Thursday, May 4, 2017

VÕ PHƯỚC HIẾU * CHỈ LÀ KỶ NIỆM I

 


 
In lần thứ nhứt năm 2014 

HƯƠNG CAU 

Thương tặng Tiện Nội

    để nhớ những ngày lận đận đã qua.

* Mến trao các cháu:

Võ Phước Trí, Alexandre
                                                                               Võ Thiên Thanh, Charlotte


Tôi nhận được Tập Truyện “Chỉ Là Kỷ Niệm” với lời đề tặng: “Để kỷ niệm ngày Quốc hận 30/4/2014”. Của một tác giả đã nặng lòng với Văn chương Chữ nghĩa từ hơn nửa thiên kỷ qua. Đến bây giờ là một trong những người ít ỏi nhất còn sót lại và tiếp tục đi theo lý tưởng nầy. Sách có năm truyện vừa gồm các truyện: Tin Hay Không Tin - Tình Muộn - Mùa Xuân, Lang Thang Ngày Cũ - Chỉ Là Kỷ Niệm - Hoài Niệm Học Giả Giáo Sư Lê Thọ Xuân. Và phần phụ trang có: 1. Đọc sách: “Cảnh Đấy Người Đây” và “Dòng Đời Xuôi Ngược” của hai nhà văn Thôi Hiên & Võ Phước Hiếu. Bài của Trần Đan Hà. 2.Thêm một hồi ký nhà báo trong tù của nhà văn An Khê Nguyễn Bính Thinh (1923-1994) do Võ Đức Trung Thực hiện. Bài của Viên Linh. 3. Đọc sách: “Em Có Về Cồn Phượng?” của tác giả Hoàng Ngọc Hiển. Bài của Trần Thị Hương Cau. Xuyên suốt nội dung của tập truyện, hình như tác giả có tâm nguyện muốn trao truyền lại cho hậu thế “Bức thông điệp về lịch sử cận đại” đề cập đến nguyên nhân đưa đến cảnh tan cửa nát nhà! Vâng, cuộc chiến huynh đệ tương tàn của dân tộc Việt Nam kéo dài hơn hai mươi năm. Và tiếp theo là hận thù phân hóa triền miên cho đến ngày hôm ngay. Mà nhà văn Võ Phước Hiếu là một nhân chứng của lịch sử, cần phải nói lên một sự thật mà ít người biết đến cái nguyên nhân của cuộc chiến, cũng như để chứng minh cho thế hệ mai sau biết đến tội ác của những người tạo ra chiến tranh. Theo tinh thần của một Napoléon:“Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà là vì sự im lặng của những người tốt!”…



Đến bây giờ “những người tạo nghiệp” vẫn chưa thức tỉnh! Vẫn còn loay hoay trong tình trạng “nửa tỉnh nửa mê”! Nhưng có thể đã lóe lên tia ánh sáng hy vọng ở cuối đường hầm tăm tối. Niềm hy vọng nầy có thế cứu vãn được dân tộc Việt Nam thoát khỏi mộng bá quyền của Trung cộng. Nếu đi đúng con đường chính nghĩa và chân lý để bảo vệ nền tự chủ trong tinh thần độc lập, hòa bình và công bằng. Trong khi tình hình Biển Đông lên đến cao độ, thì đương nhiệm Thủ tướng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố: “Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam, trước năm 1975 do Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam quản lý“. Cùng thời điểm nầy, đồng bào cả nước, nhất là tại Hà Nội đã làm lễ “Tưởng niệm Cố Trung Tá Ngụy Văn Thà và 72 Chiến Sĩ Hải Quân đã hy sinh để bảo vệ Tổ Quốc và Biển Đảo”. Điều nầy cho thấy dân tộc Việt Nam đang đón nhận một “Tin Mừng”.

Vì “Lịch Sử” đã chứng minh một sự thật: “Nhà nước và Đồng bào Miền Bắc không còn xem Chính quyền Miền Nam trước đây là “Ngụy Quân và Ngụy Quyền” nữa? Thứ hai, công nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà ở Miền Nam để phủ nhận “Công hàm của Cố Thủ tướng Cộng sản Việt Nam, Phạm Văn Đồng” đã ký kết với Trung Cộng? Hay trưng bày những chứng tích trước dư luận Thế giới tại Đà Nẵng vừa qua, để xác nhận chủ quyền biển đảo của Việt Nam, là lời “Sám Hối Trước Quốc Dân Đồng Bào” cả nước! Nhờ lời “sám hối“ nầy mà Việt Nam đã được sự ủng hộ của nhiều nước trong cộng đồng thế giới như các nước Nhật Bản, Phi Luật Tân, Singapour, Nam Hàn… Đặc biệt hơn hết là các cuộc xuống đường phản đối Trung cộng xâm lăng biển đảo của đồng bào cả Bắc, Trung, Nam và từ trong nước ra đến hải ngoại.

Vì vậy, thế đứng của Việt Nam bây giờ là sức mạnh của toàn dân bằng cách trưng bày những chứng cứ lịch sử chủ quyền biển đảo, vận động sự ủng hộ của cộng đồng thế giới làm bằng chứng, để giải quyết vấn đề tranh chấp biển đảo trong tinh thần tôn trọng sự bình đẳng và công pháp quốc tế. Muốn vận dụng được thế đứng nầy thì cần phải xây dựng lý tưởng tôn trọng chính nghĩa. “Vì tôn trọng quyền lợi quốc gia tức là phải tôn trọng nền độc lập và tự chủ của nhau, chứ không thế lấy nước lớn đi hiếp nước nhỏ”. Muốn được như vậy thì cần phải mạnh mẻ, nhanh chóng, nắm lấy thời cơ mà ngoại giao, mà vận động cho kịp thời. Vì thời cơ thì không bao giờ chờ đợi chúng ta.



Người xưa đã nói: “Nước có loạn mới biết Tôi hiền, Chúa thánh. Gặp gian nguy mới biết Vợ nghĩa Chồng tình”. (Tôi hiền Chúa thánh ở đây là “Chính nghĩa” và “Vợ nghĩa Chồng tình” ở đây là biết ơn sự hy sinh của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa đã bảo vệ Tổ quốc, cũng như những người vợ hiền đã thờ chồng nuôi con, kể cả việc nuôi chồng trong các trại cải tạo). Vì sự thật không bao giờ có thể che đậy từ đời nầy qua đời khác. Một khi đã phơi bày sự thật, thì rõ ràng ai cũng thấy con đường chính nghĩa trước mặt. Nên Tập Truyện “Chỉ Là Kỷ Niệm” có thể gọi là tập truyện mang khá đậm nét màu sắc lịch sử của một giai đoạn từ trước ngày chia đôi đất nước 20/7/1954, và kéo dài cho đến sau ngày đổi đời 30/4/1975 với một cuộc chiến đẫm máu huynh đệ tương tàn, và bây giờ là chia ly với sự hiện diện của người Việt tại hải ngoại. Là nỗi nhục nhã của toàn quân và toàn dân Miền Nam Việt Nam bị hàm oan dai dẵng. Là chứng tích đau buồn của thân phận nhược tiểu!

Nhiều nét lịch sử chúng ta thường nghe báo chí đề cập đến, nhưng chắc chắn không mấy ai hiểu tường tận về nguyên nhân và tại sao đất nước lại rơi vào một giai đoạn đen tối đến như thế! Trong hiệp định chia đôi đất nước đã ký kết thì sau hai năm sẽ thống nhất. Nhưng cộng sản âm thầm chuẩn bị một cuộc chiến tranh xâm lăng kéo dài cho đến năm 1975. Sự chuẩn bị đó đã được Bộ Chính trị Cộng sản miền Bắc triển khai ngay từ sau khi thi hành các thủ tục “chia đôi đất nước”. Một số lớn cán bộ cốt cán cộng sản được phân phối ở lại nằm vùng, tỉnh nào cũng có, và tụ điểm của bộ phận lãnh đạo nhắm vào công cuộc “Nam Kỳ Khởi Nghĩa” sau nầy là “Phong Trào Đồng Khởi” ở tỉnh Bến Tre. Sau năm 75 xuất hiện câu ca dao:


“Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý

Đồng Khởi nên đành mất Tự Do” là vậy.


Mở đầu truyện “Chỉ Là Kỷ Niệm’’:“Năm 1954. Hiệp định đình chiến Genève ở Thụy Sĩ được ký kết vào giờ chót ngày 20 tháng 7 chia đôi đất nước Việt Nam làm hai miền Nam Bắc, lấy con sông Bến Hải nơi vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Về phía Miền Nam Quốc Gia, chánh phủ dứt khoát không chấp nhận việc chia đôi đất nước nên từ chối đặt bút ký kết hiệp định nhằm cực lực phản đối cộng sản Bắc Việt cấu kết với thế lực quốc tế vì quyền lợi riêng tư, không tôn trọng chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Nhưng sau cùng vì áp lực của Quốc hội Pháp và của các cường quốc nhập cuộc ở bàn hội nghị nên đình chiến cũng được tôn trọng, chờ đợi hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất hai miền Nam Bắc sau hai năm. Theo tinh thần của hiệp định, các lực lượng võ trang và cán bộ dân sự các cấp của cộng sản đều phải tập kết ra Bắc theo thời hạn quy định ở nhiều điểm trong Nam, mà lâu nhất là ba tháng như ở địa điểm tập kết Cà Mau. Với bản chất gian dối, lật lộng cố hữu, vào giờ chót Bộ Chính trị cộng sản chủ trương gài lại Miền Nam một số lớn cán bộ đảng viên nồng cốt, cũng như bí mật chôn dấu vũ khí ở những sào huyệt cũ chờ cơ hội đánh phá cướp chính quyền bằng vũ lực…” (trích trang 179).

Truyện kể: Thanh Ba là một thanh niên đầy cao vọng, muốn tìm cho mình một hướng đi vào tương lai huy hoàng. Nhưng vì chiến tranh đã cướp mất người cha yêu quý lúc anh còn rất nhỏ, mẹ là một cô giáo làng nên đã giáo dưỡng cho anh thành nhân. Sau khi học xong chương trình trung học: “May mắn lúc ấy cơ quan Y Tế Quốc Tế (Organisation Mondiale de la Santé, gọi tắt là O.M.S) có triển khai một trụ sở ngay tại đô thành để giúp đỡ về mặt Y tế cho nước Việt Nam son trẻ vừa thu hồi độc lập trên tay người Pháp và đang tiến hành con đường dân chủ hóa. Trong chương trình giúp đỡ tích cực nầy, cơ quan có mở những khóa huấn luyện nhằm đào tạo những chuyên viên trung cấp ở lãnh vực y tế và xã hội” (trích trang 182). Chương trình đào tạo có trợ cấp hàng tháng, nên Thanh Ba đã xin theo học ngành huyết thanh học và côn trùng học. Chương trình đào tạo vừa lý thuyết vừa thực hành tại viện Pasteur Sài Gòn. Sau khi học xong lại gặp may là Bộ Y Tế vừa thành lập “Chương Trình Diệt Trừ Sốt Rét”, qua sự đài thọ của phái bộ viện trợ USOM của Hoa Kỳ tại Sài Gòn.



Chương trình với tầm hoạt động rộng rãi trên toàn quốc từ cầu Hiền Lương đến mủi Cà Mau. Thanh Ba đệ đơn xin vào làm việc với tư cách là một chuyên viên. Chương trình nầy đưa chuyên viên về đến tận nông thôn, các vùng hẻo lánh để hướng dẫn cho người dân biết cách phòng bệnh. Nhất là bệnh sốt rét được phun thuốc để diệt trùng độc. Công tác của nhóm chuyên viên nầy chỉ có thế. Nhưng khi đi vào từng nhà để bơm thuốc, lại phát giác một số “cán bộ cộng sản nằm vùng” do các “bà mẹ chiến sĩ” nuôi trong nhà. Vì vậy cán bộ Y tế bị hàm oan là CIA Mỹ. Nhưng tình hình đất nước vào giữa và cuối thập niên 60, tất cả thanh niên đến tuổi phải thi hành nghĩa vụ Quân dịch. Thanh Ba cũng nằm trong lứa tuổi động viên vào trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Sau khi ra trường anh được bổ sung về một đơn vị tác chiến thuộc Sư đoàn 7 Bộ binh. Đến ngày rã ngủ 30.4 cũng như thân phận của đồng đội, anh bị đưa vào các trại “học tập cải tạo”. Sau khi được trả tự do, nhưng vẫn sống bên lề xã hội, vì không được nhìn nhận là một công dân chính thức. Suy tính hết nước, không còn con đường nào có thể tự cứu mình bằng con đường ra khơi vượt biển đông. Nhưng cũng còn gặp bế tắc vì anh chưa được trả quyền công dân, nên việc đi lại rất hạn chế! Cuối cùng, Thanh Ba nghĩ ra giải pháp là kết hợp với một vài người bạn đồng ngủ dễ tin cậy nhau để thành lập một tổ hợp sản xuất xà bông, qua chiêu bài thời thượng là phục vụ giai cấp công nông. Nhờ vậy, việc xin giấy phép được tiến hành thuận lợi. Thêm nữa Tổ hợp cũng đã khoản đãi những tiệc tùng để tạo sự dễ dãi của cán bộ phường khóm. Việc sản xuất xà bông thủ công nầy đòi hỏi nguyên liệu chính là dừa khô để nấu thành dầu. Và Thanh Ba nhớ lại trong thời gian làm một cán bộ Diệt trừ Sốt rét, anh đã đi khắp các vùng miền của đất nước, nên rất rành rẽ…


“Nhờ vậy không những anh đi lại thoải mái đến những tỉnh ven biển, ven sông như Bến Tre, Định Tường, Vĩnh Long…mà còn lợi dụng cái quyền được đi lại hiếm hoi để đặt chân đến các quận xa xôi hẻo lánh của những tỉnh ngày xưa anh từng đặt chân tới như Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau, Rạch Giá… nhằm dò dẫm, nghiên cứu tình hình. Hy vọng bổng dưng lóa lên ánh sáng trong anh…” (trích trang 193). Tiếp theo là cuộc hạnh ngộ bất ngờ nhưng vô cùng quan trọng cho tương lai. Vì họ vẫn luôn luôn thể hiện tất cả một tấm lòng: “Thật thà, chân chất và thánh thiện của những con người sẵn sàng sẻ chia”. Qua nỗi vui mừng, hay trao đổi bằng những tâm tình đôn hậu của người miền Nam:“Thanh Ba bỗng dưng đứng khựng lại, trố mắt nhìn trân trân một người đang đi ngược chiều với anh. Chỉ trong giây phút định thần, anh không ngần ngại thốt lên:


- Dương! Phải Đại Dương không?

Có tiếng đáp lại nhanh gọn:


- Chèn ơi! Tao có lầm người không? Mầy lò dò đi đâu đây vậy Thanh Ba? Trời đất, ngọn gió lành nào đưa mầy đến gặp tao ở bến bắc nầy? Lâu quá rồi, mầy có khỏe không? Gia đình con cái ra sao rồi?


Hai người ôm chầm lấy nhau trong niềm vui gặp lại tình cờ, không ước mơ mà là sự thật, bất chấp những cặp mắt hiếu kỳ hay tò mò của những người xuôi ngược xung quanh” (trích trang 195).

Đại Dương là người bạn đồng ngũ với Thanh Ba. Anh quê ở Bến Tre có ông chú họ ngày trước bất đắc dĩ phải sống trong lòng “phong trào đồng khởi” và đỡ đầu cho Đại Dương thành lập “tổ hợp đánh cá”. Nhưng thực chất là thăm dò đường sá, chờ cơ hội để vượt biển. Dịp nầy Đại Dương rủ Thanh Ba xin giấy tờ hợp pháp để vào hợp tác xã và sống chung một nhà. Lo một mình cho Thanh Ba thì không nỡ để vợ chồng chia ly, nên Đại Dương đề nghị xin cho vợ Thanh Ba vào tổ hợp bánh kẹo tại tỉnh Bến Tre để đợi thời cơ. Rồi đến một hôm, trong nhà tổ chức ngày giổ của ông cố. Sau khi tiệc gần tàn, ông Bác của Đại Dương kéo Thanh Ba ra chiếc ghế sau vườn và ông bắt đầu kể cho chàng nghe một câu chuyện về «phong trào đồng khởi» ở Bến tre:


“Hồi đó, bác được đề cử làm xã trưởng, trải qua bao chiến dịch bắt bớ, khủng bố, thủ tiêu của cộng sản nằm vùng thì bác bị kết án tử hình! Rồi một đêm chúng bắt và bịt mắt bác dẫn đi qua một cánh đồng, đến một khu nghĩa trang chúng trói tay bác vào một cái cọc. Chúng đọc bản án xong rồi nghe tiếng súng sau đó bác gục xuống không biết gì nữa cả. Đến ngày hôm sau gia đình của bác đi tìm gặp bác nằm trong nghĩa trang của dòng tộc bác. Bác bị thương nặng được đưa về nhà chạy chửa thuốc thang và bác được qua khỏi. Bây giờ bác kể lại cho cháu nghe để sau khi các cháu ra được hải ngoại dùng làm tài liệu để nói lên sự thật về «phong trào đồng khởi» là nguyên nhân tạo nên cuộc chiến tang tóc cho dân tộc kéo dài hơn 20 năm!»


Các truyện khác không những mang nhiều nguồn sử liệu quan trọng, mà còn ghi nhận nhiều chi tiết về địa lý của Miền Nam Việt Nam nữa.


* Tin Hay Không Tin: Kể lại sự liên hệ giữa tác giả và anh Đồng Tuy lúc trước là một đảng viên cao cấp và kỳ cựu của đảng Tân Đại Việt do cố Giáo sư Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc Huy sáng lập năm 1964 và được bầu làm chủ tịch đầu tiên. Sau ngày đổi đời, anh Đồng Tuy đi học tập cải tạo. Trước năm 75 anh có làm cho vợ chồng tác giả một lá số tử vi, trong đó có chi tiết là “tương lai gia đình chúng tôi sẽ sống ly hương biệt xứ”, còn hoàn cảnh ra sao thì anh không nói. Sau nầy tác giả đã liên hệ được với một người Hoa Chợ Lớn ra Vũng Tàu đóng chiếc ghe mang số V.T 1274. Nhưng vì quá lo lắng nên tiện nội của tác giả tìm đến ông thầy bói mù ở hẻm Văn Hoa, Tân Định, thì được ông thầy bói cho biết: “Quý chủ nên tìm con đường nào khác, may ra mới có hy vọng…” (trang 34). Chờ đợi quá lâu nên tác giả thương lượng với chủ ghe đổi chuyến đi sớm nhất. Và sau khi đến được bến bờ tự do, tác giả viết thư về hỏi thăm thì được biết chiếc ghe mang số ấy vẫn nằm tại ụ và sau cùng sáp nhập vào tổ hợp đánh cá Vũng Tàu… Chuyện có vẻ rất thật và cũng rất thời đại…



* Tình Muộn: Tả lại cuộc tình của đôi trai gái trong một bối cảnh loạn lạc. Nếu không tin vào duyên số, hay định mệnh thì cũng phải ghi nhận một chuyện tình mà từ gặp gỡ rồi chia ly, rồi đoàn tụ trong một thời gian dài và một không gian xa cách từ trong nước ra đến hải ngoại, từ Sài gòn đến tận cuối miền đất nước. Chàng là con của một Sĩ quan miền Nam sau ngày đổi đời thì gia đình khánh kiệt. Được một người bạn quê ở Cà Mâu rủ về dưới ấy để tìm đất sống. Hoàng Hùng được giới thiệu vào làm công nhân cho nhà in quốc doanh của tỉnh. Chàng gặp Mỹ Lệ hai người yêu nhau, nhưng hoàn cảnh không cho phép nên phải chia ly… Nàng chờ đợi trong vô vọng, và chàng kiếm tìm rất gian nan. Đã đưa cuộc tìm đi từ sự tình cờ nầy đến một gặp gỡ bất ngờ khác hết sức lý thú…


* Mùa Xuân, Lang Thang Ngày Cũ: Nội dung truyện nầy đúng với lời tựa chăng? Ngồi nhìn xuân về trên đất tạm dung mà lòng ngổn ngang trăm mối! Vì đang nhớ về những ngày xưa thân ái. Những mùa xuân dân tộc đang nở rộ ngàn hoa để chào đón, để chúc tụng, để nghinh xuân. Trước bàn thờ gia tiên trầm hương nghi ngút, mứt bánh tràn đầy, áo mới xênh xang… “Tôi nhớ những ngày cực kỳ vui nhộn đó, bà và mẹ tôi lăn xăn lít xít ngày đêm gói bánh tét để mừng Xuân…”. (trang 141). Rồi hình ảnh cây nêu đầu ngõ, ngày mồng một Tết xông nhà đạp đất. Những hội hè vui xuân, là những hình ảnh trân trọng mùa Xuân muôn đời của Dân tộc Việt Nam…



* Hoài Niệm Học giả Giáo Sư Lê Thọ Xuân: Tác giả kể lại chuyện đi tìm gặp Cụ Lê Thọ Xuân, để nhờ cụ viết bài cho số báo dự trù sẽ ra mắt của tập san nghiên cứu Văn học Nghệ thuật mà tác giả được Bộ Thông Tin Dân Vận Chiêu Hồi cấp giấy phép xuất bản. Đây có thể gọi là một sinh hoạt văn hóa huy hoàng nhất của một thời. Với những Học giả, Sử gia, Nhà văn, Nhà báo như Giáo sư Thạc sĩ Nguyễn Thế Anh, tác giả cuốn “Việt Nam Dưới Thời Pháp Thuộc” (Lửa Thiêng, Sài Gòn). Giáo sư Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc Huy tác giả nhiều tác phẩm như “ Đề Tài Người Ưu Tú Trong Tư Tưởng Chính Trị Trung Quốc Cổ Thời (Cấp Tiến, Sài Gòn). Kỷ sư Nguyễn Kim Môn, chuyên viên Khí tượng, tác giả cuốn “Khí Tượng Canh Nông” (Lửa Thiêng, Sài Gòn). Giáo sư Bác sĩ Trần Ngọc Ninh, Tổng trưởng bộ Quốc gia Giáo dục, với bài “Ngữ lý học - Cơ cấu dạng vị học so sánh của Danh từ trong các Ngôn ngữ Đông Á. Hệ thống loại danh và số danh. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, cựu Tổng trưởng và Viện trưởng Viện Đại học Sài Gòn, qua bài “Rong và việc giàng dạy”. Giáo sư Lâm Thanh Liêm qua bài “Cơ cấu nông nghiệp tại Nam kỳ dưới thời Pháp thuộc” v.v…


Tóm lại, tập truyện “Chỉ Là Kỷ Niệm” là một tổng thể về lịch sử trong một giai đoạn cực kỳ đen tối của đất nước Việt Nam. Những nguyên nhân đưa đến bối cảnh lịch sử tang tóc nầy. Cũng như diễn tả sự cùng khổ của người dân miền Nam trong thời kỳ chiến tranh, và sau khi chiến tranh chấm dứt nhưng đất nước không được hòa bình độc lập. Vì các thế lực ngoại bang chủ trương tranh giành ảnh hưởng quốc tế. Đây cũng là kinh nghiệm cho chính quyền đối với đất nước thì cần phải độc lập tự chủ, chứ đừng nên dựa vào một thế lực nào. Vì dựa vào thì con cháu chúng ta sẽ phải trả nợ, không chỉ bằng tài nguyên mà còn đến cả xương máu của dân tộc nữa ! Một tập truyện rất phong phú về lịch sử nước nhà thời cận hiện đại. Rất cần thiết cho tủ sách gia đình và lưu lại mai sau.


Trần Đan Hà


Tên thật: Trần Văn Huyền

Bút hiệu: Đan Hà

Ngày sanh: 17.01.1945

Sanh quán: Cam Lộ, Quảng Trị

Xuất thân từ trường Hạ Sĩ quan Quân Y Sài Gòn Phục vụ tại Tiểu Đoàn I thuộc Sư Đoàn I Bộ binh đồn trú tại Huế

Ngày 25.03.1975 bị bắt làm tù binh khi đơn vị di tản xuống Thuận An, sau đó bị đưa đi cải tạo tại Ba Lòng, Quảng Trị


Cuối tháng 9.1975 được trả tự do tập thể

Tháng 2.1982 vượt biển và đến đảo Palawan, Phi Luật Tân


Tháng 5.1983 xin tỵ nạn chính trị tại Cộng Hòa Liên Bang Đức

Định cư tại tỉnh Reutlinghen, miền Nam nước Đức

Trước 1975 cộng tác với “Thi Đàn Quân Nhân và Thi Nhân” trên báo Đại Từ Bi, Sài Gòn

Ra hải ngoại từng đảm nhiệm các chức vụ:

- Thành viên Ban Biên Tập báo Viên Giác, Đức Quốc

- Thư ký Hội Tình Thương Đức Quốc, trợ giúp Thương Phế Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa còn bị kẹt trong nước

- Phó Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Trung Tâm Âu Châu

Có thơ đăng trên các báo Pháp Âm (Na Uy), Tin Văn (Pháp), Tâm Giác, Viên Giác (Đức Quốc)…


-***-




Tin Hay Không Tin


Ở đời không một ai đoán trước được chữ ngờ bao giờ! Thật đúng với câu nói của nhà văn Hoa Kỳ Philip Roth: vấn đề đối với sự sống là người ta chẳng biết mảy may gì về những việc sẽ xảy ra. Ngay cả cái chết có không biết bao nhiêu câu hỏi và lý giải nhưng thật sự người ta chỉ biết nó vào phút cuối mà thôi. Có ai ngờ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của tiền nhân và của thế hệ chúng ta lại có hằng triệu, hằng triệu người dân lương thiện, yêu nước, yêu quê hương, yêu thôn làng cố thổ lại âm thầm gạt lệ trong phẫn uất hờn căm, đành lòng bỏ xứ ra đi bao giờ? Vậy mà sau ngày cộng sản hoàn toàn cưỡng chiếm Miền Nam bằng đại bác xe tăng, bằng võ lực súng đạn ngoại bang và mưu mô chước quỷ để áp đặt một chế độ sắt máu, hận thù nghiệt ngã đấu tranh giai cấp, họ phải đánh đổi mạng sống quí báu của chính mình để mong chọn lấy tự do và an bình trong tâm hồn, cùng lo tương lai của con cháu. Vì chỉ có tự do mới có hạnh phúc đích thực. Bao nhiêu người cuối ngõ cùng đường đã nằm xuống trong oán hờn, trong uất hận ngút ngàn ngoài biển khơi Thái Bình Dương, mồ chôn vĩ đại người vô tội, hay nơi biên giới ngút ngàn rừng sâu trùng trùng điệp điệp Miên Lào đầy cạm bẫy giết người… Việc chúng tôi và gia đình gồm đông đủ vợ con cùng anh chị, cả bên chồng lẫn bên vợ, quyết định sống kiếp tha hương cũng là một bất ngờ trong đời mình. Bình sinh chúng tôi không bao giờ dám nghĩ tới, dù chỉ phớt qua giây phút trong tâm trí.


Chúng tôi lại nhớ một dạo trước ngày 30 tháng Tư năm 1975 không lâu, có lần chúng tôi đến chơi nhà anh Đồng Tuy ở bên kia Cầu Hàn, vùng Tân Thuận, Sài Gòn, cùng với vài ba anh em bạn bè thân quen vốn là ký giả chuyên nghiệp nơi nhựt báo Cấp Tiến của hai cố giáo sư khả kính Nguyễn Văn Bông và Nguyễn Ngọc Huy. Tòa soạn nằm ở đường Phan Đình Phùng, trụ sở của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến. Trong số các bạn này có ký giả trẻ Vĩnh Lợi trong ban biên tập và điều hành tờ báo mà chúng tôi có duyên bằng hữu qua lại rất mực thân tình. Anh Đồng Tuy lúc đó là một đảng viên cao cấp và cũng là một trong số đảng viên kỳ cựu nhứt của đảng Tân Đại Việt do giáo sư Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc Huy sáng lập năm 1964 và được bầu làm chủ tịch đầu tiên.


Anh cũng là một trong những đoàn viên sáng lập trung kiên và đắc lực của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến do hai cố giáo sư Nguyễn Văn Bông (Chủ tịch) và Nguyễn Ngọc Huy (Tổng thư ký) lãnh đạo. Sau năm 1975, anh đã nhiều lần vào tù ra khám về những tội danh chống lại chế độ bạo tàn bần cùng xã hội chủ nghĩa. Một thời gian lâu sau khi được trả tự do, anh thành công vượt thoát qua Hòa Lan xin tỵ nạn chính trị và từ trần tại đây ở tuổi ngoài tám mươi trong sự tưởng tiếc nhớ thương của chúng tôi cùng bạn bè đồng hành đồng chí trong nước cũng như ở hải ngoại. Hôm nay xin tạm thời gát qua một bên vấn đề chánh trị, đấu tranh mà anh đã kiên cường đeo đuổi từ thời thanh xuân, anh Đồng Tuy được biết vốn là giáo sư môn Việt văn ở các trường trung học tư thục tại Sài Gòn, nhiệm sở lâu nhứt của anh ở trường Tân Thịnh, Tân Định xem như một nghề chánh thức để nuôi sống gia đình. Ngoài ra, anh còn nổi tiếng ở lãnh vực tử vi đầu số mà bạn bè thân hữu đều xác nhận và ca tụng khả năng thiên phú hiếm có ở anh. Hôm họp mặt đó, anh nể tình có lên cho vợ chồng chúng tôi, mỗi người một lá số tử vi theo lời khẩn thiết yêu cầu của chúng tôi. Tôi nói nể tình vì thực ra anh không phải là người chuyên nghiệp sinh sống với nghề xem tử vi mà chỉ thỉnh thoảng làm vừa lòng những người quen biết. Thật tình, vợ chồng chúng tôi đúng ra không đặt nặng về mê tín dị đoan, không hẳn tin tuyệt đối ở những chuyện huyền bí bói toán, nhân tướng, tử vi đầu số hay phong thủy.


Một phần cũng do chúng tôi bận bịu với bao nhiêu công việc tới tấp hằng ngày nên ít có thì giờ quan tâm suy nghĩ đến lãnh vực nầy. Nhưng hôm đó chúng tôi cũng muốn biết qua thời vận của mình về sau ra sao, không ngoài cung cách thường tình của những người khát khao tò mò, muốn tìm hiểu. Đơn giản thế thôi. Anh Đồng Tuy có triển khai những nhận xét và lý giải rất chi li của anh qua hai tập vở học trò năm mươi trang đầy. Hai tập này chúng tôi vẫn mang theo trên bước đường lưu vong và hiện nay còn gìn giữ trang trọng trong tủ sách gia đình, như một kỷ niệm tốt đẹp khó có thể nhạt nhòa mau chóng được.


Cái bất ngờ khá lý thú chúng tôi hồi nhớ và đề cập ghi lại nơi đây là khi ấy, anh Đồng Tuy tiên đoán chắc nịt như đinh đóng cột, anh cứ lập đi lập lại nhiều lần thế nào trong tương lai, chúng tôi và cả gia đình vợ con nhứt định sẽ phải sống cuộc đời ly hương biệt xứ ở thời hậu vận. Còn lý do ra sao và hoàn cảnh đưa đẩy thế nào anh ngập ngừng không nói dứt khoát. Chúng tôi để ý thấy anh đắn đo cân nhắc. Nửa muốn nói huỵch tẹt, nửa muốn ẩn giấu chuyện gì khó nói. Nhưng có một điều chúng tôi chú ý là anh khẳng định dứt khoát việc ra đi nầy dù muốn dù không, không sao tránh khỏi. Mà nó đến rất bất ngờ. Làm sao chúng tôi có thể quên được hình ảnh của anh lúc đó, đôi mắt long lanh trong sáng cứ đăm đăm nhìn thẳng chúng tôi, nhíu đôi mày gần như đâu chụm lại như đang suy nghĩ hun lắm. Chắc anh muốn thăm dò xem phản ứng chúng tôi thế nào chăng? Lúc ấy, không hiểu sao chúng tôi có phản ứng rất tự nhiên và nhanh chóng. Xem như một phản ứng không có gì quan trọng cả. Chúng tôi bậc cười trong khi tiện nội có vẻ lo âu hiện rõ trên nét mặt. Một phần vì chúng tôi quá đỗi ngạc nhiên và phần khác cũng không hẳn tin vào lời anh nói bao nhiêu. Chúng tôi bèn phát biểu:


- Có chuyện gì thì anh cứ nói thẳng thắn, trắng đen phân minh rõ ràng. Đây là một ‘trò chơi’ vô thưởng vô phạt, chẳng có gì anh phải ngại ngùng. Nhưng tại sao chúng tôi lại phải sống ly hương biệt xứ? Việc nầy coi mòi lạ à. Đâu anh thử rà lại kỹ xem sao?


Chúng tôi lại pha trò giúp không khí thân tình thêm vui nhộn:

- Coi chừng anh có lầm lẫn chấm lộn các ngôi sao chăng? Chúng tôi thấy anh ghi cả một rừng sao với hai màu đen đỏ chằng chịt rối nhùi còn hơn tơ vò. Nhè ‘sao tọa’ anh lại nhầm lẫn với ‘sao di’ là khổ cho chúng tôi, càng gây thêm thắc mắc! Việc bỏ xứ ra đi này chúng tôi thấy không ổn chút nào, do chưa bao giờ chúng tôi dám có ý nghĩ tới.


Hôm đó, chúng tôi rất mực tự tin ở sức mình trong thời kỳ sung mãn nhứt của con người trong hạn kỳ ba mươi, bốn mươi. Công việc làm ăn của chúng tôi đang trôi chảy tiệm tiến đều đặn, có thể nói khá phát đạt và đầy hứa hẹn. Và nhứt là chúng tôi từng nguyện với lòng mình lúc nào cũng tuyệt đối tôn trọng sự lương thiện và sòng phẳng trong thương trường và trong mối quan hệ giao tế với mọi người nên tin chắc không bao giờ có những bê bối rắc rối quan trọng khiến phải trốn lánh bỏ xứ ra đi. Chúng tôi cũng tin tưởng mãnh liệt vào sức mạnh, vào tính chiến đấu kiên cường và lòng hy sinh quả cảm tuyệt vời của quân dân cán chính Miền Nam các cấp trong cuộc chiến trường kỳ chống xâm lăng bảo vệ toàn vẹn quê hương tổ quốc. Chúng tôi vội phản bác lời tiên đoán đứng đắn của anh, thêm một lần nữa lập đi lập lại như để xác nhận rằng chúng tôi không bao giờ và chẳng bao giờ có ý định rời bỏ đất nước Việt Nam thân yêu của chúng tôi, dù với một lý do mù mờ hay chánh đáng nào. Cuộc đời của chúng tôi từ ngày cha sanh mẹ đẻ đến giờ phút đó như đã gắn bó vĩnh viễn không rời nơi mảnh đất chôn nhao cắt rún của mình với quá nhiều kỷ niệm buồn vui lẫn lộn khắc cốt ghi tâm.


Chúng tôi rất hãnh diện và tự hào được chào đời nơi đó và bằng lòng với những xáo trộn xã hội, ‘địa ngục trần gian’ xét ra nơi xứ sở nào cũng có, hơn là ‘thiên đường ảo tưởng xã hội chủ nghĩa’ chẳng bao giờ thực hiện được. Nhiều lúc chúng tôi tự hỏi làm cách nào chúng tôi không xem mình là người Việt Nam, một khi mỗi ngày qua là mỗi ngày chúng tôi khám phá ra hào quang rực rỡ của nền văn hóa truyền thống dân tộc và giá trị vĩnh cửu của tiếng nói với dấu giọng trầm bổng ấm êm ru lòng người. Chưa nói đến cảnh trí nước non hữu tình hấp dẫn bước chân khám tìm của chúng tôi. Chính những nơi đó mà chúng tôi hiểu rằng mình còn mang trong người quá nhiều nợ nần níu kéo với đất đai cố thổ, với quá khứ lẫm liệt oai hùng của tiền nhân khai sơn phá thạch xây dựng cơ ngơi, với dân tình chơn chất mộc mạc đó đây chung quanh chúng tôi, cùng những người thân thương cật ruột, chung sức chung lòng. Trong mỗi hơi thở và sinh hoạt hằng ngày của chúng tôi hầu như phảng phất đâu đó hồn đất hồn người, hồn thiêng sông núi, không thể nào phủi tay rứt bỏ dễ dàng được. Anh Đồng Tuy vẫn bình tĩnh tiếp tục nhìn thẳng chúng tôi rất thân tình rồi mỉm cười vừa hóm hỉnh vừa bí mật:


- Ậy, ậy! Cơ trời mà! Tôi thấy sao nói vậy. Không thêm không bớt chi cả đâu. Tôi đã rà thật kỹ lắm.

Ngừng một chút, anh đưa mắt vào bảng phân tích sơ khởi li chi lít chít màu sắc đỏ đen từng nơi từng chỗ mà thật tình chúng tôi nhìn vào chẳng biết ất giáp chi cả. Xong, anh lại lấy viết chì rà từng ô vuông, ô dài như để kiểm tra lần cuối cùng:

- Xét Cung Di thấy cung này được ba sao xếp hàng nhất nhì ba của khoa Tử Vi chiếu vào. Đó là các sao Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Tướng. Thêm nữa, cung này còn được bốn cặp cát tinh là Thiên Khôi Thiên Việt, Thai Phụ Phong Cáo, Ân Quang Thiên Quý, Tam Thai Bát Tọa, làm tăng thêm lý giải của tôi. Với những yếu tố đó, đây là một Cung Di cận quý và cực tốt, chứng tỏ mỗi lần cha dời đổi nơi cư trú ở đất người là mỗi lần cuộc đời cha thêm thăng tiến không ngừng. Sau này phải có phen cha sống vẻ vang ở nước ngoài, tôi cam chắc như thế.


Anh lại dí dỏm như bản tánh đùa vui cố hữu của anh:

- Mà khi đời cha lên hương rỡ ràng thì cũng đừng quên đám bạn bè sống chật vật nơi quê nhà, nhứt là ba thằng bạn chí thiết hôm nay nhé (gồm có anh, bạn Vĩnh Lợi và ký giả báo Cấp Tiến mà chúng tôi thân tình gọi anh Đang, tức người sẽ viết sạch lại quyển tử vi của chúng tôi, do anh có nét chữ đẹp).
Rồi anh im lặng đôi phút như muốn biết phản ứng cuối cùng của chúng tôi. Nhưng chưa kịp, do sự im lặng của chúng tôi thì anh đã dong dài phát biểu thêm:


- Nói là nói như vậy chớ thực ra Cung Di của cha bị Tuần Không án ngữ, có Cô Thần, Quả Tú, Đà La, Tang Môn, Điếu Khách nên mỗi lần cứ sắp lên đường ra đi đều bị nhiều cản trở khó khăn không phải ít. Cha phải đợi tới thời kỳ bốn mươi lăm bốn mươi sáu tuổi, các điều kiện tốt đẹp đã nói trên đây mới từ từ xuất hiện đầy đủ và đúng mức. Bây giờ cha có tin hay không tin tùy thuộc ở cha và bà xã.


Lúc ấy, chúng tôi nghe anh kể dài dòng về mấy vì sao với những cái tên lạ hoắc lạ huơ, có những tên thú thật chúng tôi chỉ mới được nghe lần đầu tiên trong đời. Mà thật tình chúng tôi có nghe cũng nghe ù ù cạc cạc, nghe như vịt nghe sấm không bằng. Chúng tôi chẳng biết ất giáp, tê mô chi cả, chỉ quan tâm chú ý đến những lời giải thích nghiêm trang của anh thôi. Ở một đoạn kế tiếp, chúng tôi không quên thái độ gắn bó thương yên trong sáng giữa bằng hữu với nhau, khi anh lưu ý chúng tôi phải cẩn trọng, không nên coi thường:


- Chiếu vào Cung Điền của cha, tôi thấy được hai cách tốt là cách Cự, Nhật và cách Cơ Nguyệt Đồng Lương. Sáu chính tinh của hai cách đều ở vị trí đắc địa lại có thêm Lộc Tồn hợp chiếu cùng với hai cặp cát tinh Hóa Khoa Hóa Quyền, Tướng Quân Quốc Ấn. Như vậy Cung Điền của cha rất tốt đó. Trường hợp nầy rất hiếm có, ít thấy lắm. Nhưng chiếu vào Cung Điền còn có Không, Kiếp, Triệt Không, Hỏa Tinh, Phục Binh thì nhà cửa có sự thay đổi đột ngột, phải có phen ở gần nơi bị hỏa hoạn. Cha cần quan tâm cẩn thận để khỏi phải bị sạt nghiệp. Tôi nói rõ để cha đừng coi thường là sạt nghiệp thực sự đó. Cha nên đặc biệt nhớ điểm sau cùng nầy.


Thêm một lần nữa, chúng tôi lại cười như thách thức:

- Anh nói làm cho chúng tôi bán tính bán nghi. Nhưng làm sao chúng tôi có thể sạt nghiệp được anh? Như anh biết chúng tôi có đến đôi ba cơ sở thương mãi nằm rải rác trong thành phố, ở Sài Gòn có, ở Chợ Lớn có và ở Quận Sáu Phú Lâm có, giá nếu chẳng may bị hỏa hoạn đi nữa, không lẽ cả ba nơi đều biến thành tro bụi cùng một lúc hay sao? Định mệnh nào lại khắc khe hẩm hiu và bất công đối với chúng tôi quá vậy?... Có phải không anh? Anh Đồng Tuy ơi! Anh đã tiên đoán trúng phong phóc cái hậu vận chinh chong bồng bềnh, trầm thống trăm đắng ngàn cay của chúng tôi. Lưu vong hoàn toàn trắng tay nơi đất khách quê người vào thời kỳ bốn mươi lăm bốn mươi sáu tuổi thật quá bất ngờ không định trước được. Cái tuổi đó quả đúng như anh đã tiên đoán ngày nào.


Chúng tôi đã buông xuôi bỏ lại quê hương một nửa đời người, bỏ sự sản, bỏ gia đình, bà con thân thương ruột thịt, chòm xóm láng giềng, bỏ những kỷ niệm, bỏ tất cả… Hôm nay nhắc lại những chuyện cũ mèm hơn ba bốn thập niên mà bàng dân thiên hạ thường bảo hơi sức đâu mà nhắc tới cho thêm rắc rối phiền hà, nhứt là anh Đồng Tuy nay không còn nữa, nhưng với chúng tôi những chuyện cũ rích nầy vẫn dấy lên trong lòng bao nhiêu tiếc nuối và xúc động. Ngay vấn đề trục trặc, trở ngại về chuyến vượt biên mạo hiểm nữa, anh cũng chẳng nhầm lẫn mảy may. Bao nhiêu lần chúng tôi mò mẫm xuôi ngược khắp mọi nơi cố tìm con đường ra biển, tánh mạng như chỉ mành treo chuông trước gọng kềm nghiệt ngã của bạo lực. Lâm le lên đường nhiều lần nhưng rốt cuộc thất bại cũng không ít. Dù vậy, chúng tôi vẫn không chấp nhận bỏ cuộc vô lý.


Sự sợ hãi về một cái chết thê thảm nơi biển khơi chẳng làm nhục chí mà trái lại càng làm cho chúng thôi thêm say mê dấn thân hơn, vì là con đường giải thoát lúc bế tắc không ngày mai. Hơn nữa, chúng tôi không quên lời hay ý đẹp của người xưa ngụ ý nhắn nhe lớp hậu sinh, một khi mình có niềm tin và hy vọng, mình có thể lấp biển dời non. Chúng tôi cũng nhớ câu nói để đời của cụ Nguyễn Bá Học đã nhập tâm từ thuở còn mài đủng quần trên ghế học đường: «Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông». Thật ra chúng tôi cũng biết rằng con người sinh ra trên đời hầu như để gánh chịu khổ đau và đối đầu với thử thách dồn dập tới tấp không sao tránh khỏi. Thêm vào đó chúng tôi nghĩ cho cùng, nếu bất hạnh phải đến được thiên đường của những mảnh hồn tan tác đau thương, vô phước vô phần bỏ mình nơi biển cả còn hơn tiếp tục lặn hụp triền miên trong địa ngục của bần cùng ngu dốt, chung đụng với những kẻ đầy tham vọng không còn nhân tính.

 Thật may mắn khi chúng tôi thoát được tù tội, đến bến bờ đất hứa, chẳng qua chắc cũng nhờ ơn trên phù hộ chở che. Nhưng khốn nỗi, anh Đồng Tuy không tiên đoán được lý do của sự ra đi tức tửi trong tủi nhục uất hờn này của chúng tôi là sự sụp đổ rã hàng nhanh chóng trong tang khó của Miền Nam Tự Do. Anh cũng không tiên đoán được thảm nạn ‘hỏa hoạn’ mà chúng tôi là nạn nhân khốn khổ đến phải sạt nghiệp trắng tay. Vì không đoán được đối với chúng tôi mà ngay cả bản thân anh, anh cũng chẳng thấy gì nên sau tháng Tư Đen, anh đành cam giam thân trong cảnh ‘cá chậu chim lồng’ một thời gian dài… Cái màu đỏ của ngọn lửa tai hại mà anh đã tiên đoán chắc nịt trong hai lá số tử vi của vợ chồng chúng tôi ngày nào phải chăng là màu đỏ máu của một chủ nghĩa ngoại lai lấy sự thù hận, chém giết tận diệt những người đối lập làm nền tảng đấu tranh giai cấp, xóa bỏ cào bằng tư hữu, màu đỏ của nền cờ búa liềm chuyên chính vô sản? Chắc thuở ấy có những lấn cấn huyền bí gì mà anh nghĩ không ra nên không thể giải bày tận tường tình tiết tế nhị đó chăng? Nhưng dù sao quả chúng tôi đã thực sự bị hoàn toàn sạt nghiệp. Đúng với định nghĩa của danh từ bi thống nầy, do chủ trương và chánh sách giết người cướp của công khai giữa ban ngày của cộng sản: ‘‘đánh tư sản mại bản, kiểm kê tài sản, đổi tiền, kinh tế mới, giản dân, truy quét văn hóa phẩm đồi trụy…’’.



Sau Tháng Tư Đen oan nghiệt, trong gọng kềm hận thù của chế độ mới đang triển khai chánh sách ‘‘ngăn sông cách chợ’’, siết hầu siết họng người dân Đô thành, chúng tôi có một lần mò qua Tân Thuận, tìm đến nhà thăm anh Đồng Tuy, nghĩ rằng suốt một đời gắn bó khắng khít với vận mệnh đất nước, hẳn anh không nỡ thoát thân hưởng lạc vào những ngày đen tối nhứt của lịch sử. Sau nữa, chúng tôi cũng muốn nhân dịp đó nhờ anh duyệt lại lá số tử vi ngày xưa, xem chuyến vượt biên sắp tới của chúng tôi được thành tựu hay không, lành dữ như thế nào để có thêm niềm tin, an tâm và mạnh dạng lên đường. Lúc ấy, chị Đồng Tuy đang ngồi trên một chiếc xe ‘lam’. Trên xe đã đông khách và do xăng dầu khan hiếm khó tìm nên họ chen chúc nhau như cá mòi hộp. Xe cũng dợm lăn bánh. Chúng tôi tiên đoán xe sẽ chạy đúng chuyến về Sài Gòn thì phải vì trên mui có chút ít rau quả được ngụy trang khéo léo. Nhìn thấy vợ chồng chúng tôi đang đi trên chiếc ‘‘Honda đam’’ vừa mua lại của người hàng xóm để tạm đi đó đi đây trong khi chờ đợi ngày khởi hành, chị lật đật khoác tay gọi anh lái xe cho xe ngừng lại. Rồi chị nhanh lẹ bước xuống tiếp đón vợ chồng chúng tôi rất mực vồn vã thân tình như thường lệ ngay bên lề đường. Nhưng khi nhìn kỹ, chúng tôi ngạc nhiên để ý thấy gương mặt chị bỗng hiện rõ một nét buồn buồn kín đáo. Và lời nói đầu tiên chị báo cho chúng tôi một tin chẳng được vui, đôi mắt chị long lanh đỏ sẫm chán chường:


- Anh Đồng Tuy hiện bị đưa đi học tập ‘cải tạo’ ở tận miền Bắc. Ảnh biệt tâm biệt tích cả mấy năm nay. Tôi không được một tin tức gì cả. Không biết ảnh bây giờ sống chết ra sao? Tôi hoàn toàn bất lực, chỉ còn biết cầu nguyện ơn trên cho ảnh được khoẻ mạnh sớm trở về sum hợp gia đình vợ con…


Chúng tôi biết nói gì thêm trước nỗi đau ngút ngàn và sự thất vọng tột cùng của chị giữa khi đất nước đắm chìm trong hố sâu của vực thẳm. Nơi mà mỗi con dân hiền hòa lương thiện của Miền Nam Tự Do không sao thoát khỏi đói rách tội tù, kềm kẹp tinh thần, đành bất lực cam tâm chấp nhận định mệnh oái oăm nghiệt ngã… Nơi mà tất cả đều có ‘nợ máu đối với nhân dân và nhà nước’ cộng sản, là kẻ thù chẳng đội trời chung của ngày hôm qua, của hiện tại và của cả tương lai. Nơi mà bóng dáng của những oan hồn uổn tử không ngớt thét gào rên siết trên từng tấc đất chết.



**



Về sau, chúng tôi có cơ duyên gặp được người trung gian có lương tâm từng tổ chức vượt biên bằng đường biển tại cây số 74 trên đường từ Sài Gòn đi Vũng Tàu giữa năm 1979. Lúc đó, chúng tôi lợi dụng cộng sản Việt Nam còn đang bận rộn về việc đưa quân và cán bộ dân sự các cấp sang Cam Bốt nhằm thanh toán đám Khờ Me Đỏ của Pol Pot. Thuở đó, bà con ở Thủ Đô Sài Gòn gọi là vượt biên bán chánh thức. Vì do cộng sản tổ chức qui mô và có hệ thống để thu vàng vòng, tiền bạc, kim cương đá quý, kiểm kê đóng chốt cướp sạch của cải tài sản, nhà cửa của những người vượt biên để chia chát cho đồng bọn. Nhứt là người Hoa ở Chợ Lớn bị nghi kỵ gán cho đòn hiểm độc làm gián điệp nội ứng cho bọn Trung cộng nên bị theo dõi khống chế. Họ bị xua đuổi khỏi Việt Nam bằng mọi giá và bằng mọi phương cách khác nhau tùy hứng của những ông vua con, lãnh chúa đảng viên đầy quyền lực ở khắp các địa phương miền Nam. Những đảng viên cộng sản gốc Hoa dù có lập bao nhiêu thành tích thần sầu quỉ khóc, trung kiên phục vụ đảng trước đây đều bị cho ra rìa, về vườn làm cảnh, ngồi chơi xơi nước. Và nếu bị đánh giá nguy hiểm đến guồng máy tổ chức đảng sẽ bị thanh toán không nương tay. Biết bao nhiêu cái chết bất đắc kỳ tử thường xảy ra trong thời kỳ đó không cơ man nào mà kể.

Lúc nầy là thời kỳ tột đỉnh trong bang giao Việt Hoa. Chúng hục hặc nhau quá trầm trọng, không còn tình nghĩa ‘anh em môi hở răng lạnh’. Và Trung Cộng thường xuyên đưa quân gây hấn vùng biên giới phía Bắc Việt Nam nhằm tiếp cứu phe Khờ Me Đỏ, vốn nằm trong quỷ đạo ảnh hưởng của chúng, để sau nầy đi đến những trận đánh khốc liệt với ý đồ cho nhau những bài học xương máu để đời. Chúng tôi cùng gia đình đầy đủ vợ con phải cải trang thành người Hoa vì trên danh nghĩa, những cuộc vượt biên bán chánh thức này chỉ dành cho người Hoa, theo kế hoạch và chủ trương của đảng và nhà nước. Mình là người Việt Nam rặc nòi chỉ lợi dụng thời cuộc, trà trộn vào các chuyến đi một mất một còn nầy, nhưng dù sao cũng còn đỡ hơn, ít nguy hiểm hơn mua bãi đi chui với trăm ngàn lần đầy cạm bẫy chết người. Việc đi kiểu nầy ngồi tù dễ như chơi, mất còn chỉ trong nháy mắt. Chưa kể những bọn vô loại lợi dụng lòng tin để a tùng với công an biên phòng cướp của hại người. Nhưng trước đó, việc chuẩn bị ra đi bán chánh thức đối với chúng tôi không dễ dàng gì đâu. Cũng trầy vy tróc vẫy, cũng nhiêu khê trắc trở lắm. Bao nhiêu mai mối dù tín cẩn đến đâu đều đi đến thất bại não nề, chẳng qua vì phải kinh qua những người trung gian môi giới không có lương tâm, chuyên sống với cái nghề hạ tiện thấp hèn do thời cuộc và chế độ tạo ra là lường gạt, dối gian lật lộng, bất chấp tình nghĩa. Mà mỗi lần thất bại là mỗi lần hao tài tốn của, nhưng chúng tôi may mắn là lần sau cùng chúng tôi không bị gạt gẫm, tội tù như bao nhiêu người vượt biên bất hạnh khác. Giá nếu cứ tiếp tục như vầy mãi thì còn đâu tiền bạc đủ để tổ chức những chuyến đi về sau. Cũng may, trời sanh trời thương không nỡ phụ người ngay đang sa cơ thất thế nên lần sau cùng đó, chúng tôi được một người bạn có hai dòng máu Việt Hoa, nhà ở cùng chung một xóm với chúng tôi giới thiệu trực tiếp với người tổ chức, không qua một trung gian nào cả.

Ông tên là Âu Triều Chương, một thương gia Hoa Kiều có tiếng ở Sài Gòn, chủ nhân những tiệm buôn dụng cụ điện nơi đại lộ Nguyễn Huệ, bên cạnh Tòa Hòa Giải. Còn anh bạn cùng xóm với chúng tôi thuộc gia đình trải qua nhiều thế hệ lập nghiệp ở Sài Gòn. Anh rất dễ thương, đôi mắt đen huyền được người đời bảo là đôi mắt nhung nên có số đào hoa, bao lần lập gia đình chánh thức hay tạm bợ với người Hoa cả người Việt. Về sau anh cũng vượt thoát được khỏi xứ tù chung thân xã hội chủ nghĩa. Anh qua tỵ nạn ở Californie, Hoa Kỳ theo diện đoàn tụ gia đình, nhờ đứa con trai lớn vượt thoát rất sớm. Tại đây, anh tiếp tục hành nghề cũ, mở một ‘tiệm nước’ nho nhỏ nơi ngoại ô một thị trấn đông người Việt định cư để tạm thời sinh sống. Nhưng chẳng may anh vắng số, qua đời chỉ mấy năm ngắn ngủi được hít thở không khí tự do thanh bình. Anh mất vào tuổi vừa mới bước qua khỏi năm năm mươi.



Do hoàn cảnh bất hạnh bị kẹt lại sau tháng Tư năm 1975 và nhứt là không chịu nổi không khí nghẹt thở những năm tiếp theo đó khi cộng sản triển khai chiến dịch ‘đánh tư sản mại bản’, ông Âu Triều Chương lợi dụng và khai thác triệt để bản chất tham nhũng sa đọa của đám cán bộ cộng sản đang trên đà ‘đổi đời’, ‘hồ hởi’ thi nhau chạy đua trang bị những ‘tiện nghi hào nhoáng của Mỹ Ngụy’ bỏ lại. Ông có tổ chức một hệ thống khá qui mô đưa người vượt biên. Ông đã thành công trong rất nhiều chuyến đi trước đây và ông rất hãnh diện qua những thư từ của những người vượt thoát tới tấp gởi về báo tin mừng đã đến nơi đến chốn an toàn. Do vậy, ông rất có uy tín trong giới làm ăn qua đường dây nửa công khai nửa ngấm ngầm nầy cũng là điều dễ hiểu. Nhưng chắc chắn nó cũng mang đến cho ông nhiều lợi nhuận. Dù sao, chúng tôi đặt hoàn toàn niềm tin vào ông. Ông làm ăn, quan hệ rộng rãi qua mạn lưới rất chặt chẽ với bọn cán bộ cộng sản có trách nhiệm trong việc tổ chức vượt biên ở các vùng Biên Hòa, Bà Rịa, Bình Tuy, Phước Tuy và nhứt là Vũng Tàu. Bằng cớ là có một hôm, ông xuống lệnh cho đám đàn em ‘tà lọt’ hai ba đứa ở Chợ Lớn đem mấy chiếc xe ‘Honda’ đưa vợ chồng chúng tôi đến xem một chiếc tàu cây của ông đang nằm im trong ụ ở bến Vũng Tàu, giữa Bãi Trước và bãi ’Les Roches Noires’ của người Pháp ngày xưa. Ý ông muốn chứng tỏ lòng thành thật của ông để chúng tôi không phải băn khoăn lo lắng. Ông còn hết lời đảm bảo vấn đề an ninh di chuyển cho vợ chồng chúng tôi để chúng tôi không ái ngại nghĩ ngợi điều gì cả. Vì mọi việc lớn nhỏ ông đã sắp xếp chu đáo kỹ lưỡng với các cấp chánh quyền sở tại có trách nhiệm từ trên chóp bu đến hạ tầng.



Nên nhớ, lúc đó tình hình an ninh ở Miền Nam còn cực kỳ khó khăn hỗn độn. Những người quốc gia chân chính vẫn còn đeo đuổi mục tiêu chống đối dưới mọi hình thức, chưa kể đến những cuộc thanh toán rùng rợn khắp các khu phố vì nhiều lý do không hề được làm sáng tỏ. Cộng sản dùng hệ thống công an khu vực kiểm soát từng người, từng phương tiện và thời gian di chuyển của người dân thành phố. Nhứt là những tuyến đường hướng về các tỉnh vùng ven biển. Dĩ nhiên từ thủ đô Sài Gòn đến bãi biển Vũng Tàu quen thuộc ngày nào, chúng tôi phải qua không biết bao nhiêu trạm gát của ‘bộ đội chánh qui cụ Hồ’, mặc đồng phục màu cứt ngựa xúng xính thùng thình còn mới tinh, không ngớt lo le A.K., nhứt là đoạn gần đến thị xã. Chúng tôi được đưa thẳng ra viếng chiếc tàu như đã hoạch định, không khác một du khách chính chính đường đường đi giữa thanh thiên bạch nhựt.


 Những người hướng dẫn xem ra tự tin lắm, trong khi chúng tôi vẫn chưa thoải mái trong lòng. Thực ra ngay bọn lính gát giữ an ninh bãi biển chẳng những làm ngơ, còn lộ vẽ hí hửng mơn trớn khi trông thấy ‘phái đoàn’ chúng tôi. Có lẽ chúng đã được đám đệ tử của ông cẩn thận chiếu cố ‘bồi dưỡng’ đúng mức và sồng phẳng trước rồi. Và anh tài công, một người Hoa Chợ Lớn trẻ tuổi khỏe mạnh, mặt mày sạm nắng, nói rành rẽ tiếng Việt cũng không có chút dè dặt tối thiểu. Anh ta cứ thông thả cho nổ máy tàu, sau đó đưa chúng tôi chạy đôi ba vòng tới lui không xa bờ biển Vũng Tàu bao nhiêu. Chiếc tàu cây nầy sơn màu xanh nhạt còn mới toanh, có lẽ mới sơn chẳng được bao nhiêu ngày trước đó. Mùi sơn còn phảng phất đó đây. Nó mang bảng số màu trắng V.T 1274 (?), chúng tôi không nhớ rõ lắm, mấy mươi năm qua quá lâu rồi trí nhớ thường phản bội lại chúng tôi. Việc nầy cũng dễ hiểu thôi.


Bao nhiêu thăng trầm, vật đổi sao dời đã bào mòn tinh thần và thể xác chúng tôi không ít. Nhưng có một điều đập ngay vào nhản quan chúng tôi là chiếc tàu xem ra bề thế, vững vàng chắc chắn lắm, khiến người nào có dịp đến với nó như trường hợp của chúng tôi đều có thể tin tưởng được. Tiện nghi thì khỏi phải chê trách một lời nào cả, vì chúng tôi nhớ kỹ có những hàng băng ghế ngồi bằng cây khang trang ngay ngắn ở khoảng gần ụ máy. Giữa những hàng ghế nầy có một lối đi hẹp vừa đủ để cho một người lớn lách mình đi những khi cần thiết. Chỉ trông việc sắp xếp qui củ nầy thiết tưởng không thua gì những hàng ghế vững vàng trên những chuyến xe đò tân tiến chạy tuyến đường Sài Gòn -Lục Tỉnh những ngày trước tháng Tư Đen mà sau nầy chúng tôi có nhiều dịp dùng qua khi nó đã cũ kỹ bệ rạc để ước mơ một lối thoát cứu rổi. Ngày đó ước mơ đã giúp cho mọi người ở Sài Gòn cũng như ở miền Nam có một cuộc sống ý nghĩa.


Ông Âu Triều Chương rất tử tế, có tinh thần hợp tác đáng tin cậy. Ông còn hứa dứt khoát với chúng tôi cứ nán chờ đợi ông tổ chức xong xuôi mọi việc, tức là lúc ông có thêm đầy đủ số người đi thì hãy cùng đi với ông cho vui. Ông sẽ đặc biệt dành riêng cho chúng tôi mọi dễ dàng, nhứt là về phương diện tiện nghi vật chất, muốn chọn chỗ ngồi nào cũng được cả. Vì chiếc tàu nầy do ông bỏ vốn hoàn toàn làm chủ, do đó ông có đầy đủ thẩm quyền để quyết định số người đi vừa vừa phải phải, cũng như mọi sắp xếp trên tàu. Nếu không có lý do gì cấp bách cần phải ra đi ngay, ông khuyên chúng tôi hãy chờ đợi thêm một hai tháng nữa là cùng, tàu sẽ khởi hành. Ông đã có trong tay giấy phép chánh thức của chính quyền địa phương. Tiện nội dù được những hứa hẹn cầm chắc và nhứt là chúng tôi đã đích thân được đưa lên viếng tàu, có chạy thử đôi vòng dọc theo bãi biển Vũng Tàu trước đây, nhưng vẫn không ngớt lo lắng trong lòng. Đêm ngày lạc thần, mất ăn mất ngủ, lúc nào cũng lơ lơ lững lững như người mất hồn. Việc đi đứng, ăn nói không thua một người máy.

Hầu như những người ra đi đều có cùng một tâm trạng khủng hoảng trầm trọng, ngổn ngang trăm mối như thế cả. Tiện nội bèn nhờ người quen biết đáng tin cậy trong khóm hướng dẫn đến xem một ông thầy bói già được bà con trong phường đồn đãi xem như người có tay nghề cao và có uy tín. Ông nầy, tiếng nói là già nhưng không hẳn thế vì theo tiện nội, trông ông còn hoạt bát nhanh lẹ lắm, chỉ trừ dáng thể ngoại hình được ngụy trang cho phù hợp với tuổi đời. Có điều tiện nội để ý là ông mù cả đôi mắt. Nhà ông ở tại một hẻm nhỏ hẹp nằm sâu trong xóm nghèo dân cư đông đúc bên cạnh rạp hát Văn Hoa, Tân Định. Ông có mù thật hay không, thật tình chúng tôi không hề biết đích xác thực hư. Chỉ nghe người trong khu phố tiếng vô tiếng ra như vậy. Mà đối với tiện nội, việc ông có mù thật hay không, không quan trọng lắm. Thực tế, mỗi lần tiếp tiện nội, ông đều mang cặp mắt kiếng râm cũ kỹ, trong ngôi nhà lá lụp xụp, cửa nẻo màn che sáo phủ hoặc chỉ mở hé hé vừa đủ cho một người lách mình đi vào nên thiếu hẳn ánh sáng. Cặp kiếng của ông trông như lặc lìa lặc lọi không bằng trong bối cảnh lờ mờ đó. Do tâm trạng không được bình ổn, như người mất hồn, cũng do lo lắng trăm mối ngổn ngang khi phải sẵn sàng trong tư thế chuẩn bị ra khơi bất cứ lúc nào, phần khác thường xuyên sợ bị bại lộ mang họa vào thân, nên khi tiện nội đến cầu cứu tài nghệ của ông, không khác chi một người làm ăn bất chánh, rón ré trốn lánh tránh né mọi người. Do vậy, tiện nội muốn sự hiện diện của mình tại nhà ông chấm dứt càng sớm chừng nào càng tốt chừng nấy. Lúc ấy, tiện nội không có thì giờ để hỏi cho rõ danh tánh của ông, ngoài những điều cần thiết phải hỏi. Cho nên hôm nay ở đây, nếu ông còn sống sót bên nhà và tình cờ đọc những dòng chữ nầy, chúng tôi xin ông vui lòng miễn thứ cho sự thiếu sót ngoài ý muốn của tiện nội, khi nhắc đến ông qua danh xưng là ông thầy bói mù gần rạp Văn Hoa. Nên biết lúc đó cộng sản ra chỉ thị cấm đoán và truy lùng tìm bắt rất ngặc nghèo những ông thầy bói, thầy lá, những ông bà xem chỉ tay và tử vi đầu số… Chúng huênh hoang cho rằng những hạng người nầy làm bại hoại ‘nếp sống mới xã hội chủ nghĩa’, không xứng đáng và phù hợp với ‘đạo đức cách mạng’ do đảng ‘chỉ đạo’. Do vậy, các ông bà nầy phải hành nghề lén lút, trốn chui trốn nhủi vì là một cái nghề không chánh đáng trong chế độ mới. Các ông bà nầy rất cẩn thận, lúc nào cũng phải nghi trang, bố trí người nhà thân tính canh gát nơi đầu hẻm cũng như chung quanh nhà. Và nếu cần, họ luôn thay đổi địa điểm làm việc hoặc di chuyển đến tận nhà của các thân chủ. Việc đến nhà ông đối với tiện nội cũng nhiêu khê trắc trở không ít, do nơm nớp phập phồng sợ tai mắt dòm ngó cú vọ của tên công an khu vực lùn sụt từng ngỏ ngách, cùng sự theo dõi trở mặt vô liêm sĩ của bọn cán bộ ba mươi rắp tâm lập thành tích dâng đảng. Tiện nội được đưa đến nhà một người hàng xóm của ông, trong khi những người khác đang chờ đến lượt mình ở những căn nhà kế cận. Rồi từ từ, sau khi xem dứt những người đến trước, theo thứ tự ông cho gọi tiện nội vào.

 Sau khi nghe tiện nội trình bày cặn kẽ, đầy đủ tên tuổi, giờ giấc, ngày sanh tháng đẻ, cùng lý do và nhứt là chi tiết về chiếc tàu mang số V.T 1274 (?), ông xủ mu rùa qua vài thủ thuật quen thuộc của riêng ông. Mà đúng ra tiện nội không màn để ý tới nên chẳng biết ông làm những gì, đầu óc chỉ tập trung chờ đợi, lắng nghe những lời giải thích của ông thôi. Hy vọng là được nghe những lời suông sẻ tốt đẹp để củng cố niềm tin và mạnh dạng dấn thân. Sau một đỗi dong dài, rốt cuộc ông kết luận một câu, và chỉ một câu ngắn gọn thôi cũng đủ đưa tiện nội vào nỗi thất vọng chán chường. Tiện nội ngẩn ngơ mất hồn bạt vía không sao tả nên lời, không khác chi một người vừa bị xối ngay vào mặt một gào nước đá:


- Quý chủ nên tìm ngay con đường nào khác, may ra mới hy vọng có lối thoát, chớ thật tình thầy thấy chiếc tàu nầy sẽ vĩnh viễn nằm im đó, không bao giờ ra khơi được. Thầy nhắc là nó vĩnh viễn sẽ nằm rụt tại chỗ.


Về sau, khi thành công đưa cả gia đình đặt chân đến miền đất hứa hằng trông đợi thắc thỏm đêm ngày, chúng tôi có liên lạc về mẹ chúng tôi bên nhà và được biết quả chiếc tàu nầy vẫn nằm im đó cả năm sáu năm sau không đi được. Và số phần nó rốt cuộc nghe đâu bị sung vào tổ hợp công tư hợp doanh đánh cá của thị xã Vũng Tàu. Hư thực ra sao, chúng tôi không hề quan tâm đến tin nầy? Vì thấy không cần thiết trong hoàn cảnh mới của chúng tôi. Chỉ biết một điều chắc chắn là ông chủ nó, ông Âu Triều Chương phải bí mật dời đổi chỗ cư ngụ qua một phường khác cũng ở Quận Nhứt Sài Gòn. Ông chung tiền lo lót bọn cán bộ cộng sản tham nhũng đang khát khao làm giàu bất chánh nhằm hoàn tất thủ tục hồ sở xin xuất ngoại sang Hoa Kỳ theo diện bảo lãnh chánh thức một cách ngon lành. Ngay đến khi lên máy bay âm thầm rời Việt Nam, không một ai biết để cản ngăn làm khó dễ gì ông được. Lâu lắm về sau, khi đến định cư ở Californie, ông vẫn có thư từ qua lại với chúng tôi một thời gian dài.

Riêng ông thầy bói mù ở hẻm Văn Hoa, Tân Định đã tiên đoán trúng phong phóc về chiếc tàu V.T 1274 (?) khiến giờ phút hiện tại, khi nhắc nhớ ông, dù không tin chúng tôi cũng phải tin lời ông. Và ông thầy bói già nhưng có lòng nầy về sau còn giúp chúng tôi rất nhiều ý kiến quý báu, nhờ vậy làm tăng thêm gấp bội niềm tin cũng như củng cố quyết tâm của chúng tôi, khi chúng tôi dứt khoát chọn con đường ra đi ở chuyến tàu tiếp đó không lâu. Người xưa có nói đâu đó là một khi mình có niềm tin ở hướng đi trong sáng của mình, mình hãy mạnh dạng, và nếu phải chết vì niềm tin thì cái chết đó càng có ý nghĩa. Niềm tin đã tạo nên sức mạnh vô biên cho chúng tôi, một sức mạnh giúp chúng tôi nghĩ rằng ngày chia tay giã từ trong buồn tủi tận cùng chỉ để có ngày về trong hạnh phúc sum hợp. Giờ đây, chúng tôi thêm tiếc thương và nghĩ rằng những người bất hạnh đã nằm xuống vĩnh viễn đâu đó trong lòng đại dương hay nơi rừng sâu biên giới quả là những anh hùng vô danh với niềm tin và lý tưởng sáng ngời không chấp nhận chế độ độc tài đảng trị và trân quí hai chữ tự do thiêng liêng mà mỗi con người trên thế gian đều phải có quyền hưởng như nhau. Từ dạo biết ông, tiện nội trở thành một thân chủ trung kiên nhứt của ông, chúng tôi ức đoán như vậy. Vì nhiều khi đôi lần trong tuần, tiện nội vẫn mon men lần mò đến tham khảo ý kiến của ông, dù chỉ cần được nghe ông nói vài lời, xác nhận một ít câu cũng đủ an tâm vững bụng thơi thới ra về. Cái khổ tâm và niềm vui sướng của người đang trong tình trạng hoang mang bất ổn tinh thần là vậy đó.



Phải nhìn nhận trung thực rằng ông không phải là hạng người vô tâm, vô lương, sống nhởn nhơ bất cần trên nỗi đau khổ trầm thống của người khác, sống với đồng tiền bất nghĩa bất nhân. Dù mù lòa (?!) nhưng ông rất tự trọng, được thân chủ tín nhiệm tin cậy. Ông không hề lợi dụng, khai thác tình thế trớ trêu bi thảm của lịch sử và nhứt là tâm trạng mất định hướng của những người đang chìm dưới đáy sâu của địa ngục trần gian, trong đó hẳn nhiên có tiện nội để làm tiền. Lúc ấy dù hoàn cảnh khắc nghiệt khó khăn, cuộc sống bế tắc trước ngưởng cửa của đói rách xác xơ, của tuyệt vọng, người dân thành phố đang đối diện với chánh sách ‘ngăn sông cách chợ’ đầy hận thù của cộng sản, ông vẫn không ấn định giá biểu cho mỗi lần xem, dù là một giá tối thiểu hay tượng trưng.

 Ông để cho thân chủ mình toàn quyền quyết định, tùy hỉ mà đền công khó của ông bao nhiêu cũng được. Ông cũng từng công khai tỏ ra rất thông cảm trường hợp éo le túng thiếu của từng thân chủ khi đối diện với họ mà đa số là những người đàn bà tìm đường vượt biên vượt biển, nhứt là vợ con quân cán chính cao cấp Miền Nam đang bị cộng sản gạt gẫm, giăng bẫy bắt đi học tập cải tạo dài hạng tận nơi miền thượng du Bắc Việt để mang bản án chung thân khổ sai không biết ngày về. Ông không hề mở miệng đòi hỏi mặc cả chi cả. Nhưng cái mà chúng tôi cho là đáng kính trọng nơi ông là những lời giải thích của ông, dù xấu dù tốt, vẫn ẩn chứa một tình cảm chia xẻ sâu lắng, một nỗi lo âu cảm thông đối với những người trong cuộc đang dò dẫm mầm mò tìm một hướng đi cứu rổi hay một chút hy vọng mong manh để tiếp tục tồn tại. Ông cũng tỏ ra không tán đồng chánh sách và đường lối thiếu hẳn tình người của các ông chủ mới nơi đất nước vừa mới thống nhứt trên danh nghĩa, nhưng chẳng thống nhứt trong lòng người. Dĩ nhiên, thái độ nầy của ông đều qua những lời lẽ quanh co lờ mờ, những ẩn ngữ mà người trong cuộc không khó khăn gì để hiểu tận tường. Dù cán bộ cộng sản có muốn kết tội ông cũng chẳng thể nào được.



Sau khi đã dứt khoát từ chối không đi trên chiếc tàu V.T. 1274 (?), chúng tôi trở lại nài nĩ nhờ ông Âu Triều Chương giàn xếp tiếp tục giúp chúng tôi được đi trên một chuyến tàu khác, càng cận kề chừng nào càng tốt chừng nấy. Vì không gì khổ sở nhức nhối cho bằng một khi đã quyết định ra đi, một khi đã thu xếp gọn gàng mọi việc trong ngoài đâu vào đó lại phải chờ đợi ngày nầy qua tháng nọ, nhứt là mình không biết chắc chắn được ngày giờ khởi hành. Thêm nữa, bọn công an khu vực và tổ phó an ninh luôn rình rập hằng ngày hằng đêm. Đôi khi chúng còn phối phợp nhau đến khám xét nhà, kiểm tra hộ khẩu vào lúc nửa khuya. Thêm vào đó còn tai vách mạch dừng, không biết ai thương ai ghét, ai bạn ai thù. Mọi người nghi kỵ e dè mọi người, không ai tin cậy bất cứ ai vào thời buổi thượng vàng hạ cám lẫn lộn. Ngay đối với những người trong thân tình, chúng tôi cũng giữ thái độ ngậm câm như hến. Ông Âu Triều Chương nhiều lần có hỏi chúng tôi:


- Ông bà sao đi chi gấp quá vậy? Có gặp chuyện gì nguy hiểm hay không, khiến ông bà phải lấy quyết định cấp bách nầy.

Ông lại gạn vấn chúng tôi thêm và có ý trách móc khéo:

- Tại sao ông bà không đợi ngày cùng đi chuyến tàu V.T. 1274 (?) với tôi có phải tiện hơn không? Ông bà rán chịu khó nhẫn nhục… đợi chờ… không còn lâu đâu. Tôi cũng muốn đi cho sớm, chớ dần dà ở nán lại thêm làm chi, phiền phức lắm. Đôi khi còn nguy hiểm nữa là khác. Vì tụi nầy vốn đã khó hiểu, nghi kỵ, bản chất lại tráo trở lật lộng, thay đổi chủ trương đường lối như chong chóng.


Vì không tranh thủ được chúng tôi lúc ấy, rốt cuộc ông bảo nếu chúng tôi muốn đi gấp, ông không còn cách nào hơn là sẽ gởi gia đình chúng tôi đi trên một chuyến tàu khác cũng sẽ xuất phát từ bến Vũng Tàu. Chủ nhân chiếc tàu nầy vốn là anh em đáng tin cậy trong cùng nhóm của ông. Tàu đã được chánh quyền địa phương cấp giấy phép mang số V.T. 3399, đã hạ thủy cả tháng nay và đã chạy thử nhiều lần. Máy móc rất tốt, tài công có tay nghề cao, thủy thủ đều còn trẻ, đảm bảo lắm. Chuyến nầy sắp sửa ra đi nay mai, nhưng thực tình ông không được trọn quyền quyết định chi cả, vì ông chỉ có một phần hùn tượng trưng trong chuyến đó thôi. Người có phần hùn quan trọng dĩ nhiên có tiếng nói chung thẳm. Dằn co lắm lần tới lui tiếp xúc qua nhiều đêm gặp gỡ nơi ông tạm thời trú ngụ ở đường Nguyễn Huệ trong hoàn cảnh cẩn thận tối đa và lén lút ngụy trang. Cuối cùng vào giờ chót ông hứa giúp và giúp chúng tôi rất tận tình. Chúng tôi rất đỗi vui mừng khi ông cho người thân thuộc tính cẩn đến nhận số vàng ấn định cho mỗi đầu người, lúc ấy là mười hai ‘cây’ cho người lớn, không có mảnh giấy lộn trao cho chúng tôi làm bằng chứng. Mà dù có cấp giấy chứng nhận cũng chẳng làm gì, trái lại không khéo bị đổ bể còn rước lấy tai họa liên lụy, tội tù là khác. Một lần nữa, tiện nội nghĩ ngay đến việc gõ cửa ông thầy bói mù bên cạnh rạp hát Văn Hoa, Tân Định. Lần nầy ông hân hoan báo cho tiện nội biết một tin vui và còn tỏ ra chia xẻ và hết lời khuyến khích tiện nội nữa:


- Chuyến đi trên con tàu mang số V.T 3399 nầy không có gì bị trục trặc, trở ngại cả. Nó sẽ rời bến một ngày rất gần đây thôi. Thầy bấm tay thấy nó đến nhanh, nhanh lắm đó. Quý chủ về nên bắt tay chuẩn bị ngay là vừa. Kẻo không kịp, mà nếu để lỡ chuyến nầy thầy không thấy con đường tương lai ra sao. Nó mù mù tăm tăm lắm. Trời ba mươi không bằng! Quý chủ nhớ để khỏi phải tiếc và ân hận về sau.


Thầy đưa tay che miệng, đằng hắng nhè nhẹ, không thua gì phong thái của con người lịch sự, biết quý trọng người đối thoại, nhứt là phái yếu:


- Nhưng thầy nói thêm để quý chủ an tâm vững bụng là bổn mạng quý chủ cực kỳ tốt, thầy ít khi thấy từ ngày hành cái nghề nầy. Thầy nói thật tình chớ không hề nói để cố tranh thủ cảm tình của quý chủ đâu. Mà trên bước đường ly hương tìm cuộc sống mới, tiểu nhân khá nhiều không ngớt khuấy rầy làm phiền hà quý chủ, nhưng không sao cả, trái lại quới nhân cũng không hiếm nên mọi việc rồi cũng qua.


Thầy còn nhấn mạnh:

- Tuy vậy, riêng trong chuyến đi nầy thế nào quý chủ cũng có gặp sóng gió, nhưng may mắn chóng qua mau. Bổn mạng rất vững, không có chi phải lo ngại. Còn nếu quý chủ có gặp những trục trặc nhỏ nhặt gì trên hải trình thì chẳng qua là ách nước tai trời, mình phải can đảm và nhẫn nhục gánh chịu để vượt qua, chớ không sao tránh khỏi được.


Ông còn nhắn thòng thêm một đôi câu ngắn gọn làm cho tiện nội quá xúc động, khóe mắt long lanh đỏ sẫm:

- Thầy rất mong hôm nay là lần cuối cùng, thầy không còn dịp gặp lại quý chủ một lần nào nữa. Thầy có lời chúc lành, thượng lộ bình an suông sẻ…

Ông thầy bói mù nói quá đúng lần chúng tôi lên đường. Cả trận bảo lớn, chiếc tàu chòng chành rên rĩ như trối trăn giữa những đợt sóng dữ hầm hừ thịnh nộ, chỉ một đêm ngắn ngủi nhưng đối với chúng tôi dài còn hơn một thế kỷ. Nhiều lúc chúng tôi tưởng chừng như mình sắp vùi thây tức tưởi, trong câm phẫn uất hờn giữa lòng biển sâu Thái Bình Dương. Nhưng cũng may, chỉ một đêm hãi hùng ấy thôi rồi sau đó trời im biển lặng, con tàu từ từ âm thầm lướt sóng như đi trên sông nước quê hương, giúp chúng tôi đến được bến bờ đất hứa bình an vô sự, vợ con đoàn tụ hít thở không khí tự do hạnh phúc được sống lại lần thứ hai trong đời. Những lần bị bọn cướp biển Thái Lan hùm hổ lục xét, khủng bố, cướp đoạt sạch sành sanh những gì đã mang theo, nhưng một khi đến nơi định cư, chúng tôi làm lại cuộc đời, tạo dựng những gì đã mất mát nhanh chóng không khó mấy. Chẳng qua cũng nhờ quyết tâm, chấp nhận hoàn cảnh, kiên trì chịu cực chịu khổ, đồng vợ đồng chồng góp chung công sức xây dựng tương lai con cái. Chúng tôi dù không tin nhưng cũng phải tin những lời giải thích huyền bí của ông thầy bói mù, vì cũng nhờ ông mà chúng tôi rất mạnh dạng ra đi và quyết tâm hơn bao giờ hết.


**



Đến được đảo, không còn nỗi sung sướng vui mừng nào hơn đối với vợ chồng chúng tôi vừa được hồi sinh trong tang khó và mất mát. Đảo là một đảo nhỏ hoang dã mang cái tên lạ hoắc lạ huơ Kéramot thuộc quần đảo Anambas nằm ngoài khơi Nam Dương. Trên bản đồ quốc tế nếu để ý chỉ thấy những chấm nhỏ li ti chùm nhum chưa bằng đầu kim gút. Đất đai quá hẹp, người lại thưa nhưng hiền hòa mộc mạc. Đảo được bao bọc chung quanh bởi núi đồi điệp điệp trùng trùng xan xác đến mút tầm mắt. Trên đảo, trong thời điểm vượt biên tột cùng giữa năm 1979, số người tỵ nạn cả Hoa lẫn Việt lên đến con số đôi ba chục ngàn nhân mạng. Đó là ước tính của chính quyền địa phương nhưng mức chính xác chắc cũng tương đối do thiếu hẳn thống kê. Riêng chúng tôi quá mệt mỏi chẳng còn tâm trí nào để tìm hiểu. Mà có tìm hiểu cũng chẳng giúp thêm được gì. Gia đình chúng tôi sau đó được nhà đương cuộc đem ghe máy chuyển đến quận lỵ Letung để làm thủ tục hành chánh, trước khi đưa sang đảo Kuku chờ phái đoàn các nước thứ ba đến phỏng vấn và phân loại. Lưu lại Letung vừa được năm bảy ngày nhưng cũng đủ thời gian để chúng tôi dò la tìm hiểu về nơi chốn chúng tôi sẽ đến tạm trú sau nầy. Chúng tôi được biết Kuku từ xưa là một đảo hoang vu, cũng như bao nhiêu hòn đảo lớn nhỏ khác nhun nhúc chung quanh, không một mái nhà cũng không người ở, đồi cao rừng rậm xanh ngắt, trừ dãy đất bằng phẵng nhưng rất hẹp chạy dọc theo một bãi biển cát trắng giới hạn ở chiều dài. Trên đảo ngoài lùm buội và cây rừng nhiệt đới chỉ có vài loại cây hữu ích như chà là và nhứt là dừa.

 Loại dừa cao ngất nghểu không khác chi dừa tỉnh Bến Tre nơi quê mình, nhưng mọc lưa thưa từng khúm và vì chịu ảnh hưởng của gió biển nên đa số đều xiêng xiêng, có cây gần như muốn tróc gốc ngã gần sát mặt nước. Thỉnh thoảng, tùy mùa gió thuận, người Nam Dương ở thị trấn Letung tập hợp nhau tổ chức chèo ghe qua đốn dừa đem về quận tiêu dùng, cũng như khai thác nguồn lợi chà là. Chính nhờ cây chà là lâu năm suôn đuột, thân vừa cứng vừa dai nầy, người tỵ nạn đốn về dùng cất chòi trại để tạm trú mưa nắng, cùng làm nẹp giường, bàn ghế trang trí hay phên vách. Thêm một nguồn tin khác khiến chúng tôi càng lo âu rợn người trước viễn ảnh phải đến nơi đó ở dài hạn.

Vì chúng tôi cũng như tất cả người tỵ nạn không hề biết ngày được nước thứ ba đến cứu xét bóc đi. Nguyên khoảng đầu thập nhiên 60 hay đúng ra là những năm sau khi cộng sản Bắc Việt đẻ ra cái Mặt Trận bù nhìn Giải Phóng Miền Nam năm 1960 nhằm gạt gẫm, mà mắt dư luận quốc tế để phát động một cuộc chiến xâm lăng Miền Nam ngày càng khốc liệt. Khí thế tuyên truyền của tập đoàn cộng sản, dù trong bịp bợm gian dối, trong hận thù sắt máu nhưng lại thành công đưa đến sự hình thành cao trào phản chiến đòi hòa bình ở các nước Âu Mỹ quan trọng, đặc biệt là Hoa Kỳ và Pháp nhằm xuyên tạc chánh nghĩa miền Nam. Chúng nhờ sự hổ trợ đắc lực và hữu hiệu của hệ thống cộng sản quốc tế, phối hợp với truyền thông báo chí biến chất và nhứt là đám trí thức thiên tả u mê, nhẹ dạ non lòng, ‘ngơ ngác như nai vàng’, cứ tưởng mình là người tiến bộ nhưng thực ra chẳng biết tí gì về cộng sản.


Song hành với chiến tranh Việt Nam và trước khí thế bành trướng nhanh chóng như thác lũ của cộng sản thế giới, bên Nam Dương, đảng cộng sản cũng phát triển mạnh như diều đang lên những chiều lộng gió. Người ta ước lượng lúc đó trên toàn quần đảo nầy số đảng viên chánh thức lên đến con số đáng tin cậy là ba triệu năm trăm ngàn người. Đó là chưa kể những người bít bôi mù quáng ủng hộ như cảm tình viên hay những cán bộ ngoại vi trong thời kỳ được đảng chuẩn bị kết nạp. Có thể nói lúc bấy giờ đảng cộng sản Nam Dương được coi là đảng cộng sản hùng mạnh nhất vùng Đông Nam Á với số đảng viên lên đến hằng triệu như vậy. Chúng đang lâm le và có khả năng tiến lên toan cướp chánh quyền bằng vũ lực, trong khi Tổng thống đương nhiệm Sukarno nghiêng hẳn về phía Trung Cộng đã thành công củng cố bộ máy cai trị sắt máu. Ông nầy công khai chủ trương tách khỏi hẳn ảnh hưởng của Hoa Kỳ và Tây phương. Nhưng cũng may cho đất nước và nhân dân Nam Dương.


Tháng 9 năm 1965, sáu ông tướng và một trung úy bị bắt cốc và bị sát hại thảm thương ngay tại thủ đô Jakarta. Cánh quân đội nhứt trí qui tội lỗi tầy trời nầy do đảng cộng sản Nam Dương chủ trương nhằm ý đồ nguy hiểm tiến đến cướp chánh quyền. Do đó, một số tướng lãnh cao cấp có tinh thần yêu nước và trách nhiệm cao, phản ứng nhanh chóng vì không chấp nhận chủ thuyết vô sản, xóa bỏ tư hữu và đấu tranh giai cấp của cộng sản. Họ đồng thanh đứng lên phối hợp với đại đa số quân nhân các cấp cương quyết làm cuộc cách mạng dân tộc cứu nguy đất nước. Mặt khác, khối Hồi giáo ngoan đạo rất có ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân và trong nguyên thủy họ đều nhất trí chọn con đường sinh tử chống bọn vô thần cộng sản nên hoàn toàn huy động lực lượng ủng hộ cuộc cách mạng lịch sử nầy. Nhờ vậy phong trào đưa đến thành công vẻ vang gây chấn động thế giới.

Có một điều chúng tôi xin được nhấn mạnh ở đây là trong cuộc cách mạng dân tộc đó, các đảng viên cộng sản Nam Dương từ hạ tầng cơ sở đến các cấp lãnh đạo trung ương đều bị dân chúng tiếp tay chánh quyền dân chủ triệt để thanh toán hoặc bắt tập trung câu lưu, không để đào thoát một tên nào cả. Giới chức Tây phương về sau ước tính có đến hằng triệu người bị giết trong giai đoạn đó. Những hòn đảo hoang vu lúc bấy giờ là mồ chôn tập thể của đám đảng viên cộng sản và đồng bọn. Dĩ nhiên đảo Kuku cũng là một trong những nghĩa địa quan trọng của đám vô thần cực hung cực ác trên thế gian nầy. Nhưng vì lúc đó để tranh thủ thời gian cấp bách do có quá nhiều người chết ối đọng nên việc chôn cất rất mực sơ sài, hấp tấp chiếu lệ. Sau nầy, từng đợt mưa lũ và gió biển ngày đêm nối tiếp nhau cuốn phăng lớp đất cát cùng lá cây, cỏ mục, rác rưới phía trên, phơi bày xương cốt, sọ người thỉnh thoảng bắt gặp đó đây trên đảo.


Do những tin đó nên khi nghĩ đến ngày bị đưa đến đảo nầy làm cho chúng tôi chùn chân chùn lòng. Đi thì ngập ngừng, còn ở vẫn chưa có lối thoát. Tiến thoái lưỡng nan. Thêm một số người đi trước qua đảo sống một thời gian có dịp trở về quận nhận thư từ hoặc tiền bạc của thân nhân từ các nơi trên thế giới gởi đến viện trợ, mô tả tình trạng vệ sinh quá bê bối ở đây. Tệ trạng đáng tiếc nầy do một số không nhỏ người tỵ nạn kém văn hóa, thiếu ý thức đã cẩu thả gây ra. Hoặc do lối sống bê bối đã quen từ trước. Còn nói gì nạn ruồi thì khỏi phải nói. Chúng nó bay vù vù cùng khắp, từng đàn, đụng đâu đậu đó. Loại ruồi vừa to vừa đen, hình thù dị họm trông dễ sợ.

Chúng nó chẳng sợ người, còn dám bu cắn chích nữa. Ăn cơm phải chia nhau quạt liền tay, nhiều khi vừa mới giở nắp nồi cơm, chúng nó tranh nhau đâm đầu đáp vào rồi chết cả đám vì hơi nóng. Còn mới mở miệng nói chuyện với nhau thì ruồi mẹ ruồi con đã nhảy thót trong miệng rồi. Chúng tôi quyết định tìm cách nấn níu ở lại quận lỵ Letung lâu chừng nào tốt chừng nấy, dù phải đóng cho chánh quyền sở tại một số tiền hằng tháng gọi là “lệ phí hành chánh và an ninh” để được tạm cho ở lại. Chúng tôi bèn mướn một hành lan thềm nhà sàn của người địa phương tạm trú đêm ngày. Về sau may mắn lắm chúng tôi mới mướn được một chéo buồng khoảng tám thước vuông nên cũng tạm ấm cúng. Chính trong thời gian ngắn ngủi ở tạm nầy, chúng tôi có dịp gặp gia đình anh Huỳnh Vĩnh Minh, cùng chung một hoàn cảnh ly hương như chúng tôi. Gia đình anh cũng vừa mới đến đảo không lâu, nhưng trước chúng tôi đôi ba tuần lễ thì phải. Cứ chiều chiều, mặt trời dợm phụp xuống chân trời xa xa, chúng tôi thường gặp nhau, ngồi trên nhà sàn trông ra biển, sảng khoái đón nhận những ngọn gió mát trong lành từ ngoài khơi thổi vào rồi trao đổi những tin tức nóng hổi, những tâm sự chất chứa lâu ngày cũng như ước vọng của mình để quên ngày quên tháng ngóng trông đợi chờ tin vui.

Không lâu sau, chánh quyền địa phương ra chỉ thị không cho người tỵ nạn ở lại quận lỵ như trước, chắc vì những bất đồng về phong tục và tập quán do người tỵ nạn vốn có những thành phần phức tạp gây ra. Nhứt là dân tình địa phương hầu hết đều theo đạo Hồi giáo chính thống nhưng có vẻ ôn hòa, chớ không quá khích chém giết như thời buổi hiện nay. Họ tuyệt đối không ăn thịt heo, mà người Việt Nam mình cũng như người Trung Hoa thiếu vắng thịt heo, bữa cơm làm sao đậm đà cho được. Dù người tỵ nạn có dùng thịt heo lén lút lúc họ vắng mặt, nhưng người Hồi giáo vẫn khám phá dễ dàng qua mùi vị phát hiện. Và anh em chúng tôi bắt buộc phải rời quận lỵ Letung lên đường trực chỉ đảo Kuku, lòng quặn thắc một nỗi lo âu khôn nguôi. Nhưng dù sao chúng tôi cũng đành phải chấp nhận, không còn lối thoát, không còn con đường nào khác.


Chúng tôi hai gia đình (chúng tôi và anh Huỳnh Vĩnh Minh) cùng một gia đình thứ ba nữa góp nhóp tiền bạc chung nhau cất lên một mái lá lụp xụp không hơn cái chòi canh dưa hay cái thum giữ cá mùa nước xuống ở quê hương mình. Dù sao cũng có chỗ che nắng che mưa, hơn nữa có bạn đồng hội đồng thuyền đêm đêm thức khuya ôn cố những chuyện tiếu lâm cười ứa nước mắt trong chuỗi ngày sống dưới chế độ hận thù xã hội chủ nghĩa. Cũng vui lây lất qua ngày tháng chờ được thanh lọc.

Trong cái chòi tạm bợ nầy gặp những đêm mưa to gió lớn nơi đảo nhỏ chơi vơi giữa biển khơi, nằm nghe phên vách rúm mình răn rắc rùng rợn lắm. Nhưng cũng nơi nầy, chúng tôi lại may mắn được anh Huỳnh Vĩnh Minh rất tâm đắc và chia xẻ. Anh là người tôi chưa hề quen biết ở Sài Gòn trước đây. Anh là nhân viên công chức công ty điện lực, khi đi có đem theo vợ và ba đứa con gái ở tuổi ‘cặp kê’. Anh Minh lúc gặp và ở chung với chúng tôi tuổi độ năm mươi, người phốp pháp, ăn nói rổn rảng nhanh lẹ, tánh tình vui vẻ cởi mở. Anh có lần tâm sự với chúng tôi:


- Hồi trước ở Việt Nam, tôi có thọ giáo một vị sư già (xin miễn dấu tên vì lúc đó vị chân tu nầy còn ở tại Sài Gòn không tiện tiết lộ danh tánh). Ông thương mến và tận tình chỉ dạy cho tôi những cái lắc léo trong khoa bói toán, tử vi đầu số. Ông hết lời căn dặn, khuyên tôi không nên và không bao giờ khai thác lãnh vực huyền bí nầy để làm điều xằng bậy, thủ lợi cá nhân, làm giàu bất chánh mà trái lại nên giúp người, cứu người mỗi khi họ nhờ đến.


Anh còn cho biết thêm:

- Chính thầy tôi khẳng định như ba bó vào một giạ là sau nầy ra xứ người, tôi còn có dịp ăn nên làm ra, cơ ngơi sự sản đáng kể. Thầy tôi không nói rõ ra nhưng tôi hiểu là tôi sẽ còn dịp làm giàu ở xứ người. Vì vậy tôi mới mạnh dạng quyết định ra đi… vừa có cuộc sống tự do thoải mái, vừa vượt thoát khỏi ngục tù khắc nghiệt của cộng sản.


Một hôm, sau mấy tháng thất vọng, mòn mỏi đợi chờ tin mừng chẳng đến, chúng tôi bắt đầu chán nản nên có nhờ anh xem đường tương lai của chúng tôi ra sao, nhứt là ngày chúng tôi được bốc đi khỏi đảo. Cái ngày nầy rất quan trọng vì là nỗi canh cánh lo âu đối với chúng tôi từng giây từng phút. Ngày ngày trông chờ nó. Đêm đêm chập chờn vẫn thấy nó. Do ở đảo bắt đầu đã có những triệu chứng bịnh dịch tả chết người tràn lan với một tốc độ quan ngại. Hôm nay một người chết còn nằm trùm chăn trùm chiếu, chưa kịp chôn. Ngày mai tiếp theo hai ba người trong tang khó chung của người đồng cảnh ngộ. Và cứ tiếp tục hằng ngày… Trên một cánh đồi trọc không to lớn lắm chỉ cách bãi biển nơi chúng tôi đang trú ngụ độ chừng vài trăm thước là cùng, chúng tôi đã thấy lố nhố rất nhiều nấm mộ đất xan xát nhau, cỏ dại chưa kịp mọc lên. Còn nỗi thấp thỏm nào hơn đối với chúng tôi lúc nầy, khi cái chết nhanh chóng không thuốc men luôn luôn chập chờn lờn vờn trước mắt. Anh Huỳnh Vĩnh Minh vui vẻ nhận lời gỡ rối cho chúng tôi qua những lời phân tích lạc quan của anh, đến nay chúng tôi còn nhớ rõ như mới ngày hôm qua:


- Anh chị an tâm, sẽ đi tới đây thôi. Tôi bấm tay thấy rõ lắm. Anh chị cứ yên chí lo sắp xếp mọi việc là vừa...

Anh tiếp tục căn dặn với những lời đầy ấp tình thương, đến giờ phút nầy chúng tôi không bao giờ quên:

- Nhưng tôi có lời khuyên thân tình nầy lưu ý anh chị. Trước đây nhiều lần anh chị có bảo khi đến Pháp, anh chị định khai thác một nhà hàng xem như phương tiện sinh sống. Nhưng tôi khuyên anh chị nên bỏ ý định nầy mà nên để tâm lo củng cố cái nền tảng chắc chắn trước để lo tương lai con cái. Tôi không thấy viễn ảnh một nhà hàng nào trong cuộc đời tương lai của anh chị. Anh chị nhớ lời dặn của tôi.


Chúng tôi còn hoang mang khi anh chưa nói rõ ngày ra đi của chúng tôi nên yêu cầu anh phân tích sâu hơn:

- Anh nói chúng tôi sẽ đi sắp tới đây nhưng đi chừng nào? Ngày nào? Tháng nào? Năm nào đây? Anh có thể nói rõ hơn không? Chúng tôi nghe anh nói thì thú thật cũng mừng vui lắm vì mình đã có một lối thoát, một hy vọng để bám víu vào, nhưng thú thiệt với anh, chúng tôi chưa vui mừng trọn vẹn.


Sau nhiều lần gạn hỏi và thuyết phục, anh không nỡ từ chối:

- Tôi thấy anh chị chắc chắn sẽ nhận được tin mừng vào ngày 12 tháng 11 tới (1979) và anh chị sẽ khởi hành đúng vào ngày hôm sau. Nhanh lắm đó anh chị. Bây giờ anh chị vừa lòng hả dạ chưa?

Anh Huỳnh Vĩnh Minh ấn định dứt khoát cho chúng tôi cái ngày 12/11/1979. Như anh đã quăng cho chúng tôi cái phao khi chúng tôi đang chới với mòn mỏi chờ trông một vị ân nhân rộng tay đến cứu vớt. Chúng tôi trông đứng trông ngồi. Trông ngày trông đêm. Trông từng giờ từng phút. Ngày mong ngày sớm qua mau. Đêm ngủ thức giấc cũng thấy con số 12 chập chờn trong trí. Qua tháng 11 lại càng hồi hộp hơn. Thời gian lúc ấy sao qua quá chậm, đôi khi tưởng chừng như ngừng hẳn đối với chúng tôi, qua những công việc nhàm chán hằng ngày. Rồi cái ngày chờ mong ngóng đợi phải đến đã đến trong vui mừng khấp khởi khó tả thành lời. Hy vọng của chúng ấp ủ từ lâu, nay sắp thành sự thật chăng?


12.11.1979…


Mãi đến tám, chín giờ đêm mỏi mắt trông chờ ngóng đợi vẫn im re phăng phắc. Không có một tin nào đến từ cái loa độc nhứt nơi văn phòng của Ban Đại Diện người tỵ nạn trên đảo. Càng đi sâu về đêm, sự im lặng càng trở nên nặng nề khó thở, thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng hắc dài nhẹ nhàng kín đáo của vợ chồng chúng tôi. Lo lắng, chờ đợi… rồi đợi chờ, lo lắng... Nhưng chúng tôi đắn đo tế nhị, tới lui lui tới mãi trong gian chòi chật chội, không dám hở môi hỏi anh Minh một lời, chỉ sợ xúc phạm đến lòng tự ái của anh. Từng chập, chúng tôi liếc nhìn trộm vẫn thấy anh nằm im bất động không nói một lời nào. Không khí trong chòi có vẻ căng thẳng khác thường, trái hẳn với mọi đêm thường rộn rả tiếng nói cười. Bỗng đứa con trai trưởng của chúng tôi lúc đó khoảng mười, mười một tuổi chắc cũng nóng ruột sao đó nên cất lời hỏi anh Minh:


- Bác Minh ơi! Bác nói gia đình con hôm nay chắc chắn nhận được tin mừng. Sao đến giờ phút nầy, đã hơn chín giờ tối rồi mà không nghe động tịnh chi cả bác?


Nó còn nhắc anh:

- Đâu bác coi lại thử xem bác.

Nằm ở sàn đất trên tấm phên chà là vuông vức vừa đúng mặt bằng một cái giường ngủ cho cả gia đình, anh Minh vẫn không lộ vẻ gì lo âu, trái lại anh rất tự nhiên đáp:

- Chưa có hết ngày mà! Mới chín giờ hơn, còn những mấy tiếng đồng hồ nữa mới tới mười hai giờ. Lúc đó mới hết ngày. Cháu đừng có nóng, cứ chờ xem…

Anh lại vui tánh nói:

- Cháu cứ bảo mẹ cháu an tâm đi nấu ngay một nồi chè thết đãi bà con ở đây là vừa. Mình vừa ăn chè vừa chờ đợi tin mừng, không còn thú vị nào hơn. Cháu tin nơi bác đi.


Để khuây khỏa và bớt căng thẳng, tiện nội lui cui nấu nồi chè đậu xanh. Đậu thì ít nhưng nước lỏng bỏng thì nhiều. Đường cũng mắc giàn trời giàn đất vì hiếm hoi do nạn người Hoa khi lên được đảo tung tiền mua mão những tàu tiếp tế để sau đó khống chế giá cả nên chắc nồi chè hôm đó cũng lờ lợ thôi. Ở đảo lâu ngày, ăn uống thiếu thốn chất bổ dưỡng, nhứt là chất ngọt nên ai ai cũng thèm khát. Ăn chè khuya dù là chè lỏng bỏng lờ lợ nhưng ai cũng khen ngon do bụng dạ mãi cồn cào vì đói triền miên. Trong lúc mọi người không vui cũng trở thành vui, quay quần bên nhau nói cười không dứt thì bỗng nghe tiếng loa khếch đại giữa đêm khuya kêu gọi đúng tên chúng tôi lên trình diện văn phòng đại diện đảo ngay. Vì lúc đó có một nhân viên tòa đại sứ Pháp từ Jakarta, thủ đô của Nam Dương tháp tùng tàu Ile de Lumière vừa mới đến bỏ neo ở đảo muốn gặp chúng tôi. Những nhân viên ngoại giao nầy làm việc liên tục bất chấp giờ giấc, không kể đêm ngày. Họ làm việc tùy theo giờ đến và đi của tàu. Lúc ấy khoảng mười một giờ đêm. Ôi! Còn nỗi vui mừng nào hơn của những người sắp đi cũng như những người không may còn ở lại. Mấy tháng chung sống quây quần chung dưới một mái “nhà” êm ấm tình thương đồng cảnh ngộ, cùng nhau chia xẻ biết bao kham khổ, giờ đây kẻ đi người ở không còn gì buồn cho bằng. Ngày tạm biệt chia tay chỉ trong giờ phút ngắn ngủi sắp tới.


Anh Huỳnh Vĩnh Minh đã đoán trúng một trăm phần trăm ngày chúng tôi rời đảo Kuku để hôm sau lên tàu Cap Anamur của Đức trực chỉ đảo Galang. Thật là một phép lạ. Ngụ tạm ở đây một đêm ngắn ngủi trong một trại vách cây lợp mái thiếc chắc vừa mới dựng xong còn thơm thơm mùi cây mùi dầu sơn để sáng ra đáp tàu đò của chánh quyền Nam Dương trực chỉ tỉnh lỵ Pinang. Rồi từ đây chúng tôi được đưa lên máy bay như con mèo ướt để đi Jakarta làm thủ tục nhập cảnh Pháp. Anh Huỳnh Vĩnh Minh đã tiên đoán trước ngày đi của chúng tôi rất lâu, cả vài tháng. Chúng tôi biết nói gì đây khi đứng trước một sự thật, dù là sự thật khó hiểu, khó giải thích nhưng không sao phủ nhận được. Đối với chúng tôi quả là một huyền bí!


Phận mình xem như đã an bày, chúng tôi không sao không nghĩ đến hoàn cảnh gia đình anh. Không biết ngày nào anh sẽ hưởng những giờ phút hạnh phúc tột đỉnh như của chúng tôi hôm nay. Bất giác trong tâm cảnh đó, chúng tôi buông lời hỏi anh:


- Còn anh thì sao anh Minh? Chừng nào anh đi đây?

Anh vui vẻ đáp ngay:

- Còn mù mờ lắm! Tôi chưa thấy chi cả. Chắc phải chờ thêm một thời gian nữa. Thôi, đi được người nào mừng cho người nấy. Mình đã thoát chết ở biển, thế nào mình cũng có ngày gặp lại nhau.
Không lâu sau, khi chúng tôi định cư ở miền Bắc Pháp, chúng tôi có nhận được thư anh báo đã đến Californie, Hoa Kỳ. Anh cũng đã ổn định cuộc sống mới và tôi nghĩ chắc anh cũng sẽ có một cuộc sống thoải mái “ăn nên làm ra” như lời tiên đoán ngày nào của vị chân tu, bậc thầy trọng kính của anh.

**



Đến đây, chúng tôi xin được nhắc nhớ thêm trong “hồi ký” khó tin nầy bằng một kỷ niệm của thời thanh xuân, lúc chúng tôi chập chững bước vào đời. Thuở đó, chúng tôi gặp tiện nội trong hoàn cảnh hy hữu của định mệnh. Nói hy hữu của định mệnh vì mối tình trong sáng trong giới hạn lễ giáo cổ truyền của chúng tôi gặp khá nhiều chông gai chướng ngại do những thành kiến quá khắc khe của một thời đang trên đà suy thoái để sau đó đi đến tàn tạ. Dù vậy, chúng tôi cũng quyết định nhanh chóng đi đến thành hôn, nhằm chấm dứt ngay bầu không khí không được lành mạnh chung quanh mình. Niềm vui hạnh phúc cũng như nỗi buồn bất hạnh của mình đôi khi không phải do chính mình tức những người trong cuộc chủ động gây ra, mà thực tế phần lớn lại do ngoại nhân, những người vô trách nhiệm hoặc có ác ý tạo nên. Việc thành hôn quá nhanh chóng của chúng tôi không biết có phải do chúng tôi chịu ảnh hưởng sâu đậm của những bậc tiền bối trong quảng đại quần chúng:

“Lấy vợ phải lấy liền tay, Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha” chăng? Ngặc một nỗi là tiện nội sanh nhằm tuổi dần, tuổi con cọp nên trong bà con thân tộc và bạn bè lắm lời nói ra nói vào thêm nhức óc nhức đầu. Mà ở đời, hạnh phúc cá nhân hay của đôi lứa nếu không sáng suốt, không khéo xử sự đúng mức sẽ bị tác động tai hại bởi miệng lưỡi thế gian vô trách nhiệm, như chúng tôi đã từng nhập tâm cảnh giác. Chúng tôi đã yêu nhau và yêu nhau thực sự thì sá gì mệnh tuổi! Sá gì khắc kỵ! Ông vua Anh quốc ngày xưa đường đường trên bệ ngọc còn không ngần ngại từ bỏ ngai vàng, từ bỏ cuộc sống vương giả nhung lụa gây chấn động toàn thế giới để cưới một người đàn bà đã từng ly dị và có con riêng, thì không lý gì chỉ vì “tuổi dần”, tuổi con cọp, con cọp hiền hòa mà chúng tôi phải chia tay nhau sao? Dù vậy, mẹ chúng tôi cũng lén lút không cho chúng tôi biết, tìm đến cầu cứu một bậc trưởng thượng có uy tín trong vùng về khoa “xem tuổi” xấu tốt trong việc dựng vợ gả chồng.


Ông ở tận trong vùng sâu, quá lằn ranh vùng xôi đậu nên đường đi nước bước rất khó khăn, nguy hiểm là khác. Vì lúc đó cộng sản Bắc Việt đã thành công dựng lên bức bình phong Mặt trận Giải phóng Miền Nam để gạt gẫm người trong nước và cả quốc tế. Chúng đã phát động những chiến dịch khủng bố người dân lương thiện và thanh toán nhân viên làng xã không chấp nhận đi theo chúng. Mời thỉnh được ông là cả vấn đề nhiêu khê, nếu không có tình thương yêu mẫu tử cao vời vợi thì chắc mẹ chúng tôi không bao giờ dám mạo hiểm dấn thân.


Mẹ chúng tôi sau nầy có thuật lại và xác nhận chỉ biết ông là ông Cả ngày xưa xa lơ xa lắc trong làng, như người dân quanh vùng có thói quen gọi ông, chớ không rõ danh tánh chánh thức của ông. Không biết môn phái của ông ra sao, nhưng thấy ông mỗi lần xuất hành đi đó đi đây thường chít khăn đỏ trên đầu tóc bạc trắng như bông bưởi. Ông bấm tay rồi chậm rãi báo cho mẹ chúng tôi biết hai cái tuổi của chúng tôi, mặc dầu tiện nội tuổi dần, không sao cả. Bổn mạng hai bên cực kỳ tốt, sẽ ăn đời ở kiếp với nhau. Thỉnh thoảng nếu có hục hặc cãi cọ cũng thoáng qua do khắc khẩu, không có gì phải quan tâm lo lắng. Khắc khẩu để làm sáng tỏ một ý kiến bất đồng, để tìm một hướng đi thống nhứt. Và sau bao nhiêu sóng gió cuộc đời, dâu biển lắm phen, chúng tôi vẫn thương yêu quấn quít bên nhau như thuở thanh xuân ở những ngày đầu gặp gỡ cho đến ngày nay, cả hai chúng tôi đều qua cái tuổi “thất thập cổ lai hy” và sắp tổ chức ăn mừng năm mươi năm ngày thành hôn. Lâu lắm về sau, để phát triển cơ sở làm ăn, chúng tôi có tạo dựng được một căn phố khang trang ở trung tâm Sài Gòn. Chúng tôi bèn nghĩ ngay đến nhờ ông, trong khi ông quá lớn tuổi trở nên lụm khụm, đi đứng khó khăn.


Dù vậy, ông vẫn không từ chối lời thỉnh cầu của chúng tôi để đích thân đến tận nơi giúp chúng tôi ý kiến và những lời khuyên bảo chí tình. Tôi xin mở dấu ngoặc ở đây để nhắc sơ lược lịch sử của căn phố khá đặc biệt nầy. Khi chúng tôi quyết định tạo nó, chúng tôi không hề quan tâm để ý đến những gì xảy ra trong quá khứ về nó. Chúng tôi chỉ biết đây là một quán ăn sang trọng, địa thế thuận lợi, trang trí trình bày tân kỳ theo kiểu cách Tây phương. Chủ nhân chắc làm ăn không khá lắm nên đành buông tay, xoay qua nghề khác. Nhưng khi chúng tôi chân ướt chân ráo mới dọn về ở thì những người lối xóm bắt đầu đi qua đi lại dòm ngó, to nhỏ xầm xì với nhau. Họ cho rằng chúng tôi không thể nào giữ vững căn phố nầy lâu dài được, vì trước đó hầu như cứ đôi ba năm là có sự thay đổi chủ mới. Theo họ thì căn phố lắm điều lắm chuyện nầy có một tiền sử không mấy tốt đẹp.


Có người còn quả quyết, cho biết trước đó khá lâu vào thời kỳ quân đội viễn chinh Pháp mới qua tái chiếm Miền Nam sau thế chiến thứ hai, căn phố đã được “lính kín” (tức công an sau nầy) Pháp trưng dụng dùng làm nơi giam giữ và tra tấn người. Có người đã chết ngay trong căn phố. Chúng tôi biết được nguồn tin bất lợi nầy thì đã quá muộn. Ông Cả đến quan sát khắp nơi từ trong ra ngoài. Ông xem cả phương hướng rồi quay lại hỏi kỹ một lần nữa tuổi tác của vợ chồng chúng tôi. Xong ông kết luận:


- Tôi không thấy gì đáng quan ngại cả. Hai cháu cứ giữ căn phố nầy, vì đây chính là cuộc đất hai cháu sẽ vương lên đến tột đỉnh của danh vọng và tiền tài.

Ông lại giải thích thêm:

- Hai cháu cần lưu ý điều nầy. Ở nhà sau, gần sát vách nhà có một cái mả mà hồi xây cất dãy phố, người ta quên lấy cốt hay lấy cốt sót. Chính nơi đó, bấy nay hai cháu đã đặt giàn bếp, ngày ngày nung đốt làm sao người khuất mày khuất mặt chịu nóng cho nổi? Vậy hai cháu nên dời ngay giàn bếp qua phía bên kia, phía đối diện là ổn. Sẽ không có ai phá phách chi cả. Hai cháu sẽ an tâm làm ăn.

Mà quả thật vậy. Chính nhờ căn phố nầy chúng tôi làm ăn phát đạt một thời, mãi cho đến ngày “sạt nghiệt trắng tay” như lời tiên đoán trước đây của anh Đồng Tuy, rồi vượt biển cứu lấy thân sau ngày cờ đỏ lên ngôi trên toàn lãnh thổ Miền Nam. Hôm nay, nhơn nhắc nhớ kỷ niệm nầy, chúng tôi xin hồi hướng nhìn về quê nhà để tưởng nhớ và tri ân ông Cả, nay chắc đã yên mồ yên mả đâu đó trên chéo đất vườn nhà. Chúng tôi cũng không quên xin cám ơn ông đã có lòng yêu thương, ưu ái tặng cho chúng tôi một “bao thư” nhỏ cở phong bì danh thiếp, không biết ông gói ghém những gì trong đó. Nhưng ông căn dặn chúng tôi đừng thái mái tò mò mở ra xem, mà chỉ để cẩn thận trong tủ thu tiền.

 Giản dị có thế thôi. Ông đảm bảo chắc chắn mỗi ngày đều có tiền vào ngoài sức tưởng tượng ước mong, không bao giờ chúng tôi sợ đói vì thất thu. Chúng tôi nghiệm ra đây quả là “gói bùa” mà bàng dân thiên hạ thường gọi. Việc nầy thật khó hiểu, khó tin đối với người ngoại cuộc, nhưng đối với chúng tôi là cả một nguồn hạnh phúc vô biên. Chúng tôi hoàn toàn hài lòng vì từ dạo đó, công việc làm ăn của chúng tôi phát triển tốt đẹp. Thu nhập xem như đảm bảo thường xuyên. Đến khi lên đường vượt biên, chúng tôi thu gọn vật dụng tối cần thiết để mang theo do cồng kềnh sợ bị bại lộ. Bỏ gì thì bỏ, nhưng chúng tôi nhứt định phải mang theo “bao thư đắc tài đắc lộc” mà ông Cả đã thương mến tặng vợ chồng chúng tôi ngày nào. Rất tiếc bọn hải tặc Thái Lan đã cướp sạch sành sanh những gì chúng tôi mang theo, nên khi đến đất lạ quê người, chúng tôi phấn đấu làm lại cuộc đời, tìm đồng tiền sinh sống cũng khá trần thân khổ ải.



**


Thiên “hồi ký” khiêm nhường nầy có thể sẽ gây nhiều thắc mắc, hoài nghi hay hiểu lầm trong quảng đại độc giả đối với những vấn đề huyền bí linh diệu về bói toán, tử vi, xem tướng số, chỉ tay v.v... Vẫn biết trong thực tế có người tán đồng, nhưng cũng có người không hẳn tin. Dù sao cũng phải nhìn nhận rằng, trước 1975 ở quê nhà hay sau nầy cộng sản có cấm đoán, truy lùn trừng phạt ngặc nghèo đi nữa, nhưng tập quán trên đây không có gì lạ cả. Trái lại, chính là một lối sống, một thói quen, một tập tục trong đời người dân, không phân biệt giai tầng xã hội. Chúng tôi nghĩ nó sẽ được duy trì dài lâu trong tương lai.

 Nhứt là trong hoàn cảnh xác xơ đói nghèo, triền miên trong kềm kẹp mất tự do hiện nay ở quê nhà, người dân đa số sống bấp bênh không phương hướng, không tương lai, họ càng tìm nguồn an ủi vỗ về trong hy vọng và tin tưởng nơi cõi huyền bí linh thiêng để bám víu sống còn. Mà theo một học giả người Pháp tôi có đọc đâu đó nay chỉ nhớ ý chánh thì hy vọng để có niềm vui chính là niềm vui thật sự. Cũng như con người một khi sợ hãi trước đau khổ là chính họ đã đau khổ rồi. Không riêng gì ở Việt Nam mà ngay tại các nước tân tiến Âu Mỹ, hiện tượng hướng về những gì huyền bí linh thiêng vẫn không thôi phát triển với nhiều thủ thuật khoa học khác nhau tùy người hành nghề.

Và những tín đồ trung thành ở các nước nầy không phải ít. Như vậy, chúng tôi nghĩ tập tục có tính phổ cập toàn cầu nầy không phải do trình độ dân trí cao thấp mà chính do dân tâm mà ra. Còn nói gì ở các xứ đang trên đà phát triển, chẳng hạn như Phi Châu, có lẽ đó là cuộc đất màu mỡ béo bổ cho những người dấn thân hành nghề nầy để thủ lợi. Riêng phần chúng tôi, chúng tôi xin xác nhận rõ quan điểm của mình là không bao giờ và chẳng bao giờ chúng tôi có ý định cổ võ hay khuyến khích. Chúng tôi chỉ muốn trình bày trung thực những sự việc và tình tiết mà chính chúng tôi là người trong cuộc. Chúng tôi cũng từng băn khoăn tự hỏi lòng, không biết vì sao và do những nguyên do linh diệu nào, những ân nhân của chúng tôi đã tiên đoán đúng những gì họ đã tiên đoán về chúng tôi.


Để kết thúc, chúng tôi xin nhắc lại ở đây một kỷ niệm của anh Tạ Tỵ, một họa sĩ, vừa là thi sĩ và nhà văn tên tuổi trong chốn văn chương chữ nghĩa trong nước trước 1975 cho đến sau nầy khi ra hải ngoại. Trong một hồi ký về những văn nghệ sĩ đã đi qua đời anh, anh đã ví von từng bước dìu dắt chúng ta trầm mình trong giai thoại khá lý thú sau đây:


“Ở Sài Gòn, còn một người tôi quý mến lắm, đó là học giả kiêm nhà văn Nguyễn Hiến Lê. Trước khi mất Miền Nam vào tay Cộng sản, tôi và Nguyễn Hiến Lê ít có dịp gặp nhau, trừ vài lần ở tòa soạn Bách Khoa và một lần tại nhà, tôi đi cùng Lê Ngộ Châu đến vẽ chân dung anh. Nhưng từ ngày tôi được tha về, tôi và anh thường gặp nhau. Lúc đầu, anh cũng hiểu lầm về Cộng sản, nhưng sau khi sống dưới chế độ đỏ một thời gian, anh nhận biết ngay, Cộng sản cũng chẳng thần thánh gì, nên anh sống ẩn dật tại tòa biệt thự riêng ở đường Kỳ Đồng. Anh nghiên cứu Tử Vi. Một hôm, tôi bảo anh đoán hộ xem số tôi có đi được không? Sau một hồi tính toán, suy luận, anh đoán chắc theo lá số, tôi không vượt biên được, đừng có bỏ tiền cho chủ tàu, mất oan, lại có thể bị tù tội nữa! Tôi nghe, trong lòng thấy chán nản. Nhưng đã quả quyết, thà chết giữa đại dương còn hơn sống với Cộng sản, nên tôi nói:

- Anh ơi, nhiều khi đức thắng số đấy!

“Anh nhìn tôi trầm ngâm muốn nói điều gì nhưng lại thôi. Kể từ buổi đó, khi gặp lại, không bao giờ tôi nói đến chuyện vượt biên nữa, chỉ nói chuyện tào lao cho vui. Tôi không hiểu, khi nhận được tin tôi đã vượt biên và qua Mỹ, anh có nghĩ gì không? Chỉ biết, trước lúc mất, anh đã nhắc tên tôi ba lần theo thư của Trần Phong Giao gửi qua cho biết. Nguyễn Hiến Lê đã mất, nhưng anh để lại cho đời rất nhiều công trình văn hóa giá trị”.


Chúng tôi muốn nhắc đến hồi ký của anh Tạ Tỵ chẳng qua để nói lên một điều xem như đoạn kết luận của chúng tôi. Một kết luận không phần khẳng định. Giờ đây, tin hay không tin tùy thuộc ở mỗi người, tùy suy nghĩ và nhận xét của từng cá nhân. Riêng về phần chúng tôi, dù trước đây không hẳn tin, nhưng bây giờ chúng tôi vẫn phải tin. Đơn giản chỉ vì một lý do duy nhứt, chính mình là người trong cuộc.

14/10/2011


-***-



Tình Muộn


Chuyến máy bay Boeing 747 của hãng hàng không Americain chuẩn bị cất cánh từ phi trường Los Angeles theo tuyến đường thường xuyên Hoa Kỳ-Bangkok-Việt Nam. Hoàng Hùng, Đinh Hoàng Hùng vừa sắp xếp xong túi xách tay trên bệ và đang ổn định chỗ ngồi. Anh có vẻ âu lo lúng túng, đôi khi tỏ ra vụng về vì đây là lần thứ hai trong đời anh bước lên máy bay để đi xa. Lần đầu tiên là khi anh rời đảo Palawan, trạm tạm cư ở Phi Luật Tân để sang tỵ nạn chánh trị ở Hoa Kỳ, đúng ra là thành phố Holland thuộc tiểu bang Michigan. Anh hướng nhìn cô tiếp viên hàng không trẻ trung xinh đẹp đang dịu dàng trình diễn cách xử dụng áo phao phòng ngừa khi máy bay không may lâm nạn giữa biển khơi. Tuy âu lo nhưng anh vẫn mỉm cười nghĩ thầm trong bụng, nếu trường hợp bất hạnh nầy xảy ra thì kể như cuộc đời đã kết thúc, không còn chút hy vọng mảy may nào. Từ hơn mười năm nay sinh sống nơi cõi tạm lưu vong, anh đã từng chứng kiến trên màn ảnh truyền hình không biết bao nhiêu thảm trạng máy bay trên biển cả. Hầu như lần nào tất cả hành khách vài trăm người cùng phi hành đoàn đều chung nhau số mệnh hẩm hiu làm mồi cho tôm cá nơi lòng đại dương.

Những người tốt số sống sót kể như một phép lạ trời ban nhưng rất hiếm. Anh lại nghĩ thêm, thà đừng có cảnh trình diễn đó có lẽ mình an tâm hơn, không bị ám ảnh để thanh thản ra đi. Hôm nay, bất đắc dĩ anh phải ép lòng chấp nhận trở về Việt Nam lần đầu tiên. Vì hơn mười năm trước đây khi vượt biên bằng đường biển rời Sài Gòn, anh tâm nguyện và hứa chắc với lòng mình sẽ không bao giờ trở lại quê hương. Một khi ngọn cờ đỏ máu tanh hôi của cộng sản vẫn còn phất phới ngạo nghễ tung bay trên xương máu những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, những chiến hữu kiên cường của cha anh ngày xưa đã từng hy sinh mạng sống để bảo vệ vẹn toàn từng tất đất miền Nam, cũng như trên sự đau khổ khốn cùng tột độ của đồng bào anh. Một sự dằn xé nhức nhối trong âm thầm của lương tâm khiến anh như người mất hồn, xác thân ngồi yên đó nhưng tâm tư tình cảm dẫn dắt anh về một hướng đời đầy éo le ngang trái. Cha anh là một chiến sĩ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, suốt thời gian dài binh nghiệp liên tục phục vụ trong Nha Tâm Lý Chiến. Với cấp bậc đại úy và qua những công tác nổi bậc trong mặt trận ý thức hệ chống lại chủ nghĩa cộng sản nên sau ngày cờ đỏ lên ngôi tháng Tư năm 1975, dù muốn dù không, ông không tránh khỏi những đòn thù khắc nghiệt của kẻ chiến thắng vô tâm vô hồn, dối gian lật lộng. Ông đành cam chịu nhục nhã trong lao tù cải tạo những mười hai năm trường, nhiều lần tưởng không còn có ngày trở về sum hợp gia đình, gặp mặt vợ con.


Nào dè định mệnh không đến đỗi khắc khe đối với ông nên sau cùng ông vẫn sống và sống trong danh dự, sống trong tự hào, không bao giờ biết cúi mặt, quỳ gối qui phục trục ác. Mấy hôm nay ông nhận được tin chẳng lành, mẹ ông qua đời ở Sài Gòn, nhưng ông đành chịu mang tiếng bất hiếu với người mẹ đã từng hy sinh cả cuộc đời để dưỡng nuôi và bảo bọc dìu dắt ông nên người. Ông thề không bao giờ phản bội lại lòng mình, phản bội lại đồng đội, trở mặt trở về nơi chốn đã từng hành hạ chà đạp nhân phẩm ông trước đây. Ông không còn con đường nào khác hơn là khóc mẹ nơi xa xôi, nơi đất lưu vong, quê hương thứ hai của ông. Không về được nhưng lòng ông không sao không ray rứt đay nghiến liên tiếp đêm ngày nên ngỏ ý khẩn cầu Hoàng Hùng, đứa con trưởng của ông sẽ thay thế ông về Việt Nam thọ tang mẹ. Được vậy, ông mới an tâm phần nào. Hơn nữa, Hoàng Hùng là cháu nội đích tôn của mẹ ông, xét ra cũng hợp lý hợp tình.


Nghĩ vẩn nghĩ vơ chẳng được bao lâu, phi cơ đã lên cao độ lúc nào không hay và đưa anh trở về với thực tại qua tiếng máy nổ trầm đều êm tai, cộng thêm cái lạnh rất dễ chịu trên từng không. Người nữ tiếp viên bước tới nhoẻn miệng cười duyên dáng mời và trao cho anh tờ báo Anh ngữ vừa mới phát hành ngay ngày hôm nay. Anh vội tiếp lấy tờ báo với lời lịch sự cám ơn người nữ tiếp viên. Lúc ấy anh mới có dịp để ý đến một người đàn bà đang ngồi cạnh bên mặt của anh trên cùng một hàng ghế. Bà là người đồng hương với anh vì anh để ý nghe bà nói chuyện với một bà bạn qua cái giọng «Sài Gòn» mộc mạc chơn chất quen tai. Trong khi ông khách ngồi bên trái anh là một người Mỹ, thân hình phốp pháp có vẻ bực dọc khó chịu khi phải xoay trở nơi cái ghế không được rộng rãi thoải mái so với dáng thể to lớn dình dàng của ông.


Bà đồng hương của Hoàng Hùng trông khoảng sáu mươi bảy, sáu mươi tám tuổi là cùng. Anh đoán theo con mắt kinh nghiệm của mình, nếu có sai trong nhận xét cũng không sai mấy. Con người bà phúc hậu, đẹp lão tự nhiên, mặt mày vui vẻ toát ra những nét cảm tình cởi mở của người dân «miệt vườn Nam Kỳ Lục Tỉnh» rặc nòi. Tuy nhiên, mái tóc bà cũng đã điểm bạc khá nhiều khiến anh đoán mò theo kiểu mấy tay thầy bói mù rờ mu rùa, chắc có lẽ bà cũng đã từng nếm lắm đắng cay cuộc đời, đã trải qua khá nhiều tháng năm phong trần nghiệt ngã. Vì anh nhớ rành rọt ông bà anh ngày xưa thường hay nói «tâm sầu bạch phát», đầu bạc chẳng qua vì có nỗi buồn chất chồng dai dẳng trong lòng. Đối với những người mất gốc quên cội nguồn, tình đồng hương lạnh tanh còn hơn những tảng băng miền cực Bắc nên họ thường ngoảnh mặt không nhìn nhau chào hỏi khi có dịp đối mặt. Trái lại nếu là một người còn nặng tình dân tộc, nghĩa đồng bào thì họ không thể trơ mắt ếch nhìn nhau như người xa lạ. Còn gì đau buồn cho bằng những cảnh chướng mắt làm ngơ, nhứt là ở nơi quê người xứ lạ, mà sự gần gũi đến với nhau giữa tình đồng hương sẽ mang cho nhau một thoáng ấm áp vỗ về.


Hoàng Hùng bắt đầu ướm lời làm quen qua lời chào hỏi kính lão thân tình của truyền thống dân tộc, xét ra ít có một dân tộc nào trên thế giới có được trong bối cảnh xã hội đua đòi chạy theo vật chất tiền tài và danh vọng hiện tại. Vì thái độ nầy chẳng qua là một thói quen của anh từ những ngày còn thanh xuân nơi quê nhà, nhờ lề lối giáo dục của gia đình, chớ không có gì mới lạ đối với anh. Chỉ cần một ánh mắt ưu ái niềm nở, một lời nói thật thà ngay tình hay một nụ cười thân thiện cởi mở thể hiện trên gương mặt tươi vui hiếu khách, sẵn sàng mở rộng vòng tay cũng đủ giúp họ xích lại gần nhau, làm như họ đã quen nhau từ lâu lắm rồi. Từ đó, câu chuyện giao duyên giữa bà khách đồng hành và anh bắt đầu rĩ rã nho nhỏ bằng ngôn ngữ mẹ đẻ chan chứa âm điệu nhẹ nhàng bổng trầm ngày xưa của những bà mẹ ru con trên chiếc võng lắc lư vào những trưa hè để tránh sự tò mò hay bực mình của những người ngoại quốc ngồi chung quanh. Bà mỉm cười cho biết bà tên Đống Thị Thảnh, một dòng họ khá hiếm hoi ở Việt Nam cũng như các họ Xiêng, họ Cù, họ Ủ, họ Trang…


Có lẻ tổ tiên xa lắc xa lơ của bà thuộc gốc gác những bộ lạc thiểu số miền núi rừng vùng cao nguyên Hoàng triều cương thổ hay biên giới Việt Hoa chăng? Bà đoán mù mờ như vậy, chớ lúc mẹ cha bà còn sinh tiền bà chưa một lần đặt câu hỏi về dòng tộc mình để biết đích xác. Giờ thì đã muộn rồi. Hiện nay bà đang ổn cư, sinh sống ngay trung tâm thành phố Sacramento, một thành phố không mấy giàu có ở tiểu bang California so với những thành phố tiếng tâm khác, theo như nhận xét khách quan của phần đông bà con tỵ nạn Việt Nam ở Hoa Kỳ. Rồi từ đó bà bắt đầu tâm tình kể lể với Hoàng Hùng về cuộc đời không mấy bình thường của bà và gia đình:


- Tôi có chồng là sĩ quan cấp tá trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Cuộc đời làm vợ người lính thường xuyên chiến đấu ngoài mặt trận, như cháu thấy lúc nào cũng lo âu hồi hộp không biết một sớm một chiều mình trở thành góa bụa lúc nào không biết. Sống chết tử sinh hay thương tật để trở thành phế nhân của người chiến sĩ không ai có thể đoán trước được. Ấy vậy, nhà tôi lại được ơn trên phù hộ, tên đạn quân thù chê, mặc dù bao lần bị thương trong những trận đụng độ khốc liệt ở khắp bốn vùng chiến thuật. Nhưng nhờ bị thương không mấy trầm trọng có thể nguy đến tánh mạng nên sau những tháng ngày dưỡng thương ổng trở lại chiến trường tiếp tục chiến đấu ròng rã cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975 buông súng tan hàng theo lệnh đầu hàng của tổng thống chủ bại Dương Văn Minh. Sau cùng ổng bị đám cộng sản hiếu chiến miền Bắc, gian manh lật lộng gạt gẫm kêu gọi đi trình diện học tập cải tạo mười ngày để vĩnh viễn làm kẻ tù đày nhục nhã tận miền núi rừng điệp điệp trùng trùng nơi biên giới Hoa Việt...


Bà bỗng ngừng kể câu chuyện đã xưa hơn mười lăm năm qua để sau đó tiếp tục trong ngấn lệ nghẹn ngào:

- Ông nhà tôi tướng tá cao ráo, vậm vỡ khoẻ mạnh lắm, không khác những nông dân vùng sông nước miền Nam, chắc cũng do được trui rèn trong những nghịch cảnh trước 1975, khi phải băng rừng lội suối không ngừng nghỉ từ Cao nguyên miền Trung cho đến đồng bằng sông Cửu Long. Ấy vậy, ổng không chịu nổi cảnh đọa đày khắc nghiệt của cộng sản. Sống còn hơn loài cầm thú, đói khát cùng cực, lao động khổ sai do những trận đòn thù của kẻ chiến thắng vô hồn. Đến một hôm cuối năm trong khi gia đình chuẩn bị ăn thêm một cái Tết nghèo, tôi như người mất vía ngã quỵ trước thềm nhà khi nhận được lá thư tay do một người bạn tù tính cẩn may mắn hơn được cộng sản trả tự do mang đến. Ông nhà tôi viết vội những lời trăn trối cuối đời, chắc lúc đó ổng nghĩ mình không còn đủ sức lực để níu kéo cuộc sống thêm nữa. Thơ đến tay tôi tính ra chậm hơn cả bốn tháng trường kể từ ngày viết thư, tôi tin ông nhà tôi qua đời trong đói lạnh và được bạn bè bó xác đem chôn tạm đâu đó quanh trại tù chỉ ít lâu sau thôi.


Giọng bà thêm dàu dàu nức nở:

- Thư chỉ vắn tắc có năm bảy câu sút tích tròn đầy ý nghĩa bằng bút chì. Có lẽ do ổng cẩn thận không muốn bạn mình phải gánh chịu khổ hạnh khi bị bọn quản giáo lục xét kỹ lưỡng một khi được trả tự do. Mà chắc cũng do xúc động cực độ khi phải viết lên trong nước mắt âm thầm những lời từ biệt những người thân thương nhứt đời mình chăng? Hôm nay, nhắc đến đây, tôi càng thêm thương ổng biết dường nào!


Bà bồi hồi nói tiếp:

- Tôi rất cám ơn anh bạn tù nầy đã giám hy sinh và chấp nhận nguy hiểm để giúp bạn đồng đội đồng cảnh bất hạnh được toại nguyện lúc đường cùn, sắp lâm chung. Mà thư vỏn vẹn tôi vẫn nhớ rõ sau hơn mười mấy năm qua không thể nào vô tâm quên được: «Thôi hết rồi em ơi! Định mệnh ngang trái không cho anh về sum hợp gia đình. Em đừng lo cho anh và dù sao cát bụi cũng trở về với cát bụi. Em phải lo thu xếp đưa con ra ngoại quốc sinh sống để nó được nên người. Hãy can đảm, đừng quyến luyến chi cả. Hôn mẹ con em. Vĩnh biệt! Vĩnh biệt!».


Hoàng Tùng nãy giờ ngồi im, lắng tai nghe bà Thảnh kể lể tâm sự đắng cay của mình như để tôn trọng người đàn bà có quá nhiều nỗi đau thế kỷ. Đến đây anh bắt đầu trao đổi với bà sau những phút giây bà im lặng dường như để lắng đọng tâm tư tình cảm mình. Chuyến máy bay chắc cũng đã bay khá xa rồi theo với thời gian dong dài kể chuyện của bà. Anh bắt đầu hỏi chuyện:


- Chẳng hay hôm nay bác về Việt Nam chắc để du lịch sau nhiều năm xa cách quê hương bản làng?

- Chèn ơi! Từ ngày mẹ con tôi vượt biên thành công để tỵ nạn ở Hoa Kỳ đến nay, tôi hẹn với lòng không bao giờ trở lại Việt Nam, dù một lần trong khoảng cuối đời. Nhà tôi đã chết không một nấm mồ ấm cúng lại không biết vùi thây nơi nào sau bao năm mưa dập gió vùi. Tôi làm sao còn có lương tâm chường mặt đặt chân trở lại đất nước mình một khi cờ đỏ còn phất phới đó đây như thách thức niềm đau cũ, khi bọn đồ tể cường quyền làm băng hoại cả đất nước và dân tộc mình. Còn nói chi đến du lịch mang «áo gấm về làng» khoe khoan chòm xóm làm cho tôi thêm đau đớn rùng mình.

- Xin lỗi bác, tôi đã vô tình hay quá vô duyên khơi dậy niềm đau nơi bác. Rất mong được bác rộng rãi thứ lỗi cho tôi vì đã lỡ đường đột vô ý thức.

- Không đâu cháu. Tôi chẳng chấp nhứt gì. Cháu cứ tự nhiên đừng ái ngại chi cả. Gặp được cháu, có bầu có bạn, dù là bạn vong niên tình cờ gặp gỡ cũng là niềm vui trong chuyến bay đường trường diệu viễn nầy.


Bà nói tiếp qua gương mặt hân hoan, qua lời nói trong ấm, không thể tưởng tượng được ở người phụ nữ sắp bước thẳng vào tuổi «thất thập cổ lai hy»:


- Thú thiệt với cháu, hôm nay tôi quyết định trở về Việt Nam một cách miễn cưởng chẳng đặng đừng. Số là tôi có một đứa con trai duy nhứt. Hiện nay nó là một sĩ quan trong quân lực Hoa Kỳ. Nó đang có nhiệm vụ nguy hiểm tác chiến để bình định tận Irak xa xôi. Tôi ở nhà thui thủi một mình, lại cũng lo âu hồi hộp như ngày xưa đối với ông nhà tôi. Cháu thấy có khổ tâm cho tôi hay không, suốt một đời không bao giờ được sống trong thanh thản an bình. Ngặc một nỗi con tôi ưng tiếp tục noi gương cha nó dấn thân vào đời binh nghiệp làm lẽ sống, nhằm bảo vệ tự do và hạnh phúc mọi người. Dường như nó có cái máu nhà binh cuồn cuộn sôi sục lưu thông trong huyết quản của nó vậy.



Nói đến đây bà cười ngỏn ngoẻn vừa đủ cho hai người nghe:
- Tôi về Việt Nam lần nầy là lần thứ nhất từ ngày bỏ nước ra đi và hẳn nhiên cũng là lần sau cùng trong đời. Lý do là gần đây tôi vừa nhận được tin tức của một số chiến hữu cũ của chồng tôi trong binh chũng nhảy dù đi tìm xác chết của đồng đội chẳng may bỏ mình trong các trại tù cộng sản ở miền Bắc. Họ cho biết khá chính xác nơi vùi thây của chồng tôi. Con tôi vì nhiệm vụ chiến trường và cũng do vị trí của nó không cho phép nó đi tìm xác cha nó được. Tôi đành lê lết tấm thân già nầy bất đắc dĩ phải đi vậy, mặc dù tôi vẫn còn hoang mang không biết kết quả có được như ý mình hay không. Mà dù không biết hư thực ra sao, tôi vẫn phải đi. Một là để chồng tôi được mãn nguyện bên kia vùng miên viễn, ổng không buồn tủi vì bị gia đình quên lãng bỏ rơi. Hai là để tôi được an bình trong tâm hồn mình, không bị triền miên ám ảnh vì vô tâm vô tình đối với người quá cố hẩm hiu bất hạnh.


Tiếng máy bay cứ trầm đều giữa không gian yên lặng khiến cho nhiều người khách chung quanh bắt đầu thiu thiu ngủ giật ngủ dựa. Bà Thảnh day qua hỏi lại Hoàng Hùng lý do nào anh trở về Việt Nam:

- À, còn cháu tại sao lại về nước lần nầy. Cháu còn quá trẻ, chắc về Việt Nam để du lịch hay thăm lại bà con ruột thịt trong gia đình ngăn cách từ lâu?

Nghe nhắc đến hai chữ du lịch mà anh đã vô tình hỏi bà lúc nãy để nhận những lời trả lời dứt khoát toát lên lập trường vững chắc của bà, khiến anh càng ái ngại thêm cho cử chỉ và lời nói hời hợt của mình:


- Cháu về Việt Nam lần nầy cũng có chút ít việc riêng tư.

Anh bắt đầu kể đầu đuôi như để đáp lễ lại bà cho phải đạo:

- Lần nầy cũng là lần duy nhứt cháu trở về nước sau khi vượt biên cách đây hơn mươi năm. Như bác biết đó, cháu qua Hoa Kỳ khá trễ, trường ốc dang dở không còn có cơ hội tiếp tục việc học hành trở lại nên đành lao vào hãng xưởng làm việc chân tay bù đầu bù óc, hộc xì dầu quanh quẩn nơi cháu định cư. Hôm nay cháu thay mặt ba cháu về thọ tang bà nội cháu, vừa mất với tuổi thọ hiếm hoi cửu tuần.


Anh xin lỗi bà cho anh được nhắc lại sơ lược về ông thân của mình:

- Cha cháu cũng là sĩ quan nhưng là sĩ quan cấp úy trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Tuy ba cháu không đi tác chiến hiểm nguy trong đường tơ kẽ tóc, sống chết trong may rủi một sớm một chiều như bao chiến hữu khác ngoài mặt trận. Suốt thời gian trong quân ngũ, ba cháu chỉ phục vụ nơi Nha Tâm lý Chiến ở giữa lòng Sài Gòn. Qua những công tác trội bậc tích cực về báo chí và hội họa trong mặt trận ý thức hệ chống lại chủ thuyết đệ tam quốc tế cùng tập đoàn hiếu chiến sắt máu miền Bắc nên sau tháng Tư 1975 bị cộng sản gian manh hận thù giai cấp hàm hồ kết cho cái tội «biệt kích văn nghệ, có nợ máu với nhân dân». Ba cháu cũng bị đày khổ sai không hy vọng sớm có ngày về tận những trại tù cải tạo Yên Bái, Hà Nam Ninh… Bắc Việt.

Ngừng phút giây ngắn ngủi thoáng qua như để cảm thông nỗi nhục nhằn thống khổ ngất trời của cha mình ngày xa xưa trước ánh mắt chia xẻ chân thành của bà Thảnh, anh tìm lại được giọng nói lạc quan yêu đời cố hữu:


- Nhưng rất may cho ba cháu, ông trời vẫn còn rộng rãi thương yêu nên ba cháu được trở về với mẹ con cháu qua tấm thân tàn tạ lạc thần, tưởng chừng như hồn ma lạc lối nơi cõi trần tục nhiễu nhương lắm sự. Cha cháu trước khi nhập ngũ khoá 14 ở trường bộ binh Thủ Đức chỉ là người cầm bút cầm cọ, chuyên dùng bút mực là «cây cần câu cơm» để nuôi vợ yếu con thơ. Ông ốm tông ốm teo, trói gà còn không chặt, sức khoẻ có giới hạn. Không biết nhờ vào đâu mà ba cháu thoát khỏi mạn lưới khắc nghiệt, kềm kẹp giết người của cộng sản. Chắc cũng nhờ một phép lạ của ơn trên nào đó.


Tiếng ngái ròn rã của ông khách ngoại quốc hộ pháp ngồi bên trái anh không làm cho anh để ý tới. Anh vẫn tiếp tục câu chuyện tuần tự theo sự tiếp diễn đương nhiên của nó:

- Từ ngày được trả tự do, hít thở chút ít không khí ngột ngạt nơi xứ tù chung thân xã hội chủ nghĩa, ba cháu nhứt quyết chạy đôn chạy đáo mưu tìm đường mua bãi vượt biên cho bằng được. Vì ba cháu thường tâm sự với mẹ con cháu cho rằng tiếp tục sống cà giựt cà giựt trong gông cùm kềm kẹp khắc nghiệt đó của kẻ chiến thắng đầy tham vọng thấp hèn và hận thù giai cấp, không thể nào có ngày mai. Nhứt là đối với con cháu sau nầy, chúng tôi phải có quyền sống như của một con người lương thiện biết tôn trọng phẩm giá và tình người.


Anh thở nhẹ như để trút bớt nỗi niềm:

- Dù thất bại nhiều lần, có lần ba cháu bị công an biên phòng phối hợp với bọn tay sai vô tâm gày bẫy và bị bắt lại ở cửa biển Bình Đại để cướp vàng vòng tài sản của những người mưu tìm tự do bằng mọi giá. Dĩ nhiên ba cháu phải trả món nợ vượt biên đến gần hai năm ròng rã ở ban chấp pháp Bến Tre. Nhưng sau cùng dường như ba cháu đã say mê mệt cái cảnh vượt biên nên không bao giờ bỏ cuộc nửa chừng. Rốt cuộc ba cháu cũng đưa cả gia đình cháu thành công đến Phi Luật Tân, được chánh quyền địa phương cho tạm cư ở Palawan chờ thanh lọc để sau đó được bóc đi Hoa Kỳ.


Anh gằng từng tiếng một:

- Từ dạo đó, ba cháu thề không bao giờ đặt chân trở về Việt Nam do những kỷ niệm đau buồn đã khắc sâu lưu lại trong tâm khảm ba cháu. Nói thực ra chớ ba cháu vẫn nhớ đến quê hương cố quốc, nhứt là ba cháu còn bà nội cháu đang dở sống dở chết như bao bà con khác còn kẹt lại ở Việt Nam. Thỉnh thoảng bà chỉ gặp ba cháu qua điện thoại viễn liên, mà mỗi lần đó có nói được gì nhiều đâu do quá xúc động. Dù vậy nhiều lúc vào những đêm khuya thanh vắng, cháu tình cờ bắt gặp ba cháu chong đèn trầm ngâm một mình, có lẽ ba cháu qua bối cảnh tĩnh lặng nơi cõi tạm lưu vong nhớ về quá khứ, ôn cố dĩ vãng hay ba cháu ray rứt nỗi niềm trầm buông luyến nhớ quê hương chôn nhao cắt rún!?


Câu chuyện nào dù vui dù buồn có khởi đầu rồi cũng phải đi đến kết thúc, không sao tránh khỏi. Chuyến bay nào có khởi hành rồi cũng lần tới điểm đến, nếu số trời không đến đỗi khắc nghiệt. Sau trạm Bangkok Thái Lan được nghỉ tạm khoảng một tiếng đồng hồ, máy bay cất cánh không được bao lâu đã thấy nhấp nhô bên dưới cảnh trí thân yêu của quê hương Việt Nam ngàn đời dấu yêu. Tâm trạng của người ly xứ lâu ngày trở về đất tổ, dù với mục đích gì hay dù trong hoàn cảnh nào đi nữa vẫn thấy nao nao xao xuyến cực độ trong lòng. Có đi xa, từng sống nơi xứ người nhiều năm mới thấy chỉ có «quê hương mình là đẹp» hơn cả. Cảm giác nầy không có chi là lạ. Nó được ấp ủ trân trọng trong lòng người lử thứ tha phương từ thuở xa xưa, khi còn mài đủng quần ở ghế nhà trường tiểu học qua quyển sách gối đầu giường Quốc Văn Giáo Khoa Thư của Nha Học Chánh Đông Pháp. Mọi người xôn xao tới lui lo chuẩn bị rời ; phi cơ. Hoàng Hùng không quên đến bên âu yếm nói những lời từ giã bà Thảnh. Tuy anh vừa được hân hạnh gặp bà trong tình cờ trên chuyến bay nhưng qua câu chuyện trao đổi, anh không khỏi bùi ngùi lưu luyến:


- Chúc bác bình an may mắn và nhứt là toại lòng trong ước nguyện của bác.

Bà Thảnh đôi mắt long lanh rươm rướm xích gần lại nắm chặt tay Hoàng Hùng dùn dằn như chưa muốn rời người bạn trẻ đã để lại trong lòng bà nhiều tình cảm quyến luyến mà bà nghĩ sẽ khó có dịp được gặp lại trong cuộc sống bươn chải hiện nay:


- Bác cũng chúc cháu những ngày ở Sài Gòn có ý nghĩa và bác không biết nói gì thêm là nhờ cháu cho bác gởi lời chân thành chia xẻ nỗi đau tang khó của gia đình cháu.

Bà còn vói thêm lời cuối trước lúc chia tay mỗi người mỗi ngã:

- Không biết bác cháu mình còn có dịp gặp lại nhau trong tương lai hay không?



**



Những ngày ở Sài Gòn qua rất mau đối với Hoàng Hùng. Lật bật gần một tháng trôi qua trong nháy mắt, như bóng chim vút bay ngang qua cửa sổ. Ngày về đã cận kề vì giấy phép của hãng xưởng giới hạn chỉ có hai tháng. Anh phải tôn trọng thời hạn nầy nhằm bảo đảm công ăn việc làm đang trong thời buổi khó khăn, dân tình thất nghiệp thân sơ thất sở khắp nơi. Những hẻm phố này xưa đã gợi lại trong anh biết bao kỷ niệm. Vui có buồn có, nhưng vui thì ít mà buồn thì nhiều cứ đeo đẳng không rời trong tâm trí anh. Dĩ vãng hiện về rõ nét qua bối cảnh gợi nhớ gợi thương đó. Giá nếu không về thì hình ảnh ngày xưa vẫn còn nguyên vẹn, có thể nguôi ngoai nhạt nhòa phần nào với thời gian quần quật mệt mỏi rã rời nơi hãng xưởng. Nào ngờ hoàn cảnh vô tình đẩy đưa khơi lại nơi anh những vết thương lòng tưởng đã ngủ yên từ lâu bỗng dưng chớm dậy, dù anh có muốn quên cũng không sao quên được. Anh nhớ sau tháng Tư năm 1975, tai họa bỗng dưng phũ phàng ập đến gia đình anh, không sao trở tay cho kịp. Cha anh bị cộng sản lường gạt phải khăn gói lên đường đi học tập cải tạo biền biệt bặt tăm bặt tích, không biết bị đọa đày lao động khổ sai nơi chốn hắc ám hiểm nguy nào.

 Gia đình phút chốc sa sút thảm thương chưa từng thấy. Mẹ anh từ từ bán đổ bán tháo chút ít tài sản còn sót lại trong nhà và ngày ngày phải bươn chải sớm hôm nơi các chợ trời chợ chạy nhun nhúc khắp đường phố trong đô thành để nuôi đàn con thơ dại. Anh chị em anh phải bỏ học, ngày chí tối lang thang đầu đường xó chợ do lý lịch con «ngụy quân ngụy quyền» có «nợ máu với nhân dân và nhà nước cách mạng». Lâu sau, tệ hại hơn nữa, gia đình anh bị liệt vào diện phải đi sản xuất nơi vùng kinh tế mới Bầu Bàng trên con đường máu đi «An Lộc anh dũng», «Bình Long kiên cường».

 Tên công an khu vực gốc Hà Nam Ninh hay Bắc Sơn Bắc Kạn gì đó vừa mới được «điều» vào công tác trong Nam, phối hợp với một tay nằm vùng, cán bộ ba mươi phụ trách ban kinh tế mới của phường trơ trẻn trở mặt, không ngớt đến rúng ép hăm dọa đủ điều. Nếu gia đình anh không tìm được một việc làm ăn chắc chắn trong hệ thống sản xuất quốc doanh hay công tư hợp doanh ở thành phố. Viễn ảnh bị chánh quyền cắt hộ khẩu, hậu quả đương nhiên là không còn được hưởng tiêu chuẩn phân phối nhu yếu phẩm định kỳ hằng tháng cứ lờn vờn không nguôi trong tâm trí mọi thành viên lớn nhỏ trong gia đình. Cộng sản dùng chén cơm manh áo cai trị dân lành đến rã rời kiệt quệ, không còn khả năng chống đối.



Trong nếp sống truyền thống từ ngàn xưa của dân tộc Việt Nam vốn thủ đắc giáo lý «nhân quả nhãn tiền» hay vay trả trả vay của nhà Phật, người hiền lương có cái tâm lành, làm những việc đạo đức về sau dù có trải qua bao nhiêu sóng gió dâu biển đến đâu thường được thụ hưởng những hậu quả tốt lành. Hoàng Hùng trong một dịp lang bạt hợp mặt tụ năm tụ bảy đấu chuyện tào lao cho qua ngày tháng với bọn trẻ «ăn không ngồi rồi» trong xóm, vớ được một cái phao cứu rổi. Anh được một thằng bạn, Nguyễn Trọng Quỳ, tục danh là Bảy Quỳ, cùng học chung lớp đệ thất đệ lục ngày xưa đề nghị và khuyến khích nên theo anh ta về Cà Mau tìm đất sống. Anh ta cho biết có người bà con nhà chú nhà bác với anh đang làm việc ở Ty Thông tin Văn hóa tỉnh nhà. Mà Ty Thông tin Văn Hóa theo cơ cấu tổ chức của cộng sản có trách nhiệm quản lý các nhà sách giải phóng và cả hệ thống in ấn trong toàn tỉnh. Bảy Quỳ không thể tiếp tục sống bấp bênh không ngày mai thêm nhiều ngày nữa ở Sài Gòn, vì anh chẳng có nghề ngổng và việc làm gì đúng với tiêu chuẩn của đảng ấn định.


Anh dễ trở thành đối tượng hàng đầu bị xua đuổi khỏi thành phố qua chủ trương của kẻ chiến thắng, trong thâm tâm cốt tủy nuôi đầy hận thù đấu tranh giai cấp. Anh sẽ về quê hương Cà Mau và được đỡ đầu vào làm việc trong Ty Thông tin Văn hóa. Anh lại hứa chắc chắn sẽ vận dụng mọi cách tranh thủ người bà con nhằm giới thiệu Hoàng Hùng được thu nhận cùng vào làm việc với anh tại nhà in quốc doanh duy nhứt trong tỉnh. Cơ sở in ấn nầy đã bị ban cải tạo công thương nghiệp cộng sản trắng trợn cướp đoạt của một nhà tư sản bất hạnh ngay trong đợt đầu tiên của chiến dịch «kiểm kê, đánh tư sản mại bản» và «truy lùn văn hóa phẩm đồi trụy». Hoàng Hùng không chút đắn đo do dự. Trái lại anh tỏ ra rất hân hoan chấp nhận lời đề nghị giúp đỡ có bầu có bạn nhưng rất mực chân tình của bạn mình. Thôi thì một liều ba bảy cũng liều, còn nước còn tát, anh phú mặc cho định mệnh, miễn anh sẽ được cấp giấy chứng nhận là công nhân viên nhà nước chánh thức như những công nhân viên khác.

 Những người nầy may mắn có được bản lý lịch trong sạch, không dính vấp với chế độ cũ hay ít ra cải sửa nhờ đút lót hoặc khai man cho phù hợp với yêu cầu khắc khe độc đoán của chánh quyền mới. Nhờ vậy gia đình anh sẽ có cơ may tạm cho ở lại thành phố, được ngày nào hay ngày nấy. Một đảm bảo như cái phao cứu tử trong lúc sóng gió dồn dập, gia đình kiệt quệ về vật chất lẫn tâm tư tình cảm. Hơn nữa, kể từ những năm tháng trước 1979 khi cộng sản Việt Nam lâm le chuẩn bị xua quân tràn sang xâm chiếm Cao Miên nhằm truy quét tập đoàn khát máu diệt chủng Khờ Me Đỏ của Pol Pot, việc kiểm tra đăng ký chặt chẽ những công dân ở lứa tuổi làm nghĩa vụ quân sự được phường khóm đêm đêm tập trung dân chúng triển khai xuyên suốt trong những buổi hợp tổ hay liên tổ. Đây cũng là dịp tốt quí hiếm để Hoàng Hùng có điều kiện hy vọng xin được gia hạn tới đâu hay tới đó.


Cà Mau là thị trấn nằm nơi cuối mũi quê hương được chọn là điểm tập trung của lực lượng Việt Minh các cấp ở những tỉnh phía Nam trước khi xuống tàu của các «đồng chí» Ba Lan tập kết ra miền Bắc, chiếu theo tinh thần Hiệp định Đình chiến Genève năm 1954 chia đôi đất nước. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sau khi tiếp thu Cà Mau đã đổ ra bao nhiêu ngân quỹ cũng như tài vật lực nhằm xóa bỏ những hình ảnh không mấy tốt đẹp của dòng sử mệnh nước nhà, những vết tích tuyên truyền gian dối của cộng sản trước khi ra đi. Chính phủ đã thực sự biến cuộc đất bị tàn phá, hư hao đổ vỡ vì chiến tranh thành một tỉnh lỵ với nhiều hứa hẹn ở tương lai. Dần dà Cà Mau trở thành một tỉnh như tất cả các tỉnh khác ở giải đất phù sa màu mỡ miền Nam, có đầy đủ hệ thống hành chánh, y tế, giáo dục, xã hội…

Đồng thời chính phủ còn phải đối phó với chủ trương lật lộng gian dối vào giờ phút chót của Bắc bộ phủ gài cán bộ nồng cốt cùng súng đạn ở lại miền Nam trường kỳ mai phục chờ cơ hội ngốc đầu dậy đánh phá, gây rối trị an để cướp chánh quyền… Tại tỉnh lỵ do tầm hoạt động giới hạn lúc đó chỉ có một nhà in với vỏn vẹn hai cái máy in nhỏ kiểu bàn đạp (pédale) với năm bảy hộc chữ chì là cùng. Thường thường nhà in chỉ in những toa thuốc, thiệp cưới hỏi, ma chai cùng giấy tờ hành chánh cho tỉnh cũng như cho các quận hoặc làng xã quan trọng. Chủ nhân đích thân làm một phần lớn những dịch vụ quan yếu như sắp chữ, sửa bản vỗ, cắt xén, cả việc chạy máy in… tạm sống chật vật qua ngày để nuôi gia đình, chớ có làm giàu làm có gì cho lắm nơi tỉnh lẻ, kinh tế chưa được phát triển mạnh. Ấy vậy, sau ngày cờ đỏ lên ngôi, ông bị đánh tư sản mại bản và toàn gia đình bị đuổi đi sản xuất tự túc ở khu kinh tế mới Năm Căn. Bỗng dưng, ông bị bọn gian manh hiệp đảng ngang nhiên đánh cướp giữa ban ngày để trở nên trắng tay một sớm một chiều rồi lê lếch kiếp sống trâu ngựa dở sống dở chết nơi heo húc dầy mịt rừng đước, rừng tràm, rừng mắm, rừng dẹt… quanh năm ngập nước mặn.

Về sau không ai còn biết đến tông tích của ông từ dạo bị rúng ép bắt buộc rời tỉnh lỵ. Cộng sản giữa ban ngày cướp đoạt trắng trợn cơ sở in ấn của tư nhân đã để một đời xây dựng trong mồ hôi nước mắt và lao công nhọc sức của cả một gia đình đồng tâm cộng lực. Nay cơ sở trở thành quốc doanh gọn hơ do một tên cán bộ «giải phóng» y tờ, bù trơ bù trớt đảm nhận nhiệm vụ giám đốc trên mặt hình thức cho có vị. Nhưng thực tế mọi việc trong ngoài lớn nhỏ đều giao khoán cho anh thợ phụ ngày xưa của chủ cũ, anh Út Trượng. Nhà in bắt đầu thực hiện những mặt hàng do đảng quyết định và cho phép sau khi kiểm duyệt ngặt nghèo. Nổi bậc là những bản tin hằng tháng nhằm tuyên truyền những thành tích thổi phồng khuếch đại, lúc nào cũng đạt quá mức chỉ tiêu tưởng tượng của ủy ban nhân dân tỉnh cũng như của tỉnh ủy.


Bảy Quỳ là anh em thúc bá với Út Trượng nên được nhận vào làm việc với nhiệm vụ tiếp tay chạy lo vòng ngoài, giao thiệp với khách hàng đương nhiên toàn là những cán bộ cộng sản cao cấp ở quận huyện nơi những vùng sâu, cũng như giao hàng thành phẩm trên những chiếc tam bản len lỏi trên sông nước rừng rậm bạt ngàn. Riêng Hoàng Hùng được bạn uốn lưỡi tranh thủ tình cảm ruột rà với Út Trượng nói ra nói vào, đảm bảo và biết điều với tên cán bộ giám đốc để được thu nhận không phải thông qua sưu tra lý lịch. Một đặc ân do mốc ngoặc tham nhũng rất thông thường ở «chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa». Nhiệm vụ của Hoàng Hùng thực ra cũng không đơn giản giữa lớp người u dốt ngành nghề, nhờ vậy anh mới được thu nhận trám vào «khâu» đang thiếu người chuyên môn. Anh có năng khiếu và hoa tay vẽ vời cũng không đến đỗi tệ lắm. Ngày trước, anh từng giúp đỡ trang trí nhà cửa của gia đình cũng như của bạn bè ở thành phố những lúc rổi rảnh theo kiểu tài tử, thích thì cấm đầu cấm cổ làm chẳng màng cơm nước, không thích thì nghỉ rong chơi bạt mạng. Nhờ vậy, anh được bố trí trình bày các mẫu in và thỉnh thoảng tham gia hướng dẫn nhóm thợ trẻ măn đang tập sự sắp chữ những khi cấp bách, với giá nào cũng phải đạt cho được mục tiêu và thời gian cấp trên ấn định.



Dòng đời cứ tưởng như lặng lẽ trôi qua êm đềm để âm thầm chôn chặt tuổi trẻ nơi xứ ruồi muổi vo ve đêm ngày và đỉa lớn đỉa bé đen thủi đen thui uốn éo nhởn nhơ nhun nhúc «lềnh bềnh như bánh canh». Hoàng Hùng bất đắc dĩ phải chịu bó mình ẩn thân, cam đành phó mặc cho định mệnh đưa đẩy theo những đợt sóng đời đầy ngang trái éo le. Những buổi chiều mãn giờ làm việc, lang thang không định hướng, anh ngồi một mình trầm ngâm bên bờ sông, nước ròng cuốn phăng những bựng lục bình buông xuôi như trốn chạy, nhìn hoàng hôn hấp hối, anh nhớ cồn cào, nhớ ơi là nhớ. Anh nhớ người cha bất hạnh đang tù tội trả «nợ máu» nơi núi thẳm rừng sâu Bắc Việt không biết sống chết ra sao. Nhớ đại gia đình, nhớ mẹ, nhớ anh chị em còn ở lại thành phố, hoi hóp bữa đói bữa no mà anh là con trưởng không sao giúp được gì hữu hiệu. Bản thân anh nơi «đất nước lạ lùng» Cà Mau cũng trậm trầy trậm trật với đồng lương hằng tháng chết đói do đảng ân huệ ấn định cho.


Chỉ vớt vát nhờ cái vỏ bên ngoài, tư cách là công nhân viên nhà nước để khỏi bị phiền hà trong thời buổi nhập nhầy đầy tham vọng của quyền lực. Trong nhà in có một bộ phận dịch vụ hỗn tạp nhưng thu hút khá đông nhân công như xếp đóng, quét dọn trong ngoài cũng như phụ trách cơm nước những bữa ăn trưa cho toàn thể công nhân viên cùng bữa ăn chiều cho đám thanh niên đối tượng của Đoàn Thanh niên Cộng sản xí nghiệp. Bọn nầy đều thoát ly, lưu lại nhà in như một khu nhà tập thể. Bộ phận tạp dịch ấy hoàn toàn do những phụ nữ trẻ trung đảm nhận.

Mục đích của đa số nầy không ngoài có được tư cách công nhân viên nhà nước, chứ thật tình muốn sống cho ra hồn, mặc dù chỉ chật vật vừa ngam ngám đủ nuôi cho mỗi bản thân mình, quả là một ước mơ thầm kín của cô gái quê mùa bán sữa nơi xứ Phú Lang Sa, xây dựng lâu đài tương lai của mình bên đất Y Pha Nho ngày xưa trong ngụ ngôn của ông La Fontaine vậy. Trong số đông những thanh nữ choi choi mới tấn lên, vừa trẻ đẹp, vừa rậm rật bẹo hình bẹo dạng, biết làm duyên làm dáng đó có một cô khoảng mười tám hai mươi tuổi lọt vào đôi mắt xanh đa tình của Hoàng Hùng. Anh xem đây như một an ủi lý thú của con người ly hương xa tổ ấm được vỗ về tình cảm những lúc bơ vơ lẻ loi, cô đơn cô độc. Nàng tên Diễm Lệ, Đống Thị Diễm Lệ, con của ông chủ một tiệm bán dụng cụ văn phòng trong tỉnh lỵ.


Trước 1975, nơi đây có kê thêm một dãy kệ cây ngay trước hiên nhà để bán đầy đủ sách báo do nhà tổng phát hành Nam Cường ở đường Nguyễn Thái Học Sài Gòn thường xuyên cung cấp qua những chuyến xe thơ hằng ngày. Cái tiệm xinh xắn dễ nhìn, không lớn không nhỏ nầy xem cũng rôm lắm, được coi như địa điểm văn hóa duy nhứt trong tỉnh, là nơi hò hẹn hợp mặt thường xuyên mỗi sáng sớm tinh mơ của những người có lòng đam mê nặng nợ văn chương chữ nghĩa và háo hức tin tức thời sự nóng bổng trong nước cũng như quốc tế. Nàng xin được vào làm việc trong nhà in quốc doanh cũng chẳng qua để ẩn thân trước sóng gió «đổi đời» bất thần ập đến trong đời, thay đổi hẳn cuộc sống của nàng. Bây giờ nàng cố gắng tập tành lối sống mới «bình dân quê mùa», tỏ ra càng nghèo khổ thiếu thốn túng quẩn cho đúng với đường lối và lập trường giai cấp công nhân của đảng.


Dù cái lập trường nầy rất mù mờ, ẩn chứa biết bao gian dối để đảng thực hiện những ý đồ đen tối ma mảnh của mình. Tình yêu đôi lứa giữa Hoàng Hùng và Diễm Lệ đến rất êm ả nhẹ nhàng như nắng sớm mưa chiều. Bếp lửa tình đầu đời thơ mộng đó cứ ngúng dần lên ngấm ngầm và len lén lướt qua với những cái nhìn thẹn thùng, những ánh mắt e ấp kín đáo. Dù hằng ngày họ đều gặp nhau, mặt đối mặt nhưng vẫn cứ khép nép ngập ngừng để tránh những lời phê bình hay tự phê về tác phong «tiểu tư sản», không phù hợp với «đạo đức cách mạng». Cả hai chưa một lần dám nói lên công khai những tiếng lòng tha thiết ấp ủ thầm kín «yêu em» hay «yêu anh», đương nhiên không khi nào có can đảm dám thốt ra những lời hứa hẹn chân thật ở tương lai. Họ đến với nhau do tình yêu trong sáng chân thành và cũng do cảm thông hoàn cảnh trớ trêu của nhau. Dù vậy, những cử chỉ săn đón lo lắng, tận tình giúp đỡ nhau thể hiện ở hai người như những bằng chứng cụ thể thay cho tiếng lòng mà cả hai khó thốt nên thành lời giữa thanh thiên bạch nhựt. Nhứt là chung quanh họ còn có tai mắt cú vọ không ngớt kiểm soát hành vi và tư tưởng do các đoàn viên thanh niên cộng sản, cũng như của cán bộ đảng viên phụ trách xí nghiệp luôn luôn rình mò theo dỏi.


Thời gian trôi qua êm đềm với mộng ước chắt chiu không thành lời đó của hai người. Bỗng sáng sớm một hôm nọ, Hoàng Hùng toát mồ hôi hột, tâm thần hoang mang bấn loạn khi nhận được tin sét đánh người bạn chí thân xem như bạn kết nghĩa «huynh đệ vườn Đào» sau tháng Tư Đen của anh, Bảy Quỳ đã bị công an chấp pháp tỉnh bắt câu lưu trong đêm, cùng với hai nhân viên khác trong nhà in. Một thợ «typo» lành nghề sắp chữ và một thợ chạy máy in bàn mà nhà in được ban Cải tạo Công thương nghiệp ở Cần Thơ chi viện sau đợt đánh tư sản mại bản cách đó không hơn sáu tháng. Sau nầy, Hoàng Hùng được biết Bảy Quỳ bị bắt vì bị khám phá đã tham gia trong một tổ chức phục quốc ở tỉnh nhà. Anh đã cả gan dám lợi dụng những sơ hở an ninh nội bộ để in nhiều loạt truyền đơn kêu gọi dân chúng nổi lên chống chế độ mới. Việc làm táo bạo và can đảm nầy thể hiện lòng phẫn uất cao độ của nhóm trẻ bất bình làm náo động dân tình trong tỉnh, đa số vốn nuôi dưỡng trong âm thầm mầm mống bất mãn, chống đối đảng trị độc tài. Vì sợ bị liên lụy nên Hoàng Hùng lập tức thu xếp nhanh gọn hành trang tối thiểu đón chuyến xe đò lỡ sớm nhứt trốn về Sài Gòn, không có thời gian giã từ một ai, ngay cả người mình yêu là Diễm Lệ. Về được Sài Gòn, thật hú hồn hú vía cho anh.


 Anh đã qua được tai nạn và tạm thời đến nương náu lánh mặt nơi nhà bà con nhằm đánh lạc hướng nhân viên an ninh khi họ có thể truy lùn tìm kiếm. Trong thời buổi kiểm tra khắc nghiệt của công an khu vực, anh phải tìm một phương hướng để tránh cho người chấp chứa rộng lượng khỏi bị liên lụy vì mình. Giải pháp duy nhứt của anh là đăng ký thi hành nghĩa vụ quân sự mới mong được an toàn hơn. Anh được cộng sản chuyển qua Cao Miên sau một thời gian ngắn được huấn luyện cơ bản. Đối với cộng sản, việc triển khai bất cứ một kế hoạch nào cũng phải nhắm vào tiêu chuẩn thiết thực, làm sao không tốn kém ngân quỷ của đảng và nhà nước, mà phải tập trung cổ động sự đóng góp «tình nguyện» của dân chúng, những chủ nhân ông «làm chủ tập thể đất nước» sau ngày «đổi đời». Ngoài mặt họ tự nguyện nhưng bên trong là sự rúng ép bắt buộc, ngay cả hăm dọa của phường khóm.


Hoàng Hùng vẫn còn trong cảnh ngỡ ngàng bở ngở với việc xử dụng võ khí hãy còn vụng về mà vẫn được bổ sung chiến trường ngay để rút tỉa kinh nghiệm thực tiển. Anh không khỏi lo âu khi chỉ trong một thời gian chưa đầy ba tháng ở xứ Chùa Tháp, anh đã xúc động chứng kiến bao nhiêu cái chết thê thảm của bạn bè trang lứa, chỉ vì ngờ ngệch ngu dốt do không được trang bị và huấn luyện đầy đủ ở quân trường. Cảnh chết chốc dồn dập những năm 1979/1980 ở chiến trường Cao Miên làm cho bà mẹ của Hoàng Hùng nơm nớp canh cánh về mạng sống của con mình, nếu có phải hy sinh thì chỉ một lòng một dạ hy sinh cho chính nghĩa dân tộc, cho sự tồn vong của đất nước, chớ chết cho một chủ thuyết đầy tham vọng xâm lăng thì bà nhứt quyết phải tránh với bất cứ giá nào.

Cuộc đời của bà dường như định mệnh đặt bà trước những quyết định quá khó khăn. Mà quyết định khó khăn nào lại không hao tâm tổn sức, mất ăn mất ngủ, hao gầy lạc thần. Con đường cứu rổi trước mắt của bà chỉ vỏn vẹn có một hướng đi duy nhứt là bằng mọi giá tổ chức cho Hoàng Hùng vượt biên, dù phải đánh đổi mạng sống để rời ngay xứ tù chung thân xã hội chủ nghĩa tìm tự do an bình. Quyết định của bà xem như dứt khoát, không nhứt thiết phải bàn cãi tới lui thêm nữa vì không còn con đường nào khác hơn được. Bà âm thầm xuôi ngược, tiếp xúc với bạn bè cũ và được hứa hẹn chắc chắn như đinh đóng cột. Vì lỡ không thành công thì đời con bà, đời của Hoàng Hùng không tránh khỏi vương mang tù tội lao lý như chồng bà. Mà tù tội ở chế độ xã hội chủ nghĩa dù đã được tô son trét phấn qua danh từ mỹ miều «học tập cải tạo» kể như ngày về rất hiếm hoi.

Bà cẩn thận làm đơn xin phường khóm cấp giấy di chuyển lên tận Battambang, tiếng là để thăm con, động viên con làm tròn nghĩa vụ quân sự để sớm mãn hạn về với gia đình, nhưng thực sự là để báo cho Hoàng Hùng kế hoạch đào ngủ để vượt biên. Mọi việc đã được bà sắp xếp tinh tế, chu đáo. Bà phải đích thân gặp con vì việc trọng đại nầy không thể tính nhiệm ký thác cho một ai khác giữa lúc tình đời thay đổi lắm bất ngờ, cũng như không thể thông tin nhau qua thư từ sẽ bị cộng sản kiểm duyệt. Hoàng Hùng suy nghĩ đắn đo. Anh rất khổ tâm. Đề nghị của mẹ anh không đơn giản, trái lại có cơ nguy hiểm đến tánh mạng. Tiến thối lưỡng nan. Dằn co suy nghĩ, hai mẹ con không ngớt cân phân lợi hại. Hoàng Hùng thuyết phục mẹ:


- Mẹ cứ đưa các em con đi trước tìm sự sống. Con sẽ ở lại lo thăm nuôi cha con sau ba năm ở Campuchia về. Con cũng đã mệt mỏi lắm rồi. Con sẽ ở lại giữ ngôi nhà từ đường tuy không lớn lắm, nhưng đó là kỷ niệm của dòng tộc mình mẹ à. Thỉnh thoảng cứ vài tháng mẹ gởi về cho con một thùng quà là con đủ sống, mẹ đừng lo cho con nữa.


Hoàng Hùng nhắc lại lời của cha lúc cờ đỏ lên ngôi tháng Tư năm 1975 với giọng nói cứng rắng dứt khoát:


- Ba bây giờ là người vừa thua trận, ba tuyệt đối chấp hành buông súng theo lệnh thượng cấp, nhưng ba chưa bao giờ kéo cờ trắng đầu hàng. Niềm hãnh diện và tự hào trong đời ba là ở chỗ đó. Giờ đây, ba xem mọi việc như gió thoảng mây bay, như nước chảy qua cầu. Tất cả đều là phù du hư ảo. Có đó mất đó. Cái nhà từ đường của ba không biết rồi đây sẽ ra sao theo với chánh sách hận thù giai cấp, cướp của giữa ban ngày của đám cộng sản vô thần. Trước đây, ba đã đổ mồ hôi xây dựng tưởng để làm tổ đường cho dòng họ, làm nơi chốn gốc rể cội nguồn của con cháu. Bây giờ viễn ảnh những ngày êm ả về vườn hưu trí của ba xa dần với thực tế phũ phàng.

Cái cảnh ước mơ của ba chan chứa tinh thần Nho giáo theo kiểu «rượu đến gốc cây ta sẽ nhấp, nhìn xem phú quý tựa chiêm bao», chiều chiều tụng kinh gõ mõ nơi bàn thờ ông bà, nhìn chim chóc lũ lượt bay về tổ ấm quanh nhà… sẽ không bao giờ thực hiện được. Nếu trong tình hình «đổi đời» nầy mà con cứ khư khư giữ mãi cái tinh thần Nho giáo như của cha đó, cứ ôm ấp mãi cái nhà, vuôn đất, cái bàn thờ ông bà, những cái đó chết cha đó nghen con. Tụi cộng sản là lũ buôn thần bán thánh ở đất nẻ chui lên, chúng nó hăm he cha phen nầy sẽ đi học tập mút mùa. Mà mình ở trong cái rọ của nó, chạy trời đâu khỏi nắng.

Ba sẽ bỏ cái nhà từ đường, bỏ đất đai hương hỏa, bỏ cái nghĩa trang dòng tộc, lẽ ra ba phải giữ những thứ đó cho đời con đời cháu. Bây giờ ba xem cõi nào mà chẳng là cõi tạm. Cuộc đời nào lại chẳng phải là đời sống tạm. Chính tấm thân của ba cũng vẫn là tứ đại do đất nước gió lửa hình thành nên. Nếu mình có chết đi cũng là trở về lại với tro bụi thôi. Con giữ làm chi hai thước đất mồ mả làm gì, mất công con cháu trông nom gìn giữ để trâu bò khỏi dẫm đạp lên?! Chúng nó còn săn sóc nhang khói làm mất thì giờ thêm, mà thì giờ ngày nay chính là tiền bạc, là máu huyết nuôi sống mình đó nghen con. Riêng ba thì dù thế nào đi nữa ba cũng rán sống. Vì ba nghĩ người nào mà chết lúc nầy là mình thua thêm cộng sản một trận nữa. Phải sống với niềm vui của dân tộc mà cha tin chắc trong cao trào quật khởi sắp tới.



Hai mẹ con trao đổi, cuối cùng bà mẹ cũng thành công thuyết phục anh khi bà thuật lại chi tiết kế hoạch của bà:


- Mẹ rất may mắn khi than thở với một người bạn thân tín ngoài chợ trời bùng binh Sài Gòn. Bà ấy đã tổ chức vuông tròn vài chuyến rồi và quả quyết với mẹ: «Bây giờ chị giúp lo cho nó chỉ hai cây vàng thôi. Đầu tiên chị đưa cho tôi một cây làm bằng. Chừng nào cháu đến được đất liền bên đó mới đưa thêm một cây nữa. Mình tính nhiệm và tin cậy nhau, nhưng chị nên nhớ phải tuyệt đối kín miệng, đừng thố lộ với ai hết. Chết đa! Chị đừng sợ tiền mất tật mang. Thời buổi tranh tối tranh sáng nầy em làm được tất cả mà chị. Con lạc đà to tổ bố còn chui lọt qua lổ kim thông thống kia mà!


Một tuần lễ sau, Hoàng Hùng nhận được giấy tờ giả, đào ngủ trót lọt và thành công hít thở không khí tự do trong lành tận đảo Kuku bên Nam Dương quần đảo…



**



Chuyến xe đò Hậu Giang từ từ lăn bánh rời xa cảng miền Tây lúc nào cũng rậm rật, chộn rộn «ông đi qua bà đi lại» tới lui lui tới như mắc cửi đến chóng mặt. Xe lăn bánh nhưng còn dùn dằn dụt dặt mãi như muốn nán lại giây phút nữa chờ thêm khách hàng cho đủ chuyến. Xe đánh thêm một vòng rồi hai vòng… hy vọng vớt người đến trễ. Anh tài xế, con người khá đứng tuổi, ăn mặc xịt xạt, gương mặt rám nắng trông có vẻ phong trần, giương đôi mắt sáng quắt diều hâu, láo liêng quét nhìn bên phải trông về phía trái rồi đăm chiêu thẳng hướng trước mặt. Trong khi đó, anh chàng thanh niên trẻ măng làm lơ xe, quần tây rằn ri của thủy quân lục chiến ngày xưa quá bạt màu, áo sơ mi vá đùm vá đụp để banh ngực, hai vạt áo te tua đong đưa theo gió, tay nắm chặt cánh cửa xe đánh đeo gọn hơ, đưa tấm thân mảnh khảnh gầy guộc của mình vắt vẻo bên ngoài. Miệng anh ta không ngớt thốt lời mời mọc, thúc hối đám đông đang lố nhố hai bên lề đường đầy rác rưới:


- Xe chạy rồi bà con ơi. Hậu Giang đây… Hậu Giang đây... Chỉ còn vài chỗ trống. Bà con mau lên, mau lên...

Tài xế vừa cho xe chầm chậm quẹo ra quốc lộ 4 nhưng vẫn còn núm níu như đợi chờ coi có vớt vát thêm được một vài hành khách nào đến muộn cho đỡ phần xăng dầu đang khan hiếm, mắc giàn trời giàn mây. Một giọt xăng là một giọt máu! Trên xe, hành khách chưa ổn định hẳn, đang trao đổi huyên thuyên với nhau không dứt. Có vài người tranh giành chỗ ngồi nên cãi cọ to tiếng, lời lẽ khó nghe chướng tai. Bỗng tài xế thắn vội xe lại rồi từ từ tắp vào lề chạy chầm chậm vì không dám đậu hẳn sợ bị cảnh sát giao thông mặc bộ đồ vàng nghệ nên bị dân chúng không ưa bảo là «chó vàng», «bò vàng», mặt mày hảm tài sẽ không tha, làm biên bản phạt rất nặng, nếu anh không biết điều trà nước.

 Anh tỏ con mắt lắm, đã thấy từ quán lá phía trước có người vội vàng chạy ra đưa tay khoác lấy khoác để đón xe. Khi gần đến nơi, anh lơ xe hấp tấp thò tay ra ngoắc ngoắc, níu cánh tay khách đang chạy lúp xúp theo xe để kéo mạnh lên rồi đẩy ngay nhanh gọn vào phía trong xe. Cái cảnh bắt mối nầy quả thật nguy hiểm vô cùng, nhưng anh lơ xe đã quen như vậy hằng mỗi chuyến rồi, vì cái trò đánh đu bất đắc dĩ nầy có mới mẻ gì đối với anh đâu. Anh vẫn tươi cười sản khoái, dường như ưng ý lắm với cái thành tích «thần sầu quỉ khóc» quá ư điêu luyện của mình. Những khách được vớt vát vào giờ chót nầy là phần cơm nước của anh và tài xế vào buổi trưa khi xe chờ qua bắc Mỹ Thuận hay bắc Cần Thơ. Người hành khách trẻ tuổi, ăn mặc lềnh xềnh xoàng xỉnh nầy chẳng ai khác lạ hơn chính là Hoàng Hùng. Sau những ngày thọ tang bà nội xong xuôi rồi lang thang cả hai tuần lễ liền ở Sài Gòn để thăm cảnh cũ người xưa, hôm nay anh quyết định làm một chuyến di hành về Bặc Liêu - Cà Mau tìm thăm người trong mộng, cùng bối cảnh thân thương đã cách biệt hơn mười năm về trước.

Anh chưa kịp định thần sau cái pha níu kéo nguy hiểm của anh lơ xe vừa rồi. May là anh còn trẻ, chân cẳng cứng cáp, giá nếu là người trọng tuổi thì tai nạn có thể xảy ra trong đường tơ kẽ tóc, không sao lường được. Vừa ổn định chỗ ngồi xong trong không khí nóng nực đông người, anh đưa mắt nhìn về phía bên tay trái mình và thích thú nhận ra không mấy khó khăn bà Thảnh, người đàn bà tình cờ anh gặp trong chuyến máy bay từ Mỹ về Việt Nam cách đây vừa hơn một tháng.

Anh khấp khởi vui mừng và cả hai cùng chung một cảm giác lâng lâng sung sướng được gặp lại một lần nữa, cũng trong tình cờ của thiên duyên. Câu chuyện hàn huyên tính cẩn bắt đầu, mặc dầu chiếc xe đò thuộc loại cổ lổ xỉ nặng nề không ngớt rên rĩ như muốn hụt hơi trên đoạn đường dài. Chưa nói lắm lúc hành khách bị xe nhồi sóc do sụp những ổ gà giăng mắc đó đây do tuyến đường huyền thoại huyết mạch từ thời thực dân xa xưa nầy không được «nhà nước cách mạng» chiếu cố trùng tu bảo quản đúng mức. Vì ngày ngày họ chỉ lo móc nối cấu kết nhau cướp đoạt tài sản dân lành và bòn rút công quỹ bỏ túi riêng, làm giàu bất chánh.


- Bác trở về Nam được bao lâu rồi vậy? Công việc cải táng bác trai ở miền Bắc, bác đã thành công viên mãn? Bác đã hoàn toàn toại nguyện?

- Bác may mắn được ơn trên và tổ tiên dòng tộc độ trì nên mọi việc đều xuôi chèo mát mái. Bác chẳng mất bao nhiêu thì giờ nên có thời gian để về thăm quê hương hôm nay. Cũng may. Nếu phải ở lâu thêm càng chướng con mắt. Mà ở thời buổi ganh đua dẫm đạp lên nhau, tranh giành móc ngoặc làm giàu bất lương bất chánh nầy, nhất là ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, «đỉnh cao trí tuệ của loài người», mọi việc đều trôi chảy, chẳng qua nhờ đồng tiền lót đường lót xá. «Có tiền mua tiên cũng được», có đồng tiền đi trước thì mọi cánh cửa đều mở toét ra trống huơ trống hoác cả mà. Việc gì cũng qua, dù khó khăn cách mấy.


Bà bỗng nhíu mày ra chìu suy nghĩ:

- Bác không biết mình có nên nói ra đây hay không? Bác chỉ sợ mang tội, nhưng không nói ra cho hả hơi, lòng cứ ấm ức hoài. Lớn, chúng nó ăn theo lớn, nhỏ ăn theo nhỏ. Đàn anh mưu mô lột đến da non thằng em. Thằng em lươn lẹo hoạch họe, đè đầu đè cổ lật lưng đám dân đen thấp cổ bé miệng, có miệng ăn để cầm hơi hằng ngày nhưng không có miệng nói. Đám cán bộ trách nhiệm từng «khâu» từng chặn tham nhũng thầy thuốc giỏi đến đâu cũng chạy te từ lâu, không còn thuốc nào chữa được nữa. Bác nói thật chớ không hề thêm bớt mà mang tội. Bọn tép riu ngoài đó chúng nó như đám lòng tong cá chốt đua nhau rỉa mồi. Còn lớp chóp bu đầu xỏ như đám cá tra cá vồ ăn bẩn nhun nhúc được nuôi nơi các xẻo các ao hay kinh mương ở «miệt vườn» phương Nam mình, cứ há mồm há miệng đớp đầy bụng no cành hông mà vẫn còn tiếp tục há miệng há mồm lồng lộn lên mãi.


Anh lơ xe giờ nầy bắt đầu chen lấn khó khăn giữa các hàng ghế xích xao để thâu tiền những người đến trễ vào giờ phút chót. Như trường hợp của Hoàng Hùng. Bà Thảnh ngừng câu chuyện chờ cho Hoàng Hùng thanh toán xong tiền xe mới tiếp tục:


- Bác thiêu hài cốt ổng và mang hũ tro về Sài Gòn, dù sao cũng là nơi chôn nhao cắt rún cội nguồn của ổng. Ổng sanh trưởng trong một gia đình khá giả lâu đời ở Hòa Hưng, có một thời gian dài lớn lên ở vùng Tân Hòa Đông, Tân Hóa, quận Sáu, đi học nơi trường tiểu học bổ túc Phú Lâm mãi đến khi đậu cấp bằng sơ học nên bác xem như ổng trưởng thành ở đây, vùng cực Nam Đô thành. Do vậy, bác nghĩ nên mang ổng về với chéo đất ngày xưa để được ấm cúng về mặt tâm linh tình cảm đối với người bất hạnh. Bác đem gởi tro ở chùa Giác Hải, Phú Lâm và nhờ vị sư già chủ trì sớm hôm nhan khói cho ổng. Như vậy bác an tâm trở về Mỹ, mà bác có linh cảm là bác trai cũng toại nguyện bằng lòng không phải bỏ thây nơi vùng xa lạ, đất đai của kẻ thù cũ. Không biết bác có hẹp hòi hay không, nhưng dù sao chắc bác trai không khỏi đau buồn khi phải sống chung với những người không còn tim óc, đã hành hạ bác ấy đến kiệt quệ.


Bà day qua hỏi Hoàng Hùng:

- Còn cháu, sao hôm nay đi đâu vậy? Chắc cháu có bà con thân quyến ở “miệt vườn” thì phải? Hay là cháu muốn lợi dụng những ngày ngắn ngủi còn lại để viếng thăm một vài nơi của xứ sở cho biết có sự thay đổi gì chăng? Kẻo khó có dịp trở lại…


Hoàng Hùng sau một thoáng trầm tư rồi lễ phép đáp:


- Cháu qua bắc Mỹ Thuận xong chắc sẽ chia tay bác để lấy mấy chuyến xe đò lỡ Vĩnh Long đi Cần Thơ rồi trực chỉ đến thị trấn Cà Mau, vừa tiện vừa nhanh. Như bác biết, Cà Mau ngày xưa thời thực dân Pháp thịnh hành là một quận của tỉnh Bặc Liêu, về sau dưới chánh thể Đệ nhứt Cộng hòa được nâng lên cấp tỉnh và được đổi tên là An Xuyên. Hồi còn mài đủng quần ở ghế nhà trường tiểu học, hình ảnh Cà Mau đập mạnh vào tâm trí non nớt của cháu qua chéo đất nhọn quắt nhô ra xa về phía nam biển Thái Lan. Nơi mũi Cà Mau nầy cháu có giữ khá nhiều kỷ niệm khó quên hồi thanh xuân sau tháng Tư Đen 1975, nhưng từ ngày vượt biên thành công rời Việt Nam cháu chưa một lần trở lại.



- À, cháu về đó tha hồ mà ăn mệt nghỉ loại cá kèo, con nào con nấy to bằng ngón tay cái người lớn, bụng dạ trưu trứu phồng trương béo bổ, ăn vào sẽ nhớ đời. Nào canh chua cá kèo nấu với bông so đũa còn búp vừa đăng đắng vừa nhân nhẩn. Thêm lẩu cá kèo với nước lèo thơm ngon đang sôi sùn sụt thả cá kèo còn nhảy soi sói vào vừa chín tới, ăn thâm thúy làm sao. Bác nói thật với cháu lẩu mắm cá kèo nầy chỉ nhắc tới tên thôi bác đã thấy phát thèm còn hơn cao lương mỹ vị ở các cao lầu của người Tàu trong Chợ Lớn. Bên Mỹ, bà con mình ăn toàn cá kèo đông lạnh nhập cảng từ Thái Lan, mùi vị nhạt nhẻo ăn chẳng ra làm sao. Nhiều khi đông lạnh không đúng mức, bụng cá bể tơi ra, mà cá kèo không ăn cái bụng còn gì thích thú nữa.


Đương trớn nhắc nhớ những món ăn có một không hai của địa phương mình, bà cười ngỏn ngoẻn tiếp tục sướng miệng:

- Còn ba khía nữa nghen cháu. Thức ăn độc đáo của Cà Mau! Mà món ăn mặn mòi đậm đà đó cũng có một không hai của vùng ngập nước rừng tràm, rừng đước, rừng mắm… đã nuôi dưỡng biết bao thế hệ lao nhọc, lớp người nghèo khổ bất hạnh trong xã hội nhiễu nhương bon chen, hầu như bị người ở chốn thành thị thờ ơ lãng quên. Loại ba khía Cà Mau không nơi nào sánh bằng, nhứt là ba khía vùng Đầm Dơi, Đầm Trích, Năm Căn, Bãi Hạp, Cái Nước, Rạch Gốc, Trèm Trẹm, Sông Ông Đốc… nổi tiếng khắp các tỉnh đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Bác chắc đã là người miền Nam ai mà không một lần thưởng thức. Nhằm nhò gì các loại ba khía ở Châu Đốc, sở dĩ được người Sài Gòn biết đến chẳng qua nhờ các ông bà chủ vựa giàu có, khéo léo quảng cáo rầm rộ, kết hợp với các loại mắm đồng, mắm thái, mắm ruột của họ thôi. Ba khía Cà Mau phải ăn với thịt ba chỉ luộc vừa chín tới, kèm với rau sống tạp nhạp, thêm chút ít lá lụa, lá đọt mọt, đọt xộp, cốc kèn, khế chua, chuối hột chát, bần ổi đúng lứa xắc mỏng ăn quên thôi. Hơn nữa nhờ vị chua chua của loại chanh xanh, cay cay của ớt hiểm ớt chim và chất ngọt dìu dịu của đường cát làm tăng thêm khẩu vị nhớ mãi.



- Mấy món ăn địa phương chơn quê đó cháu đã từng thưởng thức xuyên suốt hai ba năm trường sau 1975 mà hương vị đến nay vẫn còn vấn vương luyến lưu trong cháu, khiến cháu không thể không trở lại đây một lần, xem như kỳ nầy là lần cuối cùng trong đời cháu vậy. Nghe bác kể tỷ mỷ rạch ròi mấy món ăn quê hương vừa rồi, cháu đoán bác nhứt định phải là người Cà Mau cũng lâu đời lắm. Bác lại tha thiết chắc chiu như vậy hẳn bác phải thực sự thương yêu sâu đậm đất nước Cà Mau!


- Cháu vui tánh quá, chỉ qua vài món ăn mặn mòi quê mùa cục mịt mà vấn vương thấm thía đến như vậy. Nghĩ cũng ngộ đối với lớp trẻ mới tấn lên như cháu. Lớp nầy hiếm hoi lắm, họa hoằn đôi dịp may mắn mới được gặp thôi. Bây giờ xã hội có quá nhiều thay đổi, tình cảm gắn bó với hương đồng vị đất, với kinh mương ao hồ cố thổ nhẹ hêu do phải chạy đua theo cuộc sống vật chất thúc bách hằng ngày.


Đến đây bà trở lại câu hỏi của Hoàng Hùng vừa chợt trở về trong tâm trí:

- Cơ khổ không! Bây giờ bác mới nhớ. Quả đúng như nhận xét xác đáng của cháu, bác chính là người dân Cà Mau rặc nòi từ thời cố hỉ cố lai hay xa hơn nữa. Không có lai Tiều lai Quảng chi cả, vì ở vùng đất mới nầy người Tiều người Quảng, nhứt là người Triều Châu sống đông đúc và lâu đời lắm. Họ thường có quan hệ cưới hỏi qua lại với người Việt mình. Bác từng sinh sống ở đây thuở còn là con gái, mãi cho đến khi gặp bác trai cũng ở nơi đây, khi bác trai lúc đó mang cấp bậc trung úy đang thi hành nhiệm vụ giữ trật tự an ninh và tái thiết vùng cuối mũi quê hương. Nơi đã được chỉ định để cán binh Việt Minh xuống tàu của các «đồng chí» Ba Lan tập kết ra miền Bắc năm 1954 theo tinh thần hiệp định đình chiến Genève. Bác đụng ổng và ưng ổng trong một lần tham gia buổi lễ khánh thành cơ sở hành chánh, có tổ chức liên hoan đờn ca hát xướng ngay trung tâm tỉnh lỵ và sau đó mọi việc đều suông sẻ do không có gì rắc rối giữa hai gia đình. Quả thật là số mạng đó cháu.


Đôi mắt bà đườm đượm một nét buồn sâu kín và giọng nói bà bỗng dưng nhỏ dần vừa đủ cho nhau nghe:

- Mà nói thật với cháu, bác đâu có diễm phúc được sống ở thị trấn Cà Mau đâu. Trái lại số phần hẩm hiu đưa bác đầu thai trong một gia đình nông dân tay làm hàm nhai đủ sống đắp đổi qua ngày tận vùng sâu sông nước của cảnh thổ Đầm Dơi hoang địa, khỉ ho cò gáy, quanh năm vo ve muỗi mồng. Chỉ cần nghe đến cái tên thôi cũng đủ cho những người chưa từng sống ở đây lạnh mình ớn xương sống. Bây giờ nhắc đến thời gian cơ cực sớm nắng chiều mưa trần thân khổ ải nầy bác còn tởn như mới ngày hôm nào.


Nét mặt bà vụt đổi sắc, hân hoan:
- Nhưng được một cái là dường như ông trời rất mực công bình nên ban bố cho mọi người trên cõi đời nầy cái luật bù trừ. Tuy vất vả, lao đao lận đận thật đó, nhưng cảnh thổ gọi mời quyến rủ của Cà Mau, những sanh hoạt đầu đời ở đây cùng với ẩm thực quê mùa của lớp người nghèo sặc máu, đã cột chặt khắng khít bác với cuộc đất ấy để in dấu vĩnh viễn trong lòng bác không thể nào quên được. Người ta nói đó là cội nguồn gốc rể, bác không đủ chữ nghĩa để nói lên đầy đủ nỗi lòng thầm kín của mình, nhưng thời gian ly hương nơi đất Mỹ tạm dung, nó cứ trăn trở khơi dậy nơi bác để nhớ để thương, để tìm về hôm nay đó cháu.


- Cà Mau với Đầm Dơi, Năm Căn, Cái Nước… những nơi đó cháu cũng đã từng đi qua ít lắm đôi ba lần khi phải ép lòng rời Sài Gòn đi tìm sống sau 1975. Hôm nay cháu trở lại đây không phải tìm sống mà đi tìm lại kỷ niệm xưa, vừa êm đềm vừa thi vị.

- Mà cháu còn bà con hay người quen nào ở đó không?

- Thú thật với bác, cháu không có ai cả, trừ một gia đình cháu đã thất lạc hơn mười năm nay, dù trong thời gian khá dài nầy cháu đã viết bao nhiêu thư từ mà vẫn không nhận được một tin tức hồi âm nào cả. Cháu cũng có nhờ người thân thuộc hoặc quen biết ở Sài Gòn tìm kiếm nhắn tin cũng chẳng có kết quả. Mà như bác biết, cuộc sống ở Việt Nam lúc đó quá đỗi khó khăn khắc nghiệt, chạy ăn từng bữa thiếu điều hụt hơi, đâu có ai rảnh rổi để tích cực lo giúp cháu, mặc dù họ đều có tình có nghĩa. Lần nầy đích thân cháu thử thời vận vậy. Không biết ông trời có chìu lòng người hay không.


Hoàng Hùng đưa tay lên nhìn đồng hồ, thầm đoán chắc cũng đã đi được một nửa đoạn đường, bỏ lại khá xa thành phố Sài Gòn, tuy đó đây có thay đổi ít nhiều nhưng thực sự mà nói không quyến rủ và cám dổ đối với anh. Anh để ý nhìn hai bên đường thỉnh thoảng có những ngôi mộ song hồn bằng đá mài óng ánh, đẹp đẽ bề thế, có mái lợp kiên cố giữa vuông đất rộng trồng hoa sắc màu rực rỡ, không khác những ngôi mộ ngày xưa của những người giàu có khét tiếng ở vùng châu thổ Cửu Long.


Tiếp nối cách khoảng nhau có những nhà gạch kinh dinh khang trang, sừng sững giữa những ngôi vườn thênh thang xanh um cây trái trỉu cành nối đuôi nhau đua chạy đến chóng mặt, cứ thụt lùi về phía sau xe. Có cái chủ gia còn chơi trội, cơi lên lầu một lầu hai kiên cố với kiến trúc thẩm mỹ tân kỳ không thua bao nhiêu nhà cửa bên Âu Mỹ. Người đàn ông trọng tuổi ngồi cạnh bên anh tỏ ra biết chuyện chọt miệng bảo là do con cháu vượt biên ngày trước, nay ăn học thành danh thành tài, làm ăn khấm khá phát đạt, gởi tiền về báo hiếu để cha mẹ sống những ngày cuối đời được thảnh thơi nhàn nhã. Ông ta lại bồi thêm những nhận xét không chút dè dặt, chẳng tỏ ra sợ hãi chính quyền, khiến Hoàng Hùng bùi ngùi xao xuyến trong lòng:


- Đó là cái mặt nổi để trang trí bên ngoài của xã hội bây giờ. Đó là cuộc sống của những người may mắn hiếm hoi, hưởng thụ công đức tổ tiên hay kiếp trước có tu. Đó cũng là nếp hưởng thụ của những nhà tư bản đỏ, cán bộ đảng viên sau cuộc «đổi đời» vinh vang giàu sang nứt trứng. Chớ thực sự, nếu thầy có dịp nào đặt chân vào vùng sâu hẻo lánh hay những xóm nghèo phu phen chen chúc ở các đô thị, thầy sẽ thấy ngay và thấm thía với cái mặt trái của chế độ, của người dân đáng thương, những người được đảng áp đặt cho các mã «chủ nhân ông của đất nước», nhưng họ xác xơ rách bươm…


Hoàng Hùng không dám biểu lộ và trao đổi tình cảm của mình do cẩn thận tai vách mạch dừng. Anh sợ lỡ bị liên lụy thêm phiền phức. Một khi bị kẹt lại Việt Nam lâu ngày, anh sẽ mất việc làm thêm khổ cho gia đình. Anh ngồi im lắng tai nghe xong, không phê phán rồi day qua bà Thảnh đánh lãng:


- Tới đây cháu nghĩ chắc bác sẽ đi thẳng về Đầm Vơi?


- À, quả đúng như vậy. Bác đã nhắn người nhà nhớ đến ngày nầy chèo ghe ra đón. Giờ đây chắc họ cũng đã rời bến nước sông nhà. Ở vùng đất sông nước chằng chịt như mặt nia, chỉ có ghe xuồng là phương tiện di chuyển duy nhứt mà thôi. Về đến nhà cách thị trấn Đầm Dơi ít nhứt cũng phải vài tiếng đồng hồ đường nước, nhưng phải bơi tận lực tận tình. Mà chiếc xe cà tàng chạy ì ạch, cứ cà rịt cà tan như vầy hoài về được đến nhà cầm chắc sẽ vào lúc chạng vạng tối đỏ đèn. Ối, bác cũng đã quen với cảnh nầy rồi, sớm hay tối không thành vấn đề, chỉ mong sao cho mau đến nơi, vì bác nôn ruột lắm muốn sớm gặp lại đông đủ bà con cách mặt từ lâu, hơn cả một kỷ chớ phải chơi đâu cháu.


Bà Thảnh có vẻ ái ngại nên hơi ngập ngừng:

- Lúc nãy, cháu có nói cháu chưa biết phải ở nơi đâu khi đến tỉnh lỵ Cà Mau? Bây giờ Cà Mau không phải như xưa đâu. Thay đổi nhiều lắm, do từng lớp cán bộ và bè lũ gia đình ngày trước nghèo rớt mồng tơi, trốn chui trốn nhủi trong bưng biền, rừng rậm nay trở về cướp đất cướp nhà sống phè phởn trên nỗi đau của người dân.Theo thư của em bác gởi qua Mỹ trước đây có kể những người cố cựu hầu như không còn bao nhiêu. Đa số đều tản lạc khắp nơi mất dấu. Không biết sống chết ra sao.


Bà vụt nắm lấy tay Hoàng Hùng trong thân tình:

- Thôi thì sẵn đây, bác mời cháu cùng về Đầm Vơi với bác cho vui. Gia đình em bác và các cháu bác hiếu khách lắm, dù có «đổi đời» nghiệt ngã cách mấy nhưng chúng nó vẫn giữ nguyên vẹn nề nếp, truyền thống tốt đẹp gia đình xưa, không bị nhiễm những thói hư tật xấu tai hại của chế độ mới. Mà thật ra bác chỉ ở lại đây năm ba ngày tối đa là cùng, do còn trở về Sài Gòn cho kịp chuyến bay về Mỹ. Thủ tục vé, bác đã nhờ người bà con làm xong xuôi cả rồi. Cháu đừng ái ngại chi cả, đã quen và hiểu nhau thì kể như người thân trong gia đình cả.


Hoàng Hùng nhíu mày suy nghĩ. Anh lưỡng lự khi nghĩ đến điểm đến còn lờ mờ. Anh không khỏi ngỡ ngàng với những thay đổi sau nầy của Cà Mau. Cuối cùng anh vui vẻ nhận lời đi theo bà Thảnh xem như một chuyến du lịch trong thân tình không tính trước, còn mọi việc dự tính về sau sẽ tính sau.


**


Chiếc ghe trông cũng bề thế nhưng nhuốm màu thời gian qua bao nhiêu năm tháng dài tận tụy phục vụ không ngừng nghỉ chủ. Nó chầm chậm len lách lướt qua từng dãy gừa cổ thụ đứng im lìm rũ rượi dọc theo hai bên bến sông. Những rễ con mảnh mai dài sọc, lòng thòng buông thỏng đong dưa gần chí dòng nước, khiến khách trên ghe từng chập từng chập phải giở nón cúi đầu tránh né. Quang cảnh chung quanh vườn êm đềm tĩnh mịt lạ lùng, đến độ mọi người đều nghe rõ cả tiếng mái chèo va chạm nhẹ nhàng trầm đều vào thành ghe. Chỉ có tiếng chim quen thuộc thỉnh thoảng tranh nhau ríu ra ríu rít không thôi, dường như sung sướng cùng nhau ứng lên chào đón khách lạ. Cuối cùng chiếc ghe chở khẩm đến mí be đang từ từ chỉa mũi thẳng vào bến nước, nơi có cây cầu rửa chén chắc chắn làm bằng thân tràm gốc to, một loại cây quen thuộc của vùng sông nước nơi nầy.

Anh bạn trẻ bơi ghe mạnh khỏe lanh lẹ lắm nhưng chưa kịp nhảy thót lên bờ để cột ghịt mũi ghe vào cầu nước thì đã có tiếng con chó cỏ nhỏ thó, thính tai, to tiếng sủa vang báo hiệu có khách lạ viếng nhà. Tiếng sủa dồn dập cấp bách đó của nó báo động cho cả gia đình biết bà Thảnh đã về đến nơi. Bà Thảnh lật đật bước gọn lên bến trước tiên và nhanh như chớp, bà chạy một mạch đến ôm chầm lấy ông em, con người quá rám mùi phong trần, dáng thể không thua một nông dân cố cựu suốt cả đời cặm cụi lủi thủi đi theo sau đít trâu ngày trước. Bà quên phứt người khách quý của bà là Hoàng Hùng đang lúng túng, ké né bở ngở chưa biết phải tiến thoái và xử sự ra sao cho phải đạo. Tiếng bà nghe rõ ràng:


- Trời ơi, trông cậu phong trần quá, chị nhìn muốn không ra. Chị đâu có ngờ vì không sao tưởng tượng được sự tàn phá của thời gian phũ phàng như vậy. Giá nếu gặp cậu ở một nơi nào khác, không phải là nhà cậu, chắc chắn chị không nhận được đâu. Gặp lại cậu hôm nay, chị mừng quá đỗi mừng. Anh em còn gặp lại được là phúc đức tổ tiên ông bà rồi. Gia đình mình không còn bao nhiêu người. Ngó qua ngó lại, bà con tông tộc xa xa một chút, nhứt là mấy bác mấy chú đều không còn nữa. Thôi mau vào nhà anh em sẽ tâm sự nhiều hơn, vì thực ra mình không có nhiều thì giờ bên nhau đâu.


Bây giờ bà mới hoàn hồn, lấy khăn tay chậm lấy những dòng nước mắt sum hợp trông đợi từ bao nhiêu năm qua, rồi ngoái nhìn phía sau, đưa tay chỉ về hướng Hoàng Hùng đang đứng một mình, rỉ tai người em:


- À, chị quên giới thiệu với cậu, đây là Hoàng Hùng, người cùng hoàn cảnh ty nạn chính trị với chị ở Mỹ, trước đây cũng chung cảnh ngộ vượt biên tìm tự do như gia đình chị. Nay chị tình cờ gặp trong chuyến máy bay về Việt Nam và nhứt là trong dịp về Cà Mau kỳ nầy nên có nhã ý mời theo chị về Đầm Dơi vài ngày cho vui. Luôn thể quen biết và thăm gia đình cậu. Ở đời theo chị nghĩ càng có thêm nhiều bạn bè đồng tâm đồng cảm càng tốt.


Bà xác nhận:

- Hùng rất bặt thiệp, tánh tình vui vẻ, chơn chất hiền hậu, dễ thương lắm. Chị rất mong cậu ưu tiên giành thì giờ tiếp đãi Hùng trọng hậu như một khách quý theo đúng tập tục gia đình, ông bà dòng tộc xưa của mình. Và nhớ bảo bầy trẻ sắp xếp chu đáo hướng dẫn Hùng đi thăm những cảnh đẹp của xứ mình để Hùng thêm luyến lưu quê hương Việt Nam.


Bữa cơm chiều sum hợp đoàn tụ khá «thịnh soạn» trong sự cố gắng vượt bực của chủ nhân ép bụng tổ chức đúng điệu nghệ người dân Nam Kỳ Lục Tỉnh. Cho dù họ sống chật vật hằng ngày, vợ con nheo nhóc nhưng rất mực hiếu khách, tỏ ra vui sướng không ngại tốn hao, dám chi tiêu đãi đằng khách quý nhằm trang trải, thể hiện tấm lòng rộng rãi, phóng khoáng hào hiệp của mình, thà «nhịn miệng đãi khách», bất kể ngày mai ra sao sẽ tính sau. Mà thực sự cũng chẳng có chi cầu kỳ cho lắm ở thời buổi đắc đỏ, đời sống nơi vùng kinh tế mới hắc ám quá khó khăn, ngày ngày làm việc túi bụi mà không tạo ra tiền. Không ngoài khô cá kèo to béo với độ mặn vừa phải, nướng lửa lò than đước, trộn với dưa leo dưa chuột, củ cải trắng xắc mỏng làm gỏi nhâm nhi khai vị.


Sau đó là món ăn chánh, món ăn độc đáo của địa phương, ba khía Cà Mau vùng Rạch Gốc ăn với chút ít thịt đầu heo luộc, gồm một chéo lỗ mũi, một cái lỗ tai, kỳ dư toàn là thịt nọng mỡ cả chóng, xem ra cũng sang lắm. Loại thịt nầy cả đôi ba tháng mới thấy trong bữa ăn, dù được mua chui, nhưng cũng phải cẩn thận căn dặn đặt trước đó cả tuần lễ hơn mới có. Bà Thảnh vừa ăn vừa khen ngon đáo để vì bà vừa tìm lại hương vị trông chờ của thời thanh xuân bà bất đắc dĩ đã để vuột sau lưng mình quá lâu. Trong lúc đó mấy đứa cháu nhỏ của bà cũng bằng lòng được tham gia bữa ăn thịnh soạn nầy, khi chúng nó hồi tưởng những bữa ăn quen thuộc trước đây, từng đối diện với tô canh rau lỏng bỏng vài miếng thịt nhỏ hếu bằng mút đũa. Chúng nó lý lắc bảo còn thua xa Trư Bát Giái lội biển Thái Bình Dương. Vừa ăn, bà vừa day qua phân trần với Hoàng Hùng:


- Không biết bác có hẹp hòi cục bộ, nặng đầu óc địa phương hay không? Ba khía Rạch Gốc thật tình ngon tuyệt.

Dĩ nhiên, Hoàng Hùng cũng không ngớt lời ngợi khen nhưng trong chừng mực, không quá trớn quá đà. Nhân trong những câu chuyện qua lại huyên thuyên, bà Thảnh bắt đầu giới thiệu thêm về em mình để Hoàng Hùng cảm thông, không còn ngỡ ngàng lúc sơ giao:


- Em bác đây là Đống Hữu Thời, bà con chòm xóm ngày trước thường quen miệng gọi là Bảy Thời. Ba má bác thích đặt tên con khởi đầu bằng chữ «Th» vì hai ông bà cho rằng những người nầy thường là những người đổ đạt thành danh trong tỉnh hoặc ít ra cũng có cuộc sống khá giả thoải mái. Thời là con thứ bảy trong gia đình trong khi bác là chị thứ hai, chị cả. Gia đình bác đông anh chị em lắm, trai có gái có đầy đủ, nhưng hiện chỉ còn vỏn vẹn có hai người là bác và Thời, như cháu thấy đó. Mấy đứa em khác của bác có đứa chết trẻ và có hai đứa hy sinh trong cuộc chiến vừa qua trong màu áo địa phương quân và nghĩa quân của tỉnh nhà.


Tiếng thở dài của Bảy Thời khi anh cất lời như muốn cho không khí bữa ăn mất phần vui nhộn:

- Thôi! Chuyện cũ hơi nào mà chị nhắc lại càng thêm buồn! Sẵn có Hùng đây nên để cuộc vui được trọn vẹn.

Nhưng bà Thảnh dường như không nghe, tắc lưỡi ngao ngán:


- Cháu thấy em bác sa sút thê thảm, rất mực phong trần như vậy, nhưng trước đây không phải như vậy đâu. Cũng đường đường lẫm liệt là một ông chủ tiệm buôn dụng cụ văn phòng và sách báo duy nhứt trong tỉnh, chớ phải chơi đâu. Bản hiệu Thời Thế là tên ghép của em và cháu bác, một thời ăn nên làm ra phát đạt lắm. Sau tháng Tư Đen bỗng dưng mất nước, em bác bị cộng sản ập vào đánh tư sản mại bản te tua, tơi bời hoa lá. Và cái chân trời đen tối bế tắc của nó là bị đuổi đi sản xuất tự túc khỏi thị trấn Cà Mau. Em bác bị tấn vào chân đường, nhà cửa tài sản bị cướp sạch sành sanh, trắng tay trong phút chốc phù du mới lui về phía quê vợ tạm lánh thân, nương tựa tìm sống cho đến tận ngày hôm nay. Đúng theo câu nói dân gian được truyền tụng: «thắng về nội, thối về ngoại».


Bà ngừng một chút rồi tiếp:

- Niềm đau tột cùng nầy của nó chẳng qua là kết quả của lòng tham lam vô bờ bến và mối hận thù giai cấp vô giới hạn của đám cộng sản nghèo «rã bành tô» ở rừng sâu vừa chóa mắt về thành phố sang trọng, đầy đủ tiện nghi. Cũng may, nhờ bác đi lọt được ra ngoại quốc, thỉnh thoảng nhờ ky cỏm chắt mót tiền trợ cấp xã hội nên gởi về chút ít chi viện. Nếu không, nó còn rã bèn hơn nữa, mà chưa chắc có sống sót được đến bây giờ.


Nghe bà Thảnh dong dài như vậy, Hoàng Hùng bán tính bán nghi, khi anh trực nhớ đến cái họ Đống của Diễm Lệ rồi tự nhủ thầm không biết bà Thảnh và ông Bảy Thời nầy có họ hàng chi không với Lệ. Anh để ý lắng tai nghe kỹ câu chuyện hàn huyên chan chứa tình nghĩa thương yêu ruột thịt giữa hai người, nhưng tuyệt nhiên không hề nghe người trong cuộc xa gần hở môi nhắc đến tên Diễm Lệ.


Dù vậy, anh vẫn tiếp tục bình thản theo dõi, không một lời hỏi han trong khi bà Thảnh xoay qua Bảy Thời:

- À, chị quên hững, thật vô tình vô duyên đáng trách quá. Còn thằng Thế và con Lệ đi đâu hết trơn hết trọi, tối bưng rồi sao không thấy bóng dáng chúng nó đâu cả? Thằng Thế hồi chị đi nó còn nhỏ hếu, bây giờ hẳn đã nhổ giò lớn gộc, chồng ngồng? Còn con Lệ nữa, chắc trổ mã đẹp gái lắm? Hồi nhỏ nó cũng đã đẹp rồi, chị nói cũng bằng thừa…


Bảy Thời hướng về phía hiên nhà, nhìn hàng cây quặc quà quặc quại không thôi ngoài trời tối sẫm:

- Bầy trẻ nhờ trời thương, dù ăn uống thiếu thốn kham khổ nhưng khoẻ mạnh như trâu cui trâu cổ, mấy năm gần đây chẳng hề đau ốm bệnh hoạn chi cả. Không hề nhức đầu hay ho hen. Xứ nầy lở mang trọng bệnh đành cam chịu chết, chớ biết đào đâu ra tiền để chạy chữa thuốc thang. Còn nhập viện, chỉ nghe nói đến cái tên đã rùng mình ớn lạnh xương sống. Chi phí chữa trị vốn đã cao không sao vói tới, còn phải có tiền lót đường từng chặn. Ngay đến tên gát cửa bệnh viện cũng kèo nèo hạch xách làm khó làm dễ đủ điều đến phải lòi tiền. Hôm nay, tụi nó theo mấy «hộ» gần đây đi bắt ba khía từ chiều hôm chạng vạng. Mùa nầy nước ròng bắt đầu sớm, khoảng tám chín giờ tối, mà chị hẳn nhớ bắt ba khía phải bắt vào ban đêm lúc nước ròng, nước càng sát đáy rạch, lòi bãi sình càng tốt.



Bà Thảnh lên tiếng phản đối:

- Cậu làm như chị mất gốc bỏ nguồn quên hết trơn hết trọi hay sao? Ngày xưa chị cũng từng đi bắt ba khía, dẫm nát các bãi bồi mà! Nơi nào chị vẫn nhớ như in. Chị quên sao được những đêm lội sình, áo quần lấm lem, mấy đầu ngón tay đều vọp hết. Mà những hình ảnh nơi quê mình như con nhái oé, con cá sặc lò tho, cái phảng cổ cò cổ diệt, con trâu cui trâu cổ đến cái lờ cái trúm bắt lươn… những con vật và dụng cụ đó ngày nay có thể không còn nữa do sinh hoạt biến hóa không ngừng trong xã hội hiện đại, có thể lớp trẻ mới tấn lên sau nầy chưa một lần nghe qua, lại in đậm nét trong chị. Những người học rộng hiểu sâu đa số họ thương yêu nước Việt qua văn chương chữ nghĩa hay qua những công trình nghiên cứu tầm nguyên sâu rộng, nhưng chí tình chị không biết có đậm đà thấm thía bằng chị hay không. Những hình ảnh và tập tục xứ mình làm cho chị không sao quên được quê mình để mãi mãi yêu thương nhung nhớ. Mai kia nếu chị có già đi mới tan biến nơi chị.


Ông Bảy Thời day qua Hoàng Hùng làm như không nghe lời phản đối nhẹ nhàng cũng như tâm tình của bà chị:

- Trần thân lắm cháu ơi. Chân thì lội sình, đôi khi chí đầu gối, mỗi lần rút chân lên không dễ dàng chi đâu, đôi khi chúi nhủi xiểng niểng mà tay phải cần nhanh lẹ kẻo nghe động tịnh, ba khía thính lắm, chúng nó chui rút mau xuống hang ngay. Chụp nó phải lẹ làn, bất kể bị nó kẹp tay khi vẫy vùng thoát thân. Mình là người thành thị, chân ướt chân ráo về đây tập tành nghề mới bắt ba khía nên trật vuột đã đời. Mà số bác là số con rệp, bây giờ gặp thời buổi ‘xuống chó’, ba khía rẽ mạt, rẽ còn hơn bèo cám ở ao hồ, bắt cả đêm chẳng bán được bao nhiêu tiền. Cho dù ba khía vào tháng bảy tháng tám nầy con nào con nấy to lớn lại chắt thịt nặng ì, nhiều con còn có gạch son nữa. Nhưng bầy trẻ cũng vẫn phải đi bắt hằng đêm, không sót một đêm nào vào mùa nầy, chớ gia đình chẳng còn con đường nào khác. Đến khuya, chúng nó mới về nhà. Chắc bà con mình đây cũng đã yên giấc hết rồi.


Hoàng Hùng cảm thấy trong lòng dấy lên một niềm vui không bờ bến. Anh mừng thầm, khấp khởi trong lòng. Hẳn đây quả đúng là gia đình của Diễm Lệ không sai. Qua cái duyên tình cờ đưa đẩy anh gặp bà Thảnh và cũng tình cờ rơi vào nơi chốn mà mười năm đăng đẳng anh để tâm tìm kiếm không một kết quả. Nhưng anh vẫn ngậm câm như hến. Anh chưa có can đảm dám thốt nên lời. Niềm vui trong anh thoáng qua mau đưa anh trở lại với thực tế lo âu hồi họp, dằn co không dứt. Anh tự nhủ thầm. Không biết Diễm Lệ bây giờ ra sao? Có còn độc thân hay đã lập gia đình, chồng con nheo nhóc, đùm đùm đề đề? Tình cảm của nàng đối với anh vẫn nguyên vẹn như thuở đầu đời gặp gỡ nơi nhà in quốc doanh của tỉnh những năm sau ngày cờ đỏ lên ngôi? Bao nhiêu câu hỏi dồn dập tuần tự đến với anh không có câu trả lời dứt khoát, khiến anh có lúc lo ra thẫn thờ như người không hồn.


 Một đêm dài thật dài, nặng nề lặng lẽ trôi qua và anh không sao ngủ yên giấc được. Anh trằn trọc thao thức mãi, cứ mơ mơ màng màng từng chập, mong sao cho mau tới sáng. Anh hy vọng ngày mai sẽ mang đến cho anh sự thật trông ngóng đợi chờ. Tiếng gà gáy lúc tưng bửng hừng đông giúp anh thức dậy chuẩn bị một ngày mới đón đợi. Anh để ý con gà trống nầy cũng lạ, sao lại gáy lẻ loi cách khoảng khá lâu và nhứt là không có tiếng đối đáp, toa rạp hưởng ứng của đồng loại trong xóm. Sau nầy anh được ông Bảy Thời giải thích là ông chỉ nuôi vỏn vẻn có một gà trống với hai con mái dầu cốt để gầy bầy về sau và thỉnh thoảng lấy trứng bán chui bán nhủi cho bà con còn dễ thở trong xóm, hoặc dùng trong những bữa cơm quá đỗi ngặc nghèo. Ông không có phương tiện và cũng ngại nuôi nhiều hơn, vì nuôi nhiều sẽ bị bọn cán bộ nhà nước ghé mắt đến kiểm kê đánh thuế. Còn lối xóm đa số bà con không có lúa gạo đủ mà ăn, đâu có chi thừa thải để chăn nuôi gà vịt, những món xa xí đối với chế độ. Nếu có dịp, họ cũng phải ăn lén lút và cẩn thận tẩu tán, chôn sạch lông lá vết tích.


Cũng trong lúc đó, Diễm Lệ đang cắm cúi tận lực tát nước chiếc xuồng ba lá được cột ghịch nằm im nơi cầu nước rửa chén. Nàng sẽ mang chút ít trái cây và rau cải tập tàng gia đình hái chiều hôm qua ra bán nơi cái chợ chồm hổm le hoe trong xã. Cái chợ nầy có thói quen nhóm rất sớm lúc trời còn lờ mờ chưa nhìn rõ mặt nhau. Chợ phải tan sớm để mọi người còn có thì giờ làm việc đồng áng. Bỗng dưng Diễm Lệ nghe có tiếng động, giựt mình hốt hoảng, hồn vía lên mây, vội đứng lên ngó trân trân Hoàng Hùng đang lù đù hướng thẳng về phía mình. Nàng chưng hửng như người mất hồn mất vía, nín khe không thốt nên lời, miệng cứ ú a ú ớ. Nàng ngờ ngợ, mường tượng mình đang đứng trước một hồn ma bóng quế đang sầm sầm đội mồ đội mả sống lại để nhát người trần thế. Nàng sửng sốt buông mái chèo ngã xấp nơi mé mương, nhìn không chớp mắt người thanh niên đang đứng tần ngần trước mặt mình. Nàng sắp la làng cầu cứu… Trong khi đó Hoàng Hùng bình tĩnh nở nụ cười tươi cất tiếng trấn an:


- Diễm Lệ em. Bộ em không nhận ra anh à? Anh chính là Hoàng Hùng bằng xương bằng thịt của ngày xưa đây mà.

- Trời đất chư vị thánh thần ơi! Em đang tỉnh hay đang mơ. Anh đây sao? Có thật vậy không? Vậy mà bấy nay em cứ tưởng anh đã phơi thây bỏ xác nơi chiến trường Cam Bốt rồi. Trước đây em có biết anh bị đưa qua đó rồi bặt tin tức luôn từ dạo ấy.


Nàng thẹn thùng :
- Cũng mười năm hơn rồi hả anh! Em không còn chút hy vọng nào có ngày gặp lại anh. Hôm nay ngọn gió lành nào đưa anh đến cái xứ khỉ ho cò gáy, rừng rậm bạt ngàn ngập nước nầy để gặp em? Anh còn nhớ đến em sao?

- Nào có gió độc gió lành nào đâu, mà chính do tình cờ, do duyên số hay duyên nợ thôi. Hạnh phúc thực sự trên cõi đời nầy theo nhận xét của những bực trưởng thượng đáng kính chính là do sự tình cờ đó em. Nhứt là sự tình cờ đưa đến một kết thúc tốt đẹp ngoài ước mơ của những người trong cuộc. Hơn nữa cũng chính nhờ có hy vọng chúng ta mới có lý lẽ để sống, để tồn tại đến hôm nay. Anh không bỏ xác nơi chiến trường Cao Miên như em thấy đó. Mà nhất là nhờ vào lòng hảo tâm hào sãn của cô của em. Thôi tạm ngưng mọi việc đi, vào nhà chúng mình sẽ nói chuyện nhiều hơn.



Diễm Lệ như người từ trên trời cao vừa rớt xuống đất. Nàng lýnh quýnh lảo đảo, hồn vía mất hút vào nơi chốn nào, không sao nàng kiểm soát được. Chân cẳng nàng thiếu điều đánh bật vào nhau. Một niềm vui, hạnh phúc tràn đầy chưa bao giờ thực sự đến với nàng từ khi biết thương, biết nhớ, biết yêu. Giờ đây mặt đối mặt, mắt trong mắt đối diện nhau, Hoàng Hùng thuật lại tỷ mỷ những ngày anh phải xa Cà Mau trong vội vàng và những năm tháng dài không ngừng tìm kiếm Diễm Lệ. Trong khi Diễm Lệ xác nhận vì gia đình bị đánh tư sản, nàng bị sa thải khỏi nhà in và tất cả mọi người gồm cha mẹ anh em đều chung số phận bị cộng sản rúng ép đưa đi sản xuất tự túc tận Đầm Dơi. Do vậy mọi liên lạc với bên ngoài bị cắt đứt từ dạo bức bách đó. Nàng rung rung trong lời nói:


- Cộng sản ác độc lắm anh à. Chúng áp bức mọi thành viên trong gia đình em phải liên đới chịu chung trách nhiệm trước hành vi chỉ của một người thôi. Qua đó chúng dập tắt ngay những mầm mống chống đối manh nha của người dân. Trường hợp của em là con nhà «tư sản!», kẻ thù giai cấp, không sao tránh khỏi bị trù dập đến mản đời trọn kiếp…


Cái quá khứ nặng nề của dòng tộc như một quả tạ ngàn cân trỉu đè trên đôi vai mảnh khảnh gầy yếu của nàng. Nàng sẽ phải vĩnh viễn mang nó suốt cuộc đời mới, lạ cái lạ nước nơi hoang địa muỗi mồng đĩa vắt, do sự áp đặt không nhân nhượng của đảng. Đối với nàng, một khi còn thở không khí ngột ngạt của chế độ là còn có tội đối với đảng và nhà nước, không sao gột rửa sạch được. Một vết thương lòng gây tàn phá khủng khiếp cho một đời người lỡ sanh nhằm thế kỷ của bạo lực, của trục ác. Cảm thông hoàn cảnh trầm thống bất tận của nhau, nhưng Hoàng Hùng vẫn muốn biết thêm xem Diễm Lệ có còn độc thân hay không? Đã mười năm qua rồi chớ chẳng phải một sớm một chiều. Cũng như nàng cũng nôn nóng thăm dò xem Hoàng Hùng đã lập gia đình chưa và con cái ra sao bên đất Mỹ hoa lệ phồn vinh. Câu chuyện nào rồi cũng kết thúc và kết thúc tốt đẹp, không còn gì hơn. Hoàng Hùng cảm động, đôi mắt đỏ hoe sung sướng:


- Diễm Lệ! Anh cám ơn em vẫn chờ đợi anh đến nay. Em đã mất mát quá nhiều tuổi thanh xuân!


- Phần số em mà anh. Ông Trời đã định sẵn như vậy rồi. Không sao cãi lại được. Đời người con gái một khi đã yêu và yêu chân thật lần đầu tiên trong đời làm sao quên được. Nhiều lúc quá thất vọng, em muốn quên, nhưng càng muốn quên sao vẫn cứ nhớ, nhớ mãi hằng ngày hằng đêm… Hồi xưa lúc còn đi học lớp đệ thất đệ lục em có nghe một giáo sư Việt văn bình giảng, triển khai một bài thơ ngoại quốc trong đó ông có nói một câu khắc ghi vào tâm trí em. «Cái quan trọng trong đời con người là luôn luôn có một cái gì hay một bóng hình để đợi chờ». Đến khi gặp anh, đối với em sự đợi chờ là một nỗi đau vô bờ bến không sao tả nên lời.

Nàng thẹn thùng qua đôi mắt u buồn rươm rướm nơi gương mặt ửng hồng:

- Hoàn cảnh của em cũng hi hữu lắm. Gia đình phút chốc tán gia bại sản nên cần nương tựa nhau hòng vượt qua cuộc sống nghiệt ngã. Em không thể bỏ cha mẹ để riêng lo cho bản thân mình. Hơn nữa, anh phải biết ở xã hội ngày nay, người phụ nữ xuất thân trong gia đình nghèo khổ làm sao lập được gia đình. Người ta tìm vợ những nơi giàu có để lập thân, ít ra cũng đỡ mang thêm một gánh nặng suốt đời. Thân họ, họ nuôi còn không nổi làm sao dám cưu mang thêm. Họ đáng thương chớ không đáng trách.


- Tình cờ gặp lại em như một phép lạ, anh mừng lắm. Anh nghĩ đây quả là duyên số Ông Trời đã định như vậy phải không em? Nếu em không từ chối, anh sẽ trở về Sài Gòn ngay, lợi dụng những ngày còn lại để nhờ các bác các chú bạn bè cũ của cha anh mang lễ vật xuống đây xin phép cưới em theo đúng truyền thống ông bà xưa để lại. Anh yêu em với tất cả lòng thành. Hạnh phúc của mình bây giờ là được sống trọn vẹn những ngày mình ước mơ nhưng chưa được sống phải không em?


Diễm Lệ bật òa lên khóc nức nở. Đôi mắt đen lay láy tình tứ và hai hàng mi dài cong cong của nàng đều hoen lệ. Nàng vội vàng phóng ngay đến ngã bổ vào vòng tay rắng chắt của Hoàng Hùng và ôm chầm lấy chàng không chút e lệ ngại ngùng, thể hiện tiếng lòng chân thật để nói lên tình yêu chơn quê lần nầy nàng nhứt định không thể để vuột khỏi tầm tay. Nàng tiếp tục thúc thít không thôi như thuở còn bé vòi bánh cạnh bên mẹ cha. Những giọt nước mắt hạnh phúc nóng bổng đến khá muộn màng của nàng làm ấm áp quả tim toại nguyện của Hoàng Hùng với những nhịp đập như muốn vỡ tung lồng ngực. Hoàng Hùng cũng vồn vã hôn nhẹ lên trán Diễm Lệ thì thầm:


- Đã qua rồi những khổ ải trong đời chúng mình. Cái quí giá nhứt trong đời con người trên thế gian là có những giây phút được khóc vì hạnh phúc em à. Thú thật với em, anh rất thích thú toại nguyện, thà chúng mình đồng chịu đau khổ tận cùng những ngày qua cho đến tận hôm nay mới chấm dứt còn hơn dây dưa trông ngóng đợi chờ mãi mãi do phải vĩnh viễn chia ly ngăn cách. Chính tình yêu đã cho chúng mình nghị lực cùng niềm tin và niềm tin cùng nghị lực đó đã cứu vản đời chúng mình đó.


Cả hai vẫn quyện chặt vào nhau không rời làm như thế giới chung quanh không còn ai cả. Mà chỉ dành riêng cho đôi tình nhân vừa tìm được ý nghĩa của cuộc sống lứa đôi.


**



Thị trấn Holland hôm nay trời trong nắng ấm gọi mời mọi người. Hoàng Hùng đưa Diễm Lệ cùng hai đứa con nhỏ hân hoan tham gia ngày 30 tháng Tư được đông đảo cộng đồng Việt Nam tỵ nạn cộng sản tổ chức rất trọng thể với một rừng cờ vàng ba sọc đỏ phất phới nói lên ý chí sắt đá mãi mãi duy trì, nuôi dưỡng tính chiến đấu rực sáng của chính nghĩa quốc gia. Cuộc sống của hai vợ chồng mấy năm nay trên cõi tạm lưu vong chỉ quẩn quanh quanh quẩn nơi thị trấn dễ thương nầy, không đua chen đua đòi thời thượng. Họ sống trong tinh thần vô cầu, gói ghém những gì tối cần thiết hằng ngày. Vợ chồng vẫn nhớ những ngày khổ đau lận đận đã qua, không quên phép lạ nhiệm mầu của định mệnh đã đưa họ đến với nhau sau nhiều sóng gió. Riêng Hoàng Hùng, anh nhớ mãi những lời tâm sự của cha mình trước lúc khăn gói đi học tập cải tạo: “Ba vẫn coi cõi nào lại chẳng là cõi tạm. Cuộc đời nào lại chẳng phải là của đời sống tạm. Chính tấm thân của ba cũng vẫn là tứ đại, do đất nước gió lửa hình thành nên. Mình có chết đi cũng là trở lại với tro bụi thôi…”.


Trong thời buổi đua chen tranh dành phức tạp hiện nay, không biết quan niệm sống của cặp vợ chồng trung niên nầy có xa rời thực tế, có thụ động lắm hay không. Nhưng có điều là họ quá an tâm và bằng lòng với hạnh phúc tròn đầy, vợ chồng hòa hợp thương yêu, con cái ngoan hiền trong nếp sống truyền thống Việt Nam. Vì một lẽ duy nhứt là họ quan niệm giản đơn hạnh phúc thật sự nằm trong tầm tay vói của họ, niềm vui trong sáng bất tận ở ngay bên họ cùng nhau chung sức xây dựng trong hiện tại. Hôm nay theo thông lệ mỗi cuối tuần, Hoàng Hùng thúc hối vợ con sửa soạn nhanh nhẹn để đi thăm cha mẹ anh, nhà cách đó khoảng mươi trạm xe buýt. Anh còn dự trù mùa hè tới sẽ sang tận thành phố Sacramento thăm gia đình bà cô Đống Thị Thảnh như hằng năm. Anh không hề quên một chuyến về hi hữu cùng những ngày ngắn ngủi thi vị ở Đầm Dơi, nhờ đó mà họ nên vợ nên chồng. Cả chồng lẫn vợ luôn ghi khắc trong lòng lời người xưa: “Ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước không quên nhớ người đào giếng”.


(05/12/2012)



-***-

No comments: