lại rất vui vẻ nhận lời ngay. Dần dà thầy cũng được lòng bà con, không khác chi trường hợp của thầy Chánh Niệm trước đây. Và nay qua sự ra đi về nước Phật của thầy Chánh và qua sự phụng sự thất thường nhưng hiệu quả bấy nay của thầy Trí, thiện nam tín nữ trong làng đều chung một lòng mong muốn khẩn cầu thầy hãy vui lòng chấp nhận đến trụ trì ngôi chùa để thay thế vào chỗ thầy Chánh đang khiếm khuyết trầm trọng. Và qua đó cũng để bá tánh ngoan ngoản mộ đạo không lẻ loi thiệt thòi những khi hữu sự cần đến có ngay, không phải mất thì giờ chờ đợi. Việc nầy thầy Trí còn đang đắn đo chần chừ. Thầy chưa có quyết định dứt khoát. Thầy cần có thời gian suy nghĩ thêm chín chắn.







Dù vậy, rốt cuộc vào giờ chót do nguyện vọng khẩn khoản chung của dân làng nên những tháng ngày sau khi thầy Chánh viên tịch, thầy Quang Trí không nỡ để họ thất vọng mà có tội với Trời Phật nên tự nguyện khăn gói đến chùa thường xuyên hơn. Công việc Phật sự nhờ vậy được tiếp tục vuông tròn. Có khi thầy còn ở lại qua đêm những khi gió mưa giông bão, đường sá cách trở khó khăn. Những lúc đó thầy trú ngụ nơi mái hiên nhà chùa đã được bà con Phật tử hô hào góp công góp sức sửa chữa cải thiện coi cũng được đến. Không rộng rãi, cũng không trang hoàng quá đà phí phạm, chỉ giữ phần thiết thực tối cần thiết làm chuẩn đích. Vả lại, thầy là người vốn sống bình dị giản đơn cũng không đòi hỏi gì hơn. Thầy tiếp tục làm công tác Phật sự với một tâm hồn vì Phật pháp, vì kính yêu Đức Phật đáng được đề cao trọng vọng. Không khác chi phong cách sáng rực của thầy Chánh Niệm ngày nào.





Những lần thầy Trí đảm trách nhiệm vụ đi hành đạo nơi các gia đình tang khó hay cầu an giải nạn, thầy đều được dân chúng mến yêu qua tác phong đạo hạnh và ngưỡng mộ qua giọng đọc kinh ngân nga trầm bỗng lôi cuốn không thua gì thầy Chánh dạo trước. Thầy thuộc lớp người tu hành thế hệ mới tân tiến hơn nên có trình độ văn hóa cao và kiến thức rộng so với lớp người tiền bối. Thầy lại có khả năng hội nhập, hòa đồng rất dễ dàng vào môi trường sằn dã, chơn chất như củ khoai hòn đất. Tiếng tăm của thầy từ từ vang dội ngoài lủy tre làng, nên được dân tình các làng chung quanh long trọng thỉnh mời. Dù bận rộn cách mầy thầy vẫn cố gắng thỏa mãn nguyện vọng chính đáng của họ. Mặc dầu thầy không hẳn là người đứng tuổi dầy dạn kinh nghiệm trường đời, nhưng cũng đã đi qua quá xa cái thời bay nhảy xuân mộng, bạt mạng bất cần đời của những người thuộc lớp tuổi đó. Mà kinh nghiệm chẳng qua là sự chất chồng bao nhiêu thất bại, việc nầy thầy chưa hề trải qua do tâm trí chỉ chuyên chú tập trung duy nhứt vào việc tu hành. Dáng thể của thầy trông rất từ tốn đạo mạo, nếu không nói là khó khăn khổ hạnh. Nhưng là khổ hạnh khó khăn của con người chỉ khắc khe với chính bản thân mình. Thầy thường quên mình, quên mình để hy sinh cho tha nhân và vì tha nhân. Thầy hay nói tôn giáo nói chung và sự hy sinh cá nhân đều đồng nghĩa như nhau để làm kim chỉ nam cho đời mình. Tác người cao ráo, gầy ốm dong dỏng, gương mặt xương xương với đôi mắt hiền hòa tỏa ra một tinh thần trong sáng sùng đạo cao độ tuyệt vời.





Những khi có dịp được đối diện với cô Chín Thú trong những ngày lễ Phật tại chùa, nhứt là khi nhìn vẻ mặt xanh xao hao gầy, triền miên buồn thảm của cô, thầy tỏ ra rất cảm thông, chia xẻ hoàn cảnh đáng thương hại mà cô đã từng nhẫn nại ép lòng chịu đựng lâu nay. Thầy đã biết rõ tận tường tất cả mọi gút mắc trong cuộc sống tình cảm của cô xuyên qua những lời lẽ tâm sự của hai ông bà Năm Giàu. Từ ngày đến công tác ở chùa làng, thầy thường hay tới lui thăm viếng hai ông bà Năm để vấn an, để giao lưu thân mật và cũng để đàm đạo chung quanh mùa màn lúa thóc. Thỉnh thoảng thầy vui vẻ sa đà qua giáo lý nhà Phật cùng những phương thức tu hành. Có lẽ đây chính là nhiệm vụ hàng đầu của thầy? Cô Chín Thú thật tình không một lần ký thác gởi gấm với thầy nỗi lòng trắc ẩn sâu lắng của mình. Lý do lúc nào cô cũng một mực kính trọng thầy như người trên trước hướng dẫn tinh thần. Cô luôn giữ một sự gián cách tối thiểu, đúng tác phong của người con gái may mắn xuất thân từ một môi trường truyền thống có giáo dục và đạo đức. Ngược lại, thầy Trí vẫn xem cô như một phật tử trẻ trung đẹp người đẹp nết nhưng ngoan đạo, không hơn không kém. Mãi cho đến một ngày nọ, không lâu sau đó mấy tháng khi thầy tình cờ gặp cô trên đường đi chợ xa ở quận về.







Lúc ấy đã trưa trờ trưa trật, mặt trời đứng bóng hẳn từ lâu, nắng đổ lửa toé hào quang, cô quyết định phải dừng chân nghĩ tạm dưới bóng mát dãy trâm bầu dầy mịt nơi bờ ao công cộng. Rồi bỗng nhiên không biết bị thúc đẩy ra sao, lần đó thầy Trí thình lình tiến lại gần bên cô rồi đặt nhẹ bàn tay gân guốc rắng rỏi của mình lên bờ vai gầy yếu của cô. Thầy nói rất tự nhiên:


- Chào cô em! Xin lỗi cô nhé. Tôi có đường đột lắm không?


Rồi thầy nhẹ giọng thăm hỏi:


- Cô vẫn khoẻ chứ? Lâu lắm rồi từ ngày tôi về đây, tôi không có dịp hân hạnh tiếp chuyện riêng với cô. Tôi cũng thường qua nhà thăm hỏi ông bà Năm nhưng chẳng khi nào được gặp cô, đừng nói chi đến một lời trao đổi. Hôm nay chợ có đông người lắm không mà sao cô về trễ thế nầy. Đã đứng bóng khá lâu rồi!


Dường như thấy cô Chín có những cử chỉ lúng túng, ngại ngùng bối rối về cách xử sự quá đỗi thân mật và lạ thường vừa rồi của thầy, thầy vội vàng vấn an cô ngay:


- Cô hãy bình tĩnh, đừng ngại ngần và cũng đừng sợ hãi chi cả. Chỗ quen biết thân tình mà! Tôi với gia đình cô, đặc biệt là với ông Năm không xa lạ chút nào. Có lẽ cô cũng từng theo dõi biết phần nào mà!


Thầy nói tiếp:


- Hơn nữa là một người trọn đời nguyện hiến thân chọn con đường tu hành khổ hạnh, tôi không hề làm điều gì sàm sỡ, sằn bậy, thiếu suy nghĩ và thiếu đạo đức đâu. Cô đừng sợ chi cả và cũng đừng nghĩ sai quấy. Không nên đâu. Cô hãy an tâm vững bụng.


Rồi thầy chuyển qua câu chuyện tình cảm khá tế nhị:


- Lâu nay tôi biết rõ tại sao cô hay buồn. Cô không mấy yêu đời. Tại sao cô đau khổ mãi như vậy? Tại sao trong lòng cô không lúc nào được thoải mái bình ổn, vui vẻ như bao nhiêu người con gái bình thường khác? Tâm hồn cô không được an lạc. Tại sao cô lại giấu giếm đau khổ của mình? Tại sao buồn lo cô lại đậy che? Với tất cả lương tâm và vị trí của người tu hành, hành xử vì tha nhân, vì hạnh phúc của họ, tôi không thể nào cho phép tôi thờ ơ lãnh đạm đối với những người đang lặn hụp đắm chìm miên viễn trong bể khổ. Như trường hợp điển hình của cô.





Thầy ngập ngừng:


- Tôi muốn…


Nói tới đây, thầy cố tình bỏ lững? Hay thầy không muốn nói tiếp. Hoặc thầy đang đắn đo suy nghĩ, cân phân thêm thì phải. Thầy chưa biết phải nói tiếp những gì cho hợp tình và hợp hoàn cảnh thầy đang đối đầu. Bất thần quá, cô Chín vừa kính trọng vừa thẹn thùng đỏ mặt lẩm bẩm: «Thật có chết cho tôi chưa! Thì ra chắc mọi người chung quanh tôi đều biết hết nỗi khổ tâm trong lòng của tôi hay sao? Khổ quá. Thật khổ cho tôi quá đỗi. Mà tại sao vậy? Tại sao mọi người đều biết cả? Cũng lạ, tôi không sao hiểu nổi! Vì tôi đã cố gắng quên tất cả, cố gắng chôn chặt nó trong lòng bấy nay để không làm buồn lây, gây phiền phức cho những người chung quanh từng yêu mến tôi. Tôi đã làm hết sức của tôi mà! Bây giờ tôi biết làm sao đây?». Thấy vậy, thầy Trí không còn chần chừ nữa.







Thầy giải thích:


- Đúng là khi tôi nhìn trong đôi mắt u buồn sâu hút của cô, tôi đã biết rành rọt tất cả ẩn tình thôi thúc kỳ bí cô cố tình hay cố công giấu giếm bấy nay. Cô đã tỏ ra là một người có dư thừa can đảm, có dư thừa sức chịu đựng… toàn là những đức tánh tốt hiếm hoi trên đời, những đức tánh truyền thống của người phụ nữ Việt Nam đáng được ngưỡng mộ ngợi khen và đề cao. Nhưng khách quan mà nói, tôi dám đoan chắc cô không bao giờ và chẳng bao giờ thành công đâu. Cô cầm chắc gánh lấy thất bại. Có phải vậy không?





Đến đây thầy có ý muốn giải thích thêm nữa để mong cô được tận tường hơn, đồng thời cũng động viên để cô thấu hiểu lý do và bổn phận của mình. Cô nên nhân cơ hội nầy trình bày cặn kẽ một lần dứt khoát những nỗi lo âu đau khổ âm ỉ trong tâm tư tình cảm mình hầu tìm sự hóa giải qua đôi tay cứu rổi và tấm lòng từ bi vòi vọi của Đức Phật. Dĩ nhiên việc nầy qua trung gian của người đại diện hiện tại là thầy. Có như vậy cô mới tìm lại được cuộc sống thanh thản yêu đời ở tuổi thanh xuân. Ngược lại, cô sẽ đánh mất phí uổng cái thời xuân mộng đáng tiếc. Tuy nhiên lời lẽ của thầy bị khựng lại và tắt lịm nơi đôi môi mấp máy của thầy. Thầy đang đắn đo lựa lời sao cho phù hợp với hoàn cảnh và cũng để cô Chín không phải rục rè bở ngở mà càng thêm tội nghiệp. Càng nhìn cô, thầy càng thận trọng hơn. Sau cùng thầy thốt lên qua giọng cảm thông và thuyết phục:





- Nhưng tại sao cô không coi tôi là người bạn đáng tin cậy để gởi gấm nỗi lòng mình? Bây giờ đang đứng trước mặt cô, tôi không xem mình là người dìu dắt tinh thần mà là một người bạn tốt, người bạn gương mẫu sẽ quan tâm lắng nghe để giúp cô giải tỏa những ưu phiền. Càng để tồn đọng lâu ngày, những ưu phiền đó càng tăng và có cơ trở thành nguy hiểm nữa. Cô còn ngại điều gì nữa chăng? Cứ nói thật. Tôi đã chân thành trình bày thì cô cũng không nên giấu giếm. Tôi cam kết sẽ giữ mãi trong lòng những lời ký gởi của cô. Cô hãy thành khẩn và vững tin nơi tôi.





Cô Chín đâm ra vụng về chới với. Cô lặng thinh và bầu không khí bỗng nhiên trở nên quá ngột ngạt. Cô không thốt ra được một tiếng trả lời nào theo đúng với phép lịch sự thông thường còn triệt để duy trì nơi bản làng quê mùa hẻo lánh của cô. Cũng là lúc nhằm để đánh tan bầu không khí có vẻ ngột ngạt ấy, thầy Trí vội vàng đưa tay mình đỡ lấy cái rỗ đi chợ khá to và quá nặng của cô Chín. Rỗ đựng đầy vật dụng lỉnh kỉnh và thức ăn, nào nước mắm nước tương, rau quả, nào cá mắm cô vừa mua lúc hừng sáng. Thầy không quên nói những lời nghĩa tình chân thật:





- Thôi được! Hãy chờ một dịp thuận tiện hơn cũng không muộn. Mình sẽ còn có nhiều dịp khác, chớ chẳng lẽ đây là lần đầu tiên mà cũng là lần cuối cùng hay sao?! Tôi hy vọng như vậy. Bây giờ tôi có thể phụ giúp cô mang cái rỗ nặng nề nầy về đến tận nhà cô nhé! Đỡ cho cô phần nào. Là phụ nữ tay yếu chân mềm, đường về còn lại khá xa giữa trời nắng như thiêu như đốt như thế nầy làm sao cô kham nổi. Tội nghiệp quá! Vả lại cũng cùng một hướng trên đường tôi về nhà chùa mà! Cô





Những giọt nước mắt kín đáo chan chứa biểu lộ lòng biết ơn làm nóng hẳn đôi mắt cô. Vì từ lâu, lâu lắm, cô cảm thấy mình lẻ loi, bơ vơ trơ trọi một mình, nhứt là thiếu vắng tình thương. Không phải là tình thương thường tình của đại gia đình, của cha mẹ và anh em cô, mà là tình thương đậm đà của một người khác phái với cô. Tình thương sâu đậm của Út Quyên đối với cô cũng đã bị lùi xa tan biến vào quá khứ… Cô lầm lũi lặng lẽ theo chân thầy Trí đến tận cổng nhà. Khi đó thầy mới tách ra về, sau khi trao đổi vài lời hứa hẹn sẽ gặp lại nhau tiếp nối câu chuyện chưa có đoạn kết thúc. Ngày chúa nhựt tiếp theo, nhân trong một buổi lễ lớn ở chùa, thầy Quang Trí vừa dứt xong phần kinh kệ, bệ vệ tiến đến chái hiên mạn đàm thân mật cùng thiện nam tín nữ đang tụ tập đông đủ như thói quen của thầy những khi thầy không quá bận rộn. Hôm nay thầy dong dài giải thích một chủ đề mà họ thường nêu lên với thầy những khi được thầy tiếp xúc riêng. Thầy thừa cơ hội có mặt đông đủ để phân tách cùng một lần cho tiện, đỡ mất thì giờ của thầy một khi phải giải thích riêng rẻ cho từng người. Đó là vấn đề khúc mắc nhức nhối trong kiếp sống trần gian có những lúc ám ảnh con người, dù họ có muốn hay không muốn: duyên và nghiệp. Bà con đang chen chúc đứng ngồi tập trung, say sưa lắng tai nghe thầy triển khai, vừa súc tích cô đọng, vừa giản dị dễ hiểu, chan chứa âm hưởng gần gũi thân tình. Thầy khéo léo chọn lọc để dẫn chứng từ những trường hợp thực tiển trong đời sống hằng ngày khiến họ nắm bắt dễ dàng mọi nội dung thầy trình bày. Và những lời khuyên lơn nhắn nhủ, dù trình độ văn hóa của họ chẳng phải có giới hạng mà thực sự phải nhìn nhận là quá kém, nhưng cũng giúp họ thỏa mãn phần nào trong cốt lỏi.







Tính ưu việt của thầy mà đa số thính giả hiện diện đều đồng thanh xác nhận, nhứt là những bậc có học thống nhứt bảo là thầy có một kiến thức hiếm hoi đã thực sự giúp họ tiệm tiến trao đổi tầm hiểu biết của mình và cho phép họ có cái nhìn mới hơn về cuộc sống và kiếp con người. Trên đà phấn khởi chung hôm đó, thầy bỗng nghiêm trang chuyển sang một chủ đề cũng không kém phần nhức nhối phức tạp về các phương pháp áp dụng nhằm hóa giải đau khổ trong đạo Phật. Thầy triển khai vài ba cái ý chánh chung quanh bể khổ trầm luân của con người trần tục nhằm tác động sự chú ý của thính giả. Theo với mạch nguồn tư tưởng, thầy cố ý muốn nhấn mạnh đến khía cạnh triết lý giải thoát tiềm ẩn trong câu chuyện. Mọi người đều tỏ ra quan tâm lắng tai theo dõi, nhứt là có một số ít là phật tử tu tại gia, thỉnh thoảng mới đến nghe kinh, nghe thầy thuyết pháp. Hôm nay họ rất thích thú khám phá ra nguyên lý của con đường dẫn đến kiếp sau của mình. Khác hẳn với gia đình ông bà Năm Giàu vốn mộ đạo, không hề bỏ sót một ngày lễ nào cả càng tâm đắc thấm thía hơn. Thầy say sưa nhắc đến mấy câu gợi ý khúc chiết làm cho thính giả đều sục sùi:





«Những người đang khóc, triền miên khóc do đau khổ sẽ được cứu rổi vì được dỗ dành dưới ánh sáng trí tuệ, từ bi vị tha, yêu thương dắt dìu của Đức Phật»…


«Nếu không kinh qua đau khổ, con người sẽ không thể nào thấu hiểu trọn vẹn ý nghĩa của cuộc sống tại thế nhằm giúp họ phấn đấu bản thân để vương lên»…


«Kinh nghiệm trong kiếp con người là sự kết hợp của một chuỗi dài thất bại mà họ đã trả với một giá quá đắc, nhưng cũng qua đó mang đến cho họ một mảnh lực tiềm ẩn giúp họ đứng dậy và tiến tới mạnh dạng hơn».


«Thượng Đế uy quyền rất công bằng đã mang đến cho mọi người đầy đủ tất cả, nhưng ngược lại và đáng tiếc là đa số trong chúng ta không biết mà thôi»…





Một lão nông già lụm khụm râu tóc bạc phơ đã bước qua quá xa tuổi trượng triều trượng quốc đang sống quạnh hiu trong cô đơn cô độc vì vợ lão và các con lão đều qua đời hết, bỏ lão bơ vơ một mình với tuổi già chân mỏi gối dùn. Lão tủi cho thân phận mình, không kềm hãm được những giọt nước mắt xúc cảm từ từ rơi trên đôi má xương xương xanh nhạt dưới những đường nhăn nheo sâu hóm nơi vầng trán. Kế bên lão, một cô gái trông còn quá trẻ, tuổi độ đôi mươi là cùng, đưa tay nhẹ nhàng đỡ lấy chiếc khăn choàng che mặt để kín đáo trốn lánh những cái nhìn tò mò của những người chung quanh. Cô đang âm thầm mũi lòng, sục sùi nức nở không cách gì cản ngăn được những dòng nước mắt. Cô có tâm sự não nề ê chề chẳng biết ký thác cùng ai…




Tất cả những người đang chìm nổi, bềnh bồng trôi giạt triền miên trong bể khổ, đã mất mát hay vì chia ly cách biệt một người thân yêu trong gia đình đều xúc động qua những lời giải thích vừa rõ ràng, vừa gói ghém đầy đủ tính thuyết phục của thầy. Nhưng cô Chín trái lại rất ái nái. Cô thấy không được an tâm bình ổn trong lòng, khi ánh mắt của thầy Quang Trí từng chập từng chập hướng thẳng về phía cô. Linh tính của người đàn bà cho cô biết không sai. Vì chính cô cảm thấy những lời giải thích của thầy thực sự nhắm về hoàn cảnh riêng tư của cô hơn là của bà con chung quanh. Chiều đến, nhân thời tiết phơi phới quang đảng, thầy Trí lần mò đến nhà thăm ông bà Năm Giàu như thói quen lâu nay, mỗi khi thầy rổi rảnh do thầy ngụ lại chùa thì giờ quá dư thừa. Nhưng khác với những lần thăm viếng trước, lần nầy thầy rất vui.







Cũng lạ. Gặp cô Chín đang bước ra mở cánh cửa chánh để đón tiếp thầy, thầy hớn hở cất lời vào đề hỏi ngay:


- Sao cô Chín?! Cô nghĩ sao? Cô thấy như thế nào về những lời giải thích của tôi chiều hôm qua về đề tài đau khổ? Nhứt là con đường giải thoát theo nguyên lý của nhà Phật.


Cô Chín vồn vã tươi cười. Cô vội đáp ngay không chút suy nghĩ:


- Thật tuyệt vời! Tôi chưa từng nghe qua trong đời. Tôi đã nắm lấy được cốt tủy vấn đề ngày hôm qua và chắc sẽ giúp tôi rất nhiều trong những ngày tới.


Cô liền tỏ ra là người lịch sự, biết nể trọng người trên trước và có chức vị. Cô rất lễ phép nói qua âm giọng nhẹ nhàng thôi miên vì từ thuở nhỏ được hướng dẫn sống trong cái nôi có giáo dục của mẹ cha:


- Cám ơn thầy. Tôi cám ơn nhiều lắm. Thầy đã cho tôi được học hỏi một đề tài vô cùng hữu ích. Nhưng sự thực tôi chưa lĩnh hội hoàn toàn do còn vài điểm khúc mắc cần được thầy giải thích tận tường hơn.





Thầy Trí lật đật cướp lời ngay:


- Không! Không phải như vậy đâu. Không phải như ý tôi mong muốn.


Thầy châu mày:


- Tôi muốn hỏi cô…


Rồi thầy nghiêm nghị:


- Dù sao tôi cũng xin thành thật cám ơn những lời khen tặng chân thành của cô. Những lời đó sưởi ấm lòng tôi không ít, vì nhiệm vụ của tôi đã mang đến một kết quả khả quan, mọi người đã lĩnh hội phần nào ít ra trong căn bản. Nhưng thực ra ý tôi chỉ muốn hỏi cô về những lời giải thích của tôi trong thực tế có giúp gì được cô chút nào hay không?


Im lặng giữa hai người… Để phá tan bầu không khí khá ngột ngạt, thầy đánh tiếng:


- Tôi nói có rõ ràng không? Tôi trình bày có thấu tình đạt ý không?


Cả hai thầy Trí và cô Chín vẫn còn đứng quanh quẩn bên nhà bếp khá xa nơi bàn ăn và ngoài ánh mắt của mọi người trong gia đình cô. Họ đang sắp sửa bước vào ngồi dự bữa cơm chiều khá trễ. Nhân dịp nầy, thầy Trí cũng được hai ông bà Năm Giàu mời tham dự. Thầy vui vẻ chấp nhận ngay. Trước khi cả nhà chuẩn bị ngồi vào bàn ăn, thừa lúc mọi người đang bận bịu giải quyết nốt vài công việc còn dang dở, thầy Trí và cô Chín lần ra hiên nhà và trở lại câu chuyện bỏ lửng vài phút trước đây. Thầy Trí nhắc khéo:


- Tôi muốn biết ý của cô. Hồi nảy cô chưa trả lới dứt khoát mà!





Cô ngước lên phát biểu nhỏ nhẹ nhằm đáp lời thầy Trí:


- Thật tình không có gì bằng đối với tôi lúc nầy.


Thầy bèn đáp lại với một sức mạnh cuốn lôi khiến cô Chín rùng mình cúi đầu không dám nhìn thẳng thầy:


- Lâu nay tôi có ý định muốn tiếp xúc riêng để nâng đỡ tinh thần cô. Vả lại ông bà Năm cũng từng ngỏ ý với tôi như vậy. Nhiều lần lắm. Cô hãy vui vẻ quẳng gánh lo đi để sớm tìm nguồn sống mới nhằm tận hưởng hạnh phúc tròn đầy của thời son trẻ. Tôi biết thời gian qua mau nhưng khốn thay những kỷ niệm mãi mãi tồn đọng trong cô. Bây giờ cô phải can đảm đứng lên nhìn sự thật, tìm con đường thênh thang, mới mẻ hơn, con đường chan hòa ánh sáng.


Rồi thầy như ra lệnh:


- Cô hãy nhìn thẳng mặt tôi. Và hãy trả lời cho tôi xem nào.


Nhưng cô Chín chẳng hề dám ngước lên nhìn thầy. Cô không có can đảm dù thầy đang đứng tần ngần cạnh bên cô và chờ đợi một lời nói của cô. Chỉ một lời thôi để thầy an tâm bước vào bàn ăn. Dù vậy thỉnh thoảng cô Chín liếc chéo nơi khoé mắt, lén nhìn thầy Trí với cái nhìn vừa e thẹn vừa biết ơn. Câu chuyện vòng vo đôi co chưa đến hồi kết thúc thì rất may cho cô. Cô vui mừng cảm thấy mình được thoát nạn bất ngờ.




Cô nghĩ ông Trời thương nên giúp cô, khi tai cô nghe rõ lời bà Năm Giàu dõng dạt báo cho mọi người biết hãy mau mau ngồi vào bàn, thức ăn còn nóng sốt bà sắp sửa dọn lên mâm. Sự thực cô Chín Thú không biết phải giải thích cách nào, giải thích ra sao về thái độ của mình khi đứng đối diện thầy Trí lúc nảy. Cô bị thôi miên lôi cuốn, thôi miên qua nhân duyên khắng khít về những gì liên quan đến lãnh vực thiêng liêng Phật pháp, lôi cuốn về lòng trung thành tuyệt đối với niềm tin… thể hiện qua cái nhìn thuyết phục của thầy. Cô trả lời đại khái. Một cách quanh co mù mờ không có gì rõ ràng. Cô trả lời để mà trả lời mong chóng qua truông. Vì cô không có con đường chọn lựa nào khác qua thái độ lập lờ lập lững đó của cô. Nhưng đồng thời cô cũng nơm nớp lo âu, tâm thần bất ổn. Thật rắc rối! Quá ư phức tạp! Từ đó về sau cô không bao giờ thấy lòng mình thanh thản thoải mái những khi phải đối diện với thầy Trí. Do vậy, nhiều lúc cô có ý muốn trốn lánh tránh né thầy, mỗi khi thầy thừa dịp đến nhà thăm viếng vấn an ông bà Năm. Nhứt là khi thầy mon men tìm đến gần bên cô. Cô rất sợ những lúc nầy. Nhưng thật vô lý làm sao! Một nghịch lý khó hiểu. Vì những khi thầy rời xa cô hoặc vắng mặt đôi ba ngày, cô cảm thấy rất cần sự hiện diện cứu tinh của thầy. Dù sao đi nữa những ý kiến của thầy vẫn hữu ích và có tính thực dụng do những kinh nghiệm từng trải trường đời của thầy.







Trong bối cảnh lạnh lùng cô đơn cô độc của mình, cô chỉ thấy có mỗi một mình thầy là người duy nhứt cận kề bên cô, tỏ ra biết thông cảm nỗi buồn dây dưa sâu lắng và hầu như bế tắc trong cô. Thầy thực sự là người mang đến cho cô ít nhiều an ủi vỗ về mà cô đang cần đến. Trước đây, cô đã chân thành để tâm yêu thương Út Quyên, yêu thương đắm đuối trong mối tình đầu đời. Nhưng khốn thay lại là một thứ tình thương ngang trái trắc trở đưa cô càng ngày càng đến dần nỗi tuyệt vọng. Đôi lúc cô mất hẳn niềm tin ở một sự kết thúc tốt đẹp. Thế gian thường tình hay nói, trường hợp mình đã chọn cho mình một người vì tình yêu chân thật, mình có cảm tưởng như người ấy luôn luôn hiện diện và sống mãi trong lòng mình. Đối với cô, nhận xét nầy dường như có cơ không đứng vững. Cô hoan mang… Bao lần cô tự hỏi… khi người yêu vẫn bặt tâm bặt dạng. Bây giờ, càng ngày thầy Trí càng đến gần với cô, thầy càng chiếm lỉnh những ý nghĩ của cô hơn. Còn về mặt tình cảm chưa biết cô có những băn khoăn xao xuyến thực hư như thế nào!





Những năm sau đó, bà vợ luống tuổi của thầy Chánh Niệm cũng nối gót theo chồng qua đời và hai ba đứa con của hai ông bà lúc đó đã trưởng thành nên vai nên vế. Tất cả đều chung một lòng quyết định phải rời bỏ ngôi chùa làng tôi ra đi về miền xuôi tận cuối mũi quê hương mong tìm phương kế làm ăn sinh sống với tương lai hứa hẹn, vững vàng hơn. Họ hy vọng nơi vùng đất phương Nam phù sa màu mỡ, tôm cá đầy đồng, nhởn nhơ trên sông rạch chỉ cần thò tay xuống nước đụng phải ngay, cây trái lại ngon ngọt trĩu cành… sẽ giúp họ vương lên khấm khá hơn là tiếp tục đeo đuổi nối nghiệp mẹ cha nơi bùn lầy nước động phèn chua, không ngày mai. Hẳn nhiên, từ đấy chùa thầy Chánh không còn người trông nôm chăm sóc phần Phật sự hằng ngày, cũng như công việc bận rộn dọn dẹp bảo quản trong ngoài, nhứt là vườn tược sẽ trở thành một bãi hoang chằn chịt lùm buội và cây cối lớn nhỏ. Bà con những khi hữu sự, nhứt là khi có tang chế không biết trông cậy nhờ vã vào ai. Họ bơ vơ như trẻ mồ côi và lãnh vực tâm linh tinh thần của họ cũng chịu cảnh lạc loài. Hơn nữa, thầy Trí vẫn tiếp tục duy trì thói quen của thầy cứ đi đi về về không ngày giờ nhứt định, tùy theo nhu cầu của dân chúng trong làng cần đến, những khi thầy không bị ràng buộc chuyện riêng tư. Chớ tuyệt nhiên thầy không chịu ở hẳn luôn ở chùa với nhiều trách nhiệm đối với một người độc thân như thầy.







Quả là một bất lợi, không khéo ngôi chùa tiếng tăm một thời có nguy cơ suy sụp, lụn tàn tan vỡ một ngày không xa. Bà con tôi phần đông đều tiên đoán bi quan như vậy. Họ rất đau buồn khi nghĩ đến một kết thúc đen tối khó lường trước viễn ảnh bế tắc của ngôi chùa hơn trăm năm hiện diện nơi làng tôi. Tìm được một người thiện nguyện làm thí công, hay cùng lắm hưởng một số tiền thù lao tượng trưng cũng khó khăn giàn trời giàn mây. Bỏ công đi tìm đỏ con mắt khắp nơi trong làng chưa chắc đã có. Đó chỉ mới nói sơ qua những việc bảo quản nhà chùa, việc nhang khói và chăm lo vườn tược chung quanh. Nhân công nơi vùng đất khẩn hoang lập ấp vốn hiếm hoi, nhứt là vào ngày mùa, nhu cầu phá rừng đốt rẫy, lên vườn lên liếp cần rất nhiều nhân lực hầu như thường xuyên quanh năm suốt tháng.







Thêm vào đó, người nào đồng ý đến làm công việc thiện nguyện nầy ắt phải có nhân duyên hướng tâm đến lãnh vực thiêng liêng tối thượng và thường xuyên chắp nhận sống một mình ở chùa, cách ngăn với đa số bà con xóm làng. Họ có chấp nhận chịu đựng dài lâu cảnh vắng vẻ tĩnh lặng, cô đơn tẽ lạnh không? Do vậy ban bệ Hội Tề làng tôi hợp với các bậc trưởng thượng thổ công có uy tín nhứt trong thôn xóm bèn cùng nhau bàn luận cố tìm một giải pháp ổn thỏa. Một giải pháp thuận với nhân tình, hợp với đất trời. Chẳng lẽ họ đành tâm dửng dưng làm ngơ để ngôi chùa có một quá khứ tốt đẹp lâu đời, nơi tượng trưng lãnh vực tâm linh tinh thần của dân làng dần dà trở thành hoang phế suy tàn. Nếu để như vậy họ cho là một mất mát lớn và chẳng khác nào sẽ có tội tầy trời không thể tha thứ đối với lớp hậu sanh.







Tất cả đều biểu đồng tình, đồng thanh đi đến một nhứt trí. Phải cố công trì chí thuyết phục mời cho bằng được thầy Quang Trí đến chùa trụ trì. Một giải pháp vừa hợp tình vừa hợp lý. Vì thầy cũng đã quen nơi nầy từ mấy năm nay. Thầy chẳng xa lạ chi đối với bà con bá tánh. Hơn nữa thầy đã để lại nhiều kỷ niệm tốt đẹp khiến ai ai cũng quyến luyến, khâm phục thầy qua tấm lòng hy sinh phục vụ tha nhân và trọng trách đối với Phật pháp. Bây giờ chỉ còn vấn đề khó khăn không dễ vượt qua là làm sao, bằng cách nào uốn lưỡi làm xiêu lòng thầy. Và ai là người có uy tín sẽ đứng ra lo việc nầy? Sau cùng có người đề nghị một ý kiến táo bạo nhưng lại được đa số phấn khởi chấp thuận ngay. Để kềm chân thầy Trí bằng lòng ưng thuận đến trụ trì ngôi chùa đang hoang vắng bỏ phế cả năm nay, họ nảy ra một sáng kiến sẽ đứng ra làm mai mối cho thầy thành lập gia đình. Mà chỉ lập gia đình với một người địa phương. Nếu được, phải là người xuất thân từ làng tôi.







Như vậy mới có lý do chánh đáng nhằm cột chân cột cẳng thầy định cư vĩnh viễn ở chùa. Thầy không còn đi đi về về như những ngày trước nữa. Có những bà bật ra cười ngất ví von thầy sẽ về ở rể bên nhà vợ do họ dựa vào câu nói móc họng đầy ác ý của những người miệng mồm độc hại: ở rể nhà vợ còn thua ở chuồng heo. Tuy nhiên họ quên phứt rằng trường hợp của thầy không phải ở nhà vợ mà là quê vợ. Nhưng dù gì việc nầy sẽ giúp bá tánh an tâm hơn trong lãnh vực thiêng liêng tín ngưởng của họ. Thầy Trí sẽ như một cây ăn trái được chọn lựa kỹ càng, bám rễ chắc nịt xuống lòng đất thôn làng để cho hoa quả tốt đẹp về sau. Tất cả bà con đều tán thành sáng kiến đó, ngay cả hai vợ chồng ông Năm Giàu.





Ngay chiều hôm cuối tuần, thầy Trí lại mon men đến viếng ông bà Năm Giàu và trong câu chuyện trao đổi qua lại, ông Năm vui miệng nhắc lại những lời phát biểu của hội đồng trưởng thượng mà ông cũng vừa mới nghe qua chỉ vài ngày trước. Ông tỏ ra rất bằng lòng thỏa mãn và chỉ có một ao ước là mọi việc sẽ suông sẻ tốt đẹp trong những ngày cận kề sắp tới. Càng sớm càng tốt do có một khoảng trống không trong lãnh vực tâm linh nơi ông. Cũng lâu lắm rồi gia đình ông không thường xuyên đến chùa do những dịp lễ lộc cứ thưa dần rồi bặt luôn vì vắng mặt người tổ chức và hướng dẫn. Hôm đó tất cả mọi người trong gia đình ông Năm Giàu đều có mặt đông đủ, không sót một người nào cả. Họ xúm xít ngồi chung quanh một bàn cây khá dài và chắc chắn đặt giữa gian nhà bếp nơi ông Năm có thói quen tiếp khách. Cái bàn bằng gỗ tạp nhạp nhưng vững vàng nầy tượng trưng cho sự đoàn kết sum hợp và chia xẻ của gia đình cũng thường được dùng để ăn cơm.




Nhứt là những bữa ăn tối, thời điểm duy nhứt sau một ngày làm việc nặng nhọc ngoài đồng áng, mọi thành viên lớn nhỏ đều có mặt vui vẻ dưới ánh sáng khi mờ khi tỏ của ngọn đèn dầu mù u treo lòng thòng từ trên nốc nhà. Ngoài nơi thân thuộc nầy, chung quanh đều chìm trong màn đêm u tối. Trừ khi thỉnh thoảng ánh sáng của ngọn đèn dầu phựt lên theo luồng gió lùa qua khe vách, chiếu thẳng vào đôi mắt chói lòa sáng ngời của con mèo mun đang nằm im trong gốc tối rình chuột. Lúc ấy chỉ nghe lao xao tiếng nói cười vui vẻ không ngớt và tiếng len ken nhè nhẹ của đũa chén.





Hôm ấy thật cũng lạ. Nghĩ ra càng khó hiểu. Mọi người dù không có thói quen để ý nhưng cũng phải chú tâm. Vì khác với mọi lần khi thầy đến viếng ông bà Năm, bữa nay thầy Trí trầm ngâm ít nói. Thầy nghiêm nghị kín đáo hơn và có vẻ suy nghĩ nhiều. Nụ cười hề hà tươi rói ngày nào của thầy cũng biến đâu mất. Đôi lúc thầy ngồi yên giữ im lặng một hồi lâu như đang nghĩ ngợi một chuyện gì quan trọng lắm nhưng thầy còn ngại ngùng chưa tiện nói ra. Trong khi tiếng tíc tắc tíc tắc liên tục… của chiếc đồng hồ trứng dái treo trên vách nhà nghe rõ ràng theo một nhịp điệu trầm đều buồn hiu, nếu không có tiếng của đám chó đôi ba con liếng thoáng sủa ma ngoài vườn. Bối cảnh bất thường đó kéo dài nhiều phút đồng hồ, nhưng trong thời gian ngắn ngủi ấy, từng chập thầy không ngớt tập trung thập thò hướng cái nhìn tình tứ của mình vào gương mặt dịu hiền ửng hồng của cô Chín. Thầy cười duyên với đôi má lúm đồng tiền rất dễ thương.




Vợ chồng ông Năm Giàu vốn là người tinh mắt, nhưng lúc ấy giả đò như không để ý đến. Cả hai vừa tế nhị vừa thận trọng không nói một lời nào cả. Chỉ vì lý do duy nhứt sợ mình nghĩ sai quấy về một người mà hai ông bà rất nể trọng bấy nay. Nghĩ như vậy mà mang tội. Vả lại vấn đề tình cảm phức tạp lắm, đúng sai có thể bị lầm. Trái lại, cô Chín, con người rất nhạy cảm, nhận thấy có điều gì bất thường trong cái nhìn lạ lẫm của thầy Trí nên không hề giám ngửng mặt nhìn thẳng mặt thầy. Cô cố tình tránh né hoặc đưa đôi mắt dáo dác nhìn khắp nơi chung quanh mình. Dù vậy, thỉnh thoảng cô hoảng hồn khi nhận thấy ánh mắt bất thường ấy của thầy Trí cứ hướng về phía cô. Dường như hiểu ý, sau đó cô cố tìm cách để lánh mặt nhưng cô không đạt được theo ý mong muốn của mình.







Ông bà Năm Giàu bỗng giựt mình khi cả hai nghe giọng nói khẩn cầu đầy tự tin của thầy Trí phớt bên tai:


- Tôi xin trình bày với hai bác một việc quan trọng nhứt trong đời tôi. Tôi rất chân thành và hoàn toàn đứng đắn. Tôi đã cân phân từng lời nói. Tôi đã đắn đo từng ý nghĩ trước khi đến đây hầu chuyện hai bác.


Hai ông bà Năm Giàu có vẻ hơi ngạc nhiên, chỉ hơi ngạc nhiên thôi, chớ thực ra cả hai cũng đã tiên đoán được phần nào rồi. Nhưng hai ông bà vẫn khư khư bình tĩnh. Thầy Trí tiếp tục trình bày:


- Hôm nay, ngay giờ phút quan trọng nầy có hai bên vai vế chứng giám lòng thành, tôi xin thưa với hai bác để khẩn cầu nhờ cô Chín vui lòng đảm trách nhiệm vụ của một người nội trợ nhằm giúp tôi và giúp nhà chùa được duy trì trở lại, không phải vĩnh viễn bị đóng cửa đến hoang phế. Viễn ảnh đáng tiếc nầy thật phí uổng quá! Cả một truyền thống lâu đời nơi vùng đất mới nầy bỗng nhiên bị mai một. Nghĩ tới đây tôi không đành. Tôi không cho phép mình buông xuôi phí phạm, trong khi bà con cũng thường thố lộ nguyện vọng muốn tôi đừng bỏ họ.





Thầy nhấn mạnh đến hình ảnh chùa làng tôi để tranh thủ và tác động vào ông bà Năm Giàu. Vì thầy thừa biết hai ông bà rất sùng đạo hơn ai hết. Cả hai từng bỏ ra ít nhiều công sức và của cải phụ giúp trùng tu ngôi chùa lắm lần từ nhiều thập niên qua để có bộ mặt hôm nay. Hướng về phía cô Chín đang rục rè ngồi sát bên ông bà Năm và cạnh Mười Sổ, thầy nhấn mạnh:


- Tôi thực tình nhờ đến sự giúp đỡ tận tình của cô và một khi cô bằng lòng ưng thuận là cô trực tiếp phục vụ Phật pháp đó. Cô hãy quên mình vì bà con phật tử, vì Đạo. Cô nên hy sinh vì nguyện vọng của cộng đồng và qua đó, cô sẽ thành công xô đuổi, lùa xa lo âu đau khổ đang đay nghiến dầy vò trong cô.





Thầy xác nhận để thuyết phục thêm cô Chín:


- Cô sẽ tập sống một lối sống mới, sống cho người khác và vì người khác. Lối sống thiện tâm, diệt trừ hữu hiệu những ý tưởng tiêu cực tác hại. Như vậy chính là cô tạo dựng hạnh phúc riêng cho cô đó.


Cô Chín nghe qua đâm ra bối rối đáng thương… Mặt cô đỏ phừng. Mồ hôi tươm trên vầng trán. Cô không làm chủ được mình lúc đó. Cô vội đưa mắt hướng xuống sàn nhà không một chút phản ứng. Lời khẩn cầu của thầy Trí đến tình cờ quá nhưng lại trùng hợp với ý kiến của các bô lão và ban bệ Hội Tề. Thầy chưa hề nghe qua ý kiến chánh thức nầy bao giờ mà chỉ do sự thúc đẩy tình cảm âm ỉ nhen nhúm theo với thời gian gần gũi gia đình ông bà Năm. Nhưng đứng trước sự yêu cầu bất thình lình đó của thầy, cô Chín bẻn lẻn lặng thinh không trả lời chi cả. Cô như người mất hồn. Cô vội vàng tránh ánh đèn cứ phựt lên phựt xuống không thôi và giấu mặt trong đôi tay thon gầy của mình.







Thầy Trí mạnh dạng thúc hối, sau khi day qua xin phép ông bà Năm Giàu:


- Cô hãy trả lời tôi đi! Tôi đang chờ đợi chỉ một lời của cô thôi.


Cô Chín nói nhỏ nhẹ vừa đủ cho mọi người cùng nghe:


- Thật tình trong thâm tâm lúc nào tôi cũng muốn dành nhiều thì giờ đến làm công quả phục vụ nhà chùa, phục vụ bà con phật tử thân yêu trong xóm làng. Việc nầy đúng với truyền thống lâu đời của ông bà nội tôi đã từng để tiếng góp của cải và công sức tạo dựng nên ngôi chùa, cùng đứng ra mời thầy Chánh Niệm về trụ trì. Nhưng xin cho tôi được nói trung thực với lòng tôi là nếu để trở thành người phối ngẩu của thầy thì đó là một vinh hạnh tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến… nhưng cho tôi xin…


Không để cho thầy Trí kịp thời phản ứng, cô lên giọng:


- Tôi không thể.


Rồi cô lập lại lời nói của mình:


- Không thể. Dứt khoát không thể nào được. Tôi chẳng bao giờ ưng thuận cả. Xin thầy vui lòng thông cảm và thương mến rộng rãi hiểu cho tôi. Tôi đang khổ tâm vì tôi có tâm sự và nỗi lòng riêng…


Lời nói quá bộc trực thẳng thắn và dứt khoát của cô Chín khiến vợ chồng ông bà Năm Giàu nhảy nhỏm ngạc nhiên, nhứt là khi bà Năm buông lời:


- Con nghĩ làm sao vậy? Thật quá đáng lắm. Quả điên rồ mà! Con nói thiếu điều tao nổ tròng mất rồi. Con phải thận trọng, giữ gìn từng lời nói đối với người lớn chớ.


Bà vặn hỏi:


- Bộ trong lòng con có gì rắc rối lắm sao nên con thiếu sáng suốt, mất tình tĩnh vậy?! Bực mình quá! Tao hiểu không nổi. Con cái hết nói! Sau nầy đừng có đổ thừa tại… bị… nầy nọ, tao không tha thứ cho. Ý thức và thiện cảm con để nơi đâu rồi?





Nguyên lúc nầy hai ông bà Năm Giàu cũng đã quá trọng tuổi và thường xuyên bệnh hoạn rề rề, nhứt là vào những tháng trở trời lập đông, tiết lạnh có tác động không tốt đối với người già. Viễn ảnh gần đất xa trời của hai ông bà xem như chỉ mành treo chuông, có cơ xảy ra bất kỳ lúc nào. Cô Chín tuy là con út trong gia đình nhưng vẫn còn độc thân, vẫn sống hủ hỉ với hai ông bà. Một mai hai ông bà qua đời không biết tương lai của cô sẽ ra sao. Anh và em cô đều ra riêng, nhà ở xa ngôi nhà từ đường, có cơ ngơi sự nghiệp hạnh phúc bên vợ con. Cô Chín sẽ sống như thế nào? Hai ông bà Năm rất lo, mong mỏi gả được cô càng sớm càng tốt. Thấy cô có nơi có chỗ xứng đáng, hai ông bà mới an tâm nhắm mắt ra đi. Cô cần phải có một tương lai vững vàng, một cuộc sống đảm bảo về lâu về dài. Càng sống thêm ngày nào hai ông bà càng khổ tâm ngày nấy, tuy tế nhị không hề nói thẳng ra. Nhìn cô hằng ngày nhởn nhơ tới lui trước mặt cả hai ăn ngủ không yên. Vả lại gia đình ông bà Năm Giàu không mấy khá giả, trước nay chí thú lam lũ đội trời đạp đất sống cầm chừng cho qua ngày tháng, theo đúng với tinh thần thanh bần an lạc của người xưa. Nay bỗng nhiên được nghe thầy Trí thành thật ướm lời dạm hỏi con mình thì cả hai quá đỗi vui mừng ra mặt. Rõ ràng cuộc đời của mỗi người phải chăng là sự kết hợp những điều mà họ không bao giờ tính trước.




Bây giờ hai ông bà tỏ ra rất vững bụng an tâm. Nếu trong tương lai mọi việc sẽ trơn tru thành tựu. Một mai hai ông bà xuôi tay nhắm mắt theo ông theo bà đã có người đứng đắn, với cơ ngơi sáng sủa sẽ đảm bảo tương lai cho cô Chín. Cô sẽ có nơi nương tựa đáng tin cậy. Cô sẽ không phải bơ vơ cô đơn cô độc, thui thủi lầm lũi trên chính quê hương mình. Dĩ nhiên hai ông bà Năm Giàu vốn có nhãn quan thực tế nên đều đồng thanh chấp thuận, chớ nào còn ao ước gì hơn. Mà đối với hai ông bà, ao ước phần lớn đồng thuận với sự trùng hợp tình cờ. Ngoài ra ông bà cũng nghĩ thêm xa hơn. Cả hai cho rằng một khi thầy Trí xây dựng được tổ ấm nơi làng mình thì nhứt định thầy sẽ về trụ hình trụ bộ vĩnh viễn nơi chùa nhà. Việc nầy cũng nhằm thỏa mãn nguyện vọng chánh đáng của các bực trưởng thượng, của bà con trong làng và của hai ông bà nữa. Hai người khấp khởi trong lòng.







Đã nghĩ như vậy nhưng cả hai kín đáo chưa biểu lộ ra ngoài. Cùng lúc đó thầy Trí vẫn điềm đạm thư thả lên tiếng:


- Tôi biết cô Chín hiện đang nghĩ gì. Cô đang vướng mắc về mặt tình cảm. Một sự vướng mắc quan trọng.


Thầy nhấn mạnh:


- Có phải như vậy không cô Chín? Cô không thể quên được mối tình đầu đời, không thể quên được hình ảnh của anh Út Quyên, dù anh ấy đã bặt tin biệt tích quá lâu rồi! Cô đã chờ đợi hoài công, chờ đợi trong ảo tưởng, chời đợi một bóng hình không thực. Biết rằng hai chữ tình yêu có một âm vang rung động không thể so sánh với bất kỳ một từ ngữ nào khác trên đời, nhưng tôi khuyên cô nên thực tế, mạnh dạng đối diện và chấp nhận sự thật!





Cô Chín không nói chi cả nhưng khe khẻ gật đầu. Cái gật đầu của cô đầy bí hiểm. Có thể như vầy nhưng cũng có thể khác. Thật khó hiểu đối với những người chung quanh, trừ chính đương sự là cô Chín. Thầy Trí không ngần ngại thôi thúc, vang lơn khẩn cầu:


- Nhưng ngay lúc nầy tôi rất cần cô. Tôi yêu cô thực lòng.


Những ngày sau đó, vợ chồng ông Năm Giàu không ngớt phân công nhau, khi thì ông, lúc thì bà dùng lời ngon tiếng ngọt, thủ thỉ rỉ rả khuyên lơn cô Chín, phân tách cặn kẽ thiệt hơn về cuộc sống tương lai sau nầy của cô. Cả hai vận dụng lý luận đãi lọc trong suốt đời mình nhằm đánh mạnh vào tâm lý và tình cảm cô, khi khơi dậy những khó khăn và phức tạp một khi cả hai theo về nước Phật. Đôi khi cả hai không ngừng làm áp lực nặng nề, rúng ép để cô Chín không còn nội lực chống đối mà đành phải xiêu lòng phú mặc cho phần số.


**


Một lễ cưới rất giản đơn trong thân tình giữa gia đình hai họ đã được tổ chức xong xuôi tốt đẹp sau đó không lâu. Phía bên thầy Quang Trí chẳng có ai bà con trong tộc họ hay bạn bè thân thuộc, ngoài vợ chồng một bô lão có uy tính trong làng. Hai ông bà nầy còn chồng vợ đầy đủ với con cháu lớn nhỏ đông đảo nên được thầy thỉnh mời làm đại diện đứng ra với tư cách là ông bà mai và đồng thời cũng là người điều khiển nghi thức buổi lễ. Ông có trách vụ sẽ lên đèn, giở quả, giới thiệu thân nhân họ hàng, trình bày nữ trang vòng vàng v.v… đúng theo thể thức những đám cưới truyền thống. Được vậy sẽ mang đến đôi vợ chồng mới ước vọng ăn đời ở kiếp như trường hợp của vợ chồng ông hiện tại. Còn bên phía cô Chín dĩ nhiên gồm có hai ông bà Năm Giàu, hai gia đình anh em cô cùng vài bà con lân cận trong xóm thường qua lại nhau trong thân tình. Như vậy không hẳn đông đảo rườm rà như trường hợp những đám cưới linh đình khác trong tổng hay trong quận.







Một đám cưới gói ghém trong vòng thân mật, không xa hoa, phung phí vô ích. Do vậy, thầy Trí vốn đắn đo về khả năng tài chánh hạn hẹp của mình nên có mượn được của bà con xa gần tốt bụng đôi ba chiếc tam bảng lỡ và xuồng ba lá để rước dâu. Những chiếc ghe nầy ngày thường được dùng trong công việc đồng áng, nay được dọn dẹp sạch sẽ và trang trí với hoa lá vườn quê xem ra cũng đẹp mắt, quyến rủ tính tò mò hiếu kỳ của những gia đình có nhà cửa ven hai bên mé sông. Nhứt là đám con nít chộn rộn cứ rậm rật chạy tới chạy lui chen lấn để rửa mắt. Cô Chín khăn gói rương trắp, bịn rịn từ giã mẹ cha, anh em, từ giã ngôi nhà tổ phụ, mái ấm của nhiều thế hệ tiếp nối, nơi cô được sinh ra và lớn lên để từ giờ phút đó lên xuồng hoa đến sống hẳn nơi chùa thầy Chánh. Nơi đây được thầy Trí nhờ thợ thầy không chuyên nghiệp cư ngụ chung quanh chùa, nhân những giờ rổi rảnh ngoài công việc chánh yếu phá rừng lập rẫy, xúm nhau đến giúp đỡ thầy rất đắc lực. Họ biến một phần nhỏ phía sau nhà chùa thành một chỗ để vợ chồng cùng chung sống những ngày mới. Tuy không được khang trang rộng rãi, nhưng nơi nầy cũng khá đầy đủ tiện nghi tối thiểu để từ đây hai tâm hồn mới cưới xây một tổ ấm như trường hợp những cặp vợ chồng lương thiện hạnh phúc khác trong làng.





Từ đó, ngày ngày cô Chín lui cui cậm cụi không ngừng nghỉ làm những việc lặt vặt và trông coi nhà chùa mỗi khi thầy Trí đi hành sự phương xa đôi ba hôm liên tiếp phải vắng mặt. Cô lo quét dọn sạch sẽ trước sau trong ngoài, nhứt là chăm lo phần đèn đuốc nhang khói các bàn thờ Phật mỗi khi hoàng hôn ập xuống. Bấy nhiêu đó cũng đã chiếm mất thì giờ của cô. Nhưng việc nầy không làm cho cô quan tâm mấy. Lý do là vì cô rất bằng lòng mãn nguyện khi nghĩ rằng mình đang thực sự phục vụ Phật pháp để dần dà tạm quên, quên tất cả, quên ưu phiền, nhứt là không còn than vản về định mệnh khắc khe của mình nữa. Vì có thể lắm lúc cô hồi nhớ lời ông bà xưa thường hay nói, một khi định mệnh xen vào đời sống con người thì nó không hề thương hại ai cả. Nó trở nên phũ phàng, đôi khi bất công đến độ tàn nhẫn.







Mỗi lần cô trịnh trọng cẩn thận lau bụi bậm sạch sẽ những tượng Phật lớn nhỏ được sơn son thếp vàng óng ánh, cô cảm thấy Đức Phật như đang hiện diện sáng trưng trong lòng cô, đang an trú trong giờ phút hiện tại ngay trong cuộc sống của mình để từ đó và qua đó cô tìm được sự an lạc bình ổn trong tâm hồn. Cho dù Đức Phật có thật hay không có thật trước mặt cô. Cho dù Đức Phật chỉ là một pho tượng. Việc nầy không quan trọng đối với cô. Còn mỗi đêm khi cô lên đèn và thắp nhang lần lượt ở các bàn thờ Phật lớn nhỏ nơi chánh điện, cô thành kính tập trung, tưng tiu nâng cả hai tay chụm lại từng cụm nhang để trước vầng trán. Rồi cô chăm chú nhìn khói nhang trắng trong, lững lờ bay vờn lên trần nhà chùa, thảnh thơi huyền ảo giúp cô bớt đi phần vướng bận âu lo, trước nay từng làm khổ cô không ít. Cô tỏ ra rất thích những việc làm thường xuyên hằng ngày như vậy, không khác chi một liều thuốc an thần hữu hiệu cô tự khám phá tìm được như một lối giải thoát cho mình.





Phần thầy Quang Trí, từ nhỏ đến lớn chưa một lần biết qua những cảm giác xác thịt trên thân thể một người đàn bà nào nên càng quan tâm chăm sóc, thương yêu, nuông chiều cô Chín hết mực. Con người trong căn bản vốn rộng rãi và bản chất cởi mở, thầy không hề nghĩ đến quá khứ của cô, dù thầy dư biết hơn ai là muốn xây dựng tương lai tất nhiên phải biết qua quá khứ. Thầy bỏ qua mọi kỷ niệm giữa cô và Út Quyên, miễn sao từ đây cô xử sự vuông tròn tình nghĩa vợ chồng đối với thầy. Thầy cũng thừa biết, đã là con người thì không ai mà chẳng có quá khứ, cho dù là quá khứ về một tình yêu ngang trái dang dở. Do vậy, thầy cố tâm không để ý đến phần tình cảm phức tạp của cô Chín làm gì. Vì một lẽ thầy nghĩ chí tình là nó chẳng giúp thầy được gì hơn. Chỉ vô ích thôi, đôi khi còn thêm phiền hà. Vả lại sự chiếm lỉnh thành công và trọn vẹn một người đàn bà như trường hợp của thầy đối với cô Chín là một cuộc phiêu lưu tình cảm vừa hào hứng vừa thích thú của thầy rồi. Với thầy, đây hẳn là một sự chiến thắng. Hơn nữa và cũng vì thầy an tâm bằng lòng là lúc nào cô Chín cũng làm tròn bổn phận của người vợ trong gia đình hay nơi chốn phòng the riêng tư.





Tuần nầy tiếp nối tuần kia trong thầm lặng, không mảy may khác nhau nơi bối cảnh thâm u vắng lặng triền miên của nhà chùa. Nơi đây chỉ nổi bậc hẳn lên vào những ngày lễ lớn hay rằm nguơn. Những ngày nhộn nhịp tưng bừng đó, thiện nam tín nữ từ đầu trên xóm dưới lũ lượt réo gọi kéo nhau về chùa dự lễ rất đông tạo nên một bầu không khí chẳng những sôi động yêu đời mà chính yếu là tin tưởng vào sự hướng dẫn soi đường của Đức Phật. Cô Chín nhờ đó cũng vui lây trong khoảnh khắc. Sau khi buổi lễ chấm dứt và tất cả mọi người đều ra về hết, ngôi chùa linh hồn của xóm làng lại trở nên vắng vẻ huyền nhiệm như thường lệ. Một sự vắng vẻ tuyệt đối đến độ lạnh lùng khó tả. Thỉnh thoảng chỉ còn nghe nhịp mõ trầm đều, giọng kinh kệ êm tai và tiếng chuông công phu cùng vài lời đối đáp của hai người là thầy Trí và cô Chín. Phần cô Chín, trong bối cảnh hoàn toàn lắng trầm ấy, cô không sao không nghĩ ngợi, dù chỉ thoáng qua. Nhưng có một điều không thể phũ nhận là cô vẫn giữ kín trong lòng, nhứt định cố tránh không hề thỏ thẻ tâm sự cùng chồng một lần nào cả về những cảm nghĩ riêng tư của mình. Vì cô không biết cách nào để diễn tả cho đúng với ý nghĩ mình để cho phù hợp với hoàn cảnh mới, với cuộc sống hiện tại của cô nhằm đảm bảo gia đạo được ấm êm.







Cô đắn đo cũng đúng. Chữ ngờ mấy ai biết trước. Hay cô sẽ mang nó mãi mãi xuống tận tuyền đài? Sự thực khi còn trẻ, cô đã tìm khá dễ dàng phương cách và ý tưởng ngọt bùi, mát lòng mát dạ để trao gởi, ký thác cho người cô yêu là Út Quyên những gì cô cảm nhận thầm kín trong lòng. Với người cô ngưỡng mộ và thương yêu mặn nồng, lời lẽ sao cứ tuông trào như suối nguồn tỉ tê róc rách bất tận. Giờ đây, cô thấy sao quá khó khăn. Cô lưỡng lự hay sợ mình vụng về phát biểu ý tưởng mình qua những lời bọc phát ngay tình sẽ có cơ đưa đến hiểu lầm tai hại. Rốt cuộc cô không dám thố lộ vì có thể gây sóng gió trầm trọng trong gia đạo đưa đến tan rã đổ vỡ. Việc nầy với giá nào cô phải tránh cho bằng được. Cô không muốn nhưng sao nó vẫn ám ảnh cô, dù cô có ý lùa xa nó, càng xa khỏi tâm trí mình càng tốt. Dù vậy, cô cũng thường tỏ ra khâm phục ông chồng khi được nghe thầy Trí đứng lên thuyết pháp trước một cử tọa mến đạo tập trung chăm chú. Thầy nói chuyện rất có duyên và lời nói của thầy chơn chất thật thà xuất phát từ lòng từ bi thương người, gói ghém một trời chân lý trong sáng của Đức Phật. Hơn nữa cô thầm nghĩ đơn giản rằng sự hiểu biết của chồng mình quá rộng rãi và thâm sâu về mọi vấn đề xã hội, dĩ nhiên quan trọng hơn hết là những đề tài tôn giáo, khi cô chân thành so sánh với cái dốt nát bít bôi của cô ở hai lãnh vực đó.






**


Một hôm nọ, thầy Quang Trí đi dự một đám tang ở làng bên, xa ngôi chùa của thầy cả một hai ngày đường nước và phải túc trực ở lại với tang gia ba bốn ngày đêm liên tiếp. Việc vắng mặt nầy của thầy xem như thường xuyên chớ không phải là lần đầu tiên. Cô Chín cũng quen dần với trách nhiệm mà thầy Trí đã chọn lựa để làm lẽ sống. Những buổi chiều vắng mặt chồng, sau khi cơm nước đâu đó đã xong xuôi, cô Chín có thói quen hay nhắt chiếc ghế đẩu ngồi một mình ngoài thềm nhà chùa, lúc hoàng hôn hấp hối để hít thở chút ít không khí trong lành cuối ngày và cũng để tâm hồn được lắng đọng. Những lúc đó, cô đưa mắt nhìn bên ngoài hàng cây khi thì quặc quà quặc quoại ngã tới ngã lui, khi thì đứng im ủ rũ buồn tênh chung quanh những tháp rêu phong xanh rì ĩ òm. Trong cô đơn cô độc giữa lúc mặt trời đang từ từ phụp xuống chân trời xa để nhường chỗ cho màn đen huyền bí ở vài phút tới, cô bắt đầu trầm ngâm suy nghĩ. Thói quen của cô. Cô cố tìm hiểu về sự trớ trêu lạ lùng của cuộc đời làm vợ mà cô đã và đang thủ diễn trong thời gian gần đây.




Lắm lúc cô bật cười một mình. Cười không thua gì người mất trí. Có thể khi đó cô đang hóm hỉnh hay đặt nhiều vấn nạn nan giải về duyên phận của mình chăng? Cô đăm đắm tiếp nhìn con đường nhỏ hẹp đầy cỏ dại cỏ mai ngay trước mặt mình, quanh co uốn éo để biến mất hun hút tận nơi vô định. Con đường độc đạo hướng thẳng vào cổng chùa dẫn dắt tầm nhìn của cô vào một cõi bí hiểm, một thế giới không ai biết được đoạn cuối, nhưng lại quyến rủ cô khiến cô lặng im, ánh mắt tập trung không rời. Con đường duy nhứt bất tận nầy, con đường không một lối rẽ, phải chăng là đường đời của cô, cô phải chấp nhận chớ không có sự chọn lựa nào khác. Mãi nhìn say sưa lôi cuốn đến đỗi cô quên phứt đã đến giờ phải đóng cửa chùa và quên hẳn việc phải lên đường về thăm cha mẹ cô như thường lệ mỗi khi chồng cô vắng mặt vài ngày. Hơn nữa cô đã hẹn sẽ về đúng vào bữa cơm tối của gia đình. Giựt mình, cô hối hận để mọi người chờ đợi, nhứt là cha mẹ cô. Cô dọm quay trở vào chùa để lên đèn và thắp nhang đầy đủ các bàn thờ Phật trước khi lên đường.





Nhưng trước đó trong lúc cô đang mải mê nhìn ngắm mặt trời từ từ khuất dạng dưới hàng cây đen thẳm nơi chân trời, bỗng cô thấy lù đù một chấm đen nho nhỏ không ngớt cử động nơi cuối con đường trước mặt mình. Cô nhíu mày giản nở đôi tròng mắt, chỉ mong muốn khám phá ngay hiện tượng bất thường ấy. Chấm đen đó cứ lớn dần, lớn dần mãi khiến cô rất ngạc nhiên và nghĩ thầm cho là lạ thật. Cô không rời chấm đen một giây một phút nhằm khám phá bí mật gì ẩn tiềm trong nó. Càng lạ hơn khi chấm đen lại từ từ hiện nguyên hình thành dáng thể một con người. Và lại là một người đàn ông nữa. Cô tự hỏi chẳng lẽ là… chồng mình đang trên đường trở về chùa. Chẳng lẽ… vì cô nhớ kỷ thầy Trí đã nói thầy sẽ vắng mặt nhiều ngày kia mà! Đã lâu trước đây, cô đã để ý nhập tâm đến tác một người cao ráo dong dỏng và tướng đi nhanh nhẹn. Sao lại có một sự trùng hợp chăng? Mà trùng hợp gì đây? Cô nhíu mày suy nghĩ thêm, cố moi móc trong trí nhớ những chi tiết có thể giúp cô phân biệt hư thực trong lúc nầy. Hư thực ở dáng thể con người. Anh ta mang trên vai một cái giỏ nhỏ. Bước đi khá đặc biệt cô vừa mới hồi nhớ cứ phong phóng hướng thẳng về phía trước, càng gần hơn giúp cô dần dần phân biệt rõ ràng mái tóc óng mượt phản chiếu qua ánh sáng le lói muộn màng buổi chiều hôm. Cô rất lấy làm lạ. Cô ngạc nhiên vì ở giờ phút chập tối nầy không một người lạ mặt nào dám phiêu lưu đến nơi hẻo lánh bùn lầy nước đọng buồn tênh, nơi bàng dân thiên hạ bảo chó ăn đá gà ăn đất nầy bao giờ đâu. Nhứt là nơi ngôi chùa cổ kính hắt hiu, quanh năm vắng vẻ thâm u nầy. Trừ những ngày lễ Phật.





Cô bèn đứng phắt dậy tựa mình vào cánh cửa chánh của chùa, nở tròn xoe đôi mắt tập trung, chăm chú với cái nhìn đầy ngạc nhiên cố tâm tìm hiểu. Một đỗi sau, người khách lạ từ từ mon men đến tận đầu cổng chùa, dáo dác ngập ngừng đưa mắt tìm kiếm một lối vào. Và chính trong giờ phút nghiêm trọng đó, trong cô bỗng có sự rung động khác thường, làm như con tim của cô đã ngủ yên bấy nay vụt bừng dậy, đập mạnh một nhịp muốn toát ra khỏi lồng ngực. Cô rất bối rối lo sợ khi trong giây phút một mình phải đứng trước một người đàn ông có dáng vấp và những động tác đáng nghi. Nhưng những nét phong trần và khắc khổ của khách không biết sao lúc đó vẫn có ma lực gây một chấn động sâu xa trong cô. Hay là vì thực sự nó rất hao hao chẳng chút xa lạ đối với cô. Nhứt là nụ cười thoáng nở của chàng, nụ cười hớp hồn làm cho cô bỗng nhớ lại một nét quá thân mật ngày xưa của con người mà cô không thể nào quên được gương mặt.







Cô cố gắng hồi nhớ. Cố gắng tối đa. Cô đang quên hiện tại. Những hình ảnh ngày xa xưa không thể nào phản bội lại trí nhớ của cô. Nhưng cô lại thắc mắc, nghĩ có lý nào… Để rồi cô không thể tin đây là sự thật. Cô bắt đầu bối rối hơ hãi, luốn cuốn đáng thương. Một người… Rõ ràng là một người. Mà người đàn ông nào đây? Hay là một hồn ma bóng quế chăng? Chẳng lẽ!... Cô tự hỏi. Cô đang đối diện với những băn khoăn, lo lắng. Tim cô đập mạnh liên tục với nhịp điệu bất thường. Gương mặt cô trở nên tái xanh. Cô đang đối diện với chính mình. Người cô càng trở nên nhỏ bé yếu đuối hơn lúc nào hết giữa giờ phút ấy. Chỉ trong vài giây thoáng qua mau, trời cao vòi vọi như sụp đổ trên đỉnh đầu và trái đất dường như không còn dưới chân cô. Cô đang chới với và cảm thấy đầu óc bỗng nhiên trống rổng. Hồn vía cô đã thật sự rời khỏi thân xác cô.





Đến đây cô Chín vừa nghiêm nghị vừa buồn buồn nghiêng qua hỏi tôi, khi cô mô tả cảm giác và nỗi xúc động sâu xa của mình:


- Anh có nghĩ và tưởng tượng tôi đang rơi từ từng cao tác hại không? Tôi thật tình có cảm tưởng đó, như tôi đang trải qua một cơn ác mộng khủng khiếp chưa từng gặp trong đời vậy. Tôi bèn lẩm bẩm đặt hết trọng tâm để chỉ trông cậy vào những lời cầu nguyện đang đến rất nhanh trong tôi. Tôi chấp tay kính lạy Phật Trời, khấn nguyện những người khuất mày khuất mặt trong dòng họ hãy mau mau kịp đến giang đôi tay rộng mở nhằm cứu tôi, đưa tôi thoát khỏi vực thẳm sâu hút giữa hoài nghi và sự thật. Nhưng khốn thay Trời cao vòi vọi và Đức Phật kính yêu ở tận cõi xa xôi huyền bí nhiệm mầu nào. Cả hai không hiện hữu trước mắt tôi nên không giúp tôi được gì. Tôi hoàn toàn thất vọng, thất vọng thật sự nên đành buông xuôi phó mặc!





Cô Chín bây giờ hãy còn ngồi thừ người ngay trước mặt tôi trong gan tất, hai bàn tay cô nắm chặt lại nhau như muốn tập trung cố đè nén cảm xúc đang dấy lên mạnh mẽ trong lòng. Sau đó cô nói với tôi qua giọng chầm chậm ngập ngừng của một người tuổi đời chồng chất quá nhiều. Tôi vội vàng đón nhận đôi tay lạnh ngắt của cô như để thể hiện tấm lòng cảm thông chia xẻ của tôi. Cuối cùng tôi hỏi cô một câu ngắn ngủn thật vô duyên không đúng chỗ:


- Rồi người ấy nói những gì với cô?


Cô càng xúc động hơn và không từ chối trả lời tôi:


- Khi đến cận bên tôi, sát cửa chùa, anh đưa tay giở chiếc nón nỉ màu nâu đất đang đội trên đầu ra. Trời ơi là Trời! Tôi gần té xỉu trên sàn đất hiên nhà chùa. Nửa tỉnh nửa mơ. Đôi mắt tôi như bị một lớp mây mù che phủ. Tôi không còn thấy được gì rõ ràng cả. Nhưng sau giây phút mất hồn đó, tôi cũng cố gắng ráng mở to đôi mắt để nhìn cho thật kỹ người đang đối diện với tôi. Đến đây, tôi không sao lầm được nữa. Thì ra rõ ràng chính là anh Út Quyên ngày xưa. Quả thật chàng chớ không còn mù mờ là người đàn ông nào khác. Trước đây tôi còn hoài nghi tự hỏi chẳng lẽ nào… nhưng giờ đây sự thật làm cho tôi càng bẽ bàng muốn chết mất. Tôi dọm chạy trốn nhưng rồi lại thôi. Không biết vì sao tôi có quyết định lạ kỳ nầy. Mọi việc xảy ra trong chớp mắt, tới giờ phút nầy tôi nghĩ cũng chẳng ra.





Cô bỗng nức nở, lệ rưng rứt hoen đôi tròng mắt. Tôi bàng hoàng, không biết mình phải lấy lời nào để chia xẻ làm dịu bớt phần nào nỗi đau tột cùng nơi cô. Cùng lúc ấy tai tôi nghe tiếng cô nói như để trả lời câu hỏi quá vô duyên mấy phút trước đây của tôi:


- Ảnh mở lời ngay, không để thời gian trôi qua phung phí lúc đó. Tôi tin rằng ảnh đã chờ đợi, trông đứng trông ngồi cái giờ phút mặt đối mặt nầy quá lâu. Ảnh phải cướp ngay lấy nó cho bằng được. Tôi ức đoán như vậy. Mà chắc cũng không sai lắm đâu. Ảnh bèn tiến đến sát bên tôi và âu yếm nhỏ nhẹ hỏi tôi: «Em Chín, em không nhìn ra anh sao em? Chắc anh lạ lắm hả? Anh đây. Anh vừa về mà!» Ảnh bình tĩnh lập lại để xác nhận thêm một lần nữa: «Anh đây mà! Anh là Út Quyên bằng xương bằng thịt chớ không phải người nào xa lạ».





Tôi đoán biết cô Chín như người chết đứng giữa trời nên tôi nén lòng cố giữ sự im lặng tuyệt đối nhằm tôn trọng giờ phút tế nhị của người đàn bà bất hạnh đáng thương hơn đáng trách, một người đàn bà lịch lãm nhưng từng trải qua lắm ngang trái. Một người đàn bà đang tỏ ra can đảm, vận dụng sinh lực để trút tâm sự mình với tôi và chỉ riêng tôi. Tai tôi tiếp nghe những lời chất chứa âm hưởng nghẹn ngào của cô:


- Tôi vội vàng không khác chi một người máy vô hồn, đưa tay quờ quạng cố tìm để nắm níu lấy cánh cửa chùa làm điểm tựa. Thật cũng may cho tôi. Tôi không thể nào đứng vững được! Nếu không có nó, tôi không biết mình sẽ ra sao?! Chắc tôi chết mất! Tôi ghì chặt lấy nó ngay với tất cả sức mạnh của tôi. Và tôi phập phồng nơm nớp chỉ sợ cánh cửa đã cũ bất thần bung ra mà mang họa. Tôi giống như một người phần số hẳm hiu sắp chết đuối giữa biển khơi ầm ầm sóng gió bão dông vừa níu được chiếc phao cứu tử vậy. Tôi phải bám vào nó chớ không còn con đường nào khác. Vì nội lực cũng như tâm trí của tôi đã biến mất tận đâu đâu mất rồi.





Cô vói lấy chiếc khăn tay chậm nhè nhẹ lên đôi mắt đẫm lệ và nói:


- Đến khi hoàn hồn được đôi chút, tôi luống cuống hướng đôi mắt nhìn thẳng vào mặt chàng và nhận ngay không chút khó khăn những nét quá quen thuộc nơi dáng thể, hình tướng ngày xưa của chàng. Ngay cả giọng nói ru êm của chàng không chút nào thay đổi. Cũng cái giọng đã từng hớp hồn làm mê mệt tôi thuở nào. Ngay lúc đó, tôi có cảm giác thật kỳ lạ, làm như chàng vừa mới giã từ tôi để ra đi ngày hôm trước, chớ không phải gần mười năm qua.


Cô không một giây một phút ngừng kể. Trái lại cô vẫn thao thao tiếp tục theo một nhịp buồn buồn, đúng với mạch nguồn ôn cố hồi nhớ của những người hoài cổ:





- Nhưng hôm đó có điều khác lạ đập mạnh vào đôi mắt tôi là chàng có một sức lôi cuốn mãnh liệt thể hiện nơi gương mặt, nơi khoé mắt chàng. Có thể đó là kết quả những năm tháng nổi trôi, dạng dầy sương gió trong cuộc sống thăng trầm không được như ý của chàng nơi xứ người chăng? Nhưng khốn thay tôi quá vô tâm vô tình, ngay giờ phút đầu tiên nhìn chàng trong khó khăn. Sự thực tôi không bao giờ hững hờ quên chàng. Chàng trở về ốm o gầy mòn nhưng đầy nét cương nghị. Dưới mắt tôi, chàng không còn trẻ trung, nhưng đẹp hơn lúc nào hết, đẹp còn hơn thuở xa xưa chúng tôi mới quen nhau. Không biết có phải sự nhớ nhung người trở lại làm cho đôi mắt tôi có nhận xét chủ quan đầy cảm tình đó chăng? Tự nhiên bỗng dưng tôi nghĩ như vậy. Tôi không biết tại sao?





Rồi cô không cầm được nước mắt. Lần nầy cô khóc thật, khóc như khi mất người thân yêu trong đời:


- Tôi không trả lời được gì với chàng cả. Tôi không tìm được một câu nào khả dĩ hợp lý hợp tình, hợp với hoàn cảnh trắc trở oái oăm nầy. Tôi như người câm bẩm sinh. Tôi quá lúng túng. Càng lúng túng tôi càng đâm ra ngờ nghệch rất buồn cười. Ngay sau đó, tôi thẫn thờ ngoảnh mặt. Tôi cố tình lánh né không cho chàng thấy đôi mắt tôi lưng tròng đỏ hoe như những lúc tôi khóc, khóc quá nhiều suốt tháng năm dài bất tận trước đây. Khóc vì mất người yêu đã biệt tăm biệt tích. Khóc vì thăm thẳm đợi chờ. Khóc vì mỏi mòn trông đợi hoài công…





Rồi tiếp đó cô Chín bỗng dưng đổi sắc diện. Cô nhoẻn miệng cười nhưng tôi thoát thấy là nụ cười gượng:


- Đến khi tôi bình tĩnh hẳn và tìm được giọng nói của chính mình, tôi vội vàng trả lời chàng: «Em đã nhìn rõ được anh. Làm sao em có thể nào quên anh được bao giờ! Thực lòng em là như vậy, chỉ có thánh thần chứng giám cho em. Làm sao em quên!».


Giọng Út Quyên mất hẳn âm hưởng thoải mái thân thương ở những phút giây trước đây để trở nên khe khắc dỗi hờn. Anh sầm mặt lắc đầu, tắc lưỡi:


- Nhưng em đã thực sự quên anh rồi. Chắc anh không sao lầm được trong nhận xét của mình. Không lầm vì khi biết em đã chấp nhận làm vợ một người đàn ông khác. Anh khó lòng mà tin vào lời nói của em.


Ngừng một chút anh giải thích:


- Từ bên đất Lào xa xôi, anh có một người bạn khá thân làm ăn lâu năm nơi xứ người về thăm quê hương vừa mới trở lại từ Việt Nam, đúng hơn là từ nơi làng quê bảng quán mình. Ảnh đã rành rọt báo cho anh biết nguồn tin buồn chết người nầy. Nguồn tin làm tan nát cả tim anh, làm đổ vỡ một ước mơ trân quý duy nhứt ở anh. Cả tuần lễ tiếp đó, anh không sao ngủ yên giấc được. Anh cứ chập chờn suy nghĩ mãi và những kỷ niệm xưa cứ bừng dậy trong anh. Rồi những nơi chốn mà anh và em từng đặt chân qua ngày trước như có sợi dây tình nghĩa ràng buộc không rời ký ức của anh. Phải chăng khi hồi nhớ quá khứ là một phương cách để thoát khỏi hiện tại? Nhưng anh không hề dám tưởng tượng đến cảnh éo le, ngang trái phũ phàng ặp đến làm dang dở tan vỡ tình yêu của hai chúng ta. Thật tình lúc nghe tin đó, anh không tin như thế mà nghĩ nên đích thân mình phải trở về để tìm hiểu và xác nhận một cách chính xác trung thực hơn.





Cô Chín trở lại kể tiếp sau một thời gian ngắn ngủi im lặng tuyệt đối:


- Tôi để ý thấy chàng mãi chăm chú nhìn tròng trọc vào chiếc nhẩn cưới tôi đang mang trong tay với đôi mắt buồn buồn chán chường. Có lẽ chàng thất vọng đứng trước một sự thật. Một sự thật không cho phép lời lẽ nào quanh co giải thích. Trong khi tôi rụng rời tứ chi, hai đầu gối tôi như mất sinh lực muốn sụm xuống. Tôi nghĩ ngay đến một sự thật hiển nhiên đó, tôi không thể biện minh bào chữa. Tôi chới với lảo đảo gần muốn ngã quỵ.


Cô tắt lưỡi:


- Và cũng là lúc đến lược tôi, tôi cũng nhìn vào chiếc nhẩn mình đang đeo trên tay. Tôi ngại ngùng thẹn thùng đỏ mặt. Đây quả là một cử chỉ máy móc, thoát khỏi sự kiểm soát của tôi. Nhưng lại là một bằng chứng không thể chối cãi về sự bạc tình bạc nghĩa của tôi, một biểu hiện sự phản bội nuốt lời thề của tôi. Tôi lật đật muốn giấu nó trong lồng bàn tay nắm chặt của tôi. Tôi đưa mắt nhìn lại nó một lần nữa, tôi thật bàng hoàng xấu hổ. Xấu hổ với chàng và cả với tôi nữa. Mà giờ đây mọi việc đều đã kết thúc, đã muộn rồi, không còn gì để ước mong nối lại. Thực tình lúc ấy tôi muốn độn thộ nhưng nền đất dưới chân tôi không giúp tôi được chi cả.





Cô nấc đi trong hối hận:


- Tôi cảm thấy ớn lạnh khắp nơi trong châu thân, làm như tôi đang đứng trên tận cùng chớp núi cao vào một mùa đông băng giá khắc nghiệt. Tôi đành giữ im lặng một lúc thật lâu không thể nói cũng như giải thích tận tường lý do vì sao tôi làm vợ người khác. Làm vợ thầy Quang Trí. Vợ một vị trụ trì chùa làng... Hai chúng tôi vẫn còn đứng im không ngớt nhìn nhau như hai cái xác chết khô vậy.


Đến đây cô không nói tiếp với tôi được một lời nào nữa và phần tôi, tôi cũng lặng câm không còn chút can đảm nào để hở môi. Tôi tôn trọng cô. Tôi phải tôn trọng phần riêng tư ký gởi. Tôi thầm biết tình cảm của cô đang trổi dậy mãnh liệt làm cho cô xao xuyến, bức rức rối trí tột cùng. Bởi vì khi cô gặp lại anh Út Quyên, cô hiểu rằng tim cô sẽ vĩnh viễn hồi sinh để thuộc về chàng và chỉ một mình chàng mà thôi. Thật đúng như những giờ phút đầu tiên cô may mắn gặp gỡ và yêu chàng đắm đuối. Dĩ nhiên tôi ngầm hiểu đối với cô, từ giờ phút quan trọng đó trong cô có một sự thay đổi bất ngờ. Một sự thay đổi không đủ điều kiện để thành tựu, nhưng cũng đủ để cô củng cố một niềm tin ở mình? Tôi cũng ngầm hiểu thêm cô không còn cảm thấy có một chút tình yêu nào dành cho người chồng có cưới hỏi đàng hoàng mà những năm gần đây cô đã thủ diễn tròn trịa vai trò người vợ ngoan ngoản và trên danh nghĩa phải chia xẻ cuộc sống chung cho đến cuối đời. Một vực thẳm sâu hút đang chẽ đôi sự im lặng thụ động cô đang cảm nhận vài phút trước đó. Cô thành thật xác nhận với lòng không bao giờ và chẳng bao giờ cô bằng lòng, dù tương đối đi nữa về chuỗi ngày dài trong hôn nhân gượng ép của cô với thầy Quang Trí. Một hôn nhân do sự trói buộc bởi ảnh hưởng khắc khe của gia đình, của truyền thống phong kiến nghiệt ngã hẹp hòi và nhứt là xã hội không được rộng rãi, phóng khoán thức thời.


Hôm nay chàng đã trở về bằng xương bằng thịt, bằng hình hài và tâm hồn bất biến của ngày xưa. Chàng không thay đổi chi cả. Trước sau vẫn vậy. Khác với thói thường thiên hạ thường hay nói «xa mặt cách lòng», nhứt là đối với những cuộc tình lận đận dang dở. Nhưng đối với chàng, câu nói dân gian trên đây không hề đúng với trường hợp của chàng. Có thể chàng đang thở dồn dập, tim chàng đang đập nhanh như lúc chàng mới gặp cô. Mà sao linh tính cô báo trước cái điềm lạ cô không muốn và hẳn nhiên không dám nghĩ tới. Cô sẽ không còn gặp lại chàng một lần nào nữa trên thế gian rối nhùi lắm chuyện nầy. Dẫu sao, trong giờ phút hiện tại, chỉ có hiện tại mới quan trọng, tuy nó nặng nề và có cơ nguy hiểm. Cô tiếp tục ngắm nhìn không biết chán gương mặt đáng thương của Út Quyên. Cô ngắm nhìn thật kỹ để hình dung cố tìm lại cái cảm giác say sưa ngất ngây của tình yêu đầu đời, của hy vọng tràn trề thuở đôi mươi, của chán chường buồn nản cô không ngớt lùa xa khỏi tâm trí từ những năm hoài công đợi chờ. Cô cảm thấy mình không thể nào có thể sống thiếu vắng Út Quyên. Cô không sao quên Út Quyên được.







Cô nhớ lời người xưa, một khi mình biết mình, mình sẽ làm chủ được mình. Giờ đây cô đặt cho cô một câu hỏi: biết mình thì cô dư biết nhưng sao lúc nào cô cũng bị thụ động. Đó là nỗi khổ tâm của cô. Cô bắt đầu bấn loạn khi hồi nhớ những lời hứa chắc như đinh đóng cột, như ba bó vào một giạ của chàng trước đây. Phần cô, cô cũng không quên đã từng thề thốt sẽ yêu thương chàng mãi mãi tận mai sau, trọn tình trọn nghĩa cho đến tuổi răng long đầu bạc. Nhưng thật oái oăm làm sao! Và cũng là một nghịch lý khó hiểu và khó chấp nhận nơi cô. Vì đồng thời cô lại nhớ mình sẽ không làm điều gì phương hại đến danh dự và sự nghiệp của chồng, của thầy Quang Trí, cũng như sẽ đóng vai trò gương mẫu của người vợ ngoan hiền thuần thục, cùng thầy chung lo xây dựng một mái ấm gia đình vẹn toàn. Cô vẫn không quên vấn đề thầm kín tế nhị của tình yêu chăn gối đối với chồng, cho dù cô thường tỏ ra lạnh lùng, không tha thiết mấy. Hầu như lúc nào nó cũng trở nên ngượng ngập, khó chịu chiếu lệ. Cô không khi nào quên cô về với chồng, với thầy Quang Trí vì một hoàn cảnh chẳng đặng đừng do sự trói buộc của xã hội, sự tin tưởng ở tôn giáo và áp lực của cả gia đình cô. Những dịp âu yếm của chồng đối với cô, cô cảm thấy buồn nôn, mặc dầu cố gắng che đậy để làm vui lòng chồng.





Nhưng thầy Trí vẫn cảm nhận không khó khăn thái độ hững hờ thụ động và chịu đựng đó của cô. Thầy cũng đau khổ không ít chẳng thua gì cô. Đôi lúc dằn lòng không được, chẳng những thầy không che giấu mà còn công khai biểu lộ cảm nghĩ và nỗi xót xa bất bình triền miên của mình đối với cô. Vì một lẽ rất đơn giản và dễ hiểu là thầy không tìm được hạnh phúc mong muốn ở người vợ thầy đắn đo chọn lựa. Nhưng thầy không tuyệt vọng, trái lại thầy vẫn nghĩ với liều thuốc thời gian, cuộc sống chung của hai người sẽ được cải thiện dần. Nhiều lúc cô Chín muốn dứt khoát với những ưu phiền cứ mãi đeo đẳng dằn xé mình không thôi. Cô muốn chết, chết đi để tránh những cảnh phức tạp não nề, những cảnh giả dối ê chề mà cô là nạn nhân khốn khổ. Nạn nhân của một cuộc tình không ưng ý và một bổn phận miễn cưởng.




Nhưng trong hoàn cảnh trớ trêu đó chính cô là người đáng thương hơn là đáng ghét. Cô không chủ động được mình mà lại là người bất đắc dĩ phải chủ động. Cô từng cầu nguyện Phật Trời giúp cô được mãn nguyện. Nhưng Trời Phật không thông cảm lời thỉnh nguyện của cô, mà trái lại còn đưa đẩy cô vô tình phản bội lại sự tin cậy của Út Quyên nữa. Cô tự hỏi tại sao những Đấng Tối Cao đầy quyền lực không hề báo trước cho cô biết Út Quyên vẫn còn sống? Tại sao? Tại sao vậy ? Tại sao không giúp cô có đầy đủ sức mạnh và dư thừa ý chí cần thiết để chờ đợi Út Quyên thêm một thời gian nữa? Thế gian sao đầy dẫy bất công và tàn nhẫn quá đối với cô! Cô bật khóc. Cuộc đời đã dành cho cô một bài học quá đắng cay không còn sức lực nào để vượt qua.





Tôi không sao thấu rõ ngọn nguồn khúc nôi nơi vực thẳm sâu hun hút trong tâm hồn của cô lúc ấy. Một sự im lặng kéo dài càng tăng thêm nỗi đau đớn tuyệt vọng nơi cô. Từ trước, cô không có thói quen thố lộ tình cảm của mình trước một người nào khác, dù trong thân tình ruột thịt. Bởi vì đối với cô, có những tình cảm riêng tư không một ngôn ngữ nào có thể diễn đạt đúng mức được. Hơn nữa trong cuộc sống, cô cũng chẳng có một người nào tín cẩn kín miệng để giữ bí mật cho cô. Còn đối với cha mẹ cô có một sự cách biệt quá lớn về thế hệ và về suy nghĩ khó cho cô trang trải nỗi lòng. Nhưng hôm nay cũng lạ, lạ đến đỗi tôi không ngờ. Cô bằng lòng thuật lại cho tôi nghe một giai đoạn nhức nhối nhứt trong đời cô qua những chi tiết thương tâm, dù sau hơn bốn mươi năm qua, nhưng tôi vẫn thấy thoáng hiện từng chập nỗi đau khổ cực độ thoát ra từ đôi mắt buồn thảm thâm sâu và tích lệ của cô. Việc nầy khiến tôi có phản ứng dè dặt hòa hoản hơn trong phán đoán của mình. Tôi không muốn làm tăng thêm chấn thương lòng nơi cô nên tránh nhìn thẳng vào gương mặt tiều tụy của cô. Tuy cô đang ngồi đối diện trước mặt tôi.





Sau những phút im lặng khá dài để hóa giải phần nào tình cảm quyến luyến và nỗi dỗi hờn của nhau, Út Quyên và cô Chín cuối cùng cũng trao đổi qua lại vài câu xuất phát tự đáy lòng của mỗi người. Út Quyên khởi sự cho biết có viết cho cô một bức thư cuối cùng báo một tin vui. Bấy giờ anh đã thành công trong công việc làm ăn trên đất nước Lào. Một sự thành công viên mãn tròn đầy do ơn trên bang cho, ngoài sức tưởng tượng và ước mơ của anh. Cuộc đời nghĩ cho cùng giống như một dòng sông dài bất tận, khi nước lớn lúc nước ròng, như nắng sớm chiều mưa, thì việc làm ăn trong thương trường hay công nghiệp cũng có lúc thịnh lúc suy cũng dễ hiểu thôi. Khi thì đại bại trắng tay từng bị người đời chê bai, khinh rẽ trốn lánh bỏ đi, khi thì thành công võng lộng nghênh ngang, vinh vang một cõi, thiên hạ xúm nhau vây quanh chia phần. Anh cũng nhắc lại câu nói của người xưa: «Hết cơn bỉ cực tới hồi thới lai». Giờ đây «hồi thới lai» đã đến với anh.


Số là anh ky cỏm được một ít vốn liếng căn bản kha khá nên bắt đầu thử thời vận hùng hạp với một người bạn Việt Nam phiêu lưu lập nghiệp lâu năm trước anh trên đất Lào. Cơ ngơi bề thế rải rác khắp nơi, từ những thành phố Savannakhet, Takhet… đến Luang Prabang và thủ phủ Vientiane. Anh nầy đã vào quốc tịch Lào cho được dễ dàng làm ăn và có cái tên ngộ nghỉnh là Không Lay, chẳng có chút hơi hướm Việt Nam. Anh chuyên ngành khai thác gỗ, nhứt là gỗ quý tận trong rừng sâu vùng núi non hiểm trở tiếp giáp với Trung Hoa. Anh Lay có cả thảy mười mấy thớt voi và nhiều xe be trọng tải chuyên chở gỗ từ rừng núi tận các thành phố và đô thị vùng đồng bằng xứ Lào cho đến tận các tỉnh ven biển miền Trung Việt Nam. Cơ sở làm ăn như vậy kể cũng lớn, không thua gì những nhà sản xuất chuyên nghiệp địa phương từng bám rễ lâu đời ở Lào. Việc làm ăn của anh Lay phát đạt nhờ nhu cầu gỗ càng ngày càng nhiều do quân phiệt Nhựt Bổn cần đến để xây cất doanh trại cùng hệ thống những ụ chống xe tăng và phòng không ở Lào và ngay cả ở vùng bờ biển xuyên Việt trong giai đoạn quyết liệt quân đội Đồng Minh phản công cuối thế chiến thứ hai. Cơ sở càng phát triển, anh cần thêm người hùng hạp tín cẩn để giúp anh trông coi quán xuyến mọi việc.





Bỗng dưng Út Quyên nhờ sự giúp đỡ tận lực và thân tình của anh bạn Không Lay và qua phước đức tổ tiên ông bà để lại trở nên, nếu không nói là giàu to, cũng không kém lớp trưởng giả lâu đời nơi các thị trấn lớn nhỏ ở Lào. Về sau anh cũng có cơ ngơi kinh dinh quan trọng, xe cộ không thiếu gì và người giúp việc rậm rật trong nhà, chỉ cần ới lên một tiếng nhỏ là có người đến phục vụ ngay. Do đó Út Quyên viết thư về báo cho cô Chín biết việc thành công của mình và khẩn cầu cô hãy chờ đợi chàng trở về khoảng cuối năm để lo tổ chức đám cưới và rước cô qua Lào sinh sống. Một cuộc sống tuy không đến đỗi huy hoàng trong nhung lụa của các triệu phú hay đại điền chủ khét tiếng vùng cuối mũi quê hương Việt Nam, nhưng cũng đầy đủ, thoải mái hơn cảnh trước đây của anh quanh năm suốt tháng tay cứ nắm chuôi cày, ngày ngày quần quật lầm lũi đi theo sau đít trâu. Bức thư tình nghĩa trước sau như nhứt ấy chẳng may bị thất lạc không đến được tay cô Chín trước ngày cô rón rén bước lên xuồng hoa về chùa thầy Chánh cùng thầy Quang Trí.




Có lẽ lúc bấy giờ tình hình chiến tranh quá căng thẳng vùng Đông Nam Á. Quân đội Thiên Hoàng đã thực hiện xong mộng xâm lăng chiếm hoàn toàn dãy đất Đông Dương, gây biết bao xáo trộn về hai mặt kinh tế và xã hội. Chúng khai thác độc đoán nhân lực và tài nguyên của các nước nầy nhằm phục vụ bộ máy chiến tranh đang trên đà suy thoái. Chánh sách quân phiệt đó làm cho hằng triệu người dân vô tội miền Bắc Việt Nam phải chết đói thảm thương, nhứt là những người dân hiền hòa lương thiện ở các vùng thôn quê vốn nghèo khổ triền miên. Bên Lào cũng không khá gì hơn, kinh tế trở nên sa sút kiệt quệ. Đường sá lúc ấy thường bị gián đoạn trầm trọng, giao thông cách trở khó khăn do không lực Đồng Minh không ngớt dội bom liên tục ngày đêm, xuất phát từ những hàng không mẫu hạm hoạt động ngoài khơi Thái Bình Dương. Những công nghiệp nặng chuyên ngành sản xuất, chế biến và phân phối phục vụ chiến trường cùng cầu đường hầu như đều bị đánh phá hủy sập. Do chánh sách phong tỏa ngặc nghèo của Đồng Minh, xe cộ lúc ấy không được thay mới, trở nên cổ lổ phế hư, cuối cùng rất khan hiếm. Nhiên liệu lại thiếu thốn trầm trọng…




Xe nào tương đối có thể còn dùng tạm đều được biến cải để chạy bằng than đá, không ngớt tuông khói dơ bẩn đen kịt. Ngày ngày trên những lộ trình chính yếu, người ta chứng kiến cảnh xe lớn nhỏ đua nhau rên rỉ khổ nhọc, chạy chậm như rùa. Đã vậy, việc xe nằm đường kể như ăn cơm bữa hằng ngày. Thêm vào đó, một vài nhóm tàn dư của quân đội Pháp tự do tuân hành theo lời kêu gọi của chánh phủ De Gaulle ở Luân Đôn, sau khi bị Nhựt đảo chánh vào tháng ba năm 1945 đã thành công trốn lánh ở những vùng đồi núi rừng rậm hiểm trở. Chúng lợi dụng vị trí núi non trùng điệp nơi biên giới Việt Lào và Việt Hoa tổ chức những trận phục kích đánh phá lẻ tẻ vào hậu phương của quân phiệt Nhựt. Thư từ có lẽ vì đó thất lạc không có gì lạ cả.





Cô Chín vội thét lên một tiếng thật to xé toạt không gian:


- Trời ơi! Trời ơi là Trời! Tại sao? Tại sao tôi không nhận được bức thư đó? Có khổ cho tôi không?


Cô như lạc thần lập lại:


- Tại sao? Và tại sao tôi không nghe một ai chung quanh tôi, những người thân quen trong làng, cả những người ruột thịt trong gia đình nói về anh một lời nào? Họ đã quên anh hay không muốn nhắc đến chuyện xưa, nhắc đến tên anh để khơi dậy niềm đau nơi tôi?! Rồi những năm trôi qua, người ta lại bắt đầu đồn đãi rằng anh đã chết trên đất Lào xa xôi nghìn vạn dặm nữa kìa. Tin đồn tàn nhẫn làm sao!


Út Quyên se sẻ ngoảnh mặt trả lời với giọng hờn dỗi đay nghiến:


- Phải mà! Nếu anh chết rục bên đó thì anh đâu có dịp nầy trở về nơi đây, nơi mà anh trông chờ gặp được em để cùng chung xây dựng hạnh phúc lâu dài. Nhưng ác nghiệt thay, cũng chính nơi nầy, anh đã biết đích xác em lại là vợ của người khác.





Út Quyên tắt lưỡi lắc đầu thất vọng, đôi mắt anh đờ đẫn trong khi đó cô Chín xuống giọng thỏ thẻ:


- Bây giờ anh tính sao đây? Anh tính cách nào? Em chỉ chờ một lời nói của anh. Em đang chờ anh!


Út Quyền thở dài chán nản:


- Biết tính làm sao bây giờ trước cảnh ngang trái phũ phàng đã rồi. Anh đành bó tay thúc thủ. Ván đã đóng thuyền từ lâu rồi em à! Bây giờ anh chẳng biết mình phải có thái độ nào và hành động ra sao nữa? Anh đang luống cuống, quẩn trí. Anh quá bối rối, tìm mãi không ra lối thoát. Anh đang ở tận đường cùn.


Giọng anh trở nên trầm trầm buồn buồn hơn lúc nào hết:


- Nhưng chung cuộc anh thấy có một điều chắc chắn là anh sẽ không sao sống được sau nầy vì lẽ thiếu vắng người anh yêu duy nhứt trong đời. Thiếu vắng em, em Chín. Chắc em cũng thừa biết rằng đối với một người đàn ông một khi đã chọn được người yêu, họ càng yêu đắm đuối một khi người yêu đó đã vuột khỏi tầm tay họ. Họ nhớ đời không sao quên được. Nhớ đến khi nhắm mắt xuôi tay. Như em biết và chắc hẳn em còn nhớ, anh đã chấp nhận phiêu lưu dấn thân nơi xứ Lào xa tít cũng chỉ vì tương lai hạnh phúc của em. Và duy nhứt vì em.





Nghe qua những lời vừa nức nở vừa chân thành ấy, cô Chín cầm lòng không đậu nên cô vụt nắm lấy đôi tay của Út Quyên áp mạnh vào lòng ngực mình. Một cử chỉ thân thương âu yếm và biết ơn người tình xưa vụt đến với cô. Một cử chỉ cảm thông chia xẻ tận trong đáy lòng, cô không hề tính toán trước. Nhưng sau đó cô vội vàng dừng lại ngay. Cô buông tay Út Quyên ra. Chỉ vì ý thức bỗng đến kịp thời với cô. Cô sợ mình bồng bột thiếu suy nghĩ hoặc hời hợt nhẹ dạ đi xa hơn trong tình cảm sẽ dẫn dắt xô đẩy cô xuống tận đáy sâu vực thẳm của tội lỗi thường tình đáng trách. Việc nầy cô không hề dám. Cô đang đối diện và bị dằn xé trước trách nhiệm và sự thúc đẩy của sa ngã tình trường.







Vị trí của một người vợ thủy chung không cho phép cô. Lại một sự im lặng tiếp theo sau nhưng là một sự im lặng đồng lõa. Dù ý thức rõ ràng như vậy mà sao thực tế không ngăn chận được sự quyến rủ cám dỗ, khát khao nhất thời đang mơn trớn trong con người cô. Cô đang quên. Cô quên tất cả. Quên mọi đau khổ lâu nay gậm nhấm lần mòn tâm hồn mình. Cô quên, quên hết những lo âu phiền toái cô đã trải qua. Cô quên hiện tại và quên cả tương lai. Vì thực tế cô đang tận hưởng trọn vẹn cảm giác sung sướng đang trào dâng mạnh mẽ trong lòng. Như thuở đầu đời, những năm về trước họ mới gặp nhau. Chỉ sau đôi phút thoáng qua mau, Út Quyên đang đứng tựa vào cửa, bỗng đỡ nhẹ cầm cô Chín lên rồi đưa hai tay ghì chặt, rụt rè hôn lên má cô như thuở xa xưa. Cô buông xuôi tỏ ra thụ động, không một thái độ chống đối dù nhẹ nhàng miễn cưởng. Cử chỉ luyến lưu bất thình lình đó của Út Quyên phải chăng là cử chỉ thể hiện rõ ràng ý định dứt khoát anh sẽ giã từ cô Chín?! Giã từ vĩnh viễn, không bao giờ trở lại?! Như một người đi vào thiên thu biền biệt, không sao gặp mặt lại nhau nữa.





Mà thật vậy. Anh đã lấy quyết định. Thề với lòng không bao giờ thay đổi. Đối với anh, mọi việc đã hết rồi, đã kết thúc hôm nay. Anh sẽ ra đi. Anh phải ra đi để đảm bảo hạnh phúc của người yêu, để cho trọn tình trọn nghĩa và cũng để cho cô Chín không lún sâu vào tội lỗi làm ô nhục gia phong, mang tiếng thế gian.. Vài sợi tóc rối bơ phờ lạc lõng của cô Chín phơn phớt trên gương mặt rũ rượi của chàng, khiến chàng hồi nhớ ngất ngây hương tóc thơm nồng ngày xưa của người yêu buổi đầu đời mới gặp. Hương tóc đã bao năm thăm thẳm trôi qua rồi mà vẫn còn hơi hướm đòng đọng mãi trong anh. Dù vậy anh quyết duy trì, vẫn bám dứt khoát vào ý định của mình. Đến phút đó, cô Chín không còn nhớ gì cả. Cô không nhớ một chi tiết nào, mãi cho đến khi Út Quyên đã thực sự ra đi mất dấu hẳn. Lần nầy có thể là lần sau cùng đối với cô. Trăm năm biền biệt… Ngàn năm chia cách…





Hẳn nhiên cô Chín không nhớ ngay cả những lời đối đáp qua lại chan chứa tình nghĩa đậm đà, dù từng chập ngắt khoản bởi trách móc hờn dỗi giữa hai người. Riêng tôi, tôi có thể đoán rằng họ không thể nói thêm được một lời nào nữa trong bối cảnh nghẹn ngào, bế tắc không lối thoát. Họ đang đứng cuối đường cùn. Tôi cũng nghĩ rằng cái ý tưởng táo bạo và phiêu lưu manh nha trong hai người đồng lòng nắm tay nhau bỏ xứ trốn đi cũng không thể đến với họ. Tôi dám đoan chắc như vậy, khi hồi nhớ phong thái và cung cách sống trong sáng của hai người trước đây. Vì trong đời con người, ai ai cũng có phần tự trọng tối thiểu, cũng có sĩ diện bất biến của mình. Út Quyên và cô Chín hẳn là người thuộc thành phần hiếm hoi đó. Tôi đã chứng kiến họ quá nhiều lần. Cô Chín đã chấp nhận về làm vợ thầy Quang Trí và cuộc đời cô từ ngày trọng đại ý nghĩa đó đã gắn liền vĩnh viễn với người chồng có cưới hỏi chánh thức, có hôn thơ hôn thú đàng hoàng.







Riêng thầy Trí, thầy chưa hề đối xử sai quấy hoặc tàn bạo với cô. Thầy cư xử rất mực đứng đắn, chưa một lần lén lút để làm điều xâm phạm đến luân thường đạo nghĩa vợ chồng, chẳng hạn như mèo mở, ngoại tình, phản bội cô. Thầy thương yêu và tôn trọng cô, tôn trọng ngay cả ý nghĩ và tình cảm riêng tư của cô. Thầy biết tự chủ và không để mình dễ dàng làm nô lệ những cam dỗ thấp hèn. Giờ đây, vai trò làm người vợ gương mẫu bỗng trở lại rực sáng nơi cô. Tình cảm cô thay đổi không ngừng và bất ngờ quá. Giờ đây, cô không rõ Út Quyên đã rời cô từ lúc nào. Và bằng cách nào. Khi cô hoàn hồn sau cái hôn đê mê nồng cháy thì Út Quyên đã đi xa, quá xa rồi. Cô âm thầm đứng im bất động, vẫn nơi cô vừa tình cờ gặp gỡ và trò chuyện với Út Quyên, tay cô hãy còn vin thật chặt cánh cửa chánh làm điểm tựa nhằm giúp cô tránh cho mình khỏi chao đảo ngả nghiêng. Cô vẫn đứng trong tư thế đó một lúc khá lâu. Dường như cô đang cố moi móc trong những ngỏ ngách chằn chịt của tâm trí để hồi nhớ những gì đã xảy ra trước đó. Nhưng cô không sao phục hồi dễ dàng và đầy đủ được như ý mong muốn. Cô đành thất vọng, thất vọng vì không thể nào sống lại được giờ phút chỉ xảy ra một lần và là lần duy nhứt trong đời. Tiếp theo đó, cũng trong bối cảnh u trầm vắng vẻ tĩnh lặng của nhà chùa, mọi việc hằng ngày cô tiếp tục đảm đương không có gì thay đổi cả. Chỉ trừ những khi hoàng hôn đã mất hút khá lâu để nhường chỗ cho màn đêm đen kịch như đưa con người vào nơi bình yên, giúp họ tìm an lạc trong tâm hồn.






**


Khi Út Quyên rời khỏi tầm mắt cô, cô Chín không vội lui gót trở vào trong chùa, mặc dầu cả giờ đã trôi qua lâu rồi, từ lúc hai người hàn huyên tâm sự. Lờn vờn trong người cô cảnh tượng ngang trái cùng những lời đối đáp vừa tình nghĩa vừa dỗi hờn đã vuột khỏi tầm tay và tâm trí cô, khi rõ nét khi mù mờ, lúc nhớ lúc quên lẫn lộn. Lúc nhớ không một mạch lạc nào cả. Lúc quên, quên trong hối tiếc. Cô vẫn lặng thinh mãi đến khi màn đêm ngăn trở cô phân biệt con đường quen thuộc ngoằn ngoèo trước mặt mình đã biến mất lúc nào không hay để hòa lẫn trong bóng tối mờ mờ ảo ảo. Đôi mắt cô vẫn lạc thần quờ quạng giữa màn đêm cứ lớn dần mãi trong hoang vắng. Cô không còn ý thức về mức độ ghê gớm của nỗi đau khổ cô đang gánh chịu một mình. Cuộc gặp gỡ chóng qua với Út Quyên đã làm tê liệt những cử chỉ của cô và giết chết ngay cả ý tưởng nữa. Cô không còn sức lực cần thiết để tiếp tục chịu đựng, trái hẳn với thói quen của cô. Có thể cô sẽ quyết định ở lại vị trí đó suốt cả đêm, nếu không có sự hiện diện bất thình lình của người vú già giúp việc nhà do cha mẹ cô sai bảo vừa mới đến. Người nầy liền tay gõ cửa côm cốp, côm cốp… thúc dục lắm, dù nhiều cửa chùa lúc đó chưa đóng hẳn. Bà hớt hơ hớt hãi lên tiếng gọi tên cô không dứt làm cho cô bừng tỉnh lại ngay. Cô vội vã quay trở vào chùa cùng người vú già cô rất thương yêu trọng mến vì bà đã từng ẵm bồng, lo cho cô những bữa ăn sớm chiều và ru cô ngủ từ tấm bé.





Nguyên là cha mẹ cô, hai ông bà Năm Giàu quá lo âu không thấy cô về dự bữa cơm chiều cùng toàn thể gia đình như đã dự định trước nên lật đật sai gia nhân cấp bách lặn lội đến chùa xem cho rõ khúc nôi sự tình. Hai ông bà vô cùng sốt ruột, đứng ngồi không yên, đặt ra không biết bao nhiêu giả thiết. Mà giả thiết nào cũng không ổn trong lòng. Bà Năm còn nói với chồng lúc chiều hôm, khi bước ngang ngạch cửa có một con nhện đen thùi lùi khá to rơi lòng thòng ngay trước mặt bà. Bà đinh ninh có một điều gì bất ổn không kém phần quan trọng sẽ ập đến gia đình bà. Bà tin như thế nên thúc hối gia nhân mau mau lên đường, dù màn đêm đang phụp xuống. Chính lúc nghe có tiếng người gọi đúng tên mình, cô Chín mới thật sự hoàn hồn. Cô nhận thấy ngay không khó sự bối rối và vồn vã của người mới đến qua những câu hỏi dồn dập không kịp lấy hơi lên:


- Cô có sao không cô? Chuyện gì xảy ra cho cô?


Cô Chín cố gắng bình tỉnh trả lời:


- Tôi không sao cả. Không có chuyện gì đâu. Tôi vẫn bình thường mà. Nhưng hôm nay tôi không thể về được để dùng cơm tối. Vú không cần hỏi lý do vô ích. Vú mau mau quay gót trở về báo cho cha mẹ tôi biết để cả hai an tâm, không phải chờ đợi.





Cô còn tắt lưỡi thở ra:


- Thật tội nghiệp cho hai ông bà đã đến tuổi già ướm rụng mà vẫn tiếp tục lo lắng cho con cái. Hai ông bà lo cho tôi từng chút làm như tôi là con nít con nôi như ngày xưa không bằng. Thật tội nghiệp quá!


Cô tỏ ra sáng suốt nhằm lùa xa tánh tò mò tìm hiểu của người vú già:


- Tấm lòng của cha mẹ tôi thật bao la trời biển không sao so sánh được, lúc nào cũng ngăn ngắt rạt rào.


Nhưng bà vú già tâm trí tập trung vào những thắc mắc, dường như không nghe hay sao nên cất lời hỏi tiếp:


- Cô không sợ ngủ ở đây một mình sao? Đêm hôm tăm tối, chùa chiềng quá vắng vẻ! Nếu rủi ro có xảy ra chuyện gì… lấy ai mà tiếp cứu giúp đỡ!


Cô Chín dứt khoát:


- Không! Không! Chẳng sao đâu. Không hề gì. Tôi không sợ chi cả. Tôi không sợ những gì chẳng may xảy đến cho tôi ngay lúc nầy. Tôi đã trưởng thành mà vú! Vú đừng lo cho tôi. Chẳng ai làm gì phiền nhiễu vì nhà chùa là nơi tu hành. Gia đình tôi chẳng làm điều gì sai quấy xâm phạm một ai cả. Vú cứ an tâm ra về ngay đi kẻo cha mẹ tôi trông mà có tội.





Người giúp việc già vừa lui gót vừa nói lẩm bẩm nho nhỏ trong miệng nhưng âm hưởng lao xao ấy cũng vọng lại bên tai giúp cô Chín ngỡ mình đang thực sự trở lại cuộc sống bình thường. Cô những tưởng như vậy để hy vọng mong thoát khỏi trạng thái say mê đắm đuối khó giải thích thành lời vừa qua. Vẫn cô đơn một mình giữa màn khuya u tối, cô bắt đầu đi ngang đi dọc rồi đi dọc đi ngang nhiều lần, không biết phải làm gì để khuây khỏa giải tỏa ưu phiền. Và cũng để tìm lại sự an lạc trong tâm hồn đã mang bao thương tích trầm trọng. Nhứt là trong thời khoảng cách đây không lâu. Nhưng cũng lạ, từng chập cô càng nức nở sục sùi, đôi mắt tích lệ đỏ hoe không cách nào ngăn được như một đứa trẻ con vòi vú mẹ.




Cô tiếp tục đi như thế, vừa đi vừa thút thít hằng giờ. Có thể cô đang phiền trách phần số hay nguyền rủa định mệnh mình?! Đến khi hừng đông nhuộm màn trời với một màu xám lạnh, cô mới lê bước uể oải vào trong phòng rồi ngã lăn ra trên chiếc giường cây, kiệt sức vì quá đau khổ. Cô băn khoăn, không biết phải phản ứng ra sao và có thái độ nào trong những ngày sắp tới. Cô mê man suy nghĩ liên miên nhưng chẳng tìm ra một giải pháp hữu hiệu nào cả. Sau cùng quá thấm đòn mỏi mệt, cô ngủ say sưa bất biết đất trời, mãi cho đến gần đúng ngọ mới tỉnh giấc, do những xáo động lao xao bên ngoài của chồng cô và bà Năm Giàu. Hai người cũng vừa mới đến chùa cùng một lúc. Nhìn hai người cô quá đỗi ngạc nhiên.





Nguyên lúc bấy giờ thầy Quang Trí tuy chưa hoàn tất xong mọi việc về tang lễ, nhưng duyên may bất thình lình vừa đến với thầy. Trong gia đình tang chủ có một người bà con rất gần đang tu Phật. Hôm nay vị sư trẻ nầy trở về quê để tham dự tang lễ của người thân. Thầy Trí nhân đó rất vui mừng đề nghị vị sư đứng ra đảm trách phần tang sự thay thế thầy. Việc nầy không có chi lạ, vì sự hiện diện của thầy xem ra dư thừa. Chẳng lẽ thầy ở lại chỉ vì chút ít tiền công khó, không mấy quan trọng đối với thầy. Hơn nữa, thầy thấy trong lòng sáng lên niềm vui trong bữa cơm gia đình sum hợp nơi nhà ông bà Năm Giàu nên ngay trong đêm đó lật đật quay về nhà cha mẹ vợ. Thầy không màn ở lại dùng bữa ăn sáng, dù tang chủ hết lời mời mọc, cầm chân thầy nán lại. Lúc đó thầy chỉ mong sao sớm đến được nhà ông bà Năm Giàu để gặp lại cô Chín như hai người đã sắp đặt giao ước trước khi thầy lên đường. Nhưng thầy hoàn toàn thất vọng.







Tuyệt nhiên thầy không hề gặp được cô Chín ở đây. Do vậy thầy không an tâm, muốn biết lý do nào khiến vợ mình không giữ lời hứa. Việc nầy ít khi xảy ra giữa hai vợ chồng thầy, vì lẽ cô Chín không khi nào thất hứa, dù cho những lời hứa không mấy quan trọng. Ngay lúc đó, bà vú già cũng vừa về đến nhà, vẻ mỏi mệt do đường xa đêm hôm tăm tối. Cả nhà thở phào mừng rỡ vội nhanh chân bước ra cửa đón bà vào và cũng nóng lòng sớm biết tin cô Chín lành dữ thế nào. Bà hớt hơ hớt hải, hấp tấp trong ngay tình. Hoặc bà có thói quen tọc mạch, không giữ được trong bụng những gì vừa mới lọt vào tai mình, như bản tánh muôn thuở của phần lớn những người đàn bà có thói quen la cà ngồi lê đôi mách trong xã hội chăng? Bà vội vã buông lời:





- Dường như cô Chín không được bình thường. Thật khác lạ lắm. Tôi không biết phải nói làm sao đây cho đúng! Nhưng thú thật tôi để ý thấy như vậy. Đúng hay sai thật khó cho tôi xác nhận minh bạch rõ ràng. Nhưng tôi cũng xin thật thà trình bày để hai ông bà và thầy được tỏ tường. Kẻo sau nầy rủi có chuyện gì không hay xảy ra, hai ông bà và thầy không thể rầy la, trách cứ phiền hà gì tôi được.


Đến đây bà bỗng dưng khẳn quyết, tin rằng lời nói của mình không thể sai:


- Cô Chín có thái độ tới giờ phút nầy tôi không biết phải nói sao cho đúng dưới con mắt quan sát để ý của tôi, nhưng cam đoan hoàn toàn khác hơn mọi lần trước tôi đã gặp. Việc nầy khiến tôi quá đỗi ngạc nhiên. Tôi lo trong lòng. Làm như có một sự việc gì quan trọng lắm cô vừa mới trải qua hay sao.


Bà lập lại một lần nữa:


- Tôi có nhận xét thật thà trung thực như vậy. Tôi nói ngay tình, mắt tôi thấy sao miệng tôi nói vậy, không hề đặt điều đặt chuyện. Nhưng hai ông bà cùng thầy đây đừng khiển trách tôi, nếu tôi có sơ xuất sai sót hoặc quá lời. Việc nầy tôi chẳng bao giờ dám. Tôi đã đến phụ giúp ông bà bao nhiêu năm rồi chớ có phải đầu hôm sớm mai đâu, chắc ông bà và thầy biết tánh nết thẳng ngay của tôi hơn ai hết.





Để chứng minh nhận xét của mình, bà giải thích bằng cách trưng ra thêm bằng cớ để đặt người nghe phải quan tâm chú ý đến lời trình bày của mình:


- Tôi trông cô Chín gần như rối loạn tinh thần nguy cấp lắm. Tôi rất lo trong bụng. Mà không lo làm sao được trước tình huống khác thường đó. Đôi mắt tôi không lúc nào rời nhìn cô. Tôi nhìn rất kỹ, thật kỹ. Nhìn kỹ nên tôi để ý thấy đôi mắt cô quần sâu và đã bụp hẳn. Lúc đó cũng như bây giờ tôi đoan chắc chắn cô từng khóc và khóc không ít trước đó.


Nghe đến đây, thầy Quang Trí tỏ vẻ lo âu, sốt ruột lắm. Nhưng thầy trầm tỉnh đến độ lạnh lùng, cứ chăm chú nhíu mày theo dõi lắng tai nghe. Thầy không nói một lời nào cả, trong lòng ngổn ngang trăm mối. Bởi vì khi người ta ít nói thì dĩ nhiên ít có những câu hỏi, dù là những câu hỏi chánh đáng và cần thiết. Đúng là trường hợp của thầy. Mà những câu hỏi lúc nầy của thầy suy ra chỉ làm phiền phức thêm, chẳng giải quyết được gì cả. Thầy là người biết tự trọng và có ý thức cao độ. Vốn trầm tĩnh, thầy dư biết hơn ai hết là những trạng thái tâm hồn như nghi kỵ, ghen tuông, hận thù hoặc nghĩ xấu về người khác, nhứt là những người trong thân tình… tất cả đều thể hiện sự thiếu sáng suốt và mất khôn ngoan.




Hơn nữa, nếu thầy nóng nảy, cái tánh bốc đồng đó sẽ đưa thầy đến giận dữ, vì nó chỉ là dấu hiệu của một sự đuối lý, một tình trạng thấp kém yếu hèn, chớ không phải là sức mạnh cần thiết giúp thầy đối phó tình hình. Dù nghĩ như vậy nhưng thầy cũng là con người mà sân si, tham lam ham muốn chiếm lĩnh làm của riêng tư vốn nằm im đâu đó trong tiềm thức, chỉ bừng dậy trong một hoàn cảnh nào đó thôi. Thầy không phải là Tiên và hẳn nhiên không phải là Phật nên không sao thoát khỏi định luật muôn đời ấy của thế gian. Có lẽ ngay lúc đó thầy cũng đoán một chuyện gì không may đã xảy đến cho vợ mình. Và một chuyện phải cực kỳ quan trọng hoặc ghê gớm lắm mới đẩy đưa vợ đến trường hợp nước mắt đầm đìa.




Thầy suy luận và lo âu cũng phải lắm! Dường như thầy đang tin vào những lời tường trình và phát biểu của bà vú già. Hay thầy đang tìm một phản ứng chăng? Nhưng giờ đây thầy thay đổi thái độ bắt đầu tin và tin tuyệt đối vào lời nói của bà vú già, vì xét ra bà vốn là người quê mùa chơn chất hiền lành, chưa một lần biết dối dan lật lộng với gia đình ông bà Năm Giàu và với riêng thầy. Thầy không chút an tâm, vẫn nơm nớp lo lắng trong lòng. Chỉ sau đó không lâu, như vừa loé lên một quyết định, thầy vội vàng dai qua phía mẹ vợ thúc hối và luôn miệng khẩn cầu bà Năm Giàu hãy mau mau thu xếp mọi việc còn dang dở để theo gót thầy cùng đi ngay về chùa, đích thân thầy xem sự tình ra sao. Chỉ có cách duy nhứt nầy mới đánh tan được mọi lo âu ưu phiền đang gây cho bầu không khí gia đình càng thêm nặng nề ngạt thở. Họ nóng hơ trong lòng còn hơn lửa đốt nên nhứt định phải lên đường đi ngay. Họ không thể chần chờ một giây một phút vì bên ngoài trời đã phụp hẳn xuống.





Họ lật đật phóng nhanh, kẻ trước người sau lầm lũi chân đi thoai thoải chẳng ngưng. Họ đi như bay. Trong lo lắng, cả hai, bà Năm Giàu và thầy Trí chỉ sợ cô Chín nhuốm bịnh bất thường. Đêm khuya khoắc, không một người cạnh bên cô để săn sóc giúp đỡ, chắc có cơ nguy kịch. Chỉ vì vậy cô tủi thân chăng? Dù nóng lòng nhưng khổ nỗi bóng đêm đôi lúc làm cho họ khó mà đi mau được trên những bờ đê, bờ ranh, bờ bao ngạn nhỏ hẹp lại lầy lội trơn trợt hoặc ngập nước lé đé do cơn mưa to đến hồi tưng bửng sáng. Thêm vào đó, những luồng gió đồng buốt thấu xương cứ vun vút từng cơn làm họ run lên cằm cặp và lạnh toát cả người. Ngoài ra ngọn đuốc chai duy nhứt thầy Trí dùng để soi đường cứ phựt lên phựt xuống liên hồi rồi bỗng nhiên tắt ngũm do một luồng gió mạnh vừa tạt ngang qua. Việc lần mò dò dẫm lối đi của hai người càng thêm nhiêu khê trắc trở hơn bao giờ hết. Họ đã mất quá nhiều thì giờ quí báu qua những bước đi ngập ngừng thận trọng.




Nhưng họ vẫn quyết tâm trì chí và can đảm lầm lũi mãi trong đêm tối. Mục tiêu trước mắt của họ chưa đạt nên họ càng sấn bước hơn. Mãi đến sáng sớm, khi băng qua khỏi cánh đồng lúa xanh um, mênh mông bát ngát ngày mùa, thầy Trí và bà Năm Giàu vừa đặt chân lên một gò hoang rải rác đó đây dẫy đầy dứa gai và xương rồng xương hùm, nhưng thực ra đây chỉ là nghĩa địa công cộng của xóm làng. Hai người đang mừng vui sắp đến đích, do xa xa đã thấy lắp ló đôi ba cái tháp cao của nhà chùa. Bỗng hai người gặp anh trùm Hưng của nhà hội đang đi ngược chiều với họ. Anh trùm nầy có thói quen chắt mót thì giờ trong ngày nên tranh thủ tiết trời còn mát mẻ lúc bình minh mới ló dạng đang xăn xái phong phóng đi phát thư từ cùng mang trát gọi hầu quan. Việc nầy là việc làm tay trái của anh, năm bảy ngày hay nửa tháng mới xảy ra một lần, nhưng những lần hiếm hoi nầy cũng giúp anh có thêm chút ít thu nhập dù tượng trưng.




Còn phần việc tay mặt, phần việc chính yếu của anh không ngoài ruộng nương vườn tược. Cũng như mọi khi, hôm nay anh còn phải trở về nhà sớm để chăm lo bao nhiêu công việc đồng áng đang chực chờ đôi tay rắng rỏi của anh. Cái nghề làm trùm ở làng quê anh suy ra chỉ là cái nghề khá bạc bẻo, không được trọng vọng, cái nghề thường bị bà con phiền hà khi thư từ trễ nãi nên ít người ưng đảm nhiệm. Tuy nhiên nó cũng giúp anh có thêm chút ít lợi tức như đã nói, chớ thật ra chẳng nuôi được mấy miệng ăn bề bộn trong gia đình anh. Anh vốn ít học, bị bà con trong làng xem như người cù lần lữa và có tiếng lóc chóc do méo mó nghề nghiệp. Vì hằng ngày anh có nhiều dịp tiếp xúc với nhiều thành phần trong xã hội, nhiều người lắm mồm lắm miệng, lắm chuyện tào lao lôi thôi phiền hà. Anh lại có thói quen chuyên đánh vòng vòng từ đầu trên xóm dưới ăn chỉa nơi những đám giỗ, đám cưới… dù không được gia chủ thỉnh mời. Miệng mồm rộng huệch, ăn nói cẩu thả, chưa già đã sanh tật khiến nhiều người khinh khi tránh né. Túng cùng lắm họ mới chịu đối mặt những khi quá cần thiết.





Hôm nay anh không giữ được bình tỉnh. Anh mừng húm khi trông thấy bà Năm Giàu và thầy Trí từ từ đi ngược chiều với anh. Anh vội vàng chọt miệng la lớn trước khi giáp mặt hai người:


- Bà Năm và thầy Trí có thấy thằng Út Quyên không?


Đến khi giáp mặt nhau, anh hề hà luôn miệng cố tình giải thích thêm, quên hẳn việc trước tiên là chào hỏi người trên trước và có chức vị. Anh làm như Út Quyên là người xa lạ với hai người vậy:


- Bà Năm và thầy chắc hẳn còn nhớ thằng Út Quyên chớ? Anh ta là con út của ông bà Tám Thảnh, nhà ở tận xóm trên làng mình đó. Hồi còn nhỏ, tôi nói còn nhỏ chớ lúc ấy nó đã nhổ giò nhổ cẳng rồi, nó hay tham gia những sinh hoạt cộng đồng cùng với bà con trong những ngày lễ quan trọng. Những năm về sau, năm nào vào dịp cúng Kỳ Yên thỉnh sắc mà không có mặt nó. Hồi đó nó nổi tiếng vô địch trong làng mình về môn đánh vật. Thanh niên các làng chung quanh đều nể mặt, phục nó sát đất.



Trong lúc bà Năm Giàu và thầy Trí đang chưng hửng sửng sốt về những phát hiện đến bất thình lình nên chưa kịp phản ứng, anh ta cất giọng nói thêm:
- Hai ông bà Tám Thảnh kẻ trước người sau đã mãn phần cách đây không lâu, hồi năm nẵm?! Tôi chắc bà và thầy hẳn không quên. Nhứt là thầy là người đứng ra chăm lo phần kinh kệ và đưa linh hạ huyệt. Tôi nhớ như in mà. Chẳng sai chút nào cả. Hồi đó thầy chưa về trụ trì chùa thầy Chánh mà chỉ đi đi về về giúp bà con bá tánh. Còn thằng Út Quyên thì… thì… tôi nghe nói nó đã bỏ xứ ra đi làm ăn xa bảy tám năm nay, bặt tin cũng đã lâu rồi! Bà con mình đồn rùm trời rùm đất là nó đã chết.
Anh tắc lưỡi :
- Không
Sao lời bỏ lững kéo dài đôi ba dây, anh ta quả quyết:
- Không dè nó sống nhăn và mới vừa về quê mình đó.


Bà Năm Giàu dường như không nghe những lời quả quyết của anh trùm Hưng. Vì bà đâm ra hoảng hồn mất vía, sau khi tiếp thu hai tiếng «không dè…» bỏ lững, nhưng là hai âm thanh đã khắc ghi trong trí bà lúc đó. Bà nghĩ đây là một sự cố ý của anh trùm. Bà bấn loạn tinh thần đến choáng váng. Bà không buông được một lời nào đáp lại anh trùm bê bối lắm chuyện, miệng mồm đàn ông không khác chi cống rảnh thúi tha, chuyên đi xâm xỉa chuyện người. Ánh mắt bà đăm chiêu suy nghĩ. Bà nói không thành tiếng: «Trời ơi! Trời ơi là trời! Có thật như vậy hay sao? Tại sao lại có việc quá ư lạ lùng ngược đời nầy? Chẳng phải nó đã chết từ lâu rồi hay sao? Mọi người trong cả làng nầy, ai cũng đồn rùm beng như vậy mà! Đã bao năm qua… Nếu thật như lời anh trùm Hưng vừa mách bảo thì rõ là ông Trời trên cao sao oái oăm cắc cớ đến thế nầy… Ông bày chi cảnh tình éo le ngang trái, nếu mình tin vào lời thằng trùm vô duyên trời đánh thánh đâm nầy».


Bà không sao lùa xa được những suy nghĩ của mình: «Cái thằng chết bầm sao bẻm mép quá! Lắm chuyện! Không biết ông ứng bà hành hay ông đồng bà cốt nào nhập vào nó nên nó oang oang ong óng như vậy? Nó không biết lựa lời đúng phải lúc để nói. Mà lại buông lời vô tình và vô trách nhiệm… ».


Bây giờ bà mới lấy giọng người lớn lên tiếng hỏi gằng trùm Hưng. Bà hỏi gằng như có ý trách móc anh nhưng thâm ý chắc cũng gián tiếp thay mặt thầy Trí đặt những câu hỏi để làm sáng tỏ câu chuyện. Bà muốn anh ta xác nhận thêm một lần cuối cùng thực hư ra sao:


- Mầy có chắc đúng là thằng Út Quyên hay không? Có chắc không? Mầy có thấy tận mắt? Hay mầy chỉ nghe người ta đồn đãi? Việc nầy rất hệ trọng, mầy phải nói thật kẻo sanh ra lớn chuyện. Mầy có biết không? Hay là mầy xớn xơ xớn xác nói cố mạng, trông gà hóa quốc. Mầy cầm nhầm người nầy với người kia? Mầy làm như vậy là mầy phá gia can người ta đó. Mầy nên suy nghĩ kỹ đi!
Bà quả quyết:
- Chớ tao thì tao không tin là nó còn sống đâu! Gia đình và bà con nội ngoại của nó cùng xóm giềng cả làng mình ai ai cũng đã từng xác nhận như vậy từ lâu. Tao nghĩ chắc mầy cũng từng nghe qua.


Anh trùm Hưng bỗng rán gân cổ cãi lại. Anh dỏng dạt không một chút đắn đo do dự. Dường như anh dứt khoát việc mình nói là sự thật, một sự thật trăm phần trăm, khi anh hướng về phía hai người. Anh tỏ ra quá đỗi hân hoan sung sướng đã mang đến một tin đặc biệt nóng sốt, có thể trong xóm trong làng chưa chắc có người nào biết trước anh. Anh tươi tỉnh bí hiểm như thầm trả lời câu nói nghi kỵ của bà Năm:


- Bà Năm và thầy đây biết rõ hơn ai hết. Tôi đâu phải là loại sơn lâm thảo khấu, đâm heo thuốc chó, muốn làm gì thì làm, muốn nói gì thì nói bao giờ đâu. Nói quấy quá như vậy là vô trách nhiệm, có tội. Sự thật thằng Út Quyên vẫn còn sống nhăn bằng xương bằng thịt, chẳng những tôi giáp mặt nó ở đầu làng lúc chiều chập choạng mà có người đáng tin cậy còn xác nhận cho tôi biết tối hôm qua nó có ghé qua xóm mình và đến thăm hỏi từng nhà từng tên bà con cô bác lớn nhỏ không sót một người kia mà.


Anh dong dài thêm:
- Đã bao năm qua rồi mà nó còn nhớ không sai sót tên từng người một. Cả người còn sống lẫn người đã mất. Cái thằng coi vậy mà có tình có nghĩa quá chừng. Hiếm có lớp trẻ mới tấn lên bây giờ có được phong cách đạo đức đó. Nó rất dễ thương dễ mến. Lúc gặp tôi, nó niềm nở vui mừng như người ruột rà gần gũi vừa gặp lại sau nhiều năm xa vắng.


Anh nói không ngừng:
- Còn việc nầy nữa, tôi chẳng giấu giếm đậy che làm chi. Cũng vài bà con đó còn cà kê mách bảo cho thằng Út Quyên biết chính xác là cô Chín, con của bà đã có chồng cách đây chỉ vài năm thôi. Hiện tại cô đang trú ngụ cùng chồng tức là thầy tại chùa Thầy Chánh. Họ nói như vậy tôi chắc họ muốn nhắn thằng Út nên nhìn vào sự thật, không còn nuôi ảo vọng?


Anh cười cười, tỏ ra ngạc nhiên:
- Đã rành rành xác nhận như vậy nhưng thằng Út Quyên tuyệt đối không tin mới là lạ. Trái lại nó còn cực lực cự nự cho là tin đồn nhảm nhí thất thiệt, luận điệu vu vơ vô trách nhiệm hoặc ác ý làm tổn thương danh dự của người đàn bà chơn chất hiền lương. Cái thằng mù mì mũ mĩ nhưng cứng đầu cứng cổ thật. Nó không chịu tin ai cả. Tôi còn nghe người ta nói lại là nó hết lời chẳng những phản đối mà còn luôn miệng dõng dạt cãi lại cho bằng được: “Cô Chín nào phải thuộc hạng đàn bà lang chạ, loại bướm ong, hạng đàn bà bạc tình bạc nghĩa, lộn nài bẻ ống chóng quên đâu. Xin đừng có đặt điều đặt chuyện vô ích, tôi không dễ dàng tin đâu”.

Trùm Hưng trả lời dứt khoát:
- Sau đó, nó biến dạng mất tiêu, hướng thẳng về phía nhà chùa...
Nghe đến đây, thầy Trí vụt ngắt lời. Thầy không hẳn tin, giống như trường hợp của bà Năm trước đó vài ba phút:
- Anh ta có thật đến chùa hay không? Anh có dám xác nhận với tôi điều đó không? Tôi nhắc thêm anh để anh biết mà cẩn trọng, nói dối nói liều mạng là có tội đó.
Trùm Hưng không chút đắn đo:


- Quả đúng như vậy thầy à! Tôi không bao giờ đặt điều. Chính trên con đường đất gồ ghề lỏm chỏm đầy cỏ mai cỏ chỉ nầy đây, bác Hai Phải đang cày ruộng nán để dứt điểm vài ba công còn dang dở trước cổng chùa đã trông thấy tận mắt Út Quyên mà. Chính bác đã tránh anh ta nơi khúc quẹo hẹp té trước ngôi nhà ông Tám Kén khiến bác thiếu điều trợt chân ngã xuống ruộng nước. Thật tình mà nói, ít ra còn có nhiều người đều trông thấy Út Quyên sờ sờ trước chùa chớ có phải chỉ một mình bác Hai Phải và tôi đâu mà thầy có vẻ nghi ngờ.

Anh bỗng phật ý:
- Tôi chỉ xác nhận việc thằng Út Quyên đến trước cửa chùa mà thôi, còn việc nó có vào chùa hay không hoặc có nghỉ đậu qua đêm hay không, tôi không hề dám xác quyết. Bây giờ tin hay không tin tùy thuộc ở thầy. Tôi đâu phải là đứa nói láo đâu. Tôi đâu phải là đứa vô trách nhiệm, lắm chuyện lắm điều.


Trùm Hưng tự coi mình như người đàng hoàng có phong cách đứng đắn hơn người. Nhưng dường như đến lúc gay cấn nầy anh mới giựt mình biết rằng mình đã lỡ quá lời với thầy Trí. Anh mơn trớn cười vả lả rồi nghiêng qua nói với bà Năm Giàu hy vọng bầu không khí bớt đi phần căng thẳng:
- Con gái bà, cô Chín hiện nay có một cuộc sống hạnh phúc, thoải mái hơn những người con gái bất hạnh trong cả làng nầy. Cô đã lấy được thầy đây, người có sự nghiệp vững vàng và được bà con kính trọng nể vì. Cô chẳng còn có gì để hối tiếc cả… Tôi thành thật khen bà đã sanh được người con xứng đáng.


Trong khi đó thầy Trí không buồn nghe tiếp để tìm hiểu thêm. Đối với thầy, dù có nghe thêm đôi câu nữa nơi cửa miệng của anh trùm vô duyên trật búa nầy cũng vô ích thôi, không giúp chi thầy và cũng không giải quyết được gì. Còn có thể gây cho thầy nhiều bực dọc. Việc đâu còn có đó. Sai trúng chưa được rõ ràng. Thầy vội vàng nắm tay bà mẹ vợ dắt đi, không kịp từ giã a
nh trùm lắm chuyện một lời nào cả theo đúng phép lịch sự thông thường từ muôn thuở nơi làng quê. Thầy phải đi ngay và quên lững việc nầy. Bà Năm Giàu liếc chéo nhìn gương mặt lạnh như tiền, vừa biến sắc từ hồng hào sang xanh nhạt, đôi môi rung rung không thành lời của chàng rể. Bà nghĩ sóng gió ắt sẽ không tránh khỏi khi hai người đặt chân đến chùa. Đúng lúc ấy bà Năm vẫn còn nơm nớp lo sợ trong lòng khi bà thấy thầy Trí ngậm câm như hến, lủi thủi bước nhặt hơn. Bà bắt đầu than van lâm râm: «Mô Phật! Nam Mô A Di Đà Phật! Tại sao bây giờ thằng Út Quyên lại trở về làng làm chi để làm xáo động cả gia đình bà và nhứt là gia đình của con gái bà? Nó có ý định, có tình ý gì không? Mô Phật!... Thật khổ cho tôi quá trời. Mà một khi có nhiều người cùng chung một ý kiến và nhận xét thì chắc chắn không phải là sự trùng hợp đâu. Mà không có lửa làm sao có khói được. Trong nhà chưa tỏ mà ngoài ngỏ người ta đã tường. Khổ cho tôi quá!».


Thầy Trí vẫn tiếp tục ngậm câm như hến, chẳng nói năn chi suốt lộ trình còn lại dài cả một cây số. Sự ghen tuông giận dữ đang dấy lên lồng lộn trong lòng thầy, mặc dù thầy đã từng nói giận dữ ghen tuông là hai trạng thái tâm hồn thiếu sáng suốt và mất trí khôn. Tình yêu! Cái tên đích thực của nó không phải thơ mộng lãng mạn như vậy đâu, mà chính là sự ghen tuông ganh ghét. Đôi vợ chồng thầy sống chung với nhau không phải để kéo dài mãi mãi năm tháng mà chính là phải mang tình yêu vào những tháng năm đó.Thầy quạo đeo, rảo bước càng lúc càng nhanh hơn, nét mặt sầm sầm hầm hừ, khiến bà mẹ vợ phập phồng lặng im. Bà nín khe không dám nói một lời nào cả với thầy nhằm hy vọng tạo cho bầu không khí được dễ thở hơn. Bà cố bám sát theo chân thầy. 
 
Phần lớn tuổi, phần mệt lã, chân cẳng mỏi mệt bà không theo kịp. Tiếng bà từng chập thở dài trong lo âu. Khi cả hai đến ngưởng cửa nhà chùa, thầy Trí vội xô mạnh cánh cửa đánh ập vào vách phát ra một tiếng khô khan. Thầy nóng lòng muốn biết rõ ngay sự thật. Thầy gọi:

- Chín! Chín! Em đâu rồi? Em ở đâu? Anh về nè…
Không một tiếng hồi đáp vọng lại. Im lặng lạnh lùng trong ngôi chùa thâm u và những gian phòng vắng vẻ! Chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng chim chóc thức giấc ríu rít gọi đàn. Giây phút quá nặng nề, gần như ngạt thở. Thầy lại gọi thật to:
- Chín! Chín!


Thầy hồi hộp nhưng cố tình dằn nén, giữ sự bình tĩnh, làm như không có chuyện gì quan trọng xảy ra trước đó. Ngay cả những lời mách bảo xoáy vào tim của anh trùm Hưng khoản hơn nửa tiếng đồng hồ trước, thầy cũng gát ngoài tai. Thầy không tin ở lời nói của tên trùm bẻm mép cùng lời xác nhận của bác Hai Khoẻ mà trùm Hưng từng nêu ra để dẫn chứng. Nhưng không biết sao ngay trong lúc im lặng đó, thầy bỗng nghĩ thầm trong bụng rằng cô Chín chắc đã thu xếp đồ đạt tế nhuyển bỏ chùa đi mất dạng, biệt tâm biệt tích rồi. Dĩ nhiên hành động nông nổi đó chứng tỏ là cô đang tâm phản bội thầy, bỏ trốn đi theo người yêu xưa là Út Quyên?! Sự im lặng làm cho thầy càng bối rối hoang mang hơn.


Thầy vội vàng phóng nhanh vào phòng trong nơi thầy và cô Chín chung sống bấy nay và chưng hửng thấy vợ mình vẫn còn say sưa trong giấc ngủ nồng nàn, quần áo ngay ngắn, thẳng thóm chỉnh tề. Cô nằm bất động như một xác chết chưa chôn trên chiếc giường tre quen thuộc của đôi vợ chồng, chỉ có mớ tóc rối nhào nhoè buông xỏa xuống gối. Đôi mắt cô vẫn nhắm híp với hai viền mi đen sậm chung quanh. Thêm vào đó, hai mí mắt gần như sưng húp, một chứng tích hiển nhiên minh chứng cô đã từng khóc nhiều, nhiều lắm trước đó. Rồi thầy liên tưởng đến nhận xét chính xác của người vú già lúc bà về nhà báo cáo với ông bà Năm Giàu và thầy tối qua.
 
Bây giờ thầy bắt đầu tin chắc vào những lời đồn đãi đã lọt vào tai mình. Dù trước đây thầy không tin nhưng đến phút nầy thầy phải tin. Sự bực tức, ghen tuông lồng lộn dấy lên xâm chiếm ngay con người thầy Trí, khi thầy không còn nghi ngờ chi nữa. Thầy đã biết đích xác sự trở về làng của người yêu cũ của vợ mình. Út Quyên nay vẫn còn sống, không như tin đồn anh đã chết. Chắc chắn anh ta có ghé qua chùa, lúc đêm hôm tăm tối, đúng như lời quả quyết của bà con trong làng trong khi thầy vắng mặt. Và chỉ có một mình cô Chín ở nhà. Thầy đặt ra cho mình biết bao giả thiết mà toàn là những giả thiết nhuốm màu đen sậm. Bà Năm Giàu lanh trí, vội vàng lựa lời lẽ vừa để trấn an chàng rể, vừa để bảo vệ con gái mình:


- Tội nghiệp con Chín quá đỗi. Thật tội nghiệp nó! Sự thực chắc nó cũng đã gặp lại thằng Út Quyên, nhưng con thừa biết, nó không phải thuộc hạng đàn bà lẳng lơ, con gái mất nết quen thói bội bạc thường tình, thay chồng như thay áo. Lâu nay nó là người vợ thật thà trước sau một mực chung thủy với con. Nó không còn nghĩ tới thằng Út Quyên đâu, má tin như thế. Bởi vì bây giờ nó là vợ chính thức của con rồi. Nghĩ sai quấy tội nghiệp nó!


Bà cứ lập đi lập lại hai chữ ‘tội nghiệp’ để tỏ ra khẩn cầu:
- Con nên bình tĩnh đối xử tử tế tốt đẹp với nó. Nó là người vô tội. Chẳng qua nó bị thụ động mà thôi!
Bà bỗng trở lại vị trí mẹ vợ của mình để nói lên một bài học làm người:


- Đừng có nghĩ bậy bạ, nghĩ xấu trong đầu làm cho gia đình vì đó xào xáo mất vui, mất đi hạnh phúc. Mà hạnh phúc một khi chẳng may mất rồi làm sao tìm lại được vẹn toàn như cũ. Cũng giống như bát nước đầy xảy tay đổ xuống bàn xuống ghế không thể nào hốt lại nguyên vẹn được. Vả lại, việc làm cho hai vợ chồng không được hòa thuận không hẳn là thiếu tình thương lẫn nhau hay khác biệt tâm tánh mà chính là sự ngu dốt mất khôn ngoan.

Thầy Trí nghe qua, cất tiếng long trọng hứa hẹn và cam kết sẽ đối xử vuông tròn êm đẹp với vợ trước mặt bà Năm Giàu. Trước mặt mẹ vợ, thầy tỏ ra là người rộng lượng biết thứ tha, biết phân biệt trắng đen phải trái, nhưng trong thâm tâm thầy đang chiến đấu với bản thân mình. Chiến đấu chóng lại sự ghen tuông dằn xé không nguôi trong lòng, vì một lẽ duy nhứt qua những sự kiện vừa xảy ra thầy luôn nghĩ rằng vợ mình vẫn mãi mãi tơ tưởng đến Út Quyên, thầm yêu trộm nhớ người yêu cũ. Rõ ràng là như vậy. Bây giờ thầy khẳng định dứt khoát. Ngày trở về quê hương của anh ta quả là một chấn động không lường đến với thầy. 
 
Chưa nói đến việc hai người có thể phạm vào những tội lỗi tày trời không thể chấp nhận để thứ tha được. Ngay lúc đó, cô Chín bỗng mở to đôi mắt, chăm chú cố nhìn chung quanh mình như đang tìm kiếm một vật gì đã đánh mất. Cô vừa tỉnh lại sau giấc mê dài do niềm đau vừa qua đã gây khổ lụy cho cô quá nhiều. Khi cô nghe được tiếng nói thân thương trìu mến quen thuộc của mẹ mình, cô mới tỉnh hẳn và vụt nhớ lại bi cảnh nơi khúc phim đầm đìa nước mắt đã xảy ra trong cái đêm đầy ác mộng cô vừa trải qua. Cô vội vã ngoảnh mặt hướng ngay vào vách phòng. Một thái độ bất thường càng làm cho bà Năm thêm thẫn thờ luống cuống. Thật ra cô không dám nhìn ông chồng đang đứng sờ sờ bất động ngay trước mặt mình. Cô muốn lánh, không muốn nhìn ai cả. Rồi cô úp mặt vào gối:

- Tôi muốn được chết và chết phức ngay bây giờ! Chết tức khắc để không còn làm phiền lòng và liên lụy đến một ai cả, những người tôi thương. Chết là hết. Chết là hết nợ. Nợ tình và cả nợ đời nữa.
Cô vừa nhỏ nhẹ vừa cứng rắng:


- Mọi người hãy để cho tôi được toại nguyện lần cuối cùng. Tôi đang khổ và khổ quá nhiều! Tôi không còn sức để chịu đựng. Sự sống chẳng còn nghĩa lý gì đối với tôi nữa. Tôi có sống thêm năm mười năm hay hơn nữa cũng bằng thừa. Tôi chỉ gây thêm đau khổ phiền hà cho những người chung quanh tôi thôi. Nhứt là cha mẹ và chồng tôi…


Cô càng nức nở:
- Tôi không còn muốn sống nữa. Tôi đã mất tất cả rồi. Mất người yêu, mất chồng, mất niềm tin, mất tuổi thanh xuân, mất cả một đời. Sống mà làm chi nữa!
Cô uể oải và đau khổ tận cùng. Bà Năm Giàu lo sợ, ú a ú ớ không tìm được lời an ủi khuyên lơn nào khả dĩ hữu hiệu giúp cô thoát khỏi cơn mê. Bà than thầm. Bà cho rằng trong suốt cuộc đời quá xa cái tuổi ‘cổ lai hi’, bà chưa bao giờ gieo hạt giống xấu một lần nào, nhưng sao bây giờ bà lại gặt toàn chuyện trái ngang ở tuổi ướm rụng. 
 
Cô Chín vẫn tiếp tục nằm im bất động, không muốn nhìn ai cả. Trong khi ấy, thầy Trí không giấu được sự bất bình nhưng cố dằn lòng, không để lộ ra ngoài những suy nghĩ của thầy. Tuy nhiên trong sâu thẳm lòng thầy nỗi lên bao nhiêu trạng thái lẫn lộn rất phức tạp, vừa giận dữ hận thù, vừa cảm thương tội nghiệp. Tình yêu chồng vợ và ghen tuông ganh ghét tuần tự tiếp nối nhau không dứt trong con người thầy. Đến lúc nầy không ai biết thầy sẽ xử sự ra sao. Nỗi lòng thầy quả là một lãnh vực riêng tư đầy bí hiểm khó cho một người nào khác xâm nhập được. Cô Chín không màng để ý chi cả, khe khẽ nói tiếp:


- Hãy để cho tôi được yên! Tôi muốn được ở đây một mình. Chỉ một mình tôi thôi! Xin mọi người hãy thương và tôn trọng lời thỉnh cầu lần cuối cùng của tôi. Xin tất cả đều nên lần lượt bước ra khỏi phòng. Một lần nữa hãy yêu thương tôi. Hãy tôn trọng ý nguyện của tôi. Tôi cần sự yên tịnh lúc nầy.


Khi bà Năm Giàu và thầy Trí lần lượt bước ra khỏi phòng một đỗi không lâu lắm, cô Chín bèn ngồi trỏm dậy nhanh gọn. Tuy nhiên cô vẫn còn vật vã buồn so. Tiếp đó, cô đưa tay vuốt mặt, vuốt những giọt nước mắt đau thương còn để lại dấu vết trên đôi mi sưng húp và tiện dịp vuốt lại mái tóc rối bời. Xong, cô sắp xếp ngăn nắp cẩn thận vật dụng lỉnh kỉnh trong gian phòng đang thiếu hẳn ánh sáng và nhứt là sự sống, rồi trực chỉ đi ngay xuống nhà bếp để lo cơm nước buổi ăn trưa cho chồng như thường lệ. Cô lăn xăn vả lả làm như không có chuyện gì bất thường vừa xảy ra trong đời cô. Cô quả là người có thói quen chịu đựng mọi nghiệt ngã bất cứ từ đâu tới. Không biết vì sao cô thay đổi thái độ và cách hành xử nhanh chóng như vậy. Thầy Trí không ngớt quan sát theo dõi vợ và cũng bắt đầu thay đổi hẳn thái độ, giống như trường hợp của cô Chín. Một sự trùng hợp làm mát lòng mát dạ bà Năm Giàu. Bà rất vui mừng vì thấy thầy làm lành, chẳng gạn hỏi cô Chín một lời nào nữa, dù nhỏ nhẹ, làm như thầy đã bỏ qua tất cả mọi việc.

Thầy là người hiểu rộng và từng trải, nghĩ rằng muốn thành công lùa xa khỏi tâm trí những buồn đau và khổ lụy thì không gì bằng bảo vệ hạnh phúc trong tầm tay. Thầy không phải là hạng người ăn cháo đái bát, không thấy những gì vợ mình đã làm cho mình, nhứt là những khi ể mình ốm đau. Con người không có trái tim không phải là con người. Ơn nghĩa là hai chữ sáng trưng nơi thầy. Nói thế nhưng trong thực tế dù tự tin cách mấy nhưng mỗi lần cô Chín xê dịch bất kỳ nơi nào trong chùa, đôi mắt thầy vẫn đâm đâm theo dõi. 
 
Thầy dòm ngó từng cử chỉ nhỏ nhặt của cô với cái nhìn vừa không tránh khỏi nghi kỵ, vừa vả lả làm lành. Dầu sao, ánh mắt khó chịu đó của thầy không sao thoát khỏi sự để ý của cô. Những tuần lễ kế tiếp, cô thường lén lút quan sát cái nhìn soi mói đầy ẩn ý của thầy nhắm vào cô. Cô biết rõ như vậy nhưng vẫn bình thản làm tròn bổn phận và trách nhiệm của người vợ trong mọi công việc trong ngoài hằng ngày. Cô cố gắng quên niềm đau đang dày vò không thôi trong lòng. Và qua những công việc nhàm chán hằng ngày đó, cô hy vọng vượt qua giờ phút nặng nề, đôi khi quá ngạt thở để chờ đến đêm tối âm thầm cam chịu đau khổ một mình, khi chồng cô đã hoàn toàn an giấc nồng.
**

No comments: