Tuesday, April 11, 2017

VÕ PHƯỚC HIẾU * QUÊ CHA QUÊ MẸ QUÊ MÌNH



Quê Cha Quê Mẹ  Quê Mình
(Tập truyện)

Truyện đồng quê Nam Kỳ Lục Tỉnh của Võ Phước Hiếu
Hương Cau ấn hành
            Lần thứ nhất năm 2006
            Tái bản (có sửa chữa và bổ sung) năm 2015.

(Mọi trích dẫn, dịch thuật và xử dụng trong sanh hoạt cộng đồng
đều được tự do với điều kiện xin ghi rõ xuất xứ).
 
QUÊ CHA, QUÊ MẸ, QUÊ MÌNH

Tôi chú ý đến tên của tác giả Võ Phước Hiếu (hay Võ Ðức Trung cũng thế) khi thấy tên hai cuốn sách của ông: “Hùm Chết Ðể Da” và “Phá Sơn Lâm, Ðâm Hà Bá” được đăng ở một trang báo nào đó. Tôi chú ý vì rất hiếm nhà văn gốc Miền Nam sính dùng tục ngữ phong dao. Tựa hai cuốn sách này cho tôi cảm nghĩ đây đích thực là người viết có ít nhiều dính dáng đến miền quê Lục Tỉnh. Thế rồi tôi được đọc hai tập truyện “Bên Ðục Bên Trong” và “Niềm Ðau Bạc Tóc” của tác giả Võ Phước Hiếu, tôi vẫn chưa tìm thấy một hình ảnh đặc thù rõ ràng về “miệt vườn” cho đến khi đọc “Quê Cha, Quê Mẹ, Quê Mình” thì hình ảnh đó rõ ràng hơn.



Tôi không biết liệt kê “Quê Cha, Quê Mẹ, Quê Mình” vào thể loại nào vì đó không phải là một tuyển tập tiểu thuyết ngắn, không phải là tuyển tập truyện phiếm, cũng không hẳn là truyện ký nên tôi tạm gọi là “tập truyện” vì Võ Phước Hiếu có một lối viết đặc biệt khiến người đọc sẽ bị lôi cuốn theo như ngồi nghe ông kể chuyện vậy. “Quê Cha, Quê Mẹ, Quê Mình” gồm bốn bài dài kể lại những kỷ niệm, ký ức, những nhớ nhung bùi ngùi về nơi sinh ra và lớn lên của tác giả miền đồng quê Miền Nam. Bốn truyện đó gồm:


Ông Thầy Giáo Làng Quê, 
Chữ Nghĩa Một Thời,
Quê Hương Lãng Ðãng, và
Nẻo Nhớ Tìm Về. 

Tuy rằng có bốn truyện nhưng đọc rồi thì thấy tác giả đã kể cho mình nghe cả trăm truyện, nghe không biết chán vì người kể đã con cà con kê từ chuyện này đến chuyện khác khiến người nghe chỉ biết nghếch tai lên mà nghe. Với lối kể chuyện ý nhị chậm rãi khiến người đọc quên cả không gian và thời gian này đã làm cho văn phong của tác giả có một sắc thái riêng.


Truyện “Ông Thầy Giáo Làng Quê” tuy nói về một giáo viên vì dính líu đến chính trị thời cuộc mà bị đầy đến vùng quê hẻo lánh đành ngậm ngùi ôm hoài bảo lớn ẩn nhẫn hòa đồng với dân làng ở đây, nhưng tác giả đã cho người đọc thấy cái truyền thống an phận, đùm bọc, yêu nhau của dân quê ta. Truyện pha một chút dí dỏm cho người đọc cười mỉm chi chẳng hạn nghe một thanh niên nhà quê đọc “nhựt trình” có lẽ chữ không đánh dấu nên thay vì “… Sau thế chiến thứ nhứt , nước Pháp “thừa nhận rằng” nước Ðức đã thực hiện tốt các điều khoản bồi thường chiến tranh… thì được đọc ra thành “… nước Pháp “thua nhăn răng” nước Ðức…”. Thế rồi đang kể chuyện ông “giáo làng”, tác giả đã lan man “mở mang kiến thức người đọc” về một khía cạnh đặc thù của cái thôn Thanh Hà lại có một số địa danh mang tên “Bà” nọ bà kia như:


“Bác hai có biết không? Ở xóm mình, những địa danh mang chữ “bà” rất phổ cập. Tôi thử kể sơ sơ từ đầu làng đến cuối xóm. Bưng Bà Mụ, ao Bà Vãi, voi Bà Niểng, ấp Bà Lác, gò Bà Sún … Toàn là “Bà”, không thấy có chữ “ông”…”.
Rồi người đọc được dẫn dắt đến việc ông “giáo làng” gặp được ông “Hai”, một cố cựu trong làng, hai người tâm đầu đàm đạo đến nỗi ông giáo đã “chà lết, lờn mặt ” ở nhà ông Hai khiến chòm xóm đoán chắc cô bé Lành, con gái ông Hai Khoẻ, thế nào cũng… và quả như vậy “lửa gần rơm, lâu ngày cũng bén” nên ông Hai cương quyết bắt rể kỳ này.


Qua truyện “Chữ Nghĩa Một Thời” cũng mang một phong thái kể chuyện lai rai từ một sinh hoạt bình dị của dân làng ngày ngày ngâm nga Lục Vân Tiên, Thạch Sanh Lý Thông đến chiều chiều đôi người tụ tập dưới hiên đình đánh cờ chuyện vãn, không thì bà con tụ tập hát “vọng cổ hoài lang” v.v. cho ta thấy nét sinh hoạt dản dị yên lành của thôn quê. Thế rồi lan man làm sao mà lại qua chuyện chữ nghĩa cổ thi của tiền nhân, vấn nạn tam sao thất bổn, và lý thú nhất là sự tâm đắc giữa một ông già và một nhà nho lỡ vận về chữ “ả” để ám chỉ đàn bà con gái khi nào thì chữ “ả” có ý nghĩa xấu và khi nào thì chữ “ả” để gọi một cô gái đẹp. Giống như người cứ nghểnh mặt lên chăm chú nghe chuyện nên đã được dẫn dắt đến một vấn đề khác lúc nào mà không hay. Người đọc sẽ được nghe kể về một nghề ở thôn quê không kém phần quan trọng mà lâu ngày có thể chúng ta quên, đó là nghề “đạo tỳ” (điều khiển đưa đám, an táng) không lương lậu thù lao gì cả nhưng đòi hỏi chuyên nghiệp chứ không phải ai cũng làm được. Tuy làm việc phúc đức như vậy nhưng người ta lại sợ ông đến viếng nhà. Nhất là khi gia đình có người già cả ốm đau mà ông có hảo ý đến thăm thì thật là khó xử vì sợ xúi quẩy nên không ai muốn tiếp ông cả.


Cũng vẫn một phong thái kể chuyện đó, trong “Quê Hương Lãng Ðãng”, tuy trọng tâm là kể lại những ký ức kỷ niệm thời thơ ấu ở làng quê Rạch Rít nhưng tác giả cũng lan man cho người đọc hình tượng được cái cảnh thanh bình giữa rạch nước ruộng nương với vó cá mà còn cống hiến nhiều dữ kiện đồng quê rất lý thú. Ðặc biệt cái kỷ niệm mà ai hồi trẻ đã sống ở thôn quê đều có khi phải đổi trường đến một trường mới thì những buổi đầu cảm thấy e dè bỡ ngỡ thật khó tả. Như đã nói, đoản truyện này nói nhiều về kỷ niệm “Quê Mình” của tác giả nên chất chứa những tình cảm gợi nhớ, như cảnh mấy cậu trai phá làng phá xóm ăn cắp đồ cúng, chọc ghẹo con Sáu dù nó mới chớm lớn có núm vú chỉ to bằng núm cau mà thôi. Ðặc biệt nói về cái tài thiến gia súc tức là thiến gà thiến chó thiến heo, một nghề làm chơi ăn thiệt nhưng không thể thiếu ở thôn quê. Tả tỉ mỉ tài nghệ sắc bén và nghệ thuật thiến “thông bài bản đến mức độ tinh vi tuyệt cú mèo” như tác giả Võ Phước Hiếu thì chắc khó có ai tỉ mỉ hơn.


“Nẻo Nhớ Tìm Về” tác giả dí dỏm kể lại nếp sống mộc mạc nơi đồng quê, ngày thì làm lụng đồng áng, chiều về gặp nhau chuyện trò cho khuây khỏa, cảnh sửa soạn đón tết của dân làng như tích trữ gạo trắng, củi, đánh bóng lư đồng tỉ mỉ, nghĩa là “phải chuẩn bị chu đáo đàng hoàng vườn tược nhà cửa để đón ông bà cùng về ăn Tết... để thể hiện sự thương yếu kính trọng đối với bậc tiền bối”.


Mỗi truyện tác giả đều tiết lộ một vài sắc thái đặc biệt của người mình nơi thôn dã. Như Tết đến người ta thích gói nem nhưng gói nem cho đúng nghệ thuật gia truyền của mỗi người khác nhau mà ngay cả con… gái, mấy bà cũng không dám truyền hết ngón nghề sợ rằng khi nó “xuất giá” sẽ đem ngón nghề đó qua xứ lạ thì sẽ mất hết cái tính chất độc đáo của nem. Tóm lại, “Quê Cha, Quê Mẹ, Quê Mình” ghi lại ký ức, kỷ niệm thuở thiếu thời với quê cũ của tác giả nơi đồng quê Miền Nam Việt Nam. Trong tập truyện này ông đã khéo léo cho người đọc hình dung lại được nếp sống mộc mạc, hiền hoà, thân thương, tương kính của đồng bào ta. Những nhộn nhịp của những ngày mùa hay hội hè Tết nhất đã giúp cho cuộc sống có hứng khởi quên đi cơ cực, những kỷ niệm êm đềm thơ mộng của tuổi trẻ, và những thay đổi đắng cay của thời cuộc nhưng dù với hoàn cảnh nào “tình người” vẫn là một sợi giây gắn bó của con người. Có lẽ lời tác giả giải bầy sau đây nói lên đầy đủ ý nghĩa mục đích của tập truyện này: “Tôi có thói quen thường lang thang trở về quá khứ, sống lại những ngày qua xa húc, xem như một phong cách đương nhiên của con người trần tục lúc tuổi xuân đã bị bỏ lại quá xa sau lưng mình”.


Nhưng cái nhìn về “quê cũ” trong tác phẩm của Võ Phước Hiếu là cái nhìn của một người tuy sinh ra từ đó nhưng lớn lên đi xa, giờ nhìn lại chốn cũ của mình với cái nhìn khách quan nhưng vẫn thấy cái hay cái đẹp nơi quê mình. Và ông đã tạo cho người đọc có cùng cảm nghĩ là những sắc thái dân tộc đó đừng bao giờ phai nhạt. Cho nên tác gỉa Võ Phước Hiếu tuy viết truyện về đồng quê nhưng với cái nhìn của người đã từng đó đây chứ không mang sắc thái đặc biệt của những tác giả thường được mệnh danh là viết về chuyện “miệt vườn” như Hồ Trường An hay Hồ Biểu Chánh xưa kia. Mà ông viết với tư cách của người “Ngoái nhìn lại mới hay giờ đây mình đã già để nhắc nhở không sai sót, không lầm lẫn những kỷ niệm của thuở ấu thời chóng qua”. Ngoài ra người còn thấy tâm tư tha thiết với quê hương của tác giả bàng bạc trải ra trên mỗi câu truyện.


Với lối văn kể chuyện này, không khéo thì sẽ làm người đọc cảm thấy buồn tẻ bỏ cuộc, nhưng không, tác giả đã khéo léo dẫn người đọc lan man mải miết hết từ chuyện này qua chuyện khác mà người ta không hay. Ngoài sự dí dỏm, đôi khi ông cũng châm biếm chút xíu, và pha một chút hài khiến cho câu chuyện càng thêm ý nhị và lôi cuốn. Người đọc có lẽ sẽ mỉm cười khi nghe kể chuyện một ông mặc quần Tây quên cài cúc, cưỡi xe đạp nhơn nhơn trên con đường quê để “thằng trời đánh thánh đâm” ló ra ngoài hóng mát, khiến cho mấy bà ngồi xe đò hay xe ngựa ngang qua ngó thấy phải phá lệ không e dè, “tếu” về “chuyện phòng the” hay chuyện “thâm cung bí sử” miền quê của mình.


Không phải chỉ trong tập truyện “Quê Cha, Quê Mẹ, Quê Mình”, tác giả Võ Phước Hiếu mới dùng bút pháp cá biệt này mà hầu hết trong những tác phẩm khác của ông như: “Bên Ðục Bên Trong”, “Niềm Ðau Bạc Tóc”, hay “Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá” v.v... ông đều có lối kể truyện ý nhị lôi cuốn này. Ngoài viết truyện ra, tác giả Võ Phước Hiếu còn tích cực hoạt động về Văn Hoá. Với Nhóm Văn Hóa Việt Pháp, ông đã có công rất nhiều trong việc thu thập, ấn loát để lưu lại một thời “Thi Ca Hải Ngoại” qua những tuyển tập thơ như: “Một Phần Tư Thế Kỷ THI CA VIỆT NAM Hải Ngoại” đã được ấn loát tới tuyển tập thứ bảy và còn tiếp tục nữa. Công trình này chắc chắn sẽ lưu lại một dấu chứng phản ảnh tâm trạng, cái nhìn đích thực của những người Việt Nam lưu vong trong một hoàn cảnh bi đát nhất của đất nước Việt Nam.


     TRẦN NGÂN TIÊU
       (Florida – Hoa Kỳ)

 - Sinh năm 1941 tại Hưng Yên (Bắc Việt)
- Di cư vào Sài Gòn năm 1955
 - Động viên khóa 21 trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức
- Cựu Đại úy Quân lực Việt Nam Cộng hòa
 - Đến Hoa Kỳ năm 1975
- Từ năm 1978 là Chuyên viên Điện toán

 - Cộng tác thường xuyên với các tạp chí Làng Văn, Văn Nghệ Tiền Phong, Rạng Đông, Thằng Mõ Miền Đông, Dân Quyền…
 - Đã từng viết trên Hồn Việt, Thời Luận, Diễn Đàn Dân Chủ…
- Đã xuất bản:
 * Chén Đắng (Thơ) 1996
 *Thuốc Đắng (Biếm thi) 1996

- Sẽ xuất bản:

 *Tình Đắng (Truyện ngắn)
* Chuyện Cọng Rau Muống (Truyện phiếm).





            Người và Cảnh trong  "Quê Cha Quê Mẹ Quê Mình"
Nguyễn Thiên-Thụ


Tập truyện "Quê Cha Quê Mẹ Quê Mình" của Võ Phước Hiếu là tác phẩm thứ mười trong sự nghiệp viết truyện của ông. Sự kiện này cho thấy ông là một nhà văn hăng hái sáng tác và có một sức mạnh tinh thần đáng kể trong các nhà văn Việt Nam, kể cả quốc nội và hải ngoại hiện nay.


Tập này gồm bốn truyện ngắn:
- Ông Thầy Giáo Làng Quê
- Chữ Nghĩa Một Thời
- Quê Hương Lãng Đãng
- Nẻo Nhớ Tìm Về.


Phần lớn các tác phẩm trước, Võ Phước Hiếu đều viết về chủ đề đồng quê Miền Nam. Tập truyện này cũng vậy.
Truyện đầu kể truyện thầy giáo Mạnh, thuở sinh viên tham gia đám tang chí sĩ Phan Châu Trinh và các cuộc bãi khóa, bị đổi về phục vụ nơi hẻo lánh, xa xôi. Thầy dần dần hòa mình với dân chúng nơi đây.
Truyện thứ hai là truyện về cuộc sống ở nơi thôn quê: thú vui của người lớn là đánh cờ, đánh đàn và nghe nhạc qua các dĩa hát của hãng Asia, Pathé ngày xưa. Võ Phước Hiếu cũng giới thiệu các nhân vật ở Rạch Rít như một ông đồ ngày xưa tham gia chống Pháp phải lang bạt đến nơi đây dạy chữ nho cho trẻ con; ông Năm Đặng làm nghề đạo tỳ; ông Hương Thân Xót và thằng Bảy Kế.
Truyện thứ ba viết về xóm Rạch Rít và cuộc đời học sinh của tác giả.
Truyện cuối viết về tục lệ ăn Tết ở thôn quê.rạng của người đi xa là nhớ quê hương. Ngày nay, các văn nghệ sĩ hải ngoại rất chú trọng đến đề tài quê hương trong mọi sinh hoạt văn học nghệ thuật. Chúng ta cùng ra đi và cùng mang nặng những hành trang tâm thức:


- Quê hương chúng ta ở bên kia bờ đại dương, chúng ta phải rời bỏ nó vì cộng quân dày xéo quê nhà. Tất cả chúng ta đều mất tự do và bị khủng bố, cướp bóc.
- Đi xa, ai cũng thương nhớ quê hương.
- Hầu hết chúng ta sống lại với những kỷ niệm quá khứ.


Đó là những điểm tương đồng giữa những người quốc gia chúng ta. Và đó cũng là những khởi điểm cho sáng tạo văn nghệ.
Chúng ta hoài niệm quá khứ bằng nhiều cách. Quá khứ trở lại trong trí tưởng chúng ta bằng nhiều lối khác nhau. Nhớ quê hương là nhớ người: cha mẹ, anh em, bạn bè, người yêu... Nhớ quê hương cũng là nhớ cảnh vật, nhớ màu sắc, âm thanh: áo trắng cầu Trường Tiền, tiếng chuông Thiên Mụ, đất đỏ Tây Nguyên, phù sa Cửu Long... Nhớ quê hương là nhớ hương vị: mùi hoa sứ nhà nàng, mùi nem nướng Thủ Đức...

Vũ Bằng cũng như Hồ Trường An đã đặc biệt chú ý đến mùi vị và màu sắc của món ăn. Nhã Ca, Phan Lạc Phúc, Hà Thúc Sinh lại nhớ đến các sự việc, đến ngày tháng tù đày. Còn Võ Phước Hiếu trong các tác phẩm của ông đã tô đậm nét về con người và cảnh vật. Sự lựa chọn của Võ Phước Hiếu là hữu lý vì trọng tâm của tình yêu bao giờ cũng là con người. Mà con người không trơ trọi. Con người luôn xuất hiện trong cảnh vật và cùng với cảnh vật. Con người cũng như cảnh vật luôn có những hoạt động, những động tác. Vũ Bằng cũng như Thạch Lam tả các thức ăn mà không tả người, hoặc tả sơ sài. Con người chỉ là cái bóng. Trong Hồ Trường An, thức ăn và con người cùng xuất hiện vì chính con người, chính cô Năm, cô Ba làm ra món nọ món kia.


Thế giới của Võ Phước Hiếu gồm các nhân vật của thời thơ ấu của ông và không gian là xóm Rạch Rít, Long An, quê ông. Đó là những người nông dân hiền lành chất phác. Họ từ bỏ quê hương, từ những miền đất xa xôi ra đi bằng hai tay trắng đến vùng Long An hoang vu vỡ đất, khơi mương, lập trại làm ruộng. Thế giới nhỏ bé này còn có những nhân vật đáng quý như ông giáo Mạnh, ông thầy Huế và ông nội người kể là những trí thức yêu nước, đã tham gia chống Pháp xâm lược. Họ là những người tốt, yêu công việc, yêu đồng bào thật tình, có lý tưởng phục vụ nhân sinh. Như thầy giáo Mạnh yêu mến học sinh, ông Năm Đặng trông lo việc mai táng cho làng xóm với tấm chân tình vô vị lợi, và ông thầy Huế, một thầy đồ cuối mùa cố gắng truyền lại tinh thần luân lý, đạo đức Đông phương cho lũ trẻ quê mùa.


Tác giả cũng đưa ta vào thăm một vài gia đình tốt. Gia đình ông Hai Khoẻ là một gia đình gương mẫu. Vợ chồng già thương yêu, kính trọng nhau, cùng lo cho tương lai cô gái út. Hai ông bà tiêu biểu cho truyền thống Việt Nam, cha mẹ thương con, nuôi cho đến ngày khôn lớn, lại lo việc dựng vợ gả chồng. Ông giáo Sử cũng là con người rộng rãi. Người ta sợ trẻ con phá phách và ồn ào. Ông lại sẵn sàng mở cửa suốt đêm cho lũ trẻ vào nhà nghe những đĩa nhạc 78 vòng của ông!


Võ Phước Hiếu cũng mở rộng thế giới của ông cho ta thấy một thôn xóm đoàn kết, cùng lao động trong những ngày mùa, và cùng chung vui trong những dịp Tết nhất, hội hè. Chúng ta thường nhớ những kỷ niệm êm đềm, thơ mộng nhưng vẫn không quên những quá khứ đắng cay. Quá khứ của lịch sử Việt Nam như những con bạch tuộc khổng lồ luôn luôn vươn những cánh tay dài của nó để níu lấy hồn ta, tạo thành những cơn ác mộng.


Trong những tập truyện trước đây, Võ Phước Hiếu đã tả lại những đám mây mù sau 1945 và sau biến cố 1975. Bây giờ ông cũng nhắc lại về những con người và những sự kiện lịch sử đau thương của nhân dân ta. Đó là thực dân và cộng sản. Người quốc gia chân chính là người yêu dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam thật sự, ghét thực dân lẫn cộng sản. Không riêng nước ta, châu Mỹ, châu Phi và châu Á trong mấy thế kỷ đã là nạn nhân của những thế lực máu tanh là thực dân, phát xít và cộng sản. Thực dân, phát xít và đế quốc là những tên gọi khác nhau nhưng cùng là một bọn. Trần Trọng Kim, Nhất Linh, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Ân, Trần Văn Tuyên... là những chiến sĩ quốc gia chân chính.


Và cũng như Hoàng Văn Chí, người viết "Từ Thực Dân Đến Cộng Sản", Võ Phước Hiếu luôn luôn kết án thực dân và cộng sản:


"Thực dân đã phá vỡ tan tành nền tảng vững chắc nơi con người và xã hội Việt Nam. Thiếu cái nền tảng vững chắc đó nên ngoái nhìn lại thời khoảng dầu sôi lửa bỏng năm 1945 trở về sau, trở về cái ngày ảm đạm đen tối 30 tháng Tư năm 1975, bà con tôi không sao cưỡng chống được chủ nghĩa cộng sản vô thần, vật chất bản vị tai hại, một thứ chủ nghĩa ngoại lai đã xô đẩy đất nước Việt Nam vào một cuộc chiến dai dẳng khốc liệt để rốt ráo đưa dân tộc ta xuống hố sâu của nghèo đói, mất nhân phẩm" (109).


Võ Phước Hiếu là một người viết truyện ký nồng nàn tình yêu quê hương, đồng thời là một con người suy tưởng sâu xa. Tình cảm và ý thức đã gắn bó trong các tác phẩm của ông.



Nguyễn Thiên Thụ
Tên thật Nguyễn Thiên Thụ
Bút hiệu chánh: Sơn Trung
Bút hiệu khác: Gia Hội
Sinh năm 1937
sinh quán: tỉnh Quảng Bình (Trung Việt)

Đã dạy văn chương Việt Nam tại các trường Văn Khoa, Sư Phạm thuộc Viện Đại Học Cần Thơ, Vạn Hạnh, Cao Đài và Hòa Hảo
Sau năm 1975 sống ẩn cư
Sang Canada từ năm 1995
Định cư tại Thành phố Ottawa, Ontario, Canada


Đã cộng tác với các tạp chí Khai Thác Thị Trường, Đối Lập (Canada), Dòng Việt, Gió Văn (Hoa Kỳ)
Đã xuất bản ngoài nhiều sách giáo khoa đại học do Lửa Thiêng Sài Gòn ấn hành trước 1975:

Đã xuất bản:
* Phương Pháp Nghị Luận Và Phân Tích Văn Chương, Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1971
* Nghệ Thuật Hành Văn, Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1972
* Nguyễn Trãi, Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1973
* Tản Đà, Thực Và Mộng, Lửa Thiêng, Sài Gòn 1974
* Văn Học Sử Việt Nam: Văn Học Hiện Đại (4 Tập), Gia Hội, Canada, 2006

Sẽ xuất bản:
* Văn Học Quốc Ngữ
* Văn Học Cổ Điển
* Sơn Trung Văn Tập
* Sơn Trung Thi Tập
* Sơn Trung Truyện Ký




Cảm tưởng sau khi đọc  Quê Cha Quê Mẹ Quê Mình
(Mến tặng hiền đệ
   Võ Phước Hiếu)

Quê Cha Quê Mẹ Quê Mình,
Nhớ thương từ thuở đăng trình chia xa.
Trùng dương muôn dặm quan hà,
Ngậm ngùi Quê Mẹ Quê Cha Quê Mình!
Làng xưa xóm cũ bao tình,
Xót xa Quê Mẹ Quê Mình Quê Cha!
Tháng ngày đòi đoạn lòng ta,
Phương nào Quê Mẹ Quê Cha Quê Mình?
Thôn trang, làng mạc, miếu đình,
Ruộng nương Quê Mẹ Quê Mình Quê Cha.
Khi sương bạc, lúc trăng ngà,
Sớm khuya Quê Mẹ Quê Cha Quê Mình!
Gian lao biết mấy công trình,
Nắng mưa Quê Mẹ Quê Mình Quê Cha.
Nhớ thương Rạch Rít hiền hòa,
Thâm ân Quê Mẹ Quê Cha Quê Mình!
Ngàn trùng một áng hương linh,
Dâng về Quê Mẹ Quê Mình Quê Cha!
                    Vitry-sur-Seine ngày 10:11:2007
Hồ Trọng Khôi

Tên thật Hồ Trọng Khôi
Biệt hiệu: Nam Sơn Hàn Sĩ
Sinh quán và chánh quán: Hu ế (Trung Việt)
Sanh năm 1923 tại cố đô Phú Xuân (Thuận Hóa)
Xuất ngoại từ hơn 40 năm (Viên chức ngành Ngoại giao Pháp)
Trí sĩ nhưng vẫn làm thơ và viết văn
Hội viên kỳ cựu của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại (Trung tâm Âu Châu)
Định cư tại thủ đô ánh sáng Paris (Pháp)
Thiếu thời, thích đọc thơ, bất kỳ Việt, Pháp, Hán
Thích đọc tác phẩm của cáa thi sĩ lừng danh (Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyễn Bính…) và các nhà thơ Trung Hoa
Đã viết những bài tràng giang đại hải:
* Tiếng Sáo Sông Ô (Hạng Võ – Ngu Cơ)
* Khối Tình Trương Chi (Trương Chi – M ỵ Nương)
* Lạc Bước Thiên Thai (Lưu Thần - Nguyễn Triệu)
* Từ Giã Thiên Thai (Lưu Thần - Nguyễn Triệu)
* Tỳ Bà Hành
* Hùng Sử Việt Nam (dài 125 đoạn: 500 câu)
Viết rất nhiều thơ - tất cả độ vài trăm đủ loại - từ tứ tuyệt, ngũ ngôn, thất ngôn, lục bát, ả đào, hát nói và đã đăng trên nhiều báo chí từ mấy chục năm nay nhất là ở Paris
Đã xuất bản:
* Thương Vế Quê Mẹ (thơ) do Đồng bào và Sinh viên Aix-en-Povence Pháp xuất bản
* Dòng Thơ Tình Sử (thơ) do nhóm Độc Lập Tây Đức xuất bản
* Tận Thế Hay Không? (Lược khảo và Thảo luận), 1999
Sẽ xuất bản:
*Tạo Hóa Và Thân Phận Chúng Ta (Tiểu luận).

                                           

                     Ông Thầy Giáo Làng Quê

           

Thầy giáo Mạnh được bổ nhiệm đến trường làng Thanh Hà chỉ mới ba bốn năm. Đây là một làng tân lập, đất đai mới vỡ còn ráo hổi, hăn hắc mùi lá mục tro ung, thăm thẳm xa hút, hầu như cô lập với thế giới bên ngoài. Phương tiện di chuyển thời bấy giờ chỉ có ghe xuồng xuôi ngược, lướt trên những sông rạch và kinh đào chằng chịt, xẻ ngang xẻ dọc cắt xén những cánh đồng bát ngát mênh mông thành từng ô nhỏ. Trí con người tưởng tượng như những nét nhăn nheo, xếp nếp chất chồng nơi gương mặt người dân, quanh năm lúi húi vất vả, suốt ngày chưa được diễm phúc nhìn thấy hai vạt áo khô khan ấm áp. Qua mùa khô, đồng ruộng nứt nẻ. Một thảm vàng sậm gốc rạ khô trùm phủ phong quang cảnh trí, chạy dài mãi tận chân trời xa. Xe trâu, xe bò, cộ trâu là phương tiện phổ cập vào mùa này. Chúng cứ ì ạch nặng nề, chòng chành băng ngang qua bờ mẫu, mô đất hay những vũng trâu nằm cạn khô để thỉnh thoảng vất dụng cụ và người xuống đất đau điếng.


Thầy giáo Mạnh bị đày đến xóm khỉ ho cò gáy, chó ăn đá gà ăn đất này vốn do những thành tích "bất hảo" khi còn là sinh viên trường Sư phạm Sài Gòn. Lúc đó, thầy tham dự đám tang lịch sử chưa từng thấy ở miền Nam của chí sĩ Tây Hồ Phan Châu Trinh. Đồng bào Sài Gòn Chợ Lớn và các vùng phụ cận, nhơn cơ hội cái chết của nhà cách mạng Việt Nam lừng lẫy, chẳng những trong nước mà cả bên trời Âu, để tỏ lòng kính mến, ngưỡng mộ và biết ơn một người đã hy sinh suốt đời cho đại nghĩa quốc gia. Họ cũng lợi dụng dịp tang tóc đau thương này để biến thành hành động cụ thể nhằm biểu dương sức mạnh dân tộc trước cao trào đấu tranh giành chủ quyền và độc lập cho tổ quốc. Nhứt là tiếp theo sau đó, bao lần thầy tỏ ra tích cực, dấn thân tham gia hưởng ứng các phong trào dân chúng đình công, bãi thị, bãi khóa nhằm phản đối chánh quyền thuộc địa Pháp và cũng nhằm hổ trợ cao trào vùng dậy đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc. Những phong trào này đang âm thầm nhen nhúm đó đây từ Nam chí Bắc chờ ngày quật khởi. Mặc dầu bị ban Giám đốc nhà trường ký giấy phạt phải học lại một niên học mới ở trường Sư Phạm Sài Gòn nhưng nhà cầm quyền thực dân thâm thù vẫn không quên ghi tên tuổi thầy vào sổ bìa đen bìa đỏ. Từ dạo đó, thầy và bè bạn đồng khóa cùng chung chí hướng bị chánh quyền để tâm theo dõi thường xuyên. Việc thầy được bổ nhiệm nơi đèo heo hút gió, ngày ngày đêm đêm không lúc nào dứt nhạc bản buồn tênh tang khó của ếch nhái, vạt sành, chàng hiu, ảnh ương... cùng với tiếng muỗi vo ve liên hồi bên tai, không làm thầy ngạc nhiên mấy. Thầy đã ức đoán không sai từ khi còn đi học, tương lai nào sẽ dành riêng cho thầy một khi ra trường.


Thầy gốc người Bà Rịa rặc nòi. Sinh trưởng và lớn lên nơi thôn quê cố thổ núi rừng. Tuy là rừng chồi, từng vạt rải rác đó đây, núi non không cao lắm nhưng thầy cũng đã quen với lối sống khó khăn của vùng còi cộc, khô cằn sỏi đá. Quê hương, nơi chôn nhao cắt rún của thầy ở sát chân núi Thị Vãi, trông ra xa xa là biển Đông với những đợt sóng bạc đầu trên mặt biển màu xanh cẩm thạch, cứ tiếp nối nhau từ muôn thuở, âu yếm ôm ấp bờ cát vàng. Sự trừng trị của thực dân đế quốc không đánh mất nơi thầy cái tánh hồn nhiên yêu đời, năng động và say mê làm việc của tuổi trẻ. Tuy nhiên, ngày dài có lúc bắt đầu khép lại với những trận mưa chiều ập xuống như cầm tỉnh mà đổ. Rồi mưa dây dưa kéo lê thê cù cưa cù nhầy đôi ba ngày liền không dứt hột, làm mờ đi cảnh vật thôn quê, loáng thoáng một nỗi buồn vu vơ sâu hút. Chính những lúc ấy, thầy không sao quên được quê hương thầy. Nơi thôn quê tạm sống, cách ngăn với thế giới bên ngoài lại vắng người, những khi ông Trời như cắc cớ, chắt chiu chất chứa bao nhiêu nguồn nước huyền bí nhiệm mầu để cùng một lúc trút xuống xẻo đất mới ngày mùa đó, quả là một bất hạnh trong ngày. Ngay từ lúc hãy còn sáng bửng, hầu như người người đều cùng một thái độ khắc khoải, bó gối đăm đắm nhìn trời trong chán chường đợi chờ. Họ bực bội, xem như phí uổng một ngày công ngồi không để chỉ nghe tiếng nhái bầu than thở. Chúng đua nhau trổi lên não nuột buồn tênh nơi góc vườn như một khúc đồng dao xoi nghiến tâm can. Họ thấp thỏm ngóng trông sao cho cơn mưa mau tạnh hầu đón nhận một chút ánh nắng còn rơi rớt trong ngày để có thể bắt đầu sinh hoạt theo phản xạ tự nhiên của con nhà nông yêu đất, yêu nước, yêu nghề, đam mê làm việc lam lũ nặng nhọc. Chính những lúc buồn tênh sâu hút, dấy động ưu tư triền miên dằn dặt đó nó tựa hồ như nhắc nhớ thầy chốn cố thổ gốc nguồn của tổ tiên, núi rừng Thị Vãi khổ hạnh, dân nghèo người thưa, chơn chất quê mùa. Nơi đây, thầy ấp ủ hoài bảo khi lớn lên phải cố gắng làm một chút gì rỡ ràng dòng họ tông tộc và xóm làng, không để thẹn với đời và nhứt là không ăn quỵt thế gian. Một nỗi nhớ trong lắng trầm u tịch sao cứ ùa về ngồn ngộn giữa bối cảnh quá đặc biệt ấy, khiến thầy như ôm riết ghì níu nó thật mạnh và mãi mãi trong lòng mình. Trong những năm chung sống hòa mình với dân tình làng Thanh Hà, vốn có truyền thống thật thà cởi mở và hiếu khách trọng người, thầy không quên giới thiệu quê hương thầy qua bài đường thi của ông Hương Biện Ngươn, người lão nông đồng thôn mà thầy rất mực trân quý kính trọng. Nhưng rất tiếc thầy không biết rõ tên họ:


Núi Thị Vãi


Mái tóc Vu Sơn dễ kém nào


Xuống làm mụ Vãi chốn nầy sao?


Kinh mây vượn đọc hơi sùi sục


Kệ suối quyên ngâm giọng bảnh bao.


Chuỗi đá mũ sương treo nhỏng nhảnh


Áo tòng xiêm liễu phất xôn xao.


Quy y cái thuở trời năm nẵm


Một kiếp càng thêm một kiếp cao.


Cuộc đời thầy kể như vĩnh viễn cột chặt vào chéo đất mới nằm thụt lõm ở hốc bà tó nơi thầy đang dạy học mà trước đây thầy chưa bao giờ nghe nói đến tên. Đôi ba năm, họa hoằn mới có một dịp hiếm hoi thầy đáo về tỉnh lỵ Chợ Lớn để báo cáo tình hình trường lớp và nhận chỉ thị mới của thanh tra tiểu học. Vì biết định mệnh éo le trời giành cho mình như thế, thầy đã chọn làng Thanh Hà làm quê hương thứ hai. Rồi với ngày tháng đong đưa len lén trôi qua, tình cảm thầy càng thêm gắn bó keo sơn nơi này. Chẳng mấy chốc, tháng năm lưu đày dằn dặt nỗi nhớ thương gia đình, vọng tưởng quê hương của thầy cũng được lùa xa trong lãng quên không khác thói thường đối với người đời. Thầy trở thành một phần tử thực sự của xóm làng. Vì thầy đã thực sự hội nhập trọn vẹn vào sinh hoạt của địa phương.


Ngôi trường nhà nước trông có vẻ sạch sẽ khang trang. Nhưng đó là cái mã bề ngoài của thực dân để mà mắt những người nhẹ dạ non lòng, đinh ninh lầm tưởng chúng quan tâm lo lắng, thật tình trông nom việc giáo dục và dạy dỗ con em mình. Trường có nền đúc cao ráo, nổi bật hẳn trên cảnh thổ sông rạch bạt ngàn, đất đai ủng nước ẩm ướt, giang san của năn sậy, cỏ ống, cỏ mồm. Mái ngói âm dương, tường vôi màu vàng nhạt. Sân cỏ quanh năm xanh um mướt mượt. Trường chỉ có hai lớp đồng ấu và dự bị rất ngăn nắp. Một mình thầy phụ trách cả hai lớp. Buổi sáng dành cho lớp đồng ấu. Buổi chiều, lớp dự bị. Sĩ số học sinh không mấy đông so với trường ốc vùng miền xuôi, cư dân vốn đông đúc nhộn nhịp. Qua mùa mưa nước nổi, đồng ruộng mênh mông trở nên trắng xóa một màu nước bạc. Một phần vì sự di chuyển khó khăn, phần khác, học sinh phần lớn phải ở nhà hụ hợ cha mẹ trông nom nhà cửa nên phòng lớp vắng hoe. Chỉ lưa thưa vài đứa nhà gần. Cha mẹ học sinh vốn ít học lại "bế quan tỏa cảng" nơi cố thổ cách ngăn diệu vợi. Tầm mắt ngắm nhìn của họ chưa vượt qua khỏi con rạch nhỏ ngoằn ngoèo uốn éo giáp mí làng bên nên đầu óc vẫn còn thủ cựu. Họ quá nặng với quá khứ, một thứ quá khứ tối tăm cùng khổ triền miên. Họ chưa gột được thành kiến bám rễ ăn sâu từ bao nhiêu thế hệ:


..."Con vua thì lại làm vua,


Con sãi ở chùa thì quét lá đa"...


..."Trứng rồng thì nở ra rồng,


Liu điu thì nở ra dòng liu điu"...


Con nông dân nghèo rớt mồng tơi, nghèo sặc máu, ngày đêm lội ruộng băng rừng, dầm nước bất kể gió mái nắng mưa, phèn ăn vàng cháy hay đỏ sẫm các móng chân móng cẳng. Một hòn đất to cỡ ngón tay cái để vò tròn làm đạn bắn chim trong vườn hay thổi ống xi đồng quanh xóm hoặc để đuổi gà đuổi vịt lúc chúng lén lút ăn lúa phơi còn không có, hà huống "một sào đất để cấm dùi", như ông bà xưa hay nói. Thêm vào đó, nợ năm, nợ mùa chất chồng đôn đít khít rịt nhau không lúc nào dứt. Cứ cơi lên năm nầy sang năm khác. Chưa kể những năm mùa màng thất bát trầm trọng do hạn hán bất thường, sâu rầy hoành hành. Thêm vào đó giá lúa rớt rẻ mạt. Như vậy thì đố sao không tránh khỏi cảnh hẩm hiu buồn tủi phải cầm lưỡi hái chuôi cày mãi mãi lầm lũi đi sau đít trâu? Họ có mặc cảm, cái mặc cảm không cách nào tẩy xóa được dễ dàng là con cái họ sẽ không sao vuột khỏi định mệnh vốn đã an bày. Cái định mệnh đen tối và khắc nghiệt đó một khi đã mang vào thân khó mà thoát ra được. Do vậy, đa số chỉ mong con em mình biết đọc, biết viết là mãn nguyện lắm rồi. Biết thế, thầy giáo Mạnh chỉ dùng một lớp để giảng dạy hằng ngày. Sáng cũng như chiều. Còn lớp kia, thầy biến thành nơi trú ngụ tiện nghi, trong làng trong xóm khó có ai sánh bì. Trường học cũng là nhà thầy, trông bề thế giữa thôn ấp gồm toàn những mái tranh mái lá nhỏ nhắn lụp xụp. Thỉnh thoảng mới thấy một cơ ngơi kinh dinh của chủ điền. Hoài bảo hồi hương đối với nơi chôn nhao cắt rún Thị Vãi thầy từng ấp ủ thuở thiếu thời, nay vì hoàn cảnh oái oăm ngang trái không thực hiện được. Giờ đây, thầy ký gởi, giành giữ trọn vẹn cho làng Thanh Hà làm món quà của đứa con đỡ đầu trong tình cảm quý trọng thương yêu đậm đà của chòm xóm.


Ngoài sự tận tình trong nhiệm vụ thiêng liêng muôn đời muôn thuở gõ đầu trẻ, khai thông dạy dỗ đám con em ngoan ngoản hiền hòa của bà con chất phác mộc mạc, thầy bắt đầu đi đó đi đây tìm hiểu, nghiên cứu, sưu tra để ghi chép cẩn thận từ những câu tục ngữ, phong dao, ca dao, điệu hát câu hò, đến những thổ ngữ, địa danh, phong tục tập quán, truyện kể dân gian, ngạn ngữ, cả những liễn đối v.v... Qua việc làm trường kỳ đòi hỏi lắm công phu đó, thầy mơ ước tập hợp thành hệ thống, đúc kết, bổ khuyết hầu lưu giữ cái kho tàng quý báu ấy của địa phương, không để phôi pha tan biến theo thời gian. Với tư cách và vị thế ưu tiên có một không hai của thầy trong làng, thầy may mắn được nhiều cơ hội tiếp xúc với hầu hết mọi gia đình, mọi thành phần, không sót một tầng lớp nào. Thầy không hề quan tâm đến việc giàu nghèo, không phân biệt một ai cả. Tên tuổi thầy, mọi người trong làng đều biết vanh vách. Vì hơn một lần, họ đã có dịp đến với thầy. Ít ra là nhân ngày tựu trường của con cháu. Và mỗi lần đến, họ đều giữ ở thầy một kỷ niệm khó có thể nhạt nhòa trong sớm chốc. Thầy được bà con trang trọng giành cho thầy một chỗ ngồi xứng đáng ở chiếu trên, đôi khi vượt hẳn các bậc trưởng thượng và các vị chức sắc quyền thế trong làng trong tổng nữa. Bà con xem thầy như cái núm ruột của mình không phải là một lời nói ngoa. Quan niệm "quân, sư, phụ" của thời phong kiến xa xưa hun hút vẫn còn lãng đãng đâu đó trong tâm thức người dân. Đa số họ vốn an phận thủ thường, sống ẩn mình sau lũy tre xanh, tháng năm quanh quẩn bên ruộng lúa vồng khoai, bên các đám dừa nước tối trời thân quen, giao ngọn đen sẫm huyền hoặc, giăng giăng ngút mắt và sung mãn quanh năm. Mà quả vậy. Quan niệm "trọng đạo tôn sư" đó đã chẳng theo với dòng biến chuyển thăng trầm của lịch sử để trở thành một truyền thống trong sáng, chiếm hàng đầu trong những bực thang giá trị về mặt tinh thần và xử thế của dân tộc ta chăng? Thêm cái trí thức hiếm hoi lúc bấy giờ và phong thái đức độ của thầy kết tụ thành một mẫu mực mà mọi người thầm mơ, khuyến khích con em gắng sức noi theo.


Giỗ quảy, cưới hỏi, hội hè đình đám, lễ Kỳ Yên hằng năm, dịp cúng Miễu Bà, miễu Thành Hoàng v.v… tiệc tùng tưng bừng, đâu đâu cũng mời thỉnh thầy tham dự cho bằng được. Kẻ đưa xe bò hoặc cộ trâu đến chầu chực cả buổi trời để rước thầy tận cửa sân trường. Người neo xuồng ở bến sông công cộng không kể giờ giấc, chờ đợi thầy mãn giờ giảng dạy. Nơi những thôn ấp xa xôi, nhằm hôm cuối tuần thầy dư thì giờ đến dự đúng ngày chánh giỗ, nhưng thầy cũng thường lưu lại đến hậu thường. Đôi khi bị cầm kéo, thúc ép lăng nhăng không cách nào từ chối được, thầy đành nán thêm một đêm, hai đêm... riết rồi xem như một thói quen. Đó là những dịp để thầy trao đổi, đàm đạo, vui chơi thức trắng dờ. Còn nói gì gặp trường hợp tang khó, thầy hay tin buồn, nhanh chân tự động đến chia xẻ như những người trong thân tộc. Thầy không kể mưa gió, không quản ngại đường đi xa xôi, nhiêu khê cách trở. Cuộc sống hòa đồng hội nhập của thầy lấy tình người làm căn bản xử sự, quý trọng lẫn nhau, đã chinh phục tròn đầy cảm tình từ đầu làng đến cuối xóm. Nhờ vậy, tuy sống độc thân, xa hẳn gia đình cùng bà con ruột thịt, thầy không hề cô đơn, cô độc bao giờ. Ít ra trong tâm tư và tình cảm của thầy. Hơn thế, thầy cảm thấy được sưởi ấm bằng một tình thương thật thà sâu đậm. Và cái thuở ban đầu lo lắng bỡ ngỡ lúc chân ướt chân ráo mới bị đày đến đây, bây giờ đối với thầy chỉ là một thoáng mây mù của dĩ vãng. Nó không thể làm vẩn đục bầu trời trong xanh quyến rủ của cuộc sống hiện tại.


**


Nhà ông Tư Dân ở xóm trên hôm nay có giỗ, kỷ niệm ngày mất của người trưởng tộc. Ông được bà con gọi thân tình là ông "Vua Đường" chẳng qua do họ quá lậm chuyện Tàu chương hồi hay tuồng cải lương, vỡ hát bội với nhân vật Đường Thế Dân. Chẳng những ông không rầy rà cự nự mà còn hãnh diện nữa. Ông thường thố lộ một khi đã làm vua đường đường một cõi, tiền hô hậu ủng mà cự cự rầy rà cái nỗi gì. Đối với đám em út hoặc lũ trẻ mới tấn lên, ông đùa vui xưng mình là "Trẫm", "Hoàng Thượng" hay "Bệ Hạ" gọn hơ. Nghĩ cũng oai đáo để. Giỗ này là giỗ lớn nhất trong năm. Ông tổ chức linh đình trọng thể lắm để nhắc nhở, tưởng nhớ, hồi hướng công đức cao dầy của người sáng lập kiếng họ Dương, một kiếng họ lâu đời trong làng. Vị này đã đơn thương độc mã, phiêu lưu vào vùng đất hoang vu, thách thức thiên nhiên, quyết tâm phá rừng lập rẫy. Cơ ngơi xây dựng thành công sung túc với biết bao nước mắt và mồ hôi để kết quả về sau được truyền tử lưu tôn, luân lưu thừa hưởng qua nhiều thế hệ. Bà con xa gần, thân quen chòm xóm đều được ông đích thân đi mời hy vọng họ sẽ tham dự đông đảo và đầy đủ. Việc nầy ông đã thực hiện từ mấy tuần trước. Ấy vậy, thỉnh thoảng ngồi uống trà nơi bộ ghế chân quỳ có chạm trổ và cẩn xa cừ lấp lánh, ông "Vua Đường" cứ nhíu mày, vò đầu vò trán rồi bấm tay đếm tới đếm lui xem có thiếu mặt một ai không? Ông than vãn tự trách, cho rằng tuổi già của mình lẩm cẩm lú lẩn thường hay quên nhiều việc không đáng quên. Mà quên đôi khi rất tai hại. Vì nếu mời người này lại bỏ sót người kia, bà con buồn, phiền trách làm ông cũng mất vui, xốn xang trong lòng. Đêm đêm có tổ chức ca tài tử giúp vui, qui tụ đông người tưng bừng nhộn nhịp lắm. Vì kỳ này, ông rất ưng ý và hãnh diện với xóm làng vì có người anh ruột, một thương gia khá nổi tiếng ở Sài Gòn đã tranh thủ thỉnh mời được hai nữ danh ca vọng cổ khét tiếng đương thời là cô Ba Bến Tre và cô Năm Cần Thơ về cống hiến cho bà con những bài bản "hoài lang" du dương nức nở. Một sự kiện độc đáo và có thể là duy nhứt, từ trước đến nay chưa bao giờ thấy ở vùng đất tân lập ráo hổi này. Bò heo được đám thanh niên mới tấn lên những năm sau nầy trong làng xúm nhau hè hụi thọc huyết kêu la inh ỏi. Cảnh tượng thảm thiết xảy ra từ canh ba canh tư lúc trời còn tối om om. Còn nói gì vịt gà, ông đã nuôi bao nhiêu bầy chạy rạn đất và tính toán cẩn thận cho đúng lứa vào ngày trọng đại của gia tộc. Thật quả không sai chút nào về cái tánh lo xa truyền thống của nhà nông rặc nòi. Mâm cỗ linh đình thịnh soạn. Kẻ ra người vào, chè chén thù tạt không dứt suốt ba ngày tiên thường, chánh giỗ và cả hậu thường nữa. Dù vậy ngày nào cũng đông nghẹt, nói cười thách thức rùm cả xóm. Riêng đám trẻ nhỏ loắt choắt tha hồ rửa ruột, một dịp để chúng ganh đua chạy dỡn rậm đám lắm.


Cơm chiều vừa dứt. Mấy bà mấy cô dọn giỗ còn hì hục tém dẹp, sắp đặt trong ngoài chuẩn bị sẵn sàng cho ngày hôm sau. Họ nôn nóng làm xong mọi việc để ráp nhau nghe đàn ca xướng hát bên phía chái nhà. Nhưng chủ yếu đối với họ là được nhìn tận mặt hai nữ danh ca thời danh Ba Bến Tre và Năm Cần Thơ mà trước nay họ chỉ nghe tên loáng thoáng đâu đó. Có những bà khụm nụm chen lấn đến gần cố nắm được tay các cô và chỉ bấy nhiêu đó cũng làm cho họ xúc động, nước mắt hoen tròng. Họ chẳng nói được gì nhiều ngoài mấy tiếng chơn quê:


- Các cô đẹp quá cỡ!


- Tôi thương các cô quá chời!


- Ăn mặc sao thấy mà phát thèm!


Chỉ có thế thôi. Rồi họ quầy quả quay lưng bước chéo ra phía ngoài hết lời khoe với bà con dịp may hi hữu trong đời mình. Thỉnh thoảng, họ len lén đưa bàn tay lên để ngắm nhìn tường tận hơn, như có ý muốn hôn nó để tỏ lòng ngưỡng mộ mến yêu hai người nghệ sĩ hiếm hoi của đất Nam Kỳ Lục Tỉnh. Hai ba đứa nhóc con tràn trạc tuổi nhau được người lớn phân công trong ban nấu nước pha trà, chân chạy không bén gót. Dù mỏi mệt cách mấy nhưng chúng nó tỏ ra rất bằng lòng được tham gia ngày vui. Chúng được khách khứa không ngớt thúc hối châm thêm mấy bình trà đã khô cạn ở những sồng bài tứ sắc. Nơi đây bao nhiêu người có máu đỏ đen ngồi xem chung quanh, mặt mày nhợt nhạt như ma trơi dưới ánh đèn con cóc lù mù mờ ảo. Ở nhà trước, nơi bộ ghế tràn kỷ trang trọng có cẩn ốc xa cừ lấp lánh, dưới ánh sáng lung linh liêu trai của mấy cây đèn dĩa, thỉnh thoảng ông Tư Dân lấy đũa tre nhấc tiêm vải nhú lên khỏi miệng dĩa hoặc réo gọi đám thanh niên châm thêm dầu. Nơi ván ngựa kế bên, dầy cả tất tây bóng láng mát lạnh, bà con trọng tuổi ngồi đấu chuyện tào lao nhưng không kém phần nghiêm chỉnh. Những câu chuyện dong dài bắt nguồn từ đủ thứ mọi sự việc mông lung, mơ hồ trên trời dưới đất rồi như không tránh khỏi cũng trở về quanh quẩn với những lo âu canh cánh rất mực thực tế ở mỗi người về giá cả nhân công, mùa màng, trâu bò, lúa thóc.


Những lúc lóng nga lóng ngóng chờ đợi, thời gian dài dằn dặt, đôi khi như ngưng đọng hẳn. Nhưng khi bắt vào chuyện trò vui vẻ rộn rả như bắp ran, mạnh ai nấy nói, mạnh ai nấy cười, tự do thoải mái, thời khắc cứ bay vèo qua mau như gió. Về khuya, thằng Hai Ri chớp được nửa trang nhựt trình cũ do một bà dùng gói quà từ Sài Gòn Chợ Lớn vừa về dự giỗ. Nó thái mái giở ra xem cho đỡ buồn ngủ lúc về khuya. Ngồi bật ngửa ngon lành ở chiếc ghế xích đu cổ lỗ xĩ, duỗi thẳng cẳng thoải mái, xích tới xích lui đong đưa cót két liên hồi, nó lật qua lật lại đọc nhẩm một mình. Xem nó có vẻ trí thức lắm, giữa đám đông bà con nông dân quê mùa, quanh năm chân lấm tay bùn. Ông Năm Hương cất lời:


- Thằng Hai! Mầy đọc cái giống gì ngấu nghiến mê man tàng tịch vậy? Tao coi bộ mầy thích thú lắm thì phải?


Hai Ri trả lời gọn hơ, đôi mắt vẫn không rời tờ báo:


- Tôi đọc báo ông Năm ơi!


- Đọc báo à? Chời! Chời! Sao ngon lành quá vậy! Hôm nay tao thấy mầy lên lắm đó!


Ông gạn hỏi thêm:


- Mà báo gì vậy mậy? Thì đọc lớn cho bà con nghe ké với cho vui, biết thêm chuyện này chuyện nọ với người ta. Sao mầy hà tiện, kẹo tiếng tiếc lời như vậy! Hay mầy hụt hơi tắt tiếng rồi hả?


- Ối! Tôi đọc bậy bạ cho đỡ buồn ngủ mà ông Năm. Gặp đâu đọc đó. Mình vốn là nông dân không hà, chữ nghĩa đâu có đủ để mà đọc. Ông Năm bảo tôi đọc lớn, không khéo có người hiểu lầm nói tôi khoe khoang hay chữ. Thật ra vốn liếng chữ nghĩa của tôi tèm hem. Ông bảo đọc tội nghiệp tôi mà!


Hai Ri phân trần như để biện minh sự im lặng của mình:


- Nhà báo ở Sài Gòn họ nhiều lời lắm chuyện như "thầy bói, bói ra ma", như "đàn bà quét nhà ra rác". Họ nói láo ăn tiền mà, như bàng dân thiên hạ thường nói! Hơi đâu ông Năm nghe chi cho mệt. Câu chuyện lại cũ mèm. Nảy giờ tôi đọc toàn là chuyện thời "Ông Nhược ỉa cứt su" hay lúc ông vua Bảo Đại xứ mình còn nằm chỏng gọng ở truồng khóc hù hụ không khác chi thằng Cu Lớn của tôi.


- Bộ mầy tưởng tụi tao còn tỉnh lắm sao? Đôi mắt tao muốn sụp xuống rồi đây. Cũng nhờ ba chén trà đậm đặc, loại trà "Đỗ Chình Đỗ Hũ" gì đó ở Bảo Lộc, Lâm Đồng mà Bệ Hạ hết lời khen thơm ngon khét tiếng, không thôi tao đã rút dù từ "phia" rồi.


Thằng Hai Ri với cái tên trặc trẹo nhưng ngồ ngộ của nó thường là đề tài ví von đùa vui không ác ý của bà con. Ở vùng đất mạt rệp từ đường, cách xa diệu vợi với thế giới bên ngoài, không biết ông thân nó, bác Hai Đức, một lão nông cố cựu, nghĩ sao lại cao hứng đặt cho nó cái tên Tây sặc mùi phó mát rượu nho là "Hăn Ri". Ông lại ra Nhà Hội xin làm thủ tục, chánh thức vô sổ bộ đời đành rành. Vào thời buổi cực thịnh của đám thực dân Tây Trắng Mã Tà hay Tây Đen Tào Cáo, ông thân nó chắc hãnh diện lắm thì phải. Tội nghiệp một kiếp người quê mùa ít học, mơ ước cao xa trong khi ý thức của mình mù mờ còn hơn những buổi chiều xám sẫm mưa giăng giăng mờ mịt tận chân trời xa. Riêng Hai Ri, nó tỏ ra ngượng ngùng vô cùng. Tây gì mà năm tháng cứ hùn hục đi sau đít trâu cày ruộng hoặc đập lúa không ngừng tay. Ngày thì vậy đã đành. Đêm đêm nào yên giấc được. Thường xuyên phải thức trắng dờ canh cầu vó. Nếu không thì săn khúm núm ở gò hoang. Lỡ năm nào đóng trễ giấy thuế thân, làng xã hội tề xài xễ không tiếc lời. Bà con gọi nó là thằng Ri, vừa dễ gọi vừa dễ nhớ thay vì cái tên dài sộc, lượm thượm "Thằng Hai Hăn Ri", thằng Tây da vàng xấu số, đầu đen mũi tẹt, rám nắng hôi trâu. Mà chí tình mà nói nó rất bằng lòng sung sướng ra mặt với cái tên ngắn gọn đó. Nó nể lời ông Năm đối với nó là bậc trưởng thượng nên cất tiếng đọc một đoạn nói về thế chiến thứ nhứt bên trời Tây. Chữ nghĩa nó tròn trèm trình độ lớp dự bị mà bà con ở đây có thói quen khen tâng bốc nó hết lời như đã học xong lớp nhứt... ở trường làng vỏn vẹn có hai lớp. Thêm vào đó, đèn đuốc lem nhem phựt tối phựt sáng, báo hiệu tiêm lụn dầu cạn. Tờ báo lại nhăn nheo tưa rách. Nhiều chỗ bẩn dơ hoặc thủng mất từng lỗ to tướng. Nó khổ công vuốt vuốt ngay ngắn thẳng thóm tờ báo, nhưng chữ đọc được rõ ràng, chữ lờ mờ, chữ mất mát, nó phải đoán mò trông vất vả lắm:


- "... Sau thế chiến thứ nhứt, nước Pháp... thua nhăn răng nước Đức... đã thực hiện tốt các điều khoản bồi thường chiến tranh...".


Thầy giáo Mạnh đang ngồi lim dim trên chiếc ghế bành nghe qua giựt mình, nhíu mày. Ông Sáu Nà nhìn nó tròng trọc rất đỗi ngạc nhiên. Nhưng Hai Ri điềm nhiên không để ý đến. Nó nhịp đùi dợm đọc tiếp... Thầy giáo ngắt lời:


- Hai! Đâu em đọc lại đoạn đó xem nào!


Thằng Hai Ri tỉnh bơ, lật đật lập y như nó vừa đọc khi nảy. Nó còn có vẻ tự tin hơn là khác. Mắt nó đã quen với những dòng chữ nhỏ hếu trên tờ nhựt trình. Thầy giáo Mạnh khẽ bảo nó trao tờ báo cho thầy xem qua. Xong, thầy phát biểu theo kiểu lầm lẫn có nguyên do chính đáng để thằng Hai Ri đỡ mất mặt với bà con:


- Tờ báo gì rách te tua quá cỡ! Chữ nghĩa lại lấm lem, nhạt nhòa gần hết. Qua đọc còn khó khăn. Thằng Hai, em lầm cũng phải lắm. Chẳng có gì lạ cả.


Rồi thầy giải thích:


- Sự thật như thế này: "... Sau thế chiến thứ nhứt, nước Pháp thừa nhận rằng nước Đức đã thực hiện tốt các điều khoản bồi thường chiến tranh...".


Cử tọa chưa kịp có phản ứng thì ông Năm Hương rất tế nhị, lanh lẹ nói:


- Hai ơi! Đâu mầy nhanh nhẹn phóng tuốt xuống bếp lục tìm một dĩa thịt heo phay có lòng có dồi đầy đủ đem lên đây giúp bà con mình nhậu lai rai đỡ buồn ngủ. Sẵn trớn nhớ vói lấy một lít đế hay một xị cũng được, ông Vua Đường ổng để trên kệ vách. Mầy để ý cẩn thận nhé! Không khéo xẩy tay, cầm bằng cắt cổ tụi tao. Bợm nhậu tụi tao thường nói "cắt cổ còn thua đổ rượu" đó. Mầy có nghe rõ không Hai?


Ông vui miệng:


- Nhứt định đêm nay có đông đủ bà con, anh em bạn bè, thêm có ông thầy giáo nữa, mình phải say mèm mới được. Ngày mai là ngày nghỉ cuối tuần mà! Đứa nào bỏ cuộc rút lui trước kể như từ đây tao cho nó nghỉ chơi luôn. Chơi như vậy thì chơi với ai đây? Có phải vậy không Bệ Hạ?


Ông Tư Dân pha trò đúng lúc:


- Quả như vậy. Trẫm phán cho quần thần bá quan văn võ được rõ. Đứa nào không nhậu thì thôi, mà một khi đã chấp nhận ngồi vào đây nhậu với nhau thì phải nhậu tới chữ, phải say xỉn gục luôn tại chỗ mới được. Còn đứa nào thối thoát không nhậu thì không xứng đáng là bậc mày râu nhẵn nhụi ở xóm này. "Nam vô tửu như kỳ vô phong". Trai mà không rượu như cờ không có gió. Như vậy, đám này còn mang thêm tội khi quân. Trẫm truyền lệnh cận vệ quân đem ra xử trảm ngay lập tức...


Thù tạc dây dưa gần quá nửa khuya. Mọi người mặt mày đỏ gay trông mệt phờ. Nhưng mấy sồng tứ sắc ở nhà sau thỉnh thoảng rùm lên nhờ cây bài "cúi qua" đúng lúc, tới 19/44 kéo chếnh, thêm chon đôi chon ba khỏe re như ghe nằm ụ. Báo hại bài của bà bạn đối diện bỗng dưng xuống nước thảm hại. Bà nhăn nhó bí xị kêu trời như bọng. Cánh cửa trước rên rĩ một tiếng kẹt... nặng nề kéo dài. Hỏi ra mới biết bà Bảy Chẽo về nhà lấy thêm tiền đậu chếnh mới để gỡ. Thói thường ở sồng bài người ta kỵ nhứt là cho mượn tiền đậu chếnh, dù là bạn bè tín nhiệm. Họ tin dị đoan, sợ sẽ thua cháy túi. Ở nhà trên, bàn rượu vẫn cầu cưa cầu nhầy bốc hơi men. Ông Năm Hương, lại cũng ông Năm nhiều điều lắm chuyện nhừa nhựa:


- Bệ Hạ (chỉ ông Tư Dân) ơi, thế gian thường nói chà lếch quá đâm ra lờn mặt. Đó là cách nói nơi chốn phong lưu sang trọng ở quận ở thành. Chớ ở xóm mình đây, có chà lếch mới thân tình. Vì có thương yêu quý trọng nhau nên người ta mới đến nhà mình chà lếch. Có phải vậy không Bệ Hạ? Cầm như người dưng nước lã, lạ hoắc lạ huơ, có ai vát mặt đến làm gì? Tụi nầy quá thương Bệ Hạ nên mới tới lui nấn ná giang ca cho vui, nhứt là hôm nay là ngày giỗ lớn.


Nốc tiếp một ly đế nghe tiếng tróc khô khan, ông Năm tiếp sau cái gật gù biểu đồng tình của ông Vua Đường:


- Thầy giáo đây cũng có cảm tình với Bệ Hạ lắm. Quý biết mấy. Thầy đến trấn nhậm ở làng mình là điều phước đức cho bầy trẻ, con cháu mình. Cái công khai thông vỡ lòng đó trọn đời bà con mình khắc cốt ghi tâm.


Ông hướng về phía thầy giáo:


- Mấy năm nay, chúng tôi lúc nào cũng kính mến trân quý, xem thầy như một phần tử ruột rà trong đại gia đình, vui buồn lúc nào cũng có nhau. Sống chết cùng ở cái xóm buồn tênh bất tận này. Tôi nói sự thật. Tôi không quá lời đâu. Mình biết cầu cứu với ai bây giờ và ai lại ưng vào đây mà cứu mình? Sự đùm bộc nương tựa nhau từng thể hiện đậm đà phải không thầy giáo? Nhưng thôi, bỏ qua chuyện đó đi. Dát đát với nhau mãi cũng bằng thừa.


Ngừng một lúc ông tiếp:


- Thôi dô! Mời hết bà con nhé! Dô! Mỗi người đi dứt một ly. Một hơi một ngon lành...


Ông dõng dạt lập lại:


- Trăm phần trăm dô. Thằng Hai Ri mầy đừng có mại hơi thối thoát nhé. Tuổi trẻ tài cao... Mầy làm sao coi cho được thôi. Tao tin ở mầy không làm mất mặt đám thanh niên xóm mình. Tụi nó lẩm rẩm mà ngon lành lắm. Đụng nhiều trận với làng bên hôm trong năm, chúng nó đều thắng cuộc vẻ vang. Hơn nữa, hôm nay là ngày vui của Bệ Hạ mà. Một năm đằng đẵng ba trăm sáu mươi lăm ngày mới có một lần. Năm nay có mặt tao, sang năm chắc đâu lại có. Vui lúc nào hay lúc nấy. Cứ lấy hiện tại làm hạnh phúc, làm niềm vui. Phải chụp lấy ngay thời cơ kẻo muộn rồi nuối tiếc hoài công.


Thầy giáo Mạnh cúp lời:


- Bác Năm nói nghe sao mà bi quan quá. Có ai dám nói bác Năm già bao giờ đâu? Bác còn mạnh khoẻ, chẳng bà con nào ở đây sánh bì. Hàm răng bác xướt mía tây mía huyết còn nghe rơm rớp mà!


Ông Năm phân trần:


- Tôi bên ngoài xem đường đường làu làu, ngày ngày quần quật nhưng buông ra đôi lúc nghe rêm bên trong. Tâm can tỳ phế thận gì cũng rệu hết rồi thầy giáo ơi!


Hơi men làm cho mặt mày ông trông như ráng chiều lúc trời quang đảng. Ông bắt đầu gật gù:


- Mà nè! Hôm nay là ngày vui của "Hoàng Thượng" và ở đây thầy giáo lại thuộc hàng chữ nghĩa đầy bụng đầy bồ. Tôi muốn đố riêng thầy giáo để mua vui bà con đỡ buồn ngủ. Nhưng thành thật mà nói về mặt chữ nghĩa, tôi lỏm bỏm đôi chút vốn liếng nhờ hồi nhỏ cha mẹ có cho tôi thọ giáo sư cụ ở chùa nhà. Phần lễ giáo, lời nói thước ngọc khuôn vàng của thánh hiền, tôi cũng biết chút đỉnh. Biết vừa đủ để đi ăn giỗ như hôm nay, không đến đỗi phải thẹn thùng "dựa cột mà nghe". Tủi thân tủi phận lắm! Thầy giáo thuộc lớp tân học, tôi không đố thầy ở lãnh vực Tứ Thư Ngũ Kinh đâu.


Ông Năm Hương có mòi đắc ý nên chúm chím cười:


- Truyện Lục Vân Tiên, Truyện Kiều, đối cùng lắm là Cung Oán Ngâm Khúc bà con ở đây người nào chẳng thuộc nằm lòng năm bảy câu hoặc một hai đoạn nhỏ bỏ túi làm vốn đi ăn giỗ? Lắm khi văn chương chữ nghĩa sai trật hoặc thiếu trước hụt sau đọc lên nghe rất dễ thương làm sao. Thầy giáo thì quá am tường rồi, lão thông chắc mẻm. Sở trường của thầy mà. Không biết ý kiến thầy ra sao, chớ riêng tôi, tôi thấy ở vào thời kỳ phong kiến cực thịnh, cái ông già Tiên Điền Nguyễn Du nhà mình lẩm rẩm là ông già tiến bộ quá cỡ thợ mộc. Ông đi trước thời đại ông ngàn vạn dặm. Ông bỏ xa người đồng thời không biết bao nhiêu trượng.


Ông nhìn cử tọa đang chăm chú theo dõi rồi vỗ đùi nghe cái bốp đắc ý, nói tiếp:


- Thầy giáo cứ trầm tỉnh nghĩ xem. Trong khi thiên hạ nói bóng nói gió, cà kê xa gần, ngượng mồm ngượng miệng khi đề cập đến những chuyện phòng the chăn gối thầm kín, ông già lại dám bày cảnh nàng Kiều chồng nhộng đứng tắm, lộ nguyên "một tòa thiên nhiên" đẹp tuyệt trần, dù có khéo léo che chắn mờ mờ ảo ảo đi nữa cũng đủ để khách yêu hoa chăm chú ngắm nhìn đến ngẩn ngơ, quyến luyến rạo rực. Tôi thấy ổng bạo quá:


"Buồng the phải buổi thong dong


Thang lan rũ bức trướng hồng tắm hoa


Rõ màu trong đục trắng ngà


Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên"...


Sẵn trớn, ông Năm như đắc ý. Ông mỉm cười rồi thao thao:


- Bây giờ tôi đố thầy nha! Trong suốt cuộc đời bềnh bồng trôi nổi, làm vợ người ta khắp bốn phương trời, lúc ở lầu xanh, kể cả lúc chánh thức lấy Mã Giám Sanh, Thúc Kỳ Tâm và Từ Hải, Thúy Kiều có bị "tai nạn nghề nghiệp" lần nào không?


Mọi con mắt đều đồng loạt hướng thẳng về phía ông thầy giáo. Ông vẫn giữ nét mặt trầm tỉnh, ngồi bất động, câm như hến. Ông Năm Hương khoái chí cười toe toét làm cho mấy sợi râu còi ổng để tự do mọc loạn xạ cào cào châu chấu, ít khi thấy cắt tỉa vén khéo, cứ run run giựt giựt hai bên mép. Hơi men câu thúc ông nhưng thói thường, người say nói năng khôn ngoan lịch sự lắm. Lễ nghĩa tôn ti trên dưới, phải trái khỏi ai sánh bằng, trừ những khi quá xỉn, quất cần câu, phát ngôn bừa bãi thì đành chịu. Ông Năm Hương chưa đến mức độ đó nên không ai trong tiệc có lời phiền hà gì ông được. Ông chậm chậm nhắc đến đoạn Khuyển Ưng thừa lệnh gia đình họ Hoạn tức tốc bay nhanh qua tận Lâm Tri bắt cóc Thúy Kiều giải về Vô Tích:


- Thầy giáo chắc nhớ rõ hơn ai hết lúc ấy Thúy Kiều ăn ở với Thúc Kỳ Tâm nồng nàn say đắm theo kiểu" "Gái quốc sắc, con sóng lượng - Trai anh hùng, chiếc thuyền trôi" đến đỗi thấu tai Hoạn Thư. Họ Hoạn nổi máu ghen tuông lồng lộng, âm thầm bày mưu "làm cho đau đớn ê chề cho coi". Lúc đám lâu la gia nhân "gươm tuốt sáng lòa" xông vào bắt Thúy Kiều, Nguyễn Du thốt lên: "Thất kinh, nàng chửa (chữa) biết là làm sao?"


Rồi ông thao thao giải thích:


- Thầy giáo thấy đó, Kiều đã "thất kinh", tức là đang mang thai nên nàng bối rối quá chừng chừng. Nàng hoảng hồn mất vía không biết phải có thái độ chống trả và phản ứng xử sự nào trước nghịch cảnh đang ụp vào mình trong lúc lẻ loi, xót xa đơn chiếc!


Mọi người ôm bụng cười lăn chiêng thả ga, nước mắt ràn rụa. Thầy giáo Mạnh cũng không dằn được. Có tiếng thằng Hai Ri ong óng lên từ đầu ván ngựa:


- Chà, chà! Điệu này chắc ông Năm xỉn rồi sao? Ông diễn giải Truyện Kiều kiểu đó tai hại cho hậu thế biết dường nào! Thôi bà con mình cũng nên phụ đưa ổng lên chõng tre, bỏ gối cho ổng nướng một giấc ngon lành đi. Tỉnh dậy ổng sẽ uống tiếp.


Ông Sáu Nà ngồi cạnh đó bỗng đứng dậy gạt ngang:


- Xỉn đâu mà xỉn. Bây nói bừa. Ổng nghe được ổng buồn. Anh Năm còn sáng suốt quá chời. Tao nói mầy đừng giận nha Hai. Truyện Kiều hay những mẫu chuyện lên lề Truyện Kiều cũ mèm, còn xưa hơn trái đất, anh Năm ảnh thêm mắm dậm muối với một hậu ý. Mầy phải tìm hiểu cái hậu ý đó của ảnh mới được. Ở đây, ai mà không biết lối giải thích cà chớn ngang xương, trật họng trật hầu của ảnh. Tao thật tình rất tiếc. Chỉ có mỗi mình mầy đặt thành vấn đề quan trọng, nghiêm túc mà thôi.


Ngừng một giây, ông tiếp:


- Hai à! Mầy mãn lo mà ốm. Tao thương mầy quá chừng. Đừng hiểu thương suông. Nhưng thương ở đây là thương hại mầy đó biết không?! Mầy nghĩ kỹ lại coi. Bầy trẻ sau nầy, con cái mầy, cháu chắc tao... mà mầy vừa gọi một cách văn vẻ hoa hoè là "hậu thế" đó, tụi nó khôn ngoan trật đời. Khoa học ngày nay tiến nhanh vù vù, con người không sao theo kịp đà đó. Hồi tao còn nhỏ, ngơ ngơ ngáo ngáo cù lần lữa quá cỡ. Nhưng bây giờ tao thấy sự hiểu biết của bầy trẻ cùng lứa tuổi của tao ngày trước sáng rực vượt bực. Tụi nó đâu có ngu ngơ khờ khạo, nhắm mắt tin lời một ông già ở làng quê hẻo lánh bao giờ đâu. Nếu tụi nó còn có lòng với văn chương văn hóa gì đó... tụi nó sẽ tìm hiểu nơi những nhà nghiên cứu uyên thâm, những học giả cao kiến có công trình in ấn trình làng một cách trang trọng nghiêm túc. Tao nói thiệt tình, mầy đừng buồn nghe Hai. Thói thường lời ngay hay mếch lòng nhưng tao nghĩ mầy không đến đỗi tệ như vậy đâu.


Ông Sáu Nà lại cười mỉm pha trò:


- Hay là mầy lợi dụng hai chữ ‘hậu thế’, ngầm cho rằng mình thuộc hàng thượng thế, thượng đẳng, thượng tầng hay thượng... chi chi để lên lớp bà con thất học ở đây?


Ông Năm Hương vẫn im lặng không dám góp ý thêm để giữ tình đoàn kết thuận thảo trong đêm vui. Đến khi gia chủ, ông Vua Đường khệ nệ cầm nhạo rượu thúc hối mọi người nốc cạn ly đế của mình. Ông cố ý chấm dứt bầu không khí có cơ sẽ căng thẳng trầm trọng thêm.





**


Không phải cuộc họp mặt nào cũng giúp thầy giáo Mạnh đạt kết quả mình mong muốn. Như hôm đám giỗ ở nhà ông Vua Đường vừa qua, kể như thầy đi không về rồi. Thầy buồn buồn coi như trớt quớt. Nhưng thầy không hề nản lòng bỏ cuộc. Trái lại, thầy càng thêm trì chí, nhẫn nại hơn. Và sự nhẫn nại trì chí đó giúp thầy ghi chép vào sổ tay khá bộn bàng bấy nay. Kiểm điểm cũng được năm bảy tập học trò một trăm trang dày cui với chữ viết nhỏ rích, sửa chữa thêm bớt nhiều câu nhiều đoạn lăng nhăng lít nhít gạch đít bằng viết màu xanh đỏ những đoạn quan trọng. Giá có trao cho người khác đọc chắc chắn họ không sao mò đọc cho xuôi. Thầy rất bằng lòng và hãnh diện làm cái việc tốn mất nhiều thì giờ và công sức, ít ai quan tâm để ý tới. Thầy say mê tìm tòi, hỏi han, tra cứu tại chỗ. Thầy thường bảo mình đi tìm, khám phá để bảo tồn văn hóa dân gian, tuy đơn sơ mộc mạc nhưng ý tứ thâm trầm sâu rộng. Thầy cũng hay nói, ở đời mỗi người phải có một đam mê. Sống đam mê là một hạnh phúc vô biên cương, vô giới hạn của một kiếp người. Thầy quả thực đang sống trong đam mê, trong việc sưu tầm văn chương văn hóa bình dân. Và thầy rất mừng vì ngọn lửa đam mê đang bừng cháy hừng hực và liên tục trong trái tim mình có chiều hướng thượng. Thầy ưu tư, canh cánh trong lòng một mối âu lo đeo đuổi ám ảnh thầy mãi. Nếu không có người thiện chí gia công tích cực đúng mức thì những thổ ngữ, châm ngôn ngạn ngữ, câu hát điệu hò dân tộc đầy thần sắc, cái vốn liếng trí tuệ, cái gia sản vừa tập thể vừa vô danh của lớp người xưa đôn hậu và sáng tạo, từ mấy trăm năm về trước ở vùng đất khẩn hoang này rồi đây sẽ mai một với thời gian. Chắc chắn, qua những biến thiên dâu bể, sẽ không còn ai nhớ tới nữa. Sự tàn lụn dần dà vô ý thức đó đáng tiếc và đáng trách vô cùng. Đáng tiếc và đáng trách vì thầy cho rằng tất cả đó đều là những hạt ngọc thô phải được thận trọng gìn giữ bằng mọi giá để những thế hệ mai sau sẽ tiếp sức mài dũa, nghiên cứu tìm hiểu về quá khứ dân tộc, về sức mạnh và công trình xây dựng của tiền nhân... Được vậy, họ mới trang điểm cuộc đời thêm thú vị và có ý nghĩa hơn.


Công khó của thầy rất được dân làng tán dương ủng hộ và tích cực tham gia nhằm đóng góp tiếp tay thầy trong phạm vi có thể của họ. Cùng một câu hát ở xóm này vừa ghi xong, thầy còn bỏ công lặn lội lần mò đến xóm khác, làng khác ghi chú những sai biệt dù là một hai chữ hay một đoạn trong câu. Thầy cũng thường thở than tâm sự, có những người thiển cận cứ vớ được một câu hát, một bài hát ở địa phương này cho là đúng rồi hời hợt phê phán để kết luận rằng những bài hát, những câu hát tương tợ ở địa phương khác là sai hẳn. Trong khi chẳng một ai nắm được căn cơ đích xác cả. Những bài hát ru em, ca dao, phong dao... đều được truyền tụng tự trong tiềm thức gia đình, tộc họ hay tự trong ký ức tập thể của xóm làng. Do vậy, thầy cho rằng những sai biệt bắt gặp đó đây là điều đương nhiên dễ hiểu, không thể nào tránh khỏi được. Đôi khi nó còn thay đổi, biến chuyển theo cảm quan và hoàn cảnh của mỗi địa phương. Thầy lân la thường đến nhà ông Hai Khoẻ, người nông dân thuộc hàng trưởng thượng cố cựu còn sót trong xóm, xem như bậc thổ công hiếm hoi, chứng nhân một thời. Nếu một mai ông chết đi, dù có đi tìm đỏ con mắt cũng chưa chắc gặp được một mẫu người như thế. Hang cùng ngõ hẹp, ao hồ đầm vũng, sông rạch kinh mương, đất đai gò nổng, những giai thoại về đình miễu... nào có lạ gì đối với ông. Đến những tích xưa chuyện cũ, quá trình hình thành thôn xóm, từ những nhóm người đầu tiên phiêu lưu đến đây dốc tâm cải tạo rừng rậm, đất đai hoang vu, ông đều biết ngọn nguồn rạch ròi.


Gặp ông Hai, thầy giáo Mạnh như người đi giữa sa mạc mênh mông oi nồng, nóng bức cháy thịt bỏng da đang thèm khát, bỗng dưng cơ may đưa đẩy gặp được mạch nước mát cứu tinh. Thầy đến đàm đạo, phát hiện những chi tiết độc đáo đáng ghi hoặc nêu lên những thắc mắc nhờ ông Hai giải đáp tận tường. Mỗi lần đến ông Hai, thầy đều thành công mãn nguyện. Chẳng những thầy được tiếp đón niềm nở, trọng hậu mà tập ghi chép của thầy cũng tăng thêm được vài trang ưng ý. Bởi vậy việc thầy năng đến ông Hai cũng dễ hiểu. Nhiều khi thầy đùa bảo với những người chung quanh, ông Hai Khoẻ quả thật là một kho tàng sống, một thư viện quý hiếm ẩn tàng ít người biết tới. Thầy còn đi xa hơn trong sự ngưỡng mộ ông Hai. Vì thầy đánh giá những tài liệu thu lượm được ở ông so với những trân châu ngọc ngà, kim cương đá quý mà bàng dân thiên hạ lục lục thường tình tranh đua nhau đâm chém giành giựt để chiếm đoạt làm sở hữu riêng tư, không sao sánh bằng. Thầy rất thành thật. Thầy không tâng bốc quá lời. Vì thầy đã nhận thức đúng mức thang giá trị tinh thần của nó. Thầy tâm đắc nhứt những khi được ông Hai giải đáp cặn kẽ mạch lạc, có chứng có tích minh bạch rõ ràng, lúc thầy nêu những thắc mắc, những hoài nghi:


- Bác Hai có để ý không? Ở xóm mình, những địa danh mang chữ "Bà" rất phổ cập. Tôi thử kể sơ sơ từ đầu làng đến cuối xóm. Nào bưng Bà Mụ, ao Bà Vãi, voi Bà Niểng, ấp Bà Lác, gò Bà Sún... Toàn là "Bà", không thấy có chữ "Ông". Dĩ nhiên, ngoài cây cầu Ông Hiệu mà tôi biết do ông Nguyễn Văn Hiệu, một hào phú trong xóm lúc gần đất xa trời, phát nguyện làm việc thiện. Ông bỏ tiền ra mua gỗ ván, thuê mướn nhân công thiện nghệ ở làng bên, trông coi xây cất. Do vậy, dân làng bèn chọn lấy tên ông đặt cho cây cầu duy nhứt đó để đời sau mãi mãi tưởng nhớ công đức của ông.


Ông Hai trầm ngâm suy nghĩ. Ông ngồi lặng yên khá lâu, thoáng hiện một nét buồn thăm thẳm nơi đáy mắt, khi ông vọng tưởng về dĩ vãng xa xưa:


- Quả đúng như vậy thầy giáo à! Thầy có hỏi thì tôi mới dám nói, chớ bà con ở đây đã quen miệng quen tai từ lâu rồi. Có ai để ý đến làm chi cho nhọc trí. Vả lại, thời giờ đâu rỗi rãi để họ quan tâm tới. Họ làm lụng vất vả, áo quần chưa lúc nào khô. Nhiều khi chiều tối đem treo ở vách buồng, hừng sáng lúc còn tối om, quờ quạng mặc lại còn ĩ òm. Cái tiếng "Bà" ở xóm mình quả nhì nhằn dông dài lắm.


Thật vậy. Xuất xứ của nó đôi khi éo le trắc trở nhưng rốt ráo gắn liền với dấu chân phiêu lưu, với lịch sử phát triển vương lên của vùng đất mới tinh nguyên này, nơi tuổi trẻ của ông Hai Khỏe từng mòn gót dầm mưa dãi nắng. Có tiếng con chó Cò sủa hướng về đầu ngõ. Ông Hai đưa mắt nhìn về phía trước sân. Ông chẳng thấy động tịnh chi cả nên tiếp tục trở lại câu chuyện vừa dứt ngang:


- Con Cò hồn vía nó để ở đâu nên sủa bậy sủa bạ. Có ai đâu mà sủa? Hư đốn! Đáng đánh đòn.


Ông nhìn thầy giáo Mạnh như có ý đính chánh:


- Nó làm hùm làm hổ như vậy cho bầy trẻ choi choi trong xóm chúng sợ, chớ thật tình nó còn hiền hơn tôi nữa. Thôi để tôi trở lại câu chuyện, kể vắn tắt thầy nghe chớ nếu đi sâu vào chi tiết từng địa danh, từng trường hợp thì năm tháng nào mới dứt.


Giọng ông bắt đầu trang nghiêm:


- Cái bưng Bà Mụ, ở ngay dốc cầu Ông Nguyễn Văn Hiệu, quả là cái bưng mà bà Mụ Khánh mua lại của ông Hương Bộ Giá hồi năm nẵm, lúc nền kinh tế nước nhà đang thời khủng hoảng trầm trọng. Bà Hai Khánh là Mụ Trời nhưng mát tay. Đám trẻ xóm này chẳng mống nào thoát khỏi bàn tay điêu luyện phúc lành của bà. Cái bưng đó tốt lắm. Năm nào cũng trúng lớn. Nó chiếm cả một vùng đất trũng, hứng trọn cá tôm vào mùa khô. Ai ai cũng thèm thuồng không ngớt trầm trồ.


Ông nói tiếp ngon trớn trong khi thầy giáo Mạnh ghi chép vội vàng, nhanh lẹ như đàn bà lặt cải lặt rau tập tàng lúc hấp tấp nấu cơm chiều, sau một ngày dài làm việc túi bụi không ngừng nghỉ ngoài đồng vắng:


- Về cái ao Bà Vãi, sự tích vòng vo hơn. Tình tiết còn trắc trở éo le nhiều. Bà thuộc kiếng họ Lý, cơ ngơi ở đầu xóm kia kìa. Gia đình nầy phong lưu hào phóng nhưng buồn duyên phận, tình yêu môn đăng hộ đối chênh lệch sao đó nên thí phát qui y. Thật đúng như lời than thở uất nghẹn trong các câu ca dao ở xóm mình còn truyền tụng:


..."Dòng nước chảy xuôi


Con cá buôi lội ngược


Dòng nước chảy ngược


Con cá nược rượt theo


Hai đứa ta chẳng quản giàu nghèo


Ngặt vì cha mẹ cứ theo cựu truyền"...


..."Cây đa trốc gốc, thợ mộc đang cưa


Đôi đứa ta, đi ra cũng xứng, đứng lại cũng vừa


Bởi cha với mẹ kén lừa suôi gia


Cha mẹ bên anh kén dâu gia thế


Cha mẹ bên em kén rể đông sàng


Lãnh Tố Tây đơm bộ nút vàng


Lôi thôi tiếng nói hai đàng xa nhau"...


Về sau bà thừa hưởng gia tài của cha mẹ quá vãng lại hiếm con. Phần lớn bà cúng dường nhà chùa, còn lại bao nhiêu bà phát tâm làm điều công ích hết, giúp đỡ xóm làng, bà con khốn khó. Chính bà cho đào cái ao để dân trong xóm có nước ngọt uống quanh năm. Nhứt là vào mùa khô hạn hán, đất đai nứt nẻ khô cằn, ngóng trông ông Trời gầm gừ chuyển mưa thiếu điều hụt hơi. Nhiều làng kế cận cũng đâm xuồng qua đây chở nước ao tấp nập lắm. Ông rít một hơi thuốc dài thả khói thong dong lên tầng không rồi tâm sự:


- Còn voi Bà Niểng, tôi biết rất rành mạch. Câu chuyện cũng chẳng xa lắm đâu. Lúc ấy, tôi còn nhỏ hay theo ông nội tôi bơi ghe qua cái voi nầy. Cứ mỗi lần ông tôi thường khuyên tôi phải bám chặt vào thành ghe, nhắm nghiền đôi mắt lại, ngồi im re bất động. Ông tôi bơi rất thận trọng và càng thận trọng hơn ở những nơi quắn xoáy sâu hút, lúc nước ròng chảy như cắt, lôi cuốn từng bựng lục bình phong phóng tới trước như những lực sĩ ở tỉnh ở thành chạy đua đường trường tranh giải nhứt vậy.


Ông đằng hắng rồi khe khẽ:


- Tôi ngừng ở đây một ít phút để tâm sự với thầy một thoáng tâm tư đang lướt qua trong trí nhớ về hình ảnh sinh động ấy của ông tôi. Hồi đó, tôi cứ bám níu, ghì cứng vào be chiếc xuồng ba lá thon thon gọn gàng của ông một cách máy móc, như một phản xạ tự nhiên của con người trước hiểm nguy cận kề. Tôi nào có nghĩ gì khác hơn là mong cho chiếc xuồng phon phon mau đến bờ bến bên kia. Tai tôi cứ lắng nghe be xuồng cọ vào mấy dề lục bình trôi dạt vào biền để vui mừng khi mũi xuồng chạm vào đất liền. Tôi nói thầy đừng cười tôi nhé. Hồi đó, mấy con chàng hiu, ảnh ương xanh xanh màu lá chuối non, ngồi bất động trên mấy dề lục bình đó cứ giương đôi mắt nhìn tôi trân tráo. Chắc chúng nó đang cười thầm tôi chớ gì!


Ông như sống lại phút giây nhẹ nhõm của tuổi ấu thơ:


- Thầy biết không? Tôi mừng hết lớn vì được phóng lên bờ chạy nhảy, bù lại những giây phút bó gối ngồi ở khoan xuồng, tê cả hai chân. Nhưng mãi lâu lắm về sau, lúc trưởng thành, ông tôi không còn nữa. Một mình tôi trôi nổi, bon chen trong cuộc đời thăng trầm thượng vàng hạ cám. Tôi mới tiếc nhưng đã muộn, tôi không còn có chiếc xuồng ngày xưa để bám chặt vào, với ông tôi chèo chống bằng cả một tấm lòng thương yêu bảo bọc.


Ngừng một chút ông nói tiếp:


- Bao nhiêu năm dài trên dòng sông cuộc đời quá ư nghiệt ngã với tuổi tác chất chồng mệt mỏi, tôi càng thấm thía hơn khi ngoái nhìn những nguy hiểm trải qua. Tôi chỉ thấy duy nhứt có mỗi một mình mình bập bủm trầy trật, chống chèo phấn đấu để sống còn. Nhiều lúc, tôi cố gắng kềm hãm những xúc động của lòng mình về hình ảnh ông tôi ngày nào. Những hình ảnh trân quý ấy cứ dằn co thúc ép, tựa hồ như muốn trào vọt ra ngoài. Nhưng những kỷ niệm chôn vùi bao nhiêu năm qua trong ký ức tôi, nay bỗng dung lại được đào xới nhắc nhớ, khiến cho đôi môi tôi luôn mấp máy không thành lời. Dường như lúc ôn cố này, tôi đang gọi thầm người xưa vậy.


Một đỗi khá lâu để hóa giải những xúc động đang dâng cao chót vót trong lòng, ông trở lại câu chuyện. Lần này với một giọng không kém trầm buồn ngăn ngắt:


- Riêng Bà Niểng, con người nổi tiếng cần cù, lúc trẻ có tật trệ một bên vai. Bà chẳng may bị chìm xuồng lúa chết đuối ở đây. Hồi đó, tôi có chạy đến xem khi nghe bà con chòm xóm tri hô inh ỏi, rùm trời rùm đất. Tôi đã chứng kiến cảnh thiên hạ đánh mõ hồi một, kêu la thất thanh, xáp nhau tận tình tìm kiếm, lặn mò cả một khúc sông để cứu vớt. Đến khi đem bà lên được thì đã quá muộn rồi. Xác bà đã cóng lạnh tái mét, tuy vẫn mềm nhũn nhưng không còn kịp nữa. Ông trùm Hưng, nhà liên ranh với bà, hối hả chạy đến chỉ kịp xốc bà lên trong lặng lẽ âm thầm... Từ dạo đó, người ta gọi cái voi là voi nơi Bà Niểng chết chìm. Rồi dần dần, người ta rút ngắn gọn lại thành voi Bà Niểng.


Giọng ông Hai thêm trầm buồn khi hồi nhớ quãng đời son trẻ của ông lãng đãng bao nhiêu hình ảnh thân thương. Nay ông cố gợi lại trong ngăn ngách tâm thức mình:


- Về cái ấp mang tên Bà Lác thì như thế này. Người đời sau đơn giản cứ tưởng ở cái ấp đó có một bà mắc phải bịnh lác theo kiểu "lác khô đi trước, lác ướt đi sau, hai lác gặp nhau, gãi thôi là gãi". Sự thực không phải như vậy đâu. Ở đó, trước kia có một cái bàu lớn lắm, lác mọc dầy mịt. Ai cắc cớ chun vô đó rồi đố Trời mà kiếm. Đất mới, phân phướng phì nhiêu, lác phất lên rất tốt, thân to lại dài. Lúc đầu, dân tình không bao nhiêu. Vài tháng trước Tết, họ đến cắt một ít đem về phơi dôn dốt rồi chẻ làm dây dùng gói bánh tét hay gói nem hỉ hạ ba ngày xuân. Về sau, dân tình thấy dây lác đem ra chợ làng Phước Lợi, Gò Đen hay chợ quận Bến Lức bán có giá nên từ dạo đó nhiều người tranh mua sĩ bán lại lấy lời. Họ sống được lắm nên khá đông gia đình kéo nhau đến cất nhà chung quanh bàu. Họ khai thác nguồn lợi thiên nhiên này, không cần đến vốn liếng. Bây giờ, cái bàu đã cạn theo định luật "thương hải tang điền". Nhà cửa thêm đông đúc, thôn ấp trở nên sung túc thạnh mậu.


Ông xác quyết chắt nịt:


- Nhưng có điều thầy nên ghi kỹ là "Bàu Lác" được dân tình ở đây đọc trài trại ra "Bà Lác". Thầy giáo có lạ gì. Bà con mình phần thì dốt chữ hay chữ nghĩa lem nhem, phần thì ít chịu khó tìm tòi nên việc nói trại đọc trại là chuyện thường. Hơn nữa, họ lại dễ dãi chấp nhận. Thầy nghĩ coi, thành ngữ "tâm sầu bạch phát", họ diễn tả là "tam xào bạch xác". Ấy vậy mà mọi người đều hiểu ý nghĩa của nó. Bàu Lác cũng như Bàu Cá, Bàu Sún, Bàu Sen... không hiếm gì ở xóm mình. Mấy cái bàu ấy lần hồi trở thành ruộng lúa do nông dân lấn chiếm hằng năm, mỗi năm một chút, đôi ba đường cày. Như xóm Bàu Lác thầy nhắc nhớ đâu còn vết tích cái bàu lác hoang vu rậm rì của thuở ban đầu nên người đời sau dễ lầm lẫn lắm. Nhưng nếu thầy để ý sẽ thấy nơi đây hiện vẫn còn nhiều lác mọc ven rạch. Nhưng bây giờ, dây lác không sao cạnh tranh nổi với các loại nhợ sản xuất theo kỹ thuật mới. Một điều chắc chắn là tôi xác nhận làm gì có "Bà Lác" ở đây và bà cũng chẳng có một nét đặc sắc nào để được lưu danh hậu thế. Thầy nghĩ có phải vậy không? Thầy thấy đó, chỉ mới đây thôi, chưa tròn một đời người mà có những nhầm lẫn tai hại như vậy. Lâu về sau còn như thế nào đây?


**


Giữa thầy giáo Mạnh và ông Hai Khoẻ dần dà có mối dây liên hệ ngày càng chặt chẽ thân tình hơn. Thầy giáo lân la qua lại nhà ông Hai như người ruột rà trong tộc họ không bằng. Những hôm cuối tuần hay gặp lễ lớn, sự có mặt thường xuyên của thầy không làm gia đình ông Hai ngạc nhiên mấy. Trái lại, họ xem như một thói quen thích thú. Thầy giáo không phải lúc nào muốn về thăm quê hương Bà Rịa cũng được đâu. Vào mùa mưa, kể như không đặt thành vấn đề. Nước nổi mênh mông. Đồng không trắng lóa một màu nước bạc. Mọi người đều bó gối ngồi nhà uống trà đấu chuyện tào lao vô tích sự trên Trời dưới Đất cho qua ngày. Mùa nắng vẫn trắc trở nhiêu khê. Xe bò, xe trâu, cộ trâu, vốn hiếm hoi lại bị nông dân trưng dụng tập trung vào việc gặt hái. Thầy bị cột chưn cột cẳng ở đây. Thầy chỉ còn một chút an ủi tinh thần là nhìn thấy mấy tập vở ghi chép tài liệu của mình ngày càng nhiều thêm, chất ngang chất dọc trên bàn giấy hay kệ vách. Còn nói chi những mảnh giấy rời nho nhỏ thầy dùng ghi lúc vội vàng, không biết cơ man nào kể xiết. Nó nhiều đến đỗi thầy không nhớ hết để chép sạch sẽ vào tập tài liệu để tránh thất thoát. Với bà con phụ huynh học sinh, thầy chỉ vào đó bảo là tài sản của thầy chỉ có bấy nhiêu ấy. Ngoài nó ra, thầy không có nhà cửa ruộng vườn, không vợ con quyến thuộc quanh mình. Thầy giáo "chà lết, lờn mặt" ở nhà ông Hai Khoẻ khiến một vài bà xấu mồm xấu miệng bắt đầu ví von nhiều điều lắm chuyện. Nhưng bà Hai Khoẻ bực mình hơn hết về mấy lời thá ví sâu độc đã thấu tai bà:


- Ông bà Hai nên sớm mua than đước U Minh, Năm Căn chuẩn bị là vừa!


Nghe đến đó bà Hai bỗng giựt mình. Bà chợt nhớ ở ngoài đời thường có những bà ăn nói tài ba khéo léo, quanh co cân nhắc, lôi cuốn ngọt xớt, nhưng phải quan tâm để ý tìm hiểu vì họ dùng một lời hai ba tứ. Vì lời nói của họ có nhiều ẩn ý... Đến lúc đó, bà mới biết thiên hạ xa gần nhắc ông bà không khéo thầy giáo Mạnh có ngày phải lòng và lẹo tẹo với cô Lành, con gái út, con gái cưng của ông bà. Cô đang ở tuổi cặp kê mộng mơ, vừa mới biết ăn diện làm duyên làm dáng. Mà ở tuổi đó, chỉ có Ông Trời mới biết đích xác nội dung mơ mộng của cô. Mà thật vậy. "Lửa gần rơm lâu ngày bắt bén". Kinh nghiệm đã cho thấy như vậy tự ngàn xưa, chớ có mới mẻ gì đâu! Hai người gần đây đã để ý nhau qua những cái nhìn tình tứ vụng trộm hay những câu nói bóng gió bỏ lửng trước chỗ đông người. Mỗi lần thầy giáo đến hầu chuyện với ông Hai, cô Út Lành viện cớ này cớ nọ phơi hình bẹo dạng, gây sự chú ý của thầy giáo. Và cũng để có cơ hội để cô nhìn chéo nơi khoé mắt, dưới vành nón lá hoa, người đàn ông độc thân đẹp người đẹp nết, ăn nói lịch sự, có ngần có lớp, vừa dễ thương vừa có chức phận. Một đối tượng cô hằng mơ tưởng trong đời. Ngày thường, cô cày lúa trước sân nhà, xuôi ngược ngược xuôi trên mấy tấm đệm nối sát vào nhau rộng thênh thang. Nhưng hôm nay, có sự hiện diện của thầy giáo, dường như cô không vừa ý với những luống cày xẻ dọc chẻ ngang do đôi bàn chân nhịp nhàng của cô tạo ra. Cô nấn ná ở sân phơi lúa lâu hơn, tỏ ra ngây thơ chí thú với việc làm. Nào ai biết trong lòng cô rộn rả một tình cảm xao xuyến lâng lâng theo nhịp tim và hơi thở của cô. Có hôm, cô xăn quần đến gối, tay áo vén ngược bó sát cườm tay, nhún nhảy trên cây cầu khỉ bắt ngang mương bên hông nhà. Cô xách nước tưới mấy luống rau xanh, mấy liếp ớt hiểm và ba bốn gốc bầu trái rộ, thòng xuống giàn tre như thạch nhũ. Cô kéo dài thời giờ, tưới không biết mệt


        

Thầy giáo Mạnh cũng không giấu được cảm tình đặc biệt của thầy đối với cô Út. Tuần nào không đến được nhà ông Hai Khoẻ, thầy thấy khó chịu, bực bội. Trong lòng thầy hẳn nhiên thiếu vắng một cái gì không nói được nên lời. Dù có ai đến mời mọc, thầy gượng vui gượng cười chấp nhận chớ trong thâm tâm thầy giờ đây có một khoảng trống không lạnh lùng, không cách nào bù đắp được. Đôi lúc hầu chuyện với ông Hai, thầy đâm ra lơ đễnh lo ra. Mỗi khi ông Hai để ý nhắc khéo, thầy bẽn lẽn thẹn thùng, đỏ mặt tía tai. Thầy đang sống trong tưởng tượng, trong mơ hồ. Thầy đang thả hồn phiêu du trong mộng mơ đến những ngày đầy hoa gấm. Bà Hai Khoẻ tự ái vì lời ra tiếng vào vướng mắc một chút ganh tị của một vài bà con nên cằn nhằn cẳn nhẳn ông chồng. Bà qui tội ông Hai nhiều điều lắm chuyện, bày đặt nọ kia, nên bây giờ mới đem họa vào nhà. Bà hứ một tiếng nghe như nỗi xót xa bất bình của bà đang trào vọt ra ngoài:


- Chuyện trong cửa trong nhà chưa tỏ mà ngoài ngõ đã hay biết tùm lum! Tôi bực mình lắm!


Ông Hai trái lại tỉnh queo. Ông điềm nhiên ngồi uống trà Thiết Quan Âm, ăn bánh in Bổn Lập như không có chuyện gì xảy ra. Rồi ông đưa mắt nhìn mấy con chim se sẻ đang chùm nhum chúi đầu đập cánh liên hồi, sung sướng hạnh phúc lắm khi được tắm nơi cái nắp lu vú bể đầy nước mưa vào buổi trưa nóng bức. Ông khề khà:


- Bà đừng thắc mắc chi thêm mệt. Ai nói gì mặc kệ họ. Cái quyền tự do của họ mà. Nhưng tôi nhắc bà, tụi nó đều là trai gái mới lớn lên cả, dù thầy giáo có lớn hơn năm bảy tuổi cũng chẳng sao. Chúng có tình có ý với nhau cũng là chuyện thường. Chuyện thế gian của trăm năm ngàn năm trước đó bà. Nếu chúng phải duyên phải nợ cũng được thôi. Con Út lớn đại rồi. Bà không thấy thể xác của nó hay sao? Hăm mươi mấy tuổi chớ bộ ít ỏi lắm à. Ở cái tuổi hâm tới hâm lui, hâm xuôi hâm ngược đó, lòng tôi không yên mấy. Nhìn nó, bà không thấy rầu sao?


Ông nhìn vợ âu yếm như muốn được cảm thông và chia xẻ:


- Tôi thì lo lắm. Tôi sợ thấu trời. Lo sợ nhưng cứ để trong lòng, bấm bụng chịu đựng. Chẳng lẽ việc gì mình cũng thố lộ bọc bạch ra ngoài cả hay sao? Ngay cả với bà, tôi cũng không muốn bà biết sợ bà lo tội nghiệp. Tánh đàn ông là như vậy. Rủi con Út làm điều xằng bậy tai tiếng, tổn thương đến gia phong danh giá nhà mình, nhè a thần phù té nhằm một người có gia đình, có vợ con đùm đề nheo nhóc. Đó mới là đại họa cho tông tộc dòng họ mình. Lúc đó, người ta sẽ đàm tiếu soi bói mới đáng sợ. Bà nán ẩn nhẫn chờ. Đừng có làm ồn lên hư việc. Vì có hốt hoảng làm ồn cũng chẳng ai vào gỡ rối cho mình được đâu! Thủng thẳng tôi theo dõi xem sao. Việc đâu còn có đó.


Bà Hai tỏ vẻ như thách thức:


- Ông có giỏi, liệu mà lo. Tôi giao đứt tương lai nó cho ông đấy. Ông khỏi nói dong dài chi cả. Từ nay, ông có đầy đủ toàn quyền, xem như tôi đã chết từ lâu. Sau này, ông khỏi đổ thừa qua đổ thừa lại, phiền phức nhức đầu lắm. Con Út là gái, nó tùy thuộc vào cái đức của ông đó!... Chắc ông thừa biết.


Từ dạo ấy, bà Hai ngấm ngầm quan tâm để ý đến cô Út nhiều hơn trước. Bà nhận thấy tính tình cô quả nhiên có nhiều thay đổi quan trọng. Cô rất yêu đời, lúc nào cũng tươi cười như hoa nở. Cô lăn xăn líu xíu, đứng ngồi không yên mỗi khi có ông thầy giáo ghé nhà. Trưa trưa, chị Tám Én, người hàng xóm ở sát bên nhà bồng thằng Cu Nhỏ ba bốn tuổi gì đó qua chơi. Cô Út nâng niu thằng bé bụ bẩm, kháu khỉnh rất mực dễ thương. Cô nựng nịu ẵm bồng thằng nhỏ chẳng biết mỏi tay rồi để nó nằm im trên võng đong đưa ru ngủ. Cô thương yêu trẻ con. Cô đóng vai trò chị Tám Én, xem ra cũng khá thuần thục. Giọng ru của cô du dương, ngọt ngào:


- Chim đa đa đậu nhánh đa đa


Chồng gần không lấy đi lấy chồng xa


Một may cha yếu mẹ già


Chén cơm đôi đũa bộ kỷ trà ai dưng?


- Má ơi đừng gả con xa


Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu...


Những khi có thầy giáo qua nhà, giọng cô thêm rộn rả lôi cuốn:


- Tới đây đất nước lạ lùng


Chim kêu cũng sợ cá vùng cũng kinh


- Tới đây thì ở lại đây


Chừng nào bén rễ xanh cây hãy về...


Không biết cô cố tình hay chỉ thuộc nằm lòng có mấy câu ca dao vừa chơn chất vừa thâm thúy đó thôi. Những câu ca dao rút từ sâu thẳm tâm thức gia đình hay ký ức tập thể của chòm xóm mà hầu như trưa nào người ta cũng nghe cô ru thằng Cu Nhỏ cùng một âm hưởng, cùng một ý nghĩa như thầm gởi gấm nỗi lòng trắc ẩn của mình? Một hôm bà Hai Khoẻ làm lành trở lại, thủ thỉ với chồng:


- Ông à! Hổm rày, tôi coi bộ ông có vẻ lơ là chểnh mảng về chuyện con gái mình quá. Thấy mà phát rầu! Không biết ông nghĩ gì? Phần tôi, tôi để ý con Út ngày càng tâm hơ. Nó có những cử chỉ lạ huơ. Đầu óc ở đâu đâu! Nó biểu lộ nhiều tình ý về ông thầy giáo đó nghe ông. Ông thử gọi con dò hỏi ý nó thực hư ra sao để sớm định liệu tìm thầy tìm thuốc...


Ông Hai chưa kịp trả lời, bà Hai trề nhún ngoe ngoảy không bằng lòng:


- Người ta hay nói "miệng đàn bà con trẻ coi vậy mà thiêng". Lẩm rẩm mấy bà bồng chanh bốc chách thiên hạ sự xóm mình bảo tôi "mua than sớm là vừa "quả không có gì phiền trách người ta được. "Không có lửa làm sao có khói" phải không ông?


Bà xác nhận:


- Gần đây, tôi lo quá. Con mắm dù có ngon cách mấy, một khi lỡ nó trở thình lình thành ra nặc nồng thối um. Tôi ngán cái ngữ đó lắm. Mặt mũi nào dám nhìn thấy bà con đây. Thôn ấp mình không mấy người, chuyện gì dù nhỏ nhặt đến đâu ai mà không biết, không hay. Chắc chỉ còn có nước độn thổ hoặc bán nhà bỏ đi xứ khác làm ăn. Tôi nói ông có nghe không?


Bà tỏ ra ấm ức lắm:


- Tôi nóng hơ nhưng ông lúc nào cũng vậy, coi như không có chuyện gì quan trọng cả. Ông im lặng làm cho tôi thêm bực mình. Nước tới trôn rồi nghe ông! Mà sao ông cứ trù trừ xịch lụi. Ông làm y như lúc tôi đi sanh nó, đau bụng thúc tới nơi, bảo ông lo tát nước ghe mau mau đi rước bà Mụ Khánh. Nhưng ông thản nhiên đem xong lúa thóc vào bồ trước nên mới sanh nó khó, rặn thiếu điều hụt hơi. Thôi để tôi kêu nó lên cho ông nói sao thì nói. Tôi giao nó cho ông lo để vừa lòng ông.


Nói xong, bà Hai vả lả làm vui. Bà không còn căng thẳng với ông Hai chẳng ích gì nên cất giọng lảnh lót:


- Út ơi! Con làm gì đó? Lên đây ba má biểu một chút coi.


Có tiếng cô Út trả lời ngập ngừng từ nhà dưới:


- Dạ! Con nghe rồi. Lát nữa con lên được không? Có gắp gì không má? Con bận, đang chép sạch sẽ lại mấy tập tài liệu của ông thầy giáo. Ổng mượn con...


Ông Hai liền khoác tay:


- Thôi, bà khỏi kêu nó lên để tôi bảo biểu gì nữa cả.


- Ông đã nghe rõ rồi chưa? Ông liệu mà lo ngay bây giờ. Ông lựa lời để thầy giáo nhờ mai mối là vừa.


Ông Hai Khoẻ vẫn giữ nét mặt điềm nhiên thơi thới:


- Bộ bà định gả nó đi xa à? Cơ khổ thật! Bà không thương con, muốn đày con mình về vùng khô cằn cày lên sỏi đá tận Bà Rịa đất đỏ sao? Từ đây đến núi Thị Vãi xa lắm nghe bà! Con Út mà về làm dâu ở đó kể như vĩnh viễn không có ngày trở lại xóm Rạch Rít của mình nữa đâu. Rồi sau này, lúc bà và tôi bước vào tuổi cổ lai hi, thất bát tuần gì đó... "chén cơm ai đỡ, bộ kỷ trà ai dưng" đây bà?


Bà Hai rươm rướm ngồi im lặng thinh. Bà bùi ngùi nghĩ đến tương lai của vợ chồng một khi thiếu vắng cô Út. Ông Hai vừa vấn xong điếu thuốc rê to cỡ ngón tay cái trẻ con, loại thuốc Gò Vấp khét tiếng cả vùng đất Nam Kỳ Lục Tỉnh. Những lúc thả hồn phiêu du nơi cõi mông lung mơ hồ của khoái lạc, ông thường ngâm nga hai câu thơ ưng ý rút từ bài Gia Định phú:


"Trầu Sài Gòn xé ra nửa lá


Thuốc Gò Vấp hút đã một hơi"


Ông bước tréo ra thềm nhà lấy con cúi rơm thường xuyên nằm trườn mình nơi đây, thổi lửa để đốt thuốc. Ông rít một hơi dài sảng khoái. Rồi hai dòng khói trắng đục cuồn cuộn tuông ra từ mũi. Ông khẳng quyết:


- Tôi nha bà. Bà định gì thì định chớ tôi không ưng gả nó đi xa đâu. Tôi thương nó. Nó là con Út. Có nó hủ hỉ, vợ chồng già mình cũng đỡ cô đơn.


Ông lập lại một lần nữa như để lưu ý bà Hai:


- Gả nó đi xa làm sao tôi sống nổi. Ở đời, không có gì đau khổ, dằn xé đay nghiến dài lâu bằng thương nhớ đợi chờ. Tôi nhứt định sẽ gả nó sát bên hè nhà mình thôi.


Ông chêm thêm như cố ý thách thức:


- Bà cứ chờ xem! Bà không tin tôi à?


Bà Hai ngùn ngoằn bực mình nhưng đè nén tỏ ra nũng nịu với chồng:


- Không tin ông mà bỏ gia đình, bỏ mẹ bỏ cha, bỏ anh em ruột thịt, bỏ cả quê hương xứ sở... ở với ông đến gần hết một đời người! Ông có nhớ từ ngày mình đám cưới đến nay được bao nhiêu năm cho tôi chết đi. Tôi thì nhớ từng ngày từng tháng từng năm, còn ông tôi chưa hề nghe nhắc tới một lần. Tánh ông dễ quên quá mà! Vì vậy, bây giờ ông mới đặt vấn đề tin hay không tin. Có muộn quá không ông!


Bà còn ấm ức:


- Phải hồi xưa ông nói kiểu đó thì còn khuya ông già bà già tôi ưng gã tôi cho ông. Còn tôi nha ông. Thà tôi ở vậy làm gái già cho khỏe tấm thân.


Bà bỗng trực nhớ:


- Má tôi hồi đó cứ theo vặn hỏi tôi hoài: "Sao kỳ cục vậy? Tao hiểu không nổi! Thiếu gì đứa trong làng trong tổng cậy mai mối đến hỏi cưới đàng hoàng mà mầy không ưng, lại ưng thằng Khỏe".


Nói là nói như vậy chớ đàn bà dù tánh tình dễ hờn dễ dỗi nhưng cũng dễ quên, một khi tình yêu nồng nàn chân thật vẫn còn đó. Bà Hai nhẹ giọng làm lành:

- Vậy chớ ai sẽ là "rể đông sàng", rể yêu rể quý của tôi đây ông? Ông khéo quá mà! Ông gi


giữ kín như bưng.


Gương mặt bà bỗng dưng đổi sắc. Bà quá vui mừng sung sướng khi bà lắng nghe tiếng nói thân quen của ông Hai:


- Thì ông thầy giáo chớ còn ai vào đây! Giữ kín như bưng cái quái gì. Việc gì đến sẽ đến. Tôi định đâu đó rõ ràng rồi sẽ cho bà hay cũng chẳng muộn. Thầy giáo vừa thỏ thẻ với tôi mới hôm qua, lúc đến chơi nhà mình khuya lơ khuya lắc, khi thầy nhốm đít chuẩn bị kiếu từ ra về. Thầy dạm ý vợ chồng mình trước rồi sẽ nhờ mối mai xin cưới con Út đó bà.


Bà Hai thở phào nhẹ nhỏm trong khi ông Hai được nước lên giọng:


- Con người đạo đức nết na như thầy giáo, nếu thương con Út nhà mình thì tôi đinh ninh thầy sẽ thương yêu đùm bọc nó hết tình hết nghĩa đến chết, đến hơi thở cuối cùng. Để rồi bà xem. Cũng giống như tôi đối với bà vậy.


Bà Hai liếc chéo:


- Biết rồi! Ông khỏi phải nói.


Ông Hai nói thêm:


- Tôi còn bắt rể nữa cho bà coi. Tôi không có nói giỡn đâu. Thực dân còn đó. Thầy giáo còn bị đày dài dài, lưu xứ ở đây cho đến "bén rể xanh cây" chưa chắc đã về lại Bà Rịa. Để bà coi tôi nói có linh không?


Bà Hai Khoẻ nguýt một cái còn sắt hơn dao "con chó" bổ cau ăn trầu, loại dao nổi tiếng nhập cảng từ mẫu quốc Pháp. Bà vội vàng quay gót bỏ đi thẳng tuốt một mạch ra nhà sau. Tiếng bà văng vẳng vọng lại:


- Ông này lãng nhách. Tôi biết ông quá mà. Ở với ông ròng rã mấy chục năm trời chớ bộ mới mẻ gì đâu. Cái đức của ông to lớn lắm. Mà cái tài của ông cũng không nhỏ đâu. Cho nên con Út giờ đây mới được nhờ.


Ông Hai vuốt râu khẽ cười. Ông run đùi sung sướng rồi đưa mắt nhìn ra khoảng không gian xanh thẳm của đồng quê bản quán, thôn làng lắng trầm thơ mộng của ông.





                                   

                      

  

Chữ Nghĩa Một Thời

         

   
Ở đời, mỗi người đều có một đam mê, động lực thúc đẩy cuộc sống. Sống đam mê là sống với hạnh phúc nội tâm. Không có ngọn lửa đam mê hừng hực bừng cháy trong lòng khó có người làm nên việc lớn. Nơi xóm Rạch Rít của tôi, cái đam mê chung của bà con vẫn không ngoài công việc của trăm năm ngàn năm là phá rừng lấp vũng, đào kinh lên vồng lên liếp. Họ biến những vùng hoang vu rậm rạp chẳng mấy chốc thành cảnh thổ quyến rủ với ruộng nương vườn tược ngút ngàn, quanh năm xanh um mơn mởn. Giai đoạn phá rừng khẩn đất, ngày ngày cả gia đình đều tất bật khổ cực, đầm đìa mồ hôi và nước mắt rồi cũng qua mau theo tuổi đời chồng chất với huê lợi đảm bảo mức sống thanh thản hằng năm. Những huê lợi này đôi khi vượt quá xa mức ước mơ của thuở ban đầu quyết tâm dấn thân, bắt tay lao vào việc với chân đất đầu trần, với áo quần tả tơi mà đôi vạc áo suốt ngày chưa hề thấy khô ráo. Thôn ấp xóm tôi một dạo trở nên sung túc thạnh mậu chỉ sau một thời gian ngắn không đầy đôi ba thập niên lao nhọc dốc tâm. Nhà cửa rải rác đó đây bắt đầu được xây dựng khang trang bề thế. Mái ngói âm dương đỏ au au. Nền gạch tàu sạch sẽ. Vườn tược thênh thang sầm uất. Cây cối oằn trái ngon ngọt giữa những cánh đồng lúa bao la bát ngát ngút mắt. Phong quan cảnh trí hấp dẫn gọi mời đón đợi. Tương lai cầm chắc trong tay, nhưng họ rất mực thực tế, không dám mơ ước quá đà. Bây giờ người dân có giờ giấc thư thả hơn. Họ có nhiều dịp giải trí, sống hạnh phúc ấm cúng trong gia đình cùng vợ con hay hợp mặt bè bạn thân tình. Họ không còn quần quật sớm khuya quanh năm như thuở nào. Những thú vui tiêu khiển vừa thanh cao tao nhã, vừa mộc mạc chân quê được đào bới cuốc xới tận trong sâu thẳm ký ức tập thể của xóm làng. Giờ đây, những thú vui giải trí lành mạnh đó xuất hiện tuần tự theo nhu cầu tinh thần và tình cảm đòi hỏi phải có, nhằm bù đắp những tháng ngày đầu tắt mặt tối, gian lao khổ cực dằn dặt không dứt.


            
Nhiều gia đình chẳng khá giả gì cho lắm cũng chú tâm giành thì giờ quý báu hiếm hoi cho những sinh hoạt tập thể vui nhộn ấy, tạo thành một nếpsống mới quân bình, có làm việc vất vả phải có vui chơi hưởng thụ. Họ không đợi đến tuổi già để tiếc nuối quá khứ đã vọt khỏi tầm tay. Nhứt là nơi thôn quê khỉ ho cò gáy, giữa thiên nhiên đất trời thơ mộng hữu tình, sự tận hưởng hiện tại này làm thay đổi hẳn quan niệm sống của người xưa. Tội nghiệp lớp người tiên phong ấy, suốt kiếp xả thân trong lao nhọc, ăn uống kham khổ, hạn chế tiêu xài đến mức tối đa. Họ chắt chiu từng chút, dành dụm "tích tiểu thành đa" chỉ cốt để lại cho con cháu. Bà con tôi tập tành học hỏi để đi đến thành công, ít ra trong những giờ phút bằng lòng, toại nguyện về phong cách quản lý giờ giấc của người xưa. Những người nầy không hề biết hấp tấp vội vã, bôn ba thúc hối. Trái lại họ rất thư thả hài hòa, có chừng có mực. Lần hồi, đa số bà con tôi biết xử dụng hợp tình hợp lý và đúng mức đời mình để một phần cuộc sống của họ tựa hồ như quên lãng, như bị dập vùi trong công việc trần thân khoai củ bấy nay, giờ đây hằng ngày thêm lý thú. Và nhứt là có ý nghĩa hơn. Đầu xóm trên, cứ chiều chiều, khi mặt trời còn rừng rực bắn tung toé những tia nắng vàng chói chang ở chân trời xa, đôi ba người đứng tuổi hẹn nhau nơi mái hiên đình làng. Họ ngồi xề trên nền đất, đánh cờ tướng, thu hút không ít người xem. Những khán giả thường trực, không hẹn mà đến vào giờ phút này, tha hồ làm nhưn làm nhụy theo kiểu các quân sư quạt mo trong những truyện chương hồi tràn giang đại hải của Trung Hoa cổ thời. Thỉnh thoảng cầm lòng không đậu, họ chẳng ngần ngại xa gần, bóng gió bàn vô tán ra, góp ý góp lời nhắc nước. Đôi lúc, không khí trở nên cực kỳ căn thẳng đến mức phiền phức khó chịu. Họ cự nự, phân bua cãi cọ nặng lời với nhau từng chập. Dù vậy, những lần gõ mạnh con cờ làm bằng sừng trâu, chiếu tướng cốp cốp... to tiếng trên bàn cờ cây, họ hãnh diện, phiêu phiêu tự đắc. Vì họ đã thành công gỡ được một thế cờ hiểm hóc, tưởng chừng sẽ phải xóa cờ đánh lại trận phục thù. Tiếp theo sau là những trận phê phán, phẩm bình lê thê bất tận. Rồi những chuỗi cười rùm beng, vang vọng ra xa ngoài lũy tre ranh dầy mịt, ngất nghểu theo từng cơn gió. Xóm dưới, bà con đã chuẩn bị từ chập tối, trầu thuốc và quần áo tươm tất lục tục kéo nhau tụ năm tụ bảy hát huê tình, ca vọng cổ hoài lang dưới ánh sáng mờ mờ ảo ảo của ngọn đèn mù u leo lét. Hai mươi câu nhại theo bài bản nổi tiếng của các nghệ sĩ tài danh thời hoàn kim ca hát tài tử, cứ ngân nga kéo dài não nuột buồn tênh trong đêm khuya vắng. Thêm mấy cây đàn kìm, đàn gáo ò e tưng tửng, bổng trầm trầm bổng ngăn ngắt xoáy tim. Hình như cuối tuần nào cũng thấy bấy nhiêu đó tái diễn tới lui mãi. Cũng những lời ca, những khúc nhạc "bổn cũ soạn lại" buồn hiu ai oán. Theo với năm dài tháng rộng lần lữa trôi qua, cũng những tiếng nấc cay chua, nghẹn ngào thâm trầm của người bị tình phụ, bị chồng ruồng rẫy hất hủi bỏ rơi. Cũng những tiếng thở dài mênh mông xa vắng của người đàn bà trông chồng dặm ngàn dong ruỗi chưa về sum hợp. Cũng những lời lẽ ngọt ngào của người con chí hiếu đối với mẹ già ở vào tuổi ướm rụng. Cũng những trầm buông thống thiết của người trai thời loạn, lỡ bước sa chân lọt vào cạm bẫy, gông cùm xiêng xích của kẻ thù truyền kiếp... Mà thật tình, những lời lẽ lê thê, chấp nối não nùng theo vần điệu êm tai có mãnh lực tác động lòng người, và những ý nghĩa khúc mắc, những hờn giỗi ẩn ức, nhớ nhung than trách... tất cả những thứ ấy, giá nếu có đem hỏi người lớn, nhiều khi họ cà lăm cà lặp, ú a ú ớ, biết đâu mà giải thích ổn thỏa rạch ròi! Con người nông dân cảm nhận và hành xử theo tiếng nói hướng dẫn thiêng liêng của lương tâm. Họ không hề biết giang ca, đôi co lý luận. Ấy thế, đám trẻ lòng tong cá chốt, mặt mũi tèm hem non chèo vẫn chen chúc bu quanh. Chúng ngồi im re bất động, giương đôi mắt tròn xoe giản nở, ngóng cổ vảnh tai chú ý nghe. Thực sự, chúng nó còn quá ngây thơ khờ dại, tầm hiểu biết giới hạn nơi bờ ao hố cá. Chúng chẳng hiểu mảy may gì. Nhưng có lẽ chúng từng nghe tới nghe lui, nghe mãi nghe hoài rồi vương vấn âm thanh vần điệu, vấn vương hơi hướm điêu luyện quyến rủ nên cứ bắt phải mò đến tiếp tục nghe hằng đêm chăng? Nhiều khi những tay đờn tài tử trẻ tuổi mới tập tành bước vào nghề, duyên âm nhạc, nghiệp cầm ca hát xướng không bén nên dù có chăm chú nắn nót ngón đờn cách mấy cũng không tránh khỏi đờn rớt nhịp hay lạc giọng. Lúc đó mấy anh chàng ca sĩ tài tử đâm ra nổi nóng, cao có, dứt ngang, cằn nhằn không ngớt miệng. Khán giả mất hứng, ồ lên một tiếng tiếc rẻ. Nhưng được một cái là tiếp ngay sau đó, họ đồng thanh vỗ tay tán thưởng, nâng đỡ. Cái quý của người nông dân chơn chất là ở chỗ đó. Họ rất rộng rãi, dễ quên và sẵn sàng bỏ qua mọi sơ xuất.


Nhà ông giáo Sử có cái máy hát cũ lâu đời lên nước xám xịt, lốm đốm dấu tay sậm đen nhiều nơi. Nhà ông khá khang trang. Ông sống thoải mái lắm so với dân tình. Loại máy nầy của ông là loại máy quây giây thiều đòi hỏi sự hiện diện của ông mỗi khi đem ra xử dụng. Có thể nói trong cả làng chỉ có cái máy duy nhứt nầy mà thôi nên quến con nít. Do vậy, ông nào dám để máy hát ở nhà trên, nơi sang trọng. Ông sợ đám nhỏ vô ý đụng chạm làm hư bể đồ cổ của ông. Ông để nó ở nhà sau, giữa hai bộ ván ngựa trước mấy bồ lúa cao thấu mái nhà. Đám trẻ nhỏ tiểu yêu, chập chập tối, lật đật lùa trâu bò vào chuồng sớm cho chúng rút rơm rạ về đêm. Khi cơm nước vừa xong, chúng nó tức tốc đánh áo đánh quần nhởn nhơ ngoài hè nhà ông giáo chờ đợi. Trông thấy chúng đứng ngồi không yên mà tội nghiệp cho tuổi trẻ ở làng quê. Chúng nhớ những buổi hát thường nhựt này hay nhớ hai bộ ván ngựa đầy dấu chân gà mà chúng bất cần, cứ mặc nhiên nhảy thót lên ngồi co rúm tỉnh queo. Hay chúng quyến luyến hơi nóng ấm áp tỏa ra từ mấy bồ lúa? Khi máy hát bắt đầu phát âm, chúng nó đồng loạt vỗ tay lốp đốp lốp đốp… và tiếng nói cười xô bồ bỗng nhiên tắt hẳn. Im lặng tuyệt đối. Ông Giáo Sử để những dĩa bảy mươi tám vòng nặng ì ì của các hãng Asia và Pathé chạy không ngừng đến khuya lơ khuya lắc. Nhứt là vào những chiều thứ bảy, chúa nhật, ngày nghỉ dạy hằng tuần của ông. Thỉnh thoảng, ngủ gà ngủ gật, ông quên quây, máy hát hết giây thiều. Lời ca tiếng nhạc giảm cường độ, xuống giọng eo éo nhỏ dần như khi người ta bị ai bóp cổ, khiến mấy đứa nhỏ khoái chí tử cười rân chỏng gọng. Ông vồn vã phóng lại quay liền tay và giọng hát từ từ trở lại bình thường trong sự im lặng thưởng thức của mọi người. Cũng nhờ cái máy hát xập kỷ nìn đó của thời Tây Tà bắt đầu phát triển dãy đất Nam Kỳ Lục Tỉnh mà các tài tử nhà vườn, quá đam mê nghệ thuật cầm ca của xóm tôi, tha hồ nháy theo những giọng ca vàng một thời từng làm mưa làm gió trên làn sóng điện. Đó là những bài bản bán chạy như tôm tươi của các cô Tư Sạng, Ba Bến Tre, Năm Cần Thơ... của các nghệ sĩ Tám Thưa, Ba Ngươn, Út Trà Ôn v.v... Dù ở mức độ kém cỏi, không xứng đáng làm học trò hạng bét của những bậc hàng sư này, nhưng họ rất được thính giả và khán giả nhà một mực tán thưởng ở những bữa giỗ, cưới hỏi hay lễ lộc... kéo dài đôi ba ngày đêm, say sưa thù tạc trong tình thân thương cật ruột chòm xóm.


Cách một vài nhà, mấy con cu mồi no tròn mập lút được chủ nhân nuôi toàn bằng hạt lúa tiêu, từng chập cất tiếng gáy lanh lảnh bùi tai. Chúng nó có lúc chiêu khoan thai, lúc bo thôi thúc, lúc rúc khiêu khích, thách thức kẻ thù được tự do bay nhảy bên ngoài. Nhứt là vào giữa trưa đứng bóng, cảnh vật vắng vẻ đìu hiu, càng nghe lảnh lót hơn. Cái thú nuôi cu mồi ở nơi rừng tràm rừng chồi, cây cối tiếp nối nhau tăm tắp này rất được các bô lão ưa chuộng mặc cho tiếng đời thường ví von mỉa mai:


Ở đời có bốn cái ngu


Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu.


Nhưng không sao! Chẳng hề hấn chi cả đối với các cụ. Các cụ vốn đã mỏi gối chùn chân từ khuya, nhưng vẫn còn hãnh diện trào lộng khi nhắc nhớ đến con cu tâng tiu quý giá nhứt của mình:


Nhà bà giàu thịt thà đầy mâm đầy thớt


Phận tôi nghèo trớt quớt con cu


Một mai bóng xế trăng lu


Thịt thà bà hết, con cu tôi còn...


Trưa trưa, theo nhịp võng kẻo kè kẻo kẹt trầm buồn, mấy đứa học trò khó lớp ba lớp tư trường làng khởi đọc có ca có kệ những truyện Bạch Vân Tôn Các, Lục Vân Tiên, Thạch Sanh Lý Thông , vè thầy thông Chánh , cậu Hai Miêng v.v... ru ngủ mấy cụ già, mắt đã mờ tai đã lãng. Mấy quyển sách truyện này, bám mồ hôi lâu đời lem luốt xám xịt, tưa rìa, bốn gốc cuốn kèn đủ bốn. Mỗi lần đọc, chúng nó phải mất thì giờ vuốt ra ngay ngắn nhưng chỉ một lúc sau, cuốn kèn trở lại như cũ. Nhưng khốn nỗi, thời buổi kinh tế khủng hoảng, giấy quyến khan hiếm, đã đắc tiền lại tìm mua không ra ở chợ làng chợ quận. Mấy tay ghiền thuốc đến mức mấy ngón tay vàng cháy, cứ cắc cớ xé lần từng trang vấn hút. Sách thiếu từng đoạn, mất từng trang, có khi thiếu cả chương cả hồi. Vậy mà chúng nó vẫn đọc tiệm tiến bất tận và ngon trớn. Chúng đọc nhảy đoạn, nhảy trang như không có gì lạ đáng lưu ý cả. Câu chuyện chẳng mạch lạc gì nhưng các cụ cũng chẳng phiền hà trách móc. Có đứa đọc ngân nga, ru bùi tai là các cụ vỗ giấc ngủ được rồi. Có hôm, chúng nó lại đọc trật vuột, trật lên trật xuống, đôi khi còn phản nghĩa nhưng rất dễ thương. Bà con ngồi chung quanh nghe ké, đang gù gật thiu thiu, bỗng phá lên cười nôn ruột, nước mắt đầm đìa. Có người còn phát biểu tỉnh bơ như để bênh vực chúng nó:


- Ối! Mình nên rộng lượng. Đừng có bắt bẻ tụi nó mà tội nghiệp. Con nít con nôi mà. Có gì mới mẻ đâu? Tụi nó đọc trật hà rầm lâu nay, nghe hoài quen tai rồi. Có ai phản đối gì cho tôi chết đi. Mà thật tình chúng nó đọc trẹo cẳng ngõng như vậy cũng chẳng chết thằng Tây trắng Tây đen tào cáo nào đâu!


Phần ông tôi, ông rất thích chơi cây kiểng. Thú tiêu khiển thanh cao hợp với người có tuổi về hưu cả thập niên nay. Nhờ giàn kiểng quý danh tiếng trong xóm và nhờ công phu uốn cành tỉa nhánh, sáng tạo những hình thù cân xứng, nào sinh vật huyền hoặc như rồng phụng, chim chóc độc đáo xoè đôi cánh thẳng nhìn lên khôn trung... nên ông tôi xử dụng thời gian lúc đã quá xa cái tuổi "thất thập cổ lai hi" của ông rất nhàn nhã, thảnh thơi. Bè bạn cùng chung một đam mê với ông không ngớt tới lui những lúc rỗi rãnh. Họ nhìn ngắm thưởng thức công trình mỹ thuật dân gian hiếm hoi, khen ngợi phẩm bình chung quanh những chén trà Thiết Quan Âm, có ướp thêm bông lài vườn nhà, vừa đậm đặc vừa bốc hương thơm ngát. Riêng thầy tôi, ông Thầy Huế có cái thú sở trường mà ít bà con tôi ở xóm Rạch Rít, đất mới người thưa lại quê mùa, có thể bì kịp. Thầy rất thích gìn giữ những kỷ vật xưa. Những kỷ vật đánh dấu những chặng đường đời bay nhảy thăng trầm mà thầy từng mai mỉa nói "khi lên voi, lúc xuống chó" của thầy. Những kỷ vật đó thầy đã thành công mang canh cánh theo mình sau khi bôn ba khắp Bắc Trung Nam, cả Miên và Lào nữa, để rốt cuộc đến dừng chân sinh cơ lập nghiệp vĩnh viễn ở cái xóm đèo heo hút gió buồn tênh của tôi.


Một bộ bình trà nhỏ nhắn xinh xắn vừa đủ cho thầy tôi để nó xít xao vừa vặn vào xách tay mỗi khi đi xem ngày tốt ngày xấu hoặc bốc thuốc xa nhà nhiều ngày. Những lần đó, thầy bình bồng lênh đênh trên sông nước với chiếc ghe tam bản thon thon. Ghe có mui ấm cúng và đầy đủ tiện nghi, có ván bản lót bên trong lên nước láng o sạch sẽ. Bộ bình trà này gói ghém rất nhiều kỷ niệm mà thầy tôi đã kể lai lịch cả ngày cả buổi chẳng dứt với ông tôi. Nhưng thỉnh thoảng gặp lại ông tôi, thầy vẫn dong dài không nhàm chán về xuất xứ của nó. Và cứ mỗi lần như vậy, thầy còn thêm nhiều tình tiết mới lạ nên càng hấp dẫn lôi cuốn người nghe. Ở vùng đất mới, người dân bươn chải, quần quật vật lộn suốt ngày với ruộng nương, kinh rạch ngút ngàn. Nhà cửa tân tạo bề bộn, đòi hỏi phải sửa sang tu bổ không ngừng tay. Vườn tược ráo hổi nhiều chỗ còn dang dở, đất nền lởm chởm, chà nhánh khô ngổn ngang hay được tập trung thành đống cao nghều nghệu... Bao nhiêu việc chực chờ. Nên những vật dụng cha truyền con nối, những kỷ vật xưa có một giá trị tình cảm và tinh thần vô giá. Nó đánh dấu cả một tiến trình dài đằng đẵng, gắn liền với quá khứ xa xôi của gia đình dòng tộc. Người ta tưng tiu quý trọng xem như một báu vật hiếm hoi, đôi khi có một không hai ở đây. Ấy vậy, nhà thầy tôi có rất nhiều thứ, tuy đơn sơ nhưng rất mực độc đáo. Những di tích lịch sử ấy của thầy tôi thường là đề tài đàm đạo của bà con lúc trà dư tửu hậu, khi gặt hái xong, thóc lúa phơi khô sàn sẫy đã vào bồ chu đáo. Trên vách, thầy tôi treo một ảnh bán thân phóng đại, tuy đã phai màu nhưng còn rõ nét. Thầy lộng kiếng cẩn thận với khuôn gỗ dù có đánh "vẹt ni" nhưng treo lâu ngày có chỗ trốc lở sần sùi. Nếu để mắt nhìn thật kỹ mới thấy đó chính là tấm ảnh thầy tôi chụp lúc hãy còn đứng tuổi. Con người thầy lúc đó phốt pháp, dong dỏng, phúc hậu lại bảnh trai. Đầu hớt ngắn gọn. Áo quần tân thời. Trông thầy ra vẻ con người theo Tây học, sành sõi hoạt bát, đậm nét phong sương giang hồ lãng tử. Thầy tôi có một lần thổ lộ cùng ông tôi về bức ảnh duy nhứt này. Thuở xa xưa đó, thầy cố tình chụp khi còn bay nhảy hoạt động trong những hội hè yêu nước, bí mật chống thực dân Pháp xâm lược, bí mật dấn thân đấu tranh giành tự do độc lập quốc gia và mưu đồ hạnh phúc ấm no cho dân tộc. Lúc ấy thầy đang bị mật thám săn lùng ngặc nghèo. Thầy bấm bụng bỏ bộ đồ truyền thống của cha ông, nào khăn be nào áo dài và đôi giày hàm ếch, cải trang theo thời mới nhằm đánh lạc hướng nhân viên sở Liêm Phóng đang bũa vây truy nả khắp ba kỳ. Nhưng với bà con trong xóm tôi, thầy chỉ kể một vài chi tiết phớt qua bên ngoài liên quan đến xuất xứ bức ảnh, do bản tánh thận trọng đề cao cảnh giác tối đa của thầy. Thầy chụp ảnh này ở hiệu Khánh Ký, một cơ sở nhiếp ảnh khét tiếng lúc bấy giờ. Với ông tôi, thầy vòng vo hơn. Hiệu ảnh này thành lập theo như thầy từng vò đầu bóp trán nhớ man mán đâu vào khoảng năm 1907 ở Nam Định (Bắc Việt) thì phải. Mãi đến năm 1921, phát triển thêm một cơ sở ở Sài Gòn, chen chân cạnh tranh ngay giữa trung tâm thương mãi trên đại lộ Bonard phồn vinh, tấp nập đông người, "ngựa xe như nước". Đây không phải là việc thường gặp ở thời buổi thực dân cực thịnh. Vì đối với người dân bản xứ, họ luôn luôn bị chèn ép áp bức, đôi khi đi đến bị cô lập. Thực dân và đám mại bản khách trú cùng đám Chà Và Bombay trôi sông lạc chợ phối hợp nhau tìm mọi cách không cho họ ngốc đầu ngưỡng mặt với đời. Thầy tôi rất hãnh diện vì tấm ảnh được thực hiện ở một viện nhiếp ảnh có trang bị kỹ thuật tối tân. Đây là hiệu danh tiếng nhứt nước lúc bấy giờ, nơi các bực thượng lưu tiền rừng bạc biển, giới chức sắc tiếng tăm uy quyền cùng quan lại Pháp Việt cao cấp đều đến chụp ảnh. Thầy tôi còn khẳng định, ngay cả các Toàn quyền Pháp ở Đông Dương từ năm 1917 trở về sau cũng đã chọn nhà nhiếp ảnh Khánh Ký này để chụp những bức ảnh chánh thức dùng treo ở các công sở trên toàn quốc, kể cả Miên Lào.


Ông tôi và thầy tôi thường qua lại, trao đổi rất tâm đắc, trọng mến nhau qua tuổi đời xấp xỉ, qua phong cách và trình độ hiểu biết tương xứng đã đành. Nhưng có lẽ cái tâm đắc nhứt giữa ông tôi và thầy tôi được thể hiện ở những buổi xướng họa thi ca thơ phú. Nhứt là những đêm dài thức trắng, các ông ngồi bình giảng loại thơ Đường luật oanh liệt một thời. Những lúc này, những lúc mải mê phân tích, bình luận, chiết tự, thủ bút Hán tự, cứ viết tới đồ lui, tập trung viết rồi bỏ, bỏ rồi viết lại không biết bao nhiêu lần. Đến khi cả hai ưng ý, các ông mới chịu buông bỏ bút lông ra. Thường thường, cả hai quên phức việc trà nước và chẳng hề biết mệt mỏi. Những bài cổ thi, Đường thi vang danh trong rừng thi ca văn học Trung Quốc cổ thời như Hoàng Hạc Lâu, Phong Kiều Dạ Bạc, Tỳ Bà Hành, Tống Biệt, Tuyệt Cú, Tống Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng Lăng... của các bực thi bá Thôi Hiệu, Trương Kế, Bạch Cư Di, Vương Duy, Đỗ Phủ, Lý Bạch v.v... thường được hai ông chọn làm đề tài thưởng thức cái hay cái đẹp, cái thâm sâu tình tứ lãng mạn... để ngợi khen không tiếc lời những bức tranh tuyệt kỷ do ngọn bút thần tình của người xưa lưu lại. Còn nói gì những câu ý nghĩa thâm trầm, những lời răn dạy chí tình chí nghĩa vượt không gian và thời gian của thánh nhân, của Khổng Tử, Mạnh Tử, của Lão Tử... mỗi lần đàm đạo lúc nào cũng kéo dài dây dưa, hết buổi này đến buổi kia, hết ngày này sang tháng khác. Nhưng tôi chắc chắn hai ông vẫn còn tiếp tục mãi không biết đến bao nhiêu năm nữa mới dứt. Có thể đến khi cả hai ông xuôi tay nhắm mắt?!


Có lần hai ông tâm đắc với nhau ở một chữ, chỉ một chữ ngắn gọn thôi cũng đủ cho hai ông sung sướng, bằng lòng ra mặt. Đó là chữ "ả" mà hai ông bàn tán không nhàm chán. Báo hại hôm đó, bà tôi cứ phải lúi húi, hết nấu nước đến pha trà liền tay. Thầy tôi vốn là ông Đồ Nho lỡ vận thời phong kiến trên đà tàn tạ. Ông dấn thân chống chế độ khắc nghiệt của các Toàn Quyền, Thống sứ, Công sứ Pháp và quan lại thủ cựu của triều đình Huế, cùng với lớp "Việt gian" bán rẻ lương tâm, xem nhẹ quyền lợi tối cao của tổ quốc dân tộc, cam tâm làm thân trâu ngựa cho ngoại bang. Họ hợp tác với ngoại bang thời buổi đất nước ngửa nghiêng mất chủ quyền và nhân tâm hoang mang ly tán. Việc lớn chẳng may dang dở bất thành. Cơ sở bí mật bị phá vỡ. Bạn bè đồng chí đồng hành của thầy đa số bị thất thế sa cơ, bị bắt bớ tội tù, bị đày ải ở Côn Đảo xa xôi hoặc lưu xứ đôi ba mươi năm biệt tăm ngàn cá. Thầy tôi may mắn thoát khỏi mạn lưới bủa vây, gọng kềm khắc nghiệt của thực dân để sau đó thay tên đổi họ, lang bạt vào tận xứ sở buồn tênh khẩn hoang lập ấp của ông bà tôi. Nơi này ít người lạ lui tới dòm ngó. Nơi này, bà con chẳng một ai để ý làm chi để thầy mai danh ẩn tích lúc tuổi đời đã nặng trĩu trên vai. Thầy rất uyên bác, nhìn xa hiểu rộng, chữ nghĩa từ chương cao sâu, thêm vào đó tánh tình phóng khoáng trào lộng nên những lần ngâm vịnh thanh cao tao nhã ấy, thường thường cứ ngắt khoản bởi những chuỗi cười rổn rảng toại nguyện. Thầy tôi trầm ngâm một lát rồi giải thích chậm rãi:


- Chữ "ả" chỉ người con gái trẻ đẹp về vóc dáng, về khuôn mặt, về nét người. Cái đẹp mê hoặc lôi cuốn bên ngoài. Cái đẹp phô bày cho người ta thấy, cho người ta ngắm nhìn, thưởng thức để quyến luyến lưu tâm. Cái đẹp có thể rờ rẫm sờ mó được, để phân biệt với cái đẹp khác, cái đẹp tiềm ẩn kín đáo hơn, tức cái đẹp trong tâm hồn. Và người có cái đẹp trong tâm hồn chưa hẳn đẹp về vóc dáng và ngược lại. Cái đẹp phô trương bên ngoài này có thể nói là cái đẹp trời cho, tạo hóa riêng ban cho người con gái đầy ân sủng thiêng liêng. Chính cái đẹp thể xác não nùng, cái đẹp sắc nước hương trời, chim sa cá lặn đó khiến cho người ta phải quan tâm chú ý đến ngay. Chú ý quan tâm để ngẩn ngơ, để ngưỡng mộ, để say mê thầm yêu trộm nhớ, để tranh giành chiếm đoạt làm của riêng tư và đôi khi cũng để phạm vào biết bao tội lỗi.


Thầy tôi ngừng đôi giây ngắn ngủi. Thầy như trầm tư nghĩ ngợi về một nơi chốn xa xôi nào. Rồi hạ giọng buồn xo:


- Trong lịch sử loài người, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, đã có nhiều trường hợp đẫm máu và nước mắt vì sắc đẹp mỹ nhân. Đó là những thảm cảnh chung quanh cái đẹp của Đắc Kỷ, của Hàn Tố Mai, của Vương Tường trong huyền thoại Trung Hoa thời cổ.


Thầy tôi nhíu mày tập trung suy nghĩ thêm, nhưng không lâu lại bắt đầu thao thao với ông tôi. Dù vậy, thầy không che giấu được một nét buồn buồn thoáng hiện trên gương mặt xương xương khô gầy với hai mắt sâu hóm và đôi má hóp của thầy:


- Trong kho tàng lịch sử và văn học nước nhà, chắc ông anh còn nhớ một giai thoại nên thơ được người đời sau luôn nhắc nhớ không nhàm chán. Đó là cuộc tình lãng mạn giữa vĩ nhân Nguyễn Trãi và nàng bán chiếu kiều mỵ Thị Lộ? Đại khái, tôi có thể tóm lược sự việc và tình tiết vắn tắc như sau. Nhưng tôi tin chắc rằng mọi người đều biết ít nhiều. Một hôm nọ, trên đường từ triều trở về dinh, quan Hành khiển Nguyễn Trãi bỗng gặp một thiếu nữ trẻ đẹp, tuổi độ trăng tròn. Cô đang đi bán chiếu dạo.


Mến mộ sắc đẹp hồn nhiên lôi cuốn của nàng, ông sinh hứng ứng khẩu đọc ngay một bài tứ tuyệt đùa hỏi:


Ả ở đâu mà bán chiếu gon?


Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?


Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi?


Đã có chồng chưa, được mấy con?


Cô gái cũng không vừa. Vốn dòng thông minh lịch lãm, không nhút nhát rụt rè lại thành thạo thơ ca thi phú, nàng không ngần ngại ứng biến họa lại ngay:


Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon


Cớ chi ông hỏi hết hay còn?


Xuân xanh tuổi mới trăng tròn lẻ


Chồng còn chưa có, có chi con.


Yêu vì sắc, trọng vì tài, Nguyễn Trãi cưới Thị Lộ về làm hầu thiếp. Thầy tôi bỗng dưng ngừng kể câu chuyện rồi tắt lưỡi, thở dài:


- Câu chuyện tình sử diễm tuyệt này đã được người sau xem như một áng văn chương tuyệt tác và được ghi vào văn học sử nước nhà. Nó được lưu truyền mãi đến nay qua một kết cuộc đầy đau thương ngang trái. Nhưng thôi, hãy tạm ngừng ở đây cho câu chuyện hi hữu nên thơ này được đẹp mãi mãi trong sự ngưỡng mộ của mình hôm nay. Tuy hai bài tứ tuyệt xướng họa trên đây có những chữ hoặc những đoạn khác nhau đôi chút tùy những người sau này ghi chép lại nhưng có điều là chữ "ả" rõ ràng chỉ người con gái đẹp tên là Thị Lộ. Nguyễn Thị Lộ, người ở Hải Trào, tỉnh Thái Bình, Đàng Ngoài. Nàng mồ côi cha mẹ sớm nên theo người bà con lên đất Kinh Kỳ mưu sống bằng nghề bán chiếu.


Thầy tôi cười hóm hỉnh:


- Nàng đẹp đến đỗi chỉ vừa mới gặp, chỉ trông hình dáng thoáng qua, có thể tướng đi khoan thai yểu điệu, gương mặt trắng trẻo mịn màn, đôi mắt u buồn đen huyền tình tứ, môi má đỏ hồng quyến rủ với giải yếm xinh xinh, giọng nói thanh tao, nụ cười khúc khích duyên dáng sao đó, khiến quan Hành Khiển vốn thuộc nòi đa tình bị rung động tột độ. Rồi ông bị lôi cuốn, thu hút ngay trong phút giây chạm mặt ngắn ngủi ấy như một tiếng sét.


Thầy tôi lại thêm:


- Mãi về sau, đại thi hào làng Tiên Điền, trấn Nghệ An thuộc Hà Tĩnh cụ Tố Như Nguyễn Du trong danh tác Đoạn Trường Tân Thanh thường gọi là Truyện Kiều có giới thiệu chị em Thúy Kiều, Thúy Vân với những vần điệu lục bát đặc thù dân tộc như sau:


Đầu lòng hai ả Tố Nga


Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân...


Như vậy, Thúy Kiều và Thúy Vân theo sự diễn tả của tác giả quả là hai người con gái tuyệt đẹp, một cái đẹp thuộc hàng lộng lẫy thôi miên, rất hiếm hoi ở trần thế tục lụy. Cái đẹp này được sánh ngang hàng với Hằng Nga huyền thoại nơi cung quảng. Thầy tôi ung dung rút ra ở lưng quần một gói giấy báo để lâu ngày vàng sẫm, nhàu nhè, nhỏ cỡ nắm tay. Thầy lấy giấy quyến và thuốc rê quê hương ra rồi chậm rãi vấn một điếu, đầu to đầu nhỏ thẳng thóm bằng ngón tay út. Thầy cẩn thận liếm nước miếng dán kỹ và bóp chụm đầu điếu thuốc không cho thuốc đổ tháo ra ngoài. Đốt thuốc xong, thầy thư thả hút một hơi dài sản khoái rồi hớp một hớp trà Thiết Quan Âm đậm đặc thơm phức. Thầy chớp mắt mấy cái liền, thanh thản mỉm cười rồi nhìn thẳng vào mặt ông tôi khẳng định:


- Tôi đố ông anh. Ông anh cứ thẳng thừng nói thật với tôi nhé. Thúy Kiều, Thúy Vân có thật là người đẹp liêu trai, đổ nước khuynh thành như người ta nghĩ hay không?


Bị vấn nạn bất thình lình quá, ông tôi đâm ra lúng túng, bối rối thấy rõ. Dù sao, ông cũng thuộc hàng có tiếng hiểu biết chữ nghĩa, có chút ít vốn liếng căn bản trong lãnh vực thơ ca thi phú mà! Ông tôi chưa kịp trả lời trả vốn về một sự kiện đương nhiên xưa nay ai cũng ngầm hiểu như thế thì thầy tôi ngả người cười muốn bổ ngửa trên ghế ngồi. Tánh thầy tôi như thế. Lúc nào cũng vui vẻ lạc quan, cởi mở yêu đời như vậy. Rồi ông tôi nghe thầy tôi buộc miệng:


- Thì ông anh cứ đọc tiếp đoạn kể của truyện Kiều thì rõ. Đây nè:


Vân xem trang trọng khác vời


Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.


Thầy tôi bắt đầu phân tách:


- Đó! Ông anh thấy chưa? Trường hợp Thúy Kiều, mình hãy gát qua một bên. Mình không nói tới làm chi. Vì là con người tài sắc, lắm khổ hạnh. "Hồng nhan bạc phận" hay "má hường gian truân"! Một biệt lệ. Định mệnh hẩm hiu mà! Còn trường hợp Thúy Vân với khuôn mặt tròn quây thì tôi phải có vài ý kiến. Khuôn mặt cứ xem như mịn màn trắng trẻo thật, nhưng bầu tròn giống y cái bánh qui ban chiều có gì khêu gợi hấp dẫn đâu ông anh? Tôi chẳng thấy có gì để được người đương thời, nhứt là giới sang giàu phong lưu hào sãng háo sắc gọi là đẹp? Ông anh hẳn còn nhớ? Nhưng tôi cũng xin nhắc lại. Thế gian người ta chẳng từng nói "má miếng bầu nhìn lâu muốn chưởi" hay sao!


Thầy tôi có vẻ trịnh trọng:


- Đã vậy còn thêm "nét ngài nở nang" thì tôi ngài ngại làm sao! Cái khuôn mặt đầy đặn trắng trẻo như vầng trăng rằm lại có cặp lông mài như hai con tằm nằm vắt ngang với lông măn lún phún mịn màn như tơ đi nữa, theo thiển ý tưởng cũng nên xét lại quan điểm thẩm mỹ của người xưa mới được. Dù cho hai con tằm đó còn non chèo trắng phau phau, thon thon cách nào cũng đủ làm cho tôi rùng mình ơn ớn xương sống. Như vậy, làm sao đẹp được? Làm sao là một "ả" Tố Nga? Làm sao quyến rủ đám mày râu, nam nhi chi chí được ông anh?


Thấy ông tôi vẫn ngồi lặng thinh im ỉm bất động, thầy tôi rít liên tiếp vài hơi thuốc ra chiều suy tư nghĩ ngợi hun lắm:


- Thuở nhỏ, lúc còn ở miền Trung, quê nghèo khổ hạnh của tôi, cha mẹ tôi, dù khổ cực vất vả sớm hôm, thiếu thốn mọi bề nhưng cũng cắn răng, thắt lưng buộc bụng, hy sinh cả một kiếp người lo cho tôi đi học ở nhà một ông đồ khó trong làng. Tuy nghèo, kém may mắn, không đổ đạt Nghè Cống, nhưng ông thực sự là người thông cả kim cổ. Cha mẹ tôi ao ước, mong muốn đứa con trai duy nhất của mình sau này sẽ thành công rực rỡ, lưu danh bia đá bảng vàng . Con mình sẽ vinh qui bái tổ làm rỡ ràng gia tộc, rạng danh bản quán xóm làng, bà con xa gần.


Thầy bỗng thở dài ngán ngẩm:


- Có ngờ đâu! Lại cũng chữ ngờ quá tai hại! Tai hại cho cả một đời người! Hai ông bà đã trót đưa con mình đi vào đường cùng ngõ tận, không lối thoát. Vì vào thời buổi đó, mấy thằng Tây phiêu lưu thuộc địa đã sang cưỡng chiếm nước ta, áp đặt nền thống trị cực kỳ khắc nghiệt trên toàn cõi lãnh thổ Trung Nam Bắc. Ông anh chắc còn nhớ một nhà nho lúc bấy giờ đã ngăn ngắt tỉ tê, thở than chán nản:


Cái học nhà nho đã hỏng rồi! (Trần Tế Xương)


Thầy tiếp lời:


- Lúc đó thầy đồ có giải thích cho tôi nghe, đến nay đã mấy kỷ tròn trôi qua rồi nhưng tôi vẫn nhớ rõ. Rõ lắm. Chữ "ả" còn có thêm một nghĩa khác là người đàn bà xấu xí, thô kệch mà cụ thể hơn là người đàn bà bất hạnh ấy lại có đôi lông mày giống tạt như hai con tằm nằm vắt ngang chình ình. Do vậy mới có thành ngữ "ả mày ngài" tức người đàn bà có đôi mày như hình tượng hai con tằm.


Thầy tôi bỗng nhiên nghiêm nghị:


- Hồi đó, tôi nghĩ chí tình nghe ông anh. Đại thi hào Nguyễn Du không thể nào tả gương mặt kiêu sa lôi cuốn của Thúy Vân với đôi mày ngài đó được. Tôi lại nghĩ, nói Thúy Vân có đôi mày ngài thì tội nghiệp cho tác giả Nguyễn Du quá. Vì có một lần, thầy đồ cho biết thầy nghe người ta kể một đoạn Kiều, tả Thúy Vân đại thể như sau:


Vân xem trang trọng khác vời


Khuôn lưng đầy đặn, nét người nở nang


Mai cốt cách, tuyết tinh thần


Mỗi người mỗi vẻ, mười phân vẹn mười.


Thầy tôi tỏ vẻ đắc ý lắm khi nhắc nhớ một kỷ niệm xưa quá đỗi là xưa. Thầy rót thêm một chum trà nữa. Nhưng chưa kịp uống, lại tiếp tục như không muốn để mất đi những ý tứ vừa thoát hiện trong trí. Thầy nói với giọng nhỏ nhẹ tin cậy, bổng trầm trong ấm, tỏ ý muốn ông tôi biểu đồng tình về nhận xét của thầy vừa trình bày:


- Tôi đoan chắc nhà thơ làng Tiên Điền dùng chữ "khuôn lưng" thì đúng hơn. Tiếng Việt của mình ngoài những chữ "khuôn mặt", "khuôn trăng" còn có những nhóm từ:


"Khuôn vàng" như trong thành ngữ "khuôn vàng thước ngọc",


"Khuôn thiêng" trong: ‘Khuôn thiêng dầu phụ tất thành’ (Kiều)


"Khuôn xanh" trong: ‘Khuôn xanh biết có vuông tròn chi chăng’ (Kiều).


Những chữ "khuôn mặt", "khuôn trăng" hãy còn thông dụng trong lãnh vực văn học nghệ thuật và cả ở chốn dân gian nữa. Trong khi đó, những chữ "khuôn vai", "khuôn lưng" lúc nhỏ tôi còn nghe nói tới, bây giờ khó gặp vì người ta ít dùng do sự biến hóa và tiến hóa của ngôn ngữ vốn phát triển không ngừng. Mà "khuôn lưng" đi với "nét người" tôi cho là chí lý hơn. Chớ lông mày như con tằm mà nở nang nữa thì cái đẹp nằm ở đâu? Tôi thưởng thức không vô đó ông anh. Chữ nghĩa của mình, văn chương của mình lẩm rẩm phong phú mà rắc rối thật đấy.


Nhưng sau đó, thầy tôi tiếp lời như để phân trần cặn kẽ hơn:


- Hồi đó, tôi hời hợt hiểu nong cạn và tin phiến diện như thế ông anh à. Về sau, càng có tuổi, suy nghĩ kỹ càng thận trọng hơn, thấy mình chưa được chín chắn. Dễ dãi, thiếu chiều sâu nữa là khác. Ông anh cũng biết hơn ai hết, thời đó của Tiên sinh Tiên Điền, tình hình in ấn quá nhiêu khê trắc trở. Ấn bản phải được chuẩn bị công phu lâu ngày, khắc bản lại tốn kém. Tác phẩm được ấn hành rất hiếm hoi. Bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm mới có một tác phẩm được triều đình chánh thức và long trọng công bố để lưu trữ. Thường các sáng tác được phổ biến rất hạn hẹp trong phạm vi bằng hữu, bạn bè quen biết và được truyền tụng nhờ người này học thuộc lòng, đọc lại cho người khác nghe. Nghe xong, thưởng thức cái hay cái đẹp trong lời văn ý thơ, rồi nhớ những đoạn mình thích thú tâm đắc. Mà dân mình lại có khiếu thi ca. Không sáng tác được thì cũng tập tành ngâm nga đọc thơ người để giải trí. Trong dân gian, ai cũng thuộc nằm lòng năm bảy bài ca dao, đôi ba tựa phong dao, vài câu hò đối đáp lúc cấy lúa, giả gạo hay nện bàng nện lác. Cho nên suy rộng ra, khi nói mỗi người Việt Nam mình là một nhà thơ để không nói là một thi sĩ, thì đó không phải là điều quá đáng.


Như để thuyết phục ông tôi, thầy tôi ưu ái vỗ vai ông tôi:


- Ông anh nghĩ có đúng không? Những đoạn nhớ nằm lòng đó, qua thời gian dài bận bịu công ăn việc làm mưu sinh, canh cánh mùa màng chẳng hạn, nhiều câu họ quên phức hay nhớ man mán để rồi tự mình thêm thắt sửa chữa những đoạn quên ấy theo cảm hứng riêng tư của mình. Cũng có vần điệu, cũng có âm thanh, cũng đúng y chang niêm luật bình bình trắc trắc bắt buộc phải có. Nhứt là trong thể thơ đặc thù lục bát hay song thất lục bát của Việt Nam. Còn những bản chép tay, được nhiều thế hệ chép đi chép lại, xào tới nấu lui, hăm mãi qua tay nhiều người, không biết cơ man nào mà kể. Có khi để trong hộc tủ khóa kỹ lâu ngày, có khi nhét hấp tấp ở kẹt vách, chày tháng mối mọt ăn lóm đóm, mất câu mất chữ. Sự kiện "tam sao thất bổn" nguy hại đó làm cho đến bây giờ không sao có được bản chánh, bản có giá trị lịch sử văn học. Chưa kể còn thêm nạn chiến tranh hủy hoại nữa.


Thầy như vụt nhớ:


- À! Thêm một lý do khác không kém phần nhức nhối cho đám hậu sinh là khi chuyển từ bản nôm ra, người dịch sơ ý nhầm lẫn hay chưa thấu ý đạt lời nên chuyển sai ý chánh của tác giả. Sót một chấm, cầm nhầm một phẩy, sai một chữ là đi xa nghìn trùng vạn dặm. Người sau tin tưởng ở người đi trước, chấp nhận lỗi lầm một cách máy móc, không đắn đo suy xét.


Thầy tôi trầm ngâm kết luận:


- Tình trạng phức tạp này khiến nhiều người thuộc lớp hậu sanh đưa ra lắm giả thuyết, cố tìm cách chứng minh những khám phá mới theo cách suy nghĩ và diễn giải của mình. Vô hình trung, họ tạo rắc rối thêm cho những học giả nghiên cứu về sau vì vẫn sẽ phải quanh quẩn chung quanh những bản còn sót lại được lưu trữ, chớ không sao có được một bản chánh, đáng tin cậy. Như trường hợp tôi vừa trình bày với ông anh, cũng chỉ là một cái nhìn cá nhân, một suy diễn chủ quan mà thôi.


Thầy tôi và ông tôi thường gặp gỡ nhau rất thân tình, không hề có hẹn trước. Cứ mỗi khi rỗi rãi thì thấy họ như hình với bóng. Mỗi lần đến nhà, họ cứ tự nhiên xô cửa đi thong thóng vào trong. Họ trao đổi những sở trường sở đắc chung quanh ngôn ngữ chữ nghĩa thâm trầm, lời hay ý đẹp của người xưa. Tuy còn nhỏ, nhưng tôi rất thích la cà để nghe những lời dẫn giải tầm nguyên dong dài hấp dẫn và bùi tai đó. Mà thú thật, lúc ấy tôi chẳng hiểu mảy may gì đâu. Nghe là chỉ để nghe vậy thôi. Tất cả đều bay vù ngoài tai tôi như cơn gió thoát ngang qua cửa sổ. Nhưng sự lân la của tôi bên các ông là để tôi được nghe cái giọng trọ trẹ, vừa trong ấm, vừa hóm hỉnh thiên phú của thầy tôi. Còn nói gì về bình giảng thơ Đường, hai ông có thể để cả ngày cả buổi, đến đỗi quên mất cơm nước trà rượu. Những lúc bình thơ Đường, thủ bút Hán tự cù cưa cù nhầy này, thêm chữ nghĩa cao siêu khúc mắc, điển cố trích dẫn phức tạp cầu kỳ khó hiểu, ý tứ súc tích thâm sâu khiến tôi nghe như vịt nghe sấm, như nước đổ lá môn. Nhiều lúc tôi đâm ra nhàm chán thờ ơ, bỏ ra ngoài rong chơi nơi khác. Đến nay, tôi chỉ còn nhớ một vài chi tiết, không dính dáng chi đến ý nghĩa của văn chương thi phú cả. Đó là những lúc thầy tôi mài mực tàu, tập trung viết trên giấy hồng điều. Thầy hay bảo nét chữ là nết của con người. Qua nét chữ, người ta có thể đoán được phong cách của người viết và tình nghĩa tiềm ẩn họ gởi gấm để thể hiện tròn đầy trong đó. Giờ đây, sực nhớ lại mối giao tế tương đồng tương đắc giữa ông và thầy tôi, tôi đã thực sự phí phạm một khoảng đời. Tôi đã vô tình đánh mất những cơ hội ngàn vàng, không thể có lần thứ hai trong đời mình. Tôi lại tiếc nuối một câu nói của thầy tôi nhưng thuở đó tôi không quan tâm đúng mức. Thầy tôi thường nhấn mạnh với những người chung quanh là muốn tìm hiểu tận tường một vùng đất, người ta phải để tâm sưu tra sinh hoạt của người dân nơi đó thông qua những thú vui cũng như mọi thể hiện về văn hóa để chung cuộc thương yêu gắn bó vĩnh viễn với nó đến hơi thở cuối cùng.





                                                                     **


            
Ông Năm Đặng ở xóm Rạch Rít của tôi làm nghề đạo tỳ. Một cái nghề có một không hai ở đây. Ông làm nghề đạo tỳ này có tánh cách tài tử, vạn bất đắc dĩ phải làm trong hoàn cảnh bất khả kháng. Nói đạo tỳ cho có vẻ văn chương nhưng thực ra là làm cái việc ít ai dám mó tay đến: chôn xác người chết. Thôn xóm không có bao nhiêu nốc gia. Bà con cũng chẳng đông đúc gì. Đầu trên xóm dưới đều biết mặt quen tên nhau cả. Người lạ mới đến lập nghiệp được nhận diện ngay không mấy khó khăn. Nhưng lần hồi, họ hòa nhập rất mau vào cuộc sống "bế quan" giữa những sông rạch kinh đào, lùm tre khóm trúc làm ranh giới phân biệt với làng tổng bên ngoài. Họ nhanh chóng trở thành một phần tử thật sự gắn bó khắng khít với thôn ấp mới. Ngoài việc đồng áng sinh nhai chánh yếu, mỗi người hầu như đều có kiêm nhiệm thêm một nghề tay trái nhằm giúp đỡ bà con trong lúc túng quẩn hữu sự. Một hình thức đoàn kết tương thân tương trợ nhất thiết phải có ở nơi chéo đất khó khăn cách trở, người người cùng thống nhứt chung một lòng, đồng tâm hiệp lực chống chỏi thiên nhiên khắc nghiệt và những hệ lụy giăng mắc để sinh tồn. Dù là nghề tay trái, không hề đòi hỏi một chút lợi lộc nào, nhưng ông Năm Đặng vẫn hoàn thành chu toàn phần việc tự nguyên của mình mà thực tế ít người ưng ghé mắt, mó tay tới. Và ông Năm hoàn thành như vậy với tất cả tấm lòng cung kính thương yêu quý trọng và lương tâm trách nhiệm cao độ đối với những đồng hương chẳng may ra đi trước mình. Trong xóm, ai ai cũng tấm tắc ngấm ngầm khen ngợi ông vì chẳng khi nào họ dám biểu lộ trước bàn dân thiên hạ. Họ ngưỡng mộ ông qua những lần ông hướng dẫn động quan, di chuyển quan tài đến huyệt mộ. Ông cử hành vừa trang nghiêm trọng thể, vừa nhịp nhàng nhuần nhuyễn, không hề để đổ một nhểu rượu trên nắp quan. Dĩ nhiên, ông rất được quý yêu trọng kính vì không một gia đình nào ở xóm tôi, từ mấy thập niên nay, từ ngày có sự hiện diện của ông lại không nhờ vã ông. Ít ra cũng một lần. Dưới trướng của ông, dù là trướng không ngai đôi ba giờ một buổi, không màn che sáo phủ với sắc màu lộng lẫy, không gươm giáo sáng trưng lập lòe... có rất nhiều thanh niên lực lưỡng thuộc hàng vai u thịt bắp trong thôn ấp. Gặp lúc bận rộn, vướng chưn vướng cẳng với bao nhiêu việc đồng áng hoặc vườn tược cách mấy, hễ nghe tin có tang chế, ông Năm tà tà thư thả đánh một vòng đầu trên xóm dưới. Ông thông báo tin buồn là mọi người đồng thanh bỏ hết qua một bên công việc đang làm. Họ sẵn sàng tự nguyện đến góp mặt đông đủ, tận lực tham gia phụ tẩn liệm, xúm xít đào huyệt, ghé vai khiên quan tài. Trước tiên là họ tỏ ra quý mến tang chủ, ngỏ ý đích thân mình đến tiễn đưa người quá vãng. Đây chính là một thành viên thân thuộc trong xóm để họ đi trót chặn đường cuối cùng trên cảnh thổ quê hương mà họ khắng khít từ lúc chào đời. Sau nữa, cũng để biểu lộ tình đoàn kết keo sơn, một truyền thống bám rễ lâu đời trong thôn ấp những khi bà con tối lửa tắt đèn, bối rối hữu sự. Nhờ đám thanh niên lực lưỡng, vừa tháo vác lại không nề hà này nên phần việc của ông Năm chẳng những không vất vả mà còn được đảm bảo tối đa.


Ông Năm Đặng rất có tình có nghĩa. Và nghĩa tình đó xuất phát từ tấm lòng mộc mạc chơn chất của ông. Cuộc sống của ông bấy nay được thể hiện tròn đầy ở các đức tánh giản dị, nhã nhặn và khiêm tốn, những đức tính muôn đời muôn thuở của con người nơi thôn quê đồng ruộng heo hút. Ông được bà con ngưỡng mộ vì là người rất mực thẳng thắn, giữ lời trong giao tế hằng ngày. Ngay cả đám trẻ mới tấn lên, đáng hàng con hàng cháu của ông vẫn một mực trọng kính ông. Còn nói chi đến cái tâm nghề nghiệp của ông thì không một ai phiền trách gì ông được. Dù là cái nghề tay trái đạo tỳ, ông làm việc bất kể giờ giấc, thí công. Cái quý hiếm là ở chỗ đó. Dáng ông roi roi dong dỏng. Và người đời nói không sai, con người gầy gầy thon thon như vậy thường nhanh lẹ dẻo dai, làm việc như trâu cui chẳng hề biết mệt. Thực sự, ông Năm quả dẻo dai nhanh lẹ lắm. Khi nghe trong bà con có ai ốm đau bịnh hoạn, ông vội vả phon phon, thoan thoắt đến viếng thăm ngay, bất kể đường sá xa xôi, tiết trời mưa gió. Khổ nỗi, khi được người nhà báo có ông Năm đến hỏi han vấn an thì hầu như đa số bịnh nhơn trong xóm tôi đều ơ thờ lạnh nhạt. Họ không muốn tiếp ông. Thật tội nghiệp cho ông. Người có tình lại gặp trắc trở, trớ trêu! Lý do là họ rất dễ tin dị đoan. Sự mê tín dị đoan đó đã bắt rễ ăn sâu trong con người họ từ bao nhiêu thế hệ qua, không thể trong một sớm một chiều gội rửa được. Một điềm chẳng lành đối với họ, trong khi sức khoẻ của họ quá sa sút, tinh thần trở nên bệ rạc, mất cả niềm tin. Nhưng họ vẫn lịch sự, cố tìm mọi cách, viện đủ lý do chối từ tránh né ông. Thật là một bất công phi lý của bà con tôi đối với một người có tình, một tâm hồn cao thượng như ông. Như trường hợp của ông nội tôi. Vào những ngày khó khăn cuối cùng còn lại trong đời, ông cũng thường được ông Năm ưu ái sớm viếng tối thăm. Mỗi lần đó, ông tôi giả đò ngủ say. Hay ông cố ý quay mặt vào vách, nằm im ỉm không cử động. Và bà tôi chỉ gượng gạo hướng dẫn ông Năm đến thập thò lấp ló, đứng yên lặng để nhìn từ ngạch cửa nhà sau ăn thông lên nhà trước, xa xa giường bịnh của ông tôi. Bà tôi không quên nói dối. Bà dặn dò khéo léo với ông Năm nên tránh động tịnh, không nói lớn tiếng, sợ mất giấc ngủ quý báu của ông tôi. Vì theo bà tôi, bà mừng lắm khi ông tôi vừa vỗ được giấc ngủ chưa đầy một khắc đồng hồ trước đó. Vì mấy hôm nay ông cứ chập chờn mãi.


Cái tình nghĩa thấm thiết sâu đậm và bản tính đôn hậu rộng vòng tay lớn của ông Năm còn được thể hiện ở những đêm thức trắng để canh ma canh xác dằn dặt. Ông thừa biết hơn ai hết, gia đình nào chẳng may có người qua đời đều nơm nớp sợ ma. Có thể nói ở trường hợp này không hề có ngoại lệ. Dù rằng tình cảm giữa chồng vợ hay cha mẹ con cái trong nhà khó nhạt nhòa trong phút chốc nhưng thực tế không ai tránh khỏi sự khắc khoải đó. Không khí tang chế buồn tênh trĩu đè trong gia đình. Cảnh âu lo bối rối với trăm ngàn công việc phải làm khẩn cấp, khiến tang gia mệt mỏi đã đành, nhưng họ lại bị ám ảnh bởi hương linh người quá cố dường như vẫn quẩn quanh quanh quẩn đâu đây. Có thể nơi buồng trong vắng vẻ lạnh ngắt này. Có thể nơi chái nhà xùm xụp thiếu vắng hơi hướm con người. Có thể ở hành lang nhỏ hẹp nào đó, với ánh sáng lập lòe le lói, phực tắt chông chênh bóng người... Khi xác chết lạnh tanh như đồng, xanh xao vàng vọt như tàu lá chuối non còn nằm bất động nơi ván ngựa. Cho dù nó được trùm phủ kín đáo chờ ngày mai quan tài mới kịp chở về theo con nước thuận. Họ sợ ma. Họ thấy đâu đâu, nơi nào cũng có bóng dáng người khuất núi! Ông Năm Đặng thường tỏ ra bất bình về việc này. Ông bất bình vì nhiều người trong thôn ấp ông hãy còn dùng dằng bảo thủ, ôm khư khư trong lòng một quan niệm mê tín lỗi thời cần phải loại bỏ nhanh chóng, một khi lòng người và xã hội đang trên đà tiến hóa không ngừng. Đối với ông, không hề có ma cỏ quỷ quái chi cả, mà thật ra chính người đời cứ thêu dệt quá mức để hù nhát nhau thôi. Vì biết tâm lý bà con như vậy nên nhứt định những tối đó thế nào ông cũng hẹn vài người trọng tuổi, cả đám bạn bè vong niên trong xóm đến thức canh ma. Canh ma giúp tang chủ có thêm sức mạnh tinh thần lúc cần thiết. Những lúc ấy, tang chủ vui mừng tiếp rước họ cực kỳ niềm nỡ và trọng hậu. Ông từng thố lộ với bè bạn và những người thân quen chung quanh. Ông phải đến với người quá vãng một hai đêm chót trong đời họ ở thế gian hư thực này. Vì theo ông, sau này khi họ đã vĩnh viễn đi vào thiên thu huyền bí, ông sẽ không bao giờ và chẳng bao giờ có được dịp thấy mặt họ một lần nào nữa. Quả là một phong cách sống, một thái độ ứng xử tốt đẹp, chân thành và đầy ấp tình người. Sự hiện diện cứu tinh của ông ở hoàn cảnh buồn tênh não nề đó được tang gia kính cẩn ân cần mà ông đã quen tai quen mắt từ lâu.


Những lần canh xác này, thời giờ trôi qua chầm chậm nặng nề, đôi khi tưởng chừng ngưng đọng hẳn. Sự đợi chờ trông ngóng lúc nào cũng ngăn ngắt kéo dài lê thê. Lúc đầu hôm còn thấy đông người, gần như đủ mặt "văn võ bá quan" trong xóm. Họ tới lui lui tới rạn đất, ăn uống, cười nói không dứt. Đến khuya, chỉ còn lại vài ngoe uể oải, đôi ba mống buồn hiu biếng nói. Không khí bỗng trở nên lạnh tanh và sự nặng nề chầm chậm đó được đo lường bằng mấy chai lít rượu đế Gò Đen trống rổng trên bàn, bằng những bình trà xưa to tướng có hình bát tiên màu xanh dương óng ánh, hình dáng đạo mạo của các vị Hớn Chung Ly, Lữ Đồng Tân, Lý Thiết Quài v.v... đã cạn khô đáy không biết từ lúc nào. Câu chuyện qua đêm về mùa màng nắng mưa sương gió rồi cũng nhàm chán, tắt ngủm chán phèo. Họ bắt đầu lang bang xoay qua những đề tài chữ nghĩa thao thao có cơ bất tận. Người nào cũng thi nhau phô trương sự hiểu biết thông thái của mình. Nhiều khi sự tranh cãi đâm ra to tiếng giữa đêm khuya do tánh nông dân bảo thủ và cục bộ, cứ cho rằng mình trúng còn người khác đều sai. Nhưng thường nhứt là giọng nhừa nhựa qua hơi hướm ba xi đế đã ngấm trong huyết quản từ chập tối, đang đốt ran tim gan tỳ phế thận.


Thằng Bảy Kế về khuya thích ngâm thơ Vân Tiên. Sở trường của nó trong những buổi hợp mặt đông người. Mà cũng là cái thú tiêu khiển ưa thích của bà con tôi lúc bấy giờ trong hoàn cảnh thiếu thốn những phương tiện giải trí thời thượng. Nó cố ngâm cho bằng được. Dù có người ngồi im lắng nghe, theo dõi thưởng thức hay không, nó cũng chẳng màng. Lối diễn ngâm rặc giọng truyền thống Nam Bộ xa xưa của nó nghe cũng không đến đỗi tệ lắm. Tuy nhiên, tiếc một điều độc nhứt là nó chỉ học lỏm bỏm vài đoạn rời rạc, chẳng đầu đuôi mạch lạc chi cả rồi ngâm trật vuột, lúc nhớ lúc quên. Nhưng dù sao, nó vẫn giúp vui bà con qua giờ. Đến lúc túng nước cụt hứng, nó đâm bang, ngâm liều mạng. Nó không ngần ngại oang oang ai oán trong đêm vắng canh tàn qua giọng óc o cao vút của nó:


Vân Tiên cỏng mẹ đi ra


Đụng phải cột nhà cỏng mẹ đi vô


Vân Tiên cỏng mẹ đi vô


Đụng phải cái bồ cỏng mẹ đi ra


Vân Tiên cỏng mẹ đi ra...


Ông Hương Thân Xót, con người lang bạt từng trải, dạn dầy nắng mưa sương gió, mang cái tên nghe qua chừng như đau khổ sầu buồn lắm. Ông đang thiu thiu gật gù, bỗng giựt mình nổi dóa. Ông liếc nhìn nó ở khoé mắt, hằm hằm tỏ vẻ bất bình. Tánh ông lúc bình thường rất trầm tỉnh, vui vẻ. Ông ân cần giúp đỡ mọi người. Con dấu của ban bệ Hội Tề lúc nào cũng thấy ông lận lưng mang theo tò tò bên mình như giữ của quí. Ai cần đến, ông chỉ liếm nước miếng là đóng dấu đỏ lói ngay, không phải đến Nhà Việc có giờ giấc lại chờ đợi lôi thôi lâu lắc. Ngay cả lúc ông bận rộn tối tăm mày mặt ngoài đồng áng cũng vậy. Ông luôn sẵn sàng. Ấy thế, khi nào ông phật ý, không bằng lòng như những lúc gặp cảnh chướng tai gay mắt, ông đổi tánh bất thình lình làm ngạc nhiên người chung quanh. Những trường hợp đó, khó có người đoán biết trước được. Ông ngắt lời ngâm trầm bổng cầu cưa cầu nhầy của thằng Bảy Kế cứ "cỏng mẹ đi ra", rồi "cỏng mẹ đi vô"... từ nảy giờ không biết bao nhiêu lần. Ông đang đổ quạu. Mà ông đổ quạu thật. Bất ngờ, ông nghiêm nghị lạnh lùng:


- Thôi im đi Bảy! Mầy có quất cần câu chưa? Hay mầy coi trời bằng nửa con mắt? Biết rồi. Mệt lắm! Lỗ tai tao đã đầy ứ rồi. Phải mà! Vân Tiên tân thời của mầy từ khuya tới giờ cứ dậm chân mãi tại chỗ!


Ông tiếp lên lớp thằng Bảy Kế như có trớn có mạch:


- Lũ chúng bây là đám "hậu môn", sanh sau đẻ muộn, học hành chữ nghĩa chưa đầy lá me lá mít mà cũng tập tành phô trương sức học, làm sai lệch bản cái hết. Bây không thông, không hiểu biết gì cả. Nói bây nghe chớ đừng tự ái không đúng chỗ. Kiến thức của bây mỏng te còn hơn tờ giấy quyến. Tao nghe bây ngâm thơ Vân Tiên kiểu đó mà tội nghiệp cho văn chương chữ nghĩa của ông bà tổ tiên mình biết chừng nào. Riêng tao, nói thiệt tình với mầy nghe Bảy Kế, tao bực mình lắm. Tao tức thiếu điều như bị bò húc ngựa đá không bằng.


Rồi ông lần lần dịu giọng:


- Mà nghĩ cho cùng, nghĩ cặn kẽ hơn, tao thêm thương và thông cảm bây nhiều hơn. Bây quả xử dụng rành rọt lưỡi hái chuôi cày, biết rõ từng củ khoai củ sắn, từng hòn đất hòn sỏi hơn là chữ nghĩa nhức con mắt, đau đầu lắm phải không? Như tao với bác Năm bây đây là bực "tiền bối bất tử bất diệt", sống nhăn, sắp lên lão tới nơi, chữ nghĩa đầy bụng, sách vỡ thánh hiền nằm lòng bộn bàng mà tụi tao còn ngậm miệng câm như hến. Tao chưa hề dám hở môi, chớ đừng nói đến chuyện múa men khoe khoang nơi thanh thiên bạch nhựt giữa muôn người. Bây biết không? Xóm mình còn có ông Thầy Huế hay chữ, giỏi thi văn thơ phú kia mà!


Hương Thân Xót xác quyết:


- Bây không tin sức học của tao? Bây lầm to đó. Nhứt là ở địa hạt chữ Nho chữ Nôm? Bây không tin, tao thử đọc sơ sơ một đoạn, chỉ một đoạn thôi để bây nghe chơi. Cả mấy chục năm qua tao không quên một chữ: "Thiên trời, địa đất, thất mất, tồn còn, tử con, tôn cháu, lục sáu, tam ba, gia nhà, quốc nước, tiền trước, hậu sau...".


Ông cao hứng nói tiếp:


- Tam Tự Kinh của người Tàu nè, Minh Tâm Bửu Giám do người nước Nam mình soạn nè, tao đều có đọc qua cả. Thiết tưởng không có nó, làm gì mình biết luân thường đạo lý và tình nghĩa mà hành xử ở đời!


Ông sẵn trớn:


- Bây bước vào nhà tao, bây không thấy tấm bản có dòng chữ "Nhân chi sơ tánh bổn thiện" treo ở vách nhà trước? Chữ viết là do chính tay tao đó. Hồi còn đi học, tao gò bó o bế viết tới viết lui trông cũng được đến. Bây giờ giữ làm kỷ niệm của một thời trẻ.


Ông cười gằn tỏ ra đắc ý:


- Đó, bây thấy tao lão thông chưa? Tao từng lận đận học hành khổ nhọc với sư cụ ở chùa mình hồi thời đầu còn để ba vá, mặc áo bà ba nâu, sáng tối trưa chiều làm công quả thụt mạng. Tao làm sao quên những năm học ấy vì tao ăn toàn tương chao rau cỏ đến xanh ruột.


Thằng Bảy Kế liều mạng, không chịu thua. Nó điếc không biết sợ súng. Nó gồng mình ứng đáp với giọng nhão nhè nhão nhẹt hăn hắc hơi men:


- Thôi biết rồi chú Hương ơi! "Nhân chi sơ" tay rờ cơm nguội. "Tánh bổn thiện" cái miệng đòi ăn chớ gì?


Nó không chờ phản ứng của ông Hương thân Xót:


- Chú Hương à! Chữ Nho lỗi thời rồi chú Hương ơi! Bây giờ là thời buổi của chữ quốc ngữ, chữ Tây u, chữ Tây tà! Tôi biết từ phia rồi! Chú có học mà! Nho của chú thuộc vào hàng nho chùm thứ thiệt, loại chánh giống bên Tây, chánh hiệu con nai vàng bổn xứ, chớ đâu phải lơ mơ loại nho lượm mót đâu? Phải không chú? Nhưng tôi cũng thử đố chú cho vui qua giờ. Chú có bằng lòng giải thích cho tôi không? Thì đây nè. Người xưa có nói:


- Cuốc đất trồng khoai, quạ vô ăn chuối. (Phúc đức trùng lai, họa vô đơn chí) nghĩa là làm sao?


Ông Hương Thân Xót nóng mặt, lắc đầu lia lịa do cố tật của ông từ thuở nhỏ:


- Bộ mầy giỡn chơi với tao sao? Hay mầy khinh dễ tao hả Bảy Kế? Tao nghe sao chỏi tai quá, muốn lũng toát màn nhỉ.


Bảy Kế vội nhỏ nhẹ:


- Giỡn chơi sao được chú! Tôi nào dám trật thượng như vậy đâu. Chú đáng mặt cha chú tôi. Lúc nào tôi cũng một mực trọng kính quý mến chú, chớ dám đâu giỡn mặt chú. Đây là lời thánh hiền mà! Hồi nhỏ, tôi nghe tía tôi nói nhiều lần như vậy với mấy chú mấy bác tôi. Bộ chú hỏng tin tôi sao? Tôi vốn ăn chắc mặt dầy mà! Tôi nhớ mồn một không sai chạy một chữ. Đảm bảo chắc một trăm phần trăm với chú đó.


Hương Thân Xót lắc đầu, cười khinh khỉnh móm xọm, đưa cái càm nhọn quắc chĩa thẳng ra phía trước:


- Tao chịu thua mầy rồi Bảy Kế ơi. Mầy làm ơn giải thích cho tao và bác Năm mầy nghe cho lọt tai đi. Đâu, tao thách mầy giải thích trót lọt. Còn chần chờ gì nữa? Tao thì chịu thua mầy rồi. Mà nếu nghe lọt tai, từ giờ phút này tao sẽ phục mầy, bái mầy mấy lạy rồi sẽ tôn mầy là bực thầy tao, sư phụ của tao. Tao sẽ trọng kính mầy như kính trọng ông Thầy Huế ở xóm trên. Tao nói thật đấy. Không phải bốc đồng đâu. Có vong linh anh Hương Trưởng còn nằm đây chứng giám cho lời nói của tao.


Câu chuyện đang dẫn đến những lời lẽ gay gắt, hờn dỗi trong giới hạn lịch sự thì bà Hương Trưởng bỗng đằn hắn bước ra phòng khách. Tay bà cầm ấm nước đun sôi đang phun khói mỏng cuồn cuộn lan tỏa lên trần nhà. Bà chầm chậm tiến đến bàn nước, pha thêm mấy bình trà đã cạn đáy từ lâu. Từ đầu hôm, bà cứ chập chờn mãi, không sao nhắm mắt ngủ được. Bà mãi thao thức, thương thương nhớ nhớ đức ông chồng, hồi tưởng một phần đời dài bao nhiêu con giáp bà không thể nào quên nhanh được. Những hình ảnh hạnh phúc gắn bó, những chứng tích kỷ niệm êm đềm giữa nhau còn đây, đang dần dà phục hiện trong tâm trí bà, đi ngược chiều về quá khứ đằng đẵng khó thể nhạt nhòa dễ dàng. Trong thời gian dài này, hai vợ chồng bà đồng vợ đồng chồng, vóc tâm phấn đấu bán lưng cho trời, lắm phen bầm dập với phần số để hóa giải những gian khổ khó khăn chực chờ làm chùng lòng người. Nay chẳng may, chồng bà bất hạnh, sớm ra đi giữa lúc sự nghiệp đang rỡ ràng vững chắc. Dù bà có nhủ thầm, tự an ủi với mình, đời người ai cũng phải qua một lần sinh tử, theo định luật bất biến của tạo hóa. Hơn nữa, chồng bà lúc sống có nhà có cửa khang trang, kinh dinh bề thế, khi chết sẽ có một nấm mồ xinh xinh ấm cúng. Không như những người phần số hẫm hiu, vùi thây đâu đó, linh hồn vất vưởng, dật dờ cô đơn giữa gò hoang vô chủ hoặc hốc đá bờ sông hoang vu. Chồng bà quả có may mắn được sinh tử chính nơi lòng đất thôn ấp quê hương, trong sự thương mến nuối tiếc và tiễn đưa long trọng của đông đủ bà con lớn nhỏ. Chợt thấy bà, ông Năm Đặng để tách trà xuống, vọt miệng:


- Chị Hương đừng phiền hà trách móc gì tụi nầy nhé! Tụi nó to tiếng cãi vả nhưng không có chi hục hặc đâu. Tánh tụi nó là như vậy. Chẳng lạ chi cả. Cãi vả để tìm sự thật, để đi đến đồng thuận. Hễ gặp mặt nhau, qua vài lít đế là chúng nó tranh cãi ôm xồm. Hôm sau tỉnh rượu, anh em lại thương yêu nhau như cũ. Từ chập tối, tụi nó “cà kê dê ngổng” biết bao nhiêu chuyện trời trăng mây nước, tới bây giờ đã khuya lơ khuya lắc vẫn chưa dứt như chị thấy đó. Thật tình, có vậy mới xôm trò. Đỡ buồn ngủ chị à.


Ông Năm còn cam đoan:


- Nếu không có tụi nó, tôi tin chắc anh Hương Trưởng ảnh không vui. Tánh ảnh cũng như tụi này vậy. Xưa nay ai mà không biết. Ảnh rất cởi mở hiếu khách, thích bè bạn, chuộng chỗ đông người vui nhộn. Từ nay thiếu vắng ảnh tôi cũng buồn!


Ông Năm hướng về phía bà Hương Trưởng nói tiếp:


- Tôi trông chị mấy hôm nay "tam xào bạch xác" (tâm sầu bạch phát) quá vì từ ngày bịnh tình anh Hương Trưởng trở nặng đến nay, tôi chắc chị thức trắng đêm.


Ông Năm Đặng biết bà Hương Trưởng đang buồn. Mà thật đúng như vậy. Bà buồn lắm. Nỗi buồn thể hiện bên ngoài đó, trên gương mặt khắc khổ tiều tụy của bà chỉ để che đậy một nỗi buồn ngăn ngắt sâu hút ẩn kín bên trong. Nó đang đục phá gậm nhấm tâm tư tình cảm bà không thôi. Bà càng thấm thía hơn với tâm trạng cô đơn da diết tột cùng của bà, không thể san sẻ chia sớt cùng ai được. Nhứt là trong giờ phút tang chế bối rối này. Cái bi kịch đầy nước mắt đang đến hồi kết thúc trong nội tâm bà chính là ở chỗ đó. Dù không khốc thét kêu gào như điên như dại như những người đàn bà khác cùng chung hoàn cảnh, bà cũng khóc, khóc thật nhưng chỉ sục sùi nức nở, đè nén bi thương từng chập. Ông Năm Đặng biết rõ như thế nên chuyển sang hỏi han về trường hợp cô Hai Lan, trưởng nữ của hai ông bà Hương Trưởng. Ông chưa thấy cô về chịu tang cha. Cô được ông bà Hương gả về làm dâu chỗ xa xôi tận Vàm Láng, Gò Công, nơi một gia đình sinh sống với nghề đánh cá ngoài khơi, cơ ngơi khá giả lắm. Bà Hương đâm ra lo lắng:


- Tôi cũng trông đứng trông ngồi hai ba hôm nay. Đã cho thằng Sáu Quít đi báo tin với con và rể tôi hôm ông nhà tôi hấp hối. Nay cả ba vẫn biền biệt, bặt tâm bặt tích.


Thời gian đợi chờ của bà Hương Trưởng lúc này nằng nặng, không đến cũng chẳng đi. Nó như ngưng đọng hẳn. Bà thở dài:


- Dầu sao tôi cũng chờ ông Thầy Huế đến xem ngày giờ an táng, chọn giúp cho một hay hai giờ tốt phòng hờ đợi con gái tôi về cho nó thấy mặt ba nó phút cuối cùng trước khi đậy nắp quan. Cho dầu con tôi vì một lý do nào đó có về trễ, tôi cũng đành chấp nhận giờ giấc tẩn liệm và động quan có leo qua chút đỉnh cũng không sao. Hồi còn sanh tiền, ông tôi rất mực thương yêu tưng tiu chìu chuộng nó. Ông xem nó như trứng mỏng không bằng.


Ông Năm Đặng tỏ ra hối hận. Vì ông đã hỏi bà Hương một câu khơi dậy thêm nỗi âu lo chờ đợi nơi bà. Ông vội an ủi:


- Đúng vậy chị Hương à! Ông Thầy Huế mà nhận lời xem giờ giấc cũng như cuộc đất và hướng đặt huyệt mộ thì tôi an tâm lắm. Tôi nói chí tình, đời bây giờ có ai đâu mà ham muốn được trúng phốc hàm rồng hàm rắn gì đâu để con cháu sau này đổ nghè đổ cống, sẽ làm nên những bậc đế vương khanh tướng hoặc làm giàu làm có chi quá đáng. Nhưng bà con mình thực tình chỉ mong sao cho tụi nó phất lên khá khá hơn mình một đôi chút nào đó là mãn nguyện rồi. "Con hơn cha là nhà có phúc" mà! Thôi, chị Hương đừng lo. Nước chảy ngày sẽ tới. Sớm muộn gì cháu cũng về kịp. Tôi nhứt định sẽ chờ cháu về mới gói ghém cho ông anh.


Ông lại dông dài:


- Mà tôi nói để chị thêm an tâm vững bụng, bớt phần bối rối. Từ Vàm Láng Gò Công về xóm Rạch Rít mình đây bây giờ phương tiện di chuyển tối tân, láng đường lắm. Xe cộ lại dập dìu, tha hồ để mình chọn lựa. "Hữu xạ (sạ) tự nhiên hương"... mà chị.


Rồi ông lấy giọng giải thích thêm. Ý như ông muốn hóa giải ngay tức khắc sự âu lo chờ đợi nơi bà Hương:


- Chị đừng lo cho thêm mệt tâm mệt xác vô ích. Có “xe”, đương nhiên cháu sẽ về quê nhà được thôi. Chị đi ngủ đi kẻo mai khách khứa rình rang, còn điếu dĩ nữa, chị có sức mà tiếp. Anh Hương còn nằm đây đến ba bốn ngày đêm nữa mà. Chị phải lo sức khoẻ chị trước đã. Ngã bịnh thình lình thêm nguy to. Lấy ai đảm đương lo trong lo ngoài?


Bà Hương Trưởng vừa trở gót vào phòng trong, Hương Thân Xót tiến lại vỗ vai ông Năm Đặng phân bua:


- Hồi nảy tôi để ý anh có nói với chị Hương Trưởng, tụi tôi "cà kê dê ngổng" cho vui. Anh nói trật lất. Sách vỡ anh để ở đâu? Tôi nói anh đừng buồn tôi nghe anh Năm. Buồn, tội nghiệp tôi lắm. Chẳng qua tôi quá thật tình. Chỗ anh em mà! Chẳng dấu giếm gì. Hơn thua chi một tiếng nói. Đối với người lạ, tôi không bao giờ dám hở miệng đâu, ngậm câm như hến. Tôi nghĩ "cà kê" thì đúng rồi nhưng sao lại có con "dê" trong đó? Đang nói con cà con kê, con ngỗng... toàn là loài hai chưn hai cánh, tại sao anh lại đâm bang chêm con dê, loại thú vật nhà bốn chưn không cánh vào, không giống ai cả.


Ông Hương Thân tỏ ra là mình sành sõi hiểu biết:


- Hơn nữa, trong xóm mình, trong làng mình, cả trong tổng mình nữa, đâu có ai nuôi dê và tụi mình đâu phải Chà Và Ma Ní hay Á Rập đạo Hồi chuyên ăn thịt dê đâu? Con dê nào phải là hình ảnh quen thuộc ở thôn quê mình để bà con đưa nó vào ngôn ngữ dân gian. Người Việt Nam mình từ đời ông bà cha mẹ đến bây giờ không có thói ăn thịt dê. Và tôi còn đoan chắc với anh, xóm mình chưa có ai ăn qua một lần bao giờ. Như vậy, ai mà chú tâm nuôi mấy "ông thầy" khét tiếng này làm chi. Tôi lại cam đoan chắc với anh một điều nữa, bà con mình có người còn chưa biết mặt mũi con dê, vóc dáng hình thù nó ra sao, cao lớn, lông lá, mập béo thế nào nữa kìa. Anh phải nói "cà kê nghê ngỗng" mới đúng chứ. Hồi nhỏ, tôi có nghe ông bà tôi nói với nhau như vậy. Con dê chen chưn trong đám gà ngỗng là hư việc hết. Ăn trét anh ơi!


Ông Năm Đặng gật gù chưa trả lời thì tù và trùm Hưng thúc giục văng vẳng xa xa. Trời sắp sáng. Vài bà con lần lượt kéo đến phụ giúp tang gia. Họ bắt đầu chuyện trò vang rân ở nhà sau. Câu chuyện chữ nghĩa trong đêm cũng tan loãng theo tiếng chim chóc líu lo báo hiệu bình minh của một ngày mới bình thường nhưng lắm việc nơi xóm Rạch Rít cách trở buồn tênh và thơ mộng của tôi.





**


Năm lên mười, mười hai tuổi, tôi được mẹ tôi đưa lên học ở trường bổ túc Phú Lâm thuộc tỉnh Chợ Lớn có số thứ tự 16 trong hệ thống hành chánh Nam Kỳ thuộc địa. Về sau, tỉnh Chợ Lớn bị giải thể không còn nữa. Một phần lớn đất đai sáp nhập vào tỉnh Gia Định kế bên. Phần còn lại trực thuộc hai tỉnh Hậu Nghĩa vừa mới thành lập, tỉnh lỵ là Đức Hòa và Long An, tỉnh lỵ Tân An. Từ dạo đó, trường Phú Lâm đặt hẳn dưới quyền điều hành của Ty Giáo Dục Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Tôi được giới thiệu tá túc nơi nhà bà Tư Tỵ, một góa phụ lúc bấy giờ đã trọng tuổi nhưng mạnh khoẻ bươn chải, sống với nghề nuôi cơm tháng. Chẳng những bà nuôi học sinh trường Phú Lâm cả chục đứa, lớn nhỏ trai gái đủ cả. Phần lớn là con cháu những gia đình khá giả ở các làng tổng xa. Bà nuôi cả các anh chị lớn đang làm việc ở xưởng dệt nằm trong vòng rào nhà trường, dưới sự điều khiển của dòng họ Chu, gốc gác Nam Định ngoài Bắc. Thêm vào đó còn có những anh chàng thư ký trẻ mới vào nghề, hằng ngày đạp xe đạp đi làm ở Sài Gòn, Chợ Lớn hay Tân Định. Chiều chiều, nơi "ký túc xá" tư nhơn khá ấm cúng, có nề nếp đáng tin cậy này vui nhộn náo nhiệt lắm. Cuộc đời của tôi lúc ấy phẳng lặng, ngày hai buổi cắp sách đến trường. Ngoài giờ học, tôi thả đi rong chơi ta bà, khắp các địa danh quen thuộc chung quanh như Gò Bà Chủ, Cây Da Xà, Bình Trị, Bà Hôm, Cầu Tre, Tân Hóa, Xóm Giá, Xóm Bún, Cây Cui, Phú Định v.v... Lúc đá banh, đá cầu, lúc đá dế, thải lổ lạc, lúc bắn chim xạt bài cào... cùng trang lứa. Chúng nó có nhà cửa chen chúc giữa những phố xá khang trang và tiệm buôn với bảng hiệu màu sắc hực hỡ, xan xát khít đeo trong một phạm vi nhỏ hẹp chung quanh chợ Phú Lâm. Rõ là một cuộc sống êm đềm bình thảng như mặt nước ao hồ không chút gợn vào mùa thu sầu cảm.


Có một kỷ niệm tôi không thể nào quên được trong đời. Và càng thăng trầm, lận đận gian truân bao nhiêu nơi đất khách quê người, nó cứ chờn vờn ám ảnh tôi luôn. Thuở đó, mỗi sáng thứ năm, học sinh lớp nhì lớp nhứt đều phải theo học khóa chữ Nho bắt buộc. Lớp học đâu khoảng hai tiếng đồng hồ với hai trình độ luân phiên nhau mỗi buổi sáng thì phải. Quả thực tôi không nhớ rõ lắm. Trí nhớ tôi vốn sa sút khá nhiều từ ngày Miền Nam bị cưỡng chiếm vì thường xuyên bị tác động bởi những âu lo triền miên và những đối phó dồn dập. Lớp học này do một ông Đồ Nho già đảm trách. Khi đi dạy học, ông vẫn giữ tục lệ truyền thống của môn phái Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử cùng các đệ tử. Ông luôn luôn mặc áo dài đen, vải ba tít mỏng te, mang giày hàm ếch, bệ vệ trịnh trọng. Nay, tôi xin có đôi lời tạ tội trước vong linh của ông vì vô tình, tôi quên hẳn tên ông. Thật đáng trách vô cùng! Dù vậy, ngay giờ phút hiện tại, khi viết những dòng tưởng niệm này, tôi vẫn nhớ rõ ràng hình dáng thon gầy cao ráo của ông, với gương mặt xương xương hao gầy, đôi mắt đen nhánh khuyết sâu, long lanh ngời sáng. Trông ông có vẻ khắc khổ nghiêm nghị. Ông là mẫu người ít nói, trông có vẻ khó tánh nhưng thực sự khi gần gũi ông mới thấy ông là người rất dễ dãi nhân ái và cởi mở chí tình.Ông rất quan tâm chỉ dẫn, dạy bảo chúng tôi từ cách thức mài mực tàu, chọn lựa bút lông, cầm cọ, cách viết, thế ngồi sao cho đúng điệu nghệ và phong cách con nhà Nho. Ông viết lên bảng đen từng chữ, trì chí phân tách, kết hợp từng nét chấm nét phẩy, sổ ngang sổ dọc. Ông nhấn mạnh cách ráp nối mỗi chữ, bàn xa tán rộng ý nghĩa thâm trầm của nó và cuối cùng dong dài lưu ý chúng tôi về những điều thiết yếu, khúc mắc cần phải chú tâm để nhớ.


Ông gốc gác người miền Trung, vùng Quảng Nam Quảng Ngãi thì phải, nếu trí nhớ của tôi không phản bội lại tôi, nên giọng nói của ông nằng nặng rất khó nghe làm cho tôi hồi tưởng thầy xưa dạy vỡ lòng cho tôi ở xóm Rạch Rít, ông Thầy Huế mà tôi luôn luôn trọng kính thương yêu, nhớ đời. Cũng là người miền Trung nhưng ông Thầy Huế của tôi nói năng dễ nghe và dễ hiểu hơn nhiều. Có lẽ nhờ Thầy tôi, thuở còn trai trẻ, đi đó đi đây, bôn ba tứ xứ khắp ba kỳ, cả Cao Miên, Lào và Thái Lan nữa. Thầy dấn thân trong những chuyện nước non mà lúc bấy giờ ít người quan tâm tới do thiếu ý thức. Sự chung đụng với đồng bào Miền Nam lâu ngày đã biến đổi khá nhiều cách phát âm và giọng nói của thầy chăng? Còn đối với thầy dạy tôi học chữ Nho ở trường tiểu học Phú Lâm, chỉ qua hình ảnh và phong thái kẻ sĩ, "uy vũ bất năng khuất" của ông Thầy Huế ngày xưa, cũng đủ cho tôi có cảm tình ngay với ông từ buổi học đầu tiên trong tuần lễ khai trường. Tôi nghĩ ông cũng thuộc lớp sĩ phu tiết tháo đức độ, có ý thức và trách nhiệm, trực tiếp hay gián tiếp dính líu quốc sự. Hay ít ra cũng có tình với đất nước quê hương, nặng nghĩa với đồng bào dân tộc. Hơn nữa, ông cũng giống thầy tôi ở xóm Rạch Rít, nổi tiếng là người am tường khoa thiên văn địa lý nữa. Ngoài việc dạy chữ Nho hằng tuần cho anh em chúng tôi ở trường, ông còn phụ trách giải đoán giúp những thiện nam tín nữ đến xin xâm ở chùa Minh Hương, một ngôi chùa cổ kín nằm ở đầu đường Hồng Bàng, phía nhà thương Chợ Rẫy. Ông giải đoán giúp những người đến đây mong khám phá cơ trời, khám phá những bí mật của tạo hóa về tử vi lý số để biết về gia đạo những lúc gặp khó khăn trắc trở hay tình duyên ngang trái. Nhưng đa số đó đi cầu xin phúc lộc, tiền tài, sự thành công ở thương trường hay sự thành bại của con cháu trên đường học hành thi cử tiến thân... Công việc của ông cũng bề bộn lắm và ông không rảnh tay ngày nào. Và đây mới là sinh hoạt chính yếu giúp nuôi sống gia đình ông. Giọng ông nằng nặng khó nghe nên trong bọn anh em chúng tôi, những đứa căn cư gốc gác lâu đời ở chợ ở thành, quen thói nghịch ngợm bướng bỉnh, chẳng những không để ý tiếp thu học hỏi mà còn phát lên cười giỡn, nháy y giọng để chọc phá ông luôn. Do vậy, thằng Hào, con ông, sinh trưởng ở Tân Hóa, Chợ Lớn, nói giọng Nam Bộ rặc, cùng học chung một lớp với chúng tôi phải đứng trên bảng đen diễn dịch những lời giảng giải dong dài của ông cho anh em chúng tôi cùng nghe. Về sau, ông qua đời lúc nào tôi không hay biết. Rồi tiếp đến những ngày tháng dầu sôi lửa bỏng dồn dập không ngưng từ thời cách mạng mùa thu tháng tám, lớp dạy chữ Nho duy nhứt còn sót lại này không được duy trì nữa. Nó tắt ngủm theo đà cải cách thường xuyên liên tục của các trào giáo dục kế tiếp.


Hai giờ học chữ Nho ngày thứ năm là hai giờ học mà anh em chúng tôi tỏ ra thích thú và ưng ý nhứt. Thích thú ở đây không phải vì say mê quyết tâm học hành, không phải vì ham thích tiếp thu chữ nghĩa người xưa. Thích thú không phải được nghe giảng dạy những lời hay ý đẹp, bao nhiêu triết lý thâm sâu trong sáng, cao vời vợi của thánh hiền. Chúng tôi thích thú vì được tự do thoải mái, không bị gò bó như ở những giờ học khác với thầy cô nghiêm khắc uy quyền. Chúng tôi tha hồ đấu chuyện tào lao vô thưởng vô phạt với nhau, muốn đi đến bàn nào thì đi, muốn cười giỡn lúc nào cũng được. Có đứa còn ngỗ nghịch chọc phá ông thầy ra mặt, không chút nể nang chi cả. Cũng vẫn những trò cũ rít tái diễn mãi. Chúng nó nhạy theo giọng nằng nặng miền Trung, chữ nào cũng phát âm với giọng nặng, vẽ vời quá trớn làm cả lớp cười rân từng chập. Ông thầy không bằng lòng, đập thước bảng ầm ập xuống bàn để áp đặt trật tự phòng lớp. Nhưng thích thú nhứt là việc anh em chúng tôi hè nhau lần lượt rút lui, lén trốn khỏi lớp, bỏ học ngay. Vì tuần nào hầu như chúng tôi cũng đã có hẹn trước với các đội banh khố rách của khu phố lân cận quanh nhà lồng chợ Phú Lâm để tranh hùng ở sân cỏ nhỏ hếu sau các dãy lớp bên hông nhà dệt. Những khi cao hứng, chúng tôi đồng lòng kéo nhau ra tận cánh đồng rộng chung quanh ngôi mã đá vôi đồ sộ hoang phế của một ông Thống Chế thời xưa xa hút. Ngôi cổ mộ này, cây xanh trùm phủ quanh năm, nằm khá xa phía sau dãy phố trệt trước chợ, hướng về phía các làng Bình Trị, Bà Hôm. Nơi đây đã được chúng tôi hì hục nổ lực ban bằng phẳng làm sân đá banh vào mùa khô, khi mấy bác nông dân đã gặt hái xong. Và chúng tôi tha hồ thụ hưởng môn thể dục thể thao dân gian ưa chuộng này, không cần phải gia công tìm tòi học hỏi, lại chẳng tốn kém một đồng xu cắc bạc, ngoài mấy chai nước mưa trời cho, tha hồ lận lưng để giải khát. Sau mỗi trận tranh hùng làm vua làm chúa trên sân rạ, chúng tôi ực một bụng đã đời. Lúc vào lớp ông thầy điểm danh thì đông đủ mặt mỗi đứa không thiếu đứa nào, nhưng sau đó, chúng tôi lẻn chuồn êm ra sân banh quá nửa. Còn lại le hoe một chục đủ đầu là cùng. Chúng tôi gọi đùa là đám thỏ nhát, ruột gan teo nhách không lớn bằng hòn đạn bắn chim. Có hôm, học trò còn lại quá ít, ông thầy nổi ôn bất bình, báo cáo với thầy trưởng lớp. Và dĩ nhiên ngày hôm sau, chúng tôi bị quở phạt, bị đánh đòn dằn mặt. Đòn thương, đòn răn, đòn dạy dỗ mà! Dù thế, tật nào vẫn hoàn tật nấy. Mỗi sáng thứ năm, chúng tôi không sao kiềm hãm được cái đam mê sở trường là đá banh. Nó cứ thôi thúc trong lòng chúng tôi vào những giờ đó, không cách nào chối từ được. Nhưng ác thay! Lũ trẻ chằn ăn trăn quấn quanh chợ Phú Lâm, cứ đúng giờ học lại thập thò lảng vảng, lấp ló chờn vờn trước cửa lớp với trái banh da xam xám cũ mèm. Chúng cười giỡn, thải qua thải lại, tưng lên tưng xuống thình thịch thình thịch lôi cuốn như trêu bẹo chúng tôi. Chúng còn gián tiếp mời mọc chúng tôi, gây sự chú ý bằng những cái nháy mắt, ngoắt tay ra dấu hay huýt sáo từng chập. Thật khổ cho chúng tôi biết bao! Và dù có can đảm đến đâu, chúng tôi không cách nào cầm lòng được.


Trọn một niên khóa học, tôi còn nhớ rõ, thầy tôi chỉ dạy được vài ba câu thôi mà đến cuối năm vẫn chưa dứt. Mấy câu ấy vẫn còn văng vẳng bên tai tôi và tôi không ngờ nó lại khắc in sâu đậm trong trí tưởng tôi như thế. Dầu rằng lúc bấy giờ, tôi rất thờ ơ chểnh mảng, học thả nổi, học lết bết chiếu lệ:


"Tiên học lễ, hậu học văn".


"Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện".


"Háo học cận hồ trí, học giả như hòa như đạo".


Câu chót này, ông dạy chưa dứt thì sân trường phượng nở đỏ thắm báo hiệu ngày bãi trường, báo hiệu giờ phút tạm biệt bạn bè, giã từ trường ốc và thầy cô trong nỗi buồn bâng quơ thoáng qua của tuổi học trò đã cận kề. Nay, tôi vẫn không quên những lời giảng giải quý báu của ông, những lời vàng ngọc mang chở một ước mơ, một khuyến khích, gói ghém một gởi gấm chân tình: "Ham học gần nơi trí, học là báu như lúa như nếp". Dĩ nhiên, ông không bỏ lỡ một dịp hiếm hoi để nhắc đến sự giàu sang phong phú của đất nước Việt Nam vốn phì nhiêu màu mỡ và thạnh mậu. Ông không ngớt phát biểu sự hãnh diện của ông qua những cánh đồng lúa bát ngát vàng mơ hay những vườn tược ngút mắt xanh rì, trĩu nặng trái ngon quả ngọt... Phong quang cảnh trí ấy đã đem đến thịnh vượng phồn vinh cho xứ sở mà lũ chúng tôi sẽ là mầm tương lai hứa hẹn theo ước nguyện của ông. Tôi rất ân hận không chợp những thời cơ hiếm có đó trong đời để thọ giáo đúng mức ông Thầy Huế của tôi ở xóm Rạch Rít và nhứt là ông thầy đồ dạy chữ Nho ở trường tiểu học Phú Lâm. Giờ đây tôi rất bồi hồi, ngậm ngùi hối hận đã đánh mất một dịp để võ trang cho mình một căn bản vững chắc hầu tiếp tục dò dẫm, học hỏi thêm giáo lý người xưa, cái phong cách liêm chính sĩ khí, cái đạo quân tử xử thế của con người đối đầu nghịch cảnh. Do sự thiếu sót quá tai hại ấy, ngày nay những khi hồi nhớ lại hai vị thầy khả kính của tôi ngày xưa với bao kỷ niệm khắc cốt ghi tâm, tôi đâm ra luyến tiếc vô cùng. Nhưng tiếc thay đã muộn rồi! Những lời vàng ngọc nặng tinh thần nho phong sĩ khí trao đổi giữa ông Thầy Huế và ông tôi, thuở tôi còn nhỏ, nay thỉnh thoảng hiện ra trong trí nhớ tôi. Dù trong đại ý. Nhưng nó được soi sáng thêm qua bao nhiêu phong ba bảo táp dồn dập, tang thương dâu biển lắm phen. Thuở xưa trước đây, tôi chỉ biết lờ mờ vài câu vài chữ mà nhờ tìm tòi, khổ công học hỏi tra cứu sau này, tôi càng tiêng tiếc mình đã phí phạm một quảng đường quý báu trong đời.


"Nhơn bất thông cổ kim, ngưu mã nhi khâm cư" (Người mà không thông việc xưa nay thì cũng như trâu ngựa được mặc áo quần).


"Nhơn phi hiền bất giao, vật phi nghĩa bất thủ" (Người không hiền không làm bạn, của không nghĩa không thọ lảnh).


...


Thế hệ chúng tôi quá lơ là với cái nho phong sĩ khí của người xưa. Chúng tôi thờ ơ học hành xao lãng lè phè, vì thế làm sao hiểu thấu đáo ý tứ thâm trầm, lời lẽ sâu sắc cao siêu của thánh hiền. Sự lè phè thờ ơ đó thêm dằn dặt nặng nề hơn với ý đồ thâm độc của thực dân Pháp. Chúng có chủ trương thâm độc cắt đứt dứt khoát nền giáo dục xưa, đã từng truy rèn tôi luyện một lớp nho sĩ danh nhơn yêu nước lẫy lừng của nước ta. Phần đông các vị đã khẳng khái quyết tâm đứng lên giương cao ngọn cờ Cần Vương khởi nghĩa chống xâm lăng, chống sự hiện diện của ngoại bang buổi nhiễu nhương giao thời. Cái tai hại hiểm độc đó của thực dân đã đưa đến cho dân tộc Việt Nam bất hạnh một hậu quả trầm trọng khôn lường, kéo dài mãi tận hôm nay. Xã hội Việt Nam vì đó tan rã phân tán, mất dần đi cái gốc cơ bản vững chắc của dân tộc mà điển hình là trường hợp của các ông Năm Đặng, Hương Thân Xót và nhứt là thằng Bảy Kế. Họ làm sao củng cố cho mình một cơ sở hiểu biết và lý luận sắc bén được!


Tôi có dịp được đọc quyển “Lyautey” của nhà văn tên tuổi Pháp André Maurois do nhà xuất bản Plon, Paris ấn hành năm 1938, gần nửa thế kỷ nay. Tác giả thuật lại một câu chuyện về tướng Lyautey, lúc đó mang cấp bực Thiếu tá trong quân đội viễn chinh Pháp. Ông vừa được Chính phủ Pháp bổ sang Đông Dương nhằm năm 1894, thời Toàn quyền De Lanessan. Nhiệm sở của ông là “xứ Bắc Kỳ”. Tác giả kể tiếp giai đoạn trao đổi giữa tướng Lyautey khi vừa đặt chân đến Sài Gòn với Toàn quyền De Lanessan. Hai người rất quý trọng nhau và tỏ ra tương đắc lắm. Một hôm, cùng trong chuyến đi từ Sài Gòn ra Hà Nội, nơi nhiệm sở chính thức của Lyautey, De Lanessan có thố lộ cùng viên sĩ quan trẻ tuổi này một chi tiết đáng lưu ý về chủ thuyết sai lầm nhưng cố ý của nền hành chánh thuộc địa Pháp ở Đông Dương lúc ấy. De Lanessan nói:


- Mỗi quốc gia (bị trị) đều có những cán bộ lãnh đạo cốt cán. Sự lỗi lầm lớn nhất của dân tộc Âu Châu khi đến xâm chiếm các quốc gia đó là tận diệt ngay lớp cán bộ lãnh đạo sở tại. Hậu quả là những quốc gia này mất đi giai từng ấy nên rơi vào trạng thái hỗn loạn. Chúng ta phải cai trị (Đông Dương) với giới quan lại chớ không thể chống lại giới này... Như vậy, ta không thể xóa bỏ một truyền thống tập tục, không thể thay đổi một thói quen...


Rõ ràng thực dân xâm lăng cưỡng chiếm nước ta, lo ngại truyền thống luân thường và đạo lý dân tộc ta. Một truyền thống phảng phất trong đó ý thức ái quốc thương dân, thiêng liêng trong sáng, rực rỡ hào quang do ông cha ta từng thấm nhuần sâu đậm từ sách vỡ Nho học cũng như qua phong cách sống quân tử và cao thượng đặc thù của thánh nhân. Trọng tâm hàng đầu của thực dân là tiêu diệt càng sớm hàng ngũ giới quan lại và sĩ phu ta. Vì trong tâm hồn của những vị tiền bối khả kính này luôn luôn thăng hoa một tình yêu nước đậm đà, một nỗi thương yêu giống nòi nồng nàn... luôn luôn tỏa sáng cái hùng tâm khí phách và cái ý chí kiên cường bất khuất của kẻ sĩ. Chúng không giấu giếm sự lo sợ từng lớp thức thời này sẽ đồng loạt đứng lên kêu gọi chống đối chúng vì tự hào dân tộc và độc lập quốc gia. Cho nên chúng đã mạnh tay xử dụng nhiều chánh sách và xảo thuật nhằm tận diệt giai cấp nho sĩ ấy. Tức là lớp người duy nhứt hướng dẫn dư luận lúc bấy giờ, trong số đó không biết bao nhiêu anh tài trung liệt vô danh và hữu danh đã hành động từ Bắc chí Nam, đã dâng hiến xương máu chống ngoại xâm, bảo tồn độc lập và sự vẹn toàn lảnh thổ nước nhà.


Ông Thầy Huế ở xóm Rạch Rít của tôi và ông thầy đồ dạy chữ Nho cho chúng tôi ở trường tiểu học Phú Lâm hơn nửa thế kỷ trước là những đại biểu điển hình của lớp nho phong sĩ khí thất thời lỡ vận. Đến thế hệ kế tiếp của ông Năm Đặng, Hương Thân Xót, thằng Bảy Kế và đám hậu sanh hời hợt chúng tôi là những mảnh đời rã rời tơi tả, bị đánh gục vì mất định hướng ở thang giá trị con người. Chúng tôi thiếu hẳn cơ sở vững chắc để nhận định đúng đắn và chính xác. Chúng tôi để mất con đường sinh tồn của cá nhân và của dân tộc, con đường có trái tim đầy ấp tình nghĩa và đạo hạnh. Thực dân hơn tám mươi năm đô hộ đã thành công phá vỡ tan tành nền tảng phải có nơi con người và xã hội Việt Nam. Thiếu cái nền tảng vững chắc đó nên ngoái nhìn lại thời khoản dầu sôi lửa bỏng năm 1945 trở về sau, trở về cái ngày ảm đạm đen tối 30 tháng Tư năm 1975, bà con tôi không sao cưỡng chống được chủ nghĩa cộng sản vô thần, vật chất bản vị tai hại, một thứ chủ nghĩa ngoại lai đã xô đẩy đất nước Việt Nam vào một cuộc chiến dai dẳng khốc liệt để chung cuộc đưa dân tộc ta xuống hố sâu của nghèo đói, bần cùn, mất nhân phẩm. Ở đây, tôi hồi nhớ và xin ghi thêm nhận xét tinh tường của lão ký giả Văn Lang Trần Văn Ân, con người của thế kỷ hai mươi, khi ông tìm hiểu, phân tách nguyên nhân của sự sụp đổ lịch sử đó. Cộng sản đã thành công áp đặt nền độc tài đảng trị sắt máu trên toàn cõi đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta. Chúng biết khai thác đúng mức và nhờ vào chánh sách của thực dân trước đây, đã đánh gục tinh thần nho phong liêm chính, bất khuất của ông cha ta mà chí sĩ Phan Đình Phùng là vị đại biểu lừng lẫy cuối cùng của cái "đuôi Nho" vậy. Bây giờ bình tâm suy nghĩ, tôi mới thấm thía nhớ những lời nhắn nhủ chí tình của ông Thầy Huế. Ông từng triển khai không biết bao nhiêu lần với ông tôi:


- Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi đạo"


(Đạo không xa cái bổn tánh con người; hễ vì đạo mà xa cái bổn tánh ấy thì kể đạo ấy không phải là đạo).


Các thầy tôi là những đại diện cho lớp sĩ phu thức thời lỡ vận vào thời buổi oái oăm của lịch sử. Các thầy đã đi vào miền thiên thu miên viễn trước sóng gió của cao trào cách mạng mùa thu. Bà con tôi, ông Năm Đặng, Hương Thân Xót và thằng Bảy Kế, thiếu căn cơ vững vàng, mất hẳn định hướng. Họ mất ngọn hải đăng tối cần thiết để dẫn lối đưa đường. Họ không phân biệt được con người và vật chất ở thời điểm quyết định. Cái "đuôi Nho" xa vạn dặm, đáng buồn thay chỉ ngoe ngoảy yếu ớt buồn hiu lại chệch hướng, bị thu hút phũ phàng theo sóng triều thác lũ của chủ thuyết duy vật, phá sản từ trong căn bản nhưng rất tiếc lại thành công trên mảnh đất quê hương tôi. Lũ chúng tôi, thế hệ mới tấn lên khi đã ý thức thì ô hô đã quá muộn. Bây giờ, chúng tôi quá ân hận để phải nghe trong chán chường nuối tiếc, những tháng năm dài đầy ấp kỷ niệm tuổi thơ hoang phí của mình cứ chạy xục xạo, tiếp nối đuổi bắt nhau mãi trong từng ngõ ngách chằng chịt của miền sâu thẳm ký ức mình. Và cuộc đời lưu đày ray rức vẫn cứ ngăn ngắt gậm nhấm tâm hồn tôi.





                
                                                         
                         

Quê Hương Lãng Đãng




Mùa hè năm ấy, vợ chồng em tôi ở miền Nam nước Pháp ngỏ ý mời chúng tôi đến nghỉ mát nơi này đôi ba tuần lễ, gọi là để đoàn tụ gia đình. Lâu rồi, chúng tôi mỗi đứa mỗi nơi, bận bịu với công việc sinh sống hằng ngày, quấn chưn quấn cẳng để ổn cư nên chưa có dịp gặp nhau. Cho dù khoảng cách không hơn hai ngàn cây số vào thời buổi phi cơ phản lực đan quyện như mắc cửi trên bầu trời, tàu hỏa đại vận tốc xuyên suốt Bắc Nam nhanh như gió, xe hơi tối tân nhiều mã lực, xa lộ thênh thang an toàn... đâu phải chuyện ngăn sông cách núi, mịt mù thăm thẳm như ngày xưa bên nhà. Thời gian đó, lúc nhàn rỗi, tôi đọc lại, nghiền ngẫm những tác phẩm bất hủ về cuộc đời lính chiến của nhà văn Phan Nhật Nam, bàng bạc niềm hãnh diện, hiên ngang của tuổi trẻ có ý thức trách nhiệm, đem đời mình vào sanh ra tử, bảo vệ từng tấc đất quê hương. Nhưng nhiều lúc cũng đượm một nỗi đắng cay nghẹn ngào, hờn giỗi phẫn uất... rất ư văn chương nghệ thuật.


Từ các tác phẩm để đời "Dọc Đường Số 1", "Mùa Hè Đỏ Lửa"... đến "Tù Binh và Hòa Bình"... tôi đã theo chân tác giả Phan Nhật Nam đi khắp nẻo đường quê hương binh lửa triền miên, đầy hận thù, xơ xác rách nát. Một quê hương khốn nạn với những thảm kịch nhan nhản hằng ngày, cứ ngăn ngắt xoáy quyện vào tận sâu thẳm đáy tim tôi. Bỗng nhiên, nơi chuyện "Người Lính Việt Nam, Một Nhiệm Mầu" trong quyển "Mùa Hè Đỏ Lửa", đôi mắt tôi bỗng đứng tròng, ngạc nhiên sung sướng. Tôi sung sướng ngạc nhiên ngừng hẳn ở những dòng chữ khơi động một nỗi buồn thấm thía, chứa chan tình nghĩa, đang len lén đục phá tâm tư tôi.


- "Ngày ngày, ngâm chân xuống bùn sâu của những kinh rạch chằng chịt vùng Bến Lức, Long An, đêm dẫn bảy người lính phục kích trên bờ ruộng, tôi nhìn sao, nhìn trời, nhìn cơn gió và ánh nắng tưởng nhớ đến những nơi xa, nơi chiến trận trùng trùng giăng kín, những người quen hay không quen ngã xuống trong mỗi giờ qua, mỗi ngày sắp hết. "Giữa cơn mưa đám mây chợt đổ ào xuống khi chân ngập dưới bùn lầy Rạch Rít, tôi ngẩng đầu nhìn hạt mưa mà gởi đến chiến trường, bằng hữu nơi xa tiếng thét lặng câm mang hết cay đắng lẫn ngậm ngùi...".


Cám ơn nhà văn bất hạnh Phan Nhật Nam từng chịu cảnh nhục hình trong lao tù tập trung cải tạo của Cộng sản độc tài đảng trị, đã nhắc đến địa danh dấu yêu của quê hương Việt Nam, một địa danh mà nếu không có cuộc chiến ý thức hệ trường kỳ, dằn co dai dẳng và khốc liệt trước đây, chắc hẳn ít người biết đến. Cái địa danh với phong quang cảnh trí, những cánh đồng mênh mông mút chỉ cà tha, những sông lạch kinh mương uốn éo quanh co thơ mộng, những con đường mòn quằn quoèo gợi thương gợi nhớ ấy đã gắn bó keo sơn với đời tôi từ ngày buông tiếng khóc oa oa lọt lòng mẹ. Vì chính đó là nơi chôn nhao cắt rốn, là gốc gác cội nguồn của tôi. Tôi buông quyển sách xuống, ngã người thờ thẩn rồi nhắm mắt lại lúc nào không hay. Tôi hồi nhớ một quãng đời trai trẻ mộc mạc quê mùa nhưng thanh thản hồn nhiên, đang tuần tự diễn tiếp liên hồi trong trí tưởng, với tâm trạng ngậm ngùi cay đắng của người lưu vong ray rức nhớ cội nhớ nguồn. Rạch Rít! Nơi chôn chặt ghì níu chuỗi ngày dài thơ ấu của tôi. Nơi đây chưa một lần vẩn đục bởi những vướng bận hệ lụy của cuộc đời. Ngày đó, tôi ngây thơ cứ tưởng rằng đời mình său nầy sẽ gắn bó, mãi mãi không rời con rạch cùn nho nhỏ rậm rạp với giòng nước quanh năm trong xanh như đôi mắt u buồn, tình tứ kín đáo của người thiếu nữ quê mùa. Nó có cái tên hoang dã của một thời xa xưa khai hoang lấn đất nhưng rất dễ thương và quyến rủ gọi mời. Rạch Rít! Tôi sẽ lớn lên nơi đây và sinh sống bằng nguồn sinh lực của đôi cánh tay gân guốc chai lì. Năm năm tháng tháng tiếp nối tôi sẽ cầm chặt lưỡi hái chuôi cày như trường hợp của hầu hết những bà con xa gần trong xóm. Họ âm thầm noi theo truyền thống bám đất bám làng của cha ông và tổ tiên ngày xưa. Họ mẩn cán cần cù, chơn quê chất phác. Họ làm việc kham khổ nhưng sống tương đối hạnh phúc, an phận nơi chéo đất mới, trên con rạch duy nhứt này, cạnh bờ ao trong vắt này, quanh rặng dừa nước mịt mù giao ngọn nhau, hay sau lũy tre xanh rì nghất nghểu vi vu theo từng cơn gió hoặc dọc hàng cây trâm sai trái trĩu cành... Hằng ngày, những trái cây rừng chín óng ánh lôi cuốn đám chim chóc đủ loại, giành ăn lao xao rậm rật từ tưng bửng sáng đến chạng vạng đỏ đèn. Và cả lũ trẻ tiểu yêu lăn chai chúng tôi cũng ráp bu nơi đây. Chúng tôi ăn thì ít nhưng vui chơi thì nhiều vào những chiều tắt nắng đẹp trời.


Không ngờ chỉ hai, ba năm sau, đang khi học vỡ lòng vui vẻ ngon trớn ở nhà ông thầy Huế trong xóm, mẹ tôi có quyết định đưa tôi tiếp tục đi học ở trường Sơ Đẳng Tiểu học Gò Đen nơi làng Phước Lợi nằm trên quốc lộ 4 để có tương lai đảm bảo hơn. Tôi được rõ quyết định ấy nên buồn bã, lo âu vô cùng. Kể từ đó, tôi không còn thiết tha gì nữa. Cứ lơ lơ lửng lửng như người mất vía mất hồn. Canh cánh trong lòng tôi một tương lai không mấy gì sáng sủa ưng ý! Tôi quên hẳn giờ giấc hằng ngày tụ năm tụ bảy chơi giỡn vui quá xá vui với mấy thằng bạn nối khố bấy nay. Cứ chập chập, chúng tôi thường gặp mặt lao nhao cười nói, gào thét đến khàn cả tiếng. Tôi mường tượng cảnh bỡ ngỡ bơ vơ, xa lạ, trống rỗng buồn tênh ở Gò Đen khi tôi được mẹ tôi gởi gấm ăn cơm tháng nhà bà Cả Bảo. Mẹ tôi không ngớt ca tụng bà như mẫu người hiền đức nhân hậu, biết thương người, nhứt là những trẻ con mồ côi mồ cúc như tôi. Dù lúc ấy, chưa một lần tôi rời khỏi cảnh thổ quê nhà để biết làng Phước Lợi và ngôi trường Gò Đen xa gần, to lớn ra sao? Tôi không quên đếm từng ngày một, cái mốc thời gian mẹ tôi ấn định để tôi rời khỏi xóm Rạch Rít thân thương, đầy ấp kỷ niệm đầu đời của tôi. Tôi không thích nhưng sao vẫn nghĩ tới nó. Tôi có cảm tưởng thời giờ lúc này đối với tôi sao qua quá nhanh, còn hơn thoi đưa. Mới đó mà sắp đến ngày phải lên đường rồi. Chán thật. Nhìn những hành trang lỉnh kỉnh mẹ tôi cẩn thận cụ bị cho tôi và được để tập trung ở một gốc nhà sau, tôi càng thấy giây phút giã từ ngôi nhà từ đường ấm cúng, giã từ ông bà và mẹ tôi, bè bạn bấy nay chẳng bao giờ rời nhau một ngày một buổi... giây phút đó không còn bao lâu nữa. Nó đã kề cận một bên, không thể lùi lại được. Việc nào đến sẽ không tránh khỏi. Nhiều lúc, tôi liếc chéo ở khoé mắt những dụng cụ ngổn ngang ấy, cốt ý lộ vẻ thờ ơ không muốn nhìn tới. Tôi làm như không chút quan tâm nào nhằm lưu ý mẹ tôi về sự lạnh lùng, không bằng lòng xa nhà xa xóm của mình.


Rồi những gì phải đến đã đến.... Chiếc xuồng ba lá thon thon xinh xắn vừa mới được ông tôi trét chai hôm trong năm còn hăn hắc mùi dầu do chú Thặm, người cháu gọi bà tôi bằng cô ruột, đã đem cặp sẵn ở bến nước sau nhà. Nó được buộc ghịt cạnh sàn nước, nơi cầu rửa chén lúc nào tôi không hay. Có lẽ đúng như tôi suy đoán chăng? Tức từ lúc hãy còn tờ mờ sáng thì phải. Mũi xuồng gặp lúc nước rong lé đé bờ mương bờ liếp, cứ chao đảo, chồng chành lắc lắc không thôi theo nhịp sóng nước đập khe khẻ vào thành cầu rửa chén liên tu bất tận. Nơi đây, chiều chiều, lúc mặt trời chưa phụp hẳn xuống, tôi thường ra đó xách nước sông tha hồ xối mình mẫy vài ba gào rất thoải mái. Nhân tiện, ông tôi nhờ tôi tưới mấy luống rau luống cà, vài vồng cải vồng hành hẹ và nhứt là hàng kiểng quý từng cặp đối ứng nhau do ông tôi uốn cành tỉa nhánh cho vui, cho đỡ buồn tay buồn chưn lúc tuổi già bóng xế. Ông không muốn ăn không ngồi rồi vô tích sự phí phạm những ngày cuối đời, mà thực ra cũng để nhớ nhung một quảng thời gian dài con nhà nông bương chải trước dây. Đồ đạt cần thiết đã sẵn sàng, được mẹ tôi kiểm tra tươm tất năm lần bảy lượt. Mẹ tôi vừa kiểm soát vừa bảo làm như thế cho vững tâm. Bà không quên một vật gì và không để sót thứ nào cả. Mẹ tôi an tâm, vì sau này tôi có đầy đủ mà dùng. Tất cả đều được chất xát xao ở lường xuồng, đậy đệm kín đáo phòng ngừa mưa gió đường xa. Cả những bánh trái, thức ăn và nước uống dùng lúc đi đường của tôi và chú Thặm bơi ghe cũng được mẹ tôi lo chu đáo. Tôi ngẩn ngơ thờ thẩn. Con người như lơ lửng đâu đâu. Ngồi yên ở mũi xuồng, tôi đưa mắt lầm lì nhìn thẳng về phía trước. Tôi lặng im, bậm môi bậm gan cố kềm hãm hai dòng nước mắt đang từ từ chảy dài theo má. Mẹ tôi và bà tôi không ngớt khích lệ nâng tinh thần tôi:


- Làm trai con phải tỏ ra đáng mặt trai. Chớ có yếu đuối, xui xị bạc nhược không khéo người ngoài trông thấy, họ cười chê thúi đầu cho mà coi. Lớn đại rồi. "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn"...


Sự chia tay hôm ấy chỉ là một sự bịn rịn quyến luyến thường tình của những cuộc chia ly xa cách khác. Nó đến rất nhẹ nhàng trong lạnh lùng, trong thầm lặng ngăn ngắt. Tuy không hề có nét gì gọi là ồn ào rùm beng to tiếng nhưng cũng đủ gây một chấn động sâu đậm và dai dẳng trong tôi suốt thời gian dài sau này. Tôi đoán trước và tin chắc như thế. Hình ảnh ông bà tôi và dáng dấp mẹ tôi, tất cả những người thân thương ruột thịt cứ thom thóp âu lo, đứng bất động ở bờ bến dõi trông theo tôi. Nhứt định không sao tôi có thể quên được. Gục đầu trong chiếc nón lá buông cũ nhưng rìa nón chưa đến đỗi tưa rách, tai tôi vẫn nghe rõ ràng những lời âu yếm dặn dò, nhắn nhủ vói theo của mẹ tôi. Người lưu ý tôi luôn luôn phải đội nón trên đầu suốt đoạn đường đi đến Gò Đen để tránh trúng mưa trúng nắng. Tôi khẽ gật đầu. Rồi tôi vẫy tay chiếu lệ giã từ ông bà và mẹ tôi, giã từ ngôi nhà từ đường, giã từ quê hương cố thổ mà nghe nức nở trong lòng theo tiếng dầm nặng nề của chú Thặm, cọ sát be xuồng đều đều trầm buồn. Bất giác, tôi nhớ bài tập đọc "Kẻ Ở Người Đi" trong quyển "Quốc Văn Giáo Khoa Thư" mà tôi đã đọc không biết bao nhiêu lần, gần như thuộc làu là khác, lúc học ở nhà ông Thầy Huế xóm Rạch Rít. Câu kết luận của bài tập đọc đầu đời này hãy còn ngân nga, se sẻ rung động lòng tôi: "Ôi, cái cảnh biệt ly sao mà buồn vậy!". Tôi bỗng nhớ tới thầy tôi hay dong dài phân tách, giải thích về số phận của mỗi con người trong xã hội. Thói thường, người ta bảo con người có số là phải lắm. Cái số hay lâu lắm về sau tôi thấm thía hiểu là định mệnh. Tôi tin như thế ở giờ phút này.


Có người chưa sinh ra, còn trong bụng mẹ đã có số giàu có sang trọng. Lớn lên họ sống gần gũi, thảnh thơi hạnh phúc cạnh bên mẹ cha. Họ được bảo bọc trong tình thương yêu của đại gia đình đông đúc ấm cúng với đôi ba thế hệ cùng chung dưới một mái nhà duy nhứt. Trái lại, có kẻ hẩm hiu mang suốt đời cái số con rệp cô đơn, cơ hàn nghèo khó. Dù họ có cố gắng phấn đấu làm việc để ngoi lên nhưng không sao thoát khỏi định mệnh. Còn tôi?! Cái số của tôi từ đây chắc hẳn là phải sống ly hương xa xứ! Trong tôi bấy giờ lại chờn vờn vài ba ý tứ rời rạc, vội đến vội đi không hệ thống mạch lạc chi cả. Nhưng tựu trung, không ngoài cái ý chánh là quê hương Rạch Rít ngàn đời của tôi quả tình nghèo khổ thật, hắc hiu u buồn thật nhưng chắc chắn tôi sẽ không bao giờ và chẳng bao giờ tìm gặp nó ở bất cứ một nơi nào khác. Cái khổ tâm nhức nhối nơi tôi lúc ấy là thế! Xuồng ra khỏi bến vừa qua khỏi mấy eo mấy vịnh sầm uất đầy bần nước và dừa nước chạy dài theo hai bên mé sông rất quen mắt tôi từ ngày biết lửng thửng chạy lúp xúp theo ông tôi đi thăm ruộng nơi xa. Mấy trái mù u và dừa non bị chuột khoét lỗ rụng trôi lềnh bềnh cứ xa dần mãi về phía sau khi xuồng tôi lướt qua. Ngày thường, tôi xem chúng chẳng ra gì cả, nhưng hôm nay nhìn chúng, không biết sao tôi quý mến chúng vô cùng. Chúng nó gợi cho tôi hình ảnh một thời, giờ đây đã vuột khỏi tầm tay mình. Rồi những dề lục bình đang trổ bông màu tím thủy chung u buồn cũng đang chia tay tôi, khi lững lờ trôi ngược giòng nước ngang trước mắt tôi. Mấy con ảnh ương xanh nhạt còn nhốm đít ngoái nhìn theo tôi, giương đôi mắt lồi bất động, dường như chúng cũng quyến luyến, tiếc nuối sự ra đi của tôi! Chú Thặm bắt đầu động viên tôi bằng cách không ngớt khơi chuyện trời trăng mây nước giúp vui, nhưng tôi vẫn lặng im thin thít. Ngồi bâng quơ, tôi tiếp tục hướng thẳng ra phía trước mà chẳng biết mình có nhìn những gì trước mặt. Vài chiếc xuồng ba lá hay tam bảng ngược chiều chào hỏi vẫy tay thân tình nhưng tôi vẫn lạnh lùng, trơ trơ như đá tảng. Những chiếc vó dọc theo rạch được chẫm rãi kéo lên để xuồng tôi lướt qua sau tiếng báo lảnh lót của chú Thặm từ xa:


- Giở vó... giở vó!


Bao nhiêu giọt nước trong ngần, cứ nhẹ nhàng thi đua nhau rơi xuống trên lòng sông rộng, vắng vẻ buồn hiu. Chúng tạo thành những vòng tròn tròn, cứ lớn dần, lớn dần để chen lấn tan biến hai bên mé sông dầy đặc một thảm cây xanh mướt mượt. Chủ cầu vó đã thận trọng giũ lưới đôi ba lần trước đó. Nhưng vẫn còn nhiều giọt núm níu, rơi muộn màng trên chiếc nón lá buông của tôi khi xuồng lướt ngang qua. Những tiếng lách tách lách tách... yếu ớt ngắt khoảng không làm cho tôi quan tâm để ý tới làm gì. Tôi từ từ buông xuôi bàn tay xuống giòng nước mát trong xanh thân quen. Giòng nước mỗi buổi chiều tôi từng lặn hụp dầm mình trong lâng lâng hạnh phúc của tuổi trẻ yêu đời. Tôi không biết vì sao mình có cử chỉ máy móc này. Vì lúc ấy, tôi chẳng có một ý thức nào. Một cử chỉ để xô đuổi những u ẩn không thể giấu giếm trong lòng mình chăng? Nước sông mát lạnh len lõi vào khoé các ngón tay nhỏ bé của tôi, tạo thành những vệt dài loang dần vào những bọt nước trắng xóa trong bóng, hợp tan tan hợp, phát ra từ mái dầm của chú Thặm ở phía lái xuồng. Rồi tiếp đó những đợt sóng lăng tăng điệp điệp trùng trùng cứ chen chúc nhau không dứt. Chúng nó lang thang trên mặt nước như đùa vui, như trửng giỡn cùng nhịp với những ngọn gió hây hây thoang thoảng trong lành. Và sau cùng, chúng ập nhẹ ôm ấp hai bờ sông, rải rác đây đó những cây bần nước đang trổ bông trắng nõn nà, lấm chấm một chút hồng dợt.


Cảnh vật vắng vẻ lạnh tanh khó tả. Chỉ có tiếng những con chim sâu nhỏ nhắn đi tìm mồi líu lo khe khẽ chào mừng nắng ấm. Những tiếng động êm tai dễ thương ấy thỉnh thoảng được ngắt khoảng bởi tiếng con chim bìm bịm kêu nước lớn, tiếng tu hú ở vườn xa vọng lại hay tiếng lũ cá lóc trừng lên táp mống bùm bụp bùm bụp... trên suốt quãng đường. Tất cả dường như đang nhắc nhớ tôi, vẫn còn có sự sống quanh tôi. Ngay những đoạn nước ngược chảy xiết, tôi vẫn nghe rõ ràng tiếng thở khùn khục mệt nhọc của chú Thặm, ngồi chắc nịch ở phía sau lái. Chú cố gắng tận lực bơi để ghe lầm lũi chậm lụt lướt tới. Buồn quá! Buồn quá đỗi là buồn! Một nỗi buồn sâu kín! Một nỗi buồn không thể xẻ chia! Quá ngọ cũng đã lâu. Hình như là vậy. Vì cả hai, chú Thặm và tôi bắt đầu đói meo. Nhưng riêng tôi, tôi chẳng thấy có nhu cầu cần phải ăn uống. Dù lúc đó chú Thặm không ngớt luôn miệng nhắc nhở tôi. Buồn vì tôi đã thật sự rời xa xóm Rạch Rít của tôi. Tôi đã thực sự rời con rạch quê hương do tạo hóa huyền bí và rộng lượng khơi nguồn nuôi sống thôn xóm tôi. Tôi đã thực sự rời cảnh thổ chôn nhao cắt rốn do tổ tiên, ông bà và cha mẹ tôi cùng góp sức với bà con dày công tạo dựng, dù đến bây giờ hãy còn những nơi dang dở, chưa thành khoảnh. Chỗ này vài vạt đất hoang còi cộc nhấp nhô mả mồ. Chỗ kia đôi ba chéo rừng chồi ngập nước mùa lũ lụt. Tôi đã buông xuôi quá khứ êm ấm và thơ mộng của mình theo với những bọt nước mông manh đang vĩnh viễn biến mất rất nhanh ở những khúc quanh vắng nhà. Những khúc quanh trớ trêu ấy sao chúng nó quá vô tình ngăn chắn tầm nhìn của tôi khi ngoái về phía sau để cố tìm kiếm những gì đã mất mát. Tôi đã xa rời thôn ấp quê tôi thật sự rồi. Tôi đã đi quá xa cả một buổi đường mà sao hương quê vị đất và nhứt là đám chằn ăn trăn quấn bạn bè nối khố của tôi vẫn còn vấn vương kết quyện mãi theo tôi rất lạ lùng. Những cụm mây trắng buốt thường ngày bay ngang nốc nhà hương hỏa của ông bà tôi vẫn còn đây, cứ phong phong không thôi trên đỉnh đầu. Rồi giòng nước ngọt ngào, không hề có tuổi so với tuổi đời chồng chất hằng năm của tôi, vẫn còn lăn tăn đeo đuổi theo tôi. Nhưng sao tôi lại đinh ninh rằng ngày tôi trở về nơi đây ắt hẳn còn xa xôi lắm.


Tất cả đã vuột khỏi tầm tay tôi, ngay cái hạnh phúc nhỏ nhoi đơn giản nhưng rất mực hồn nhiên của tuổi trẻ. Tôi như lạc lõng ở chốn chợ chiền Gò Đen. Ngôi trường gạch mái ngói, kinh dinh đồ sộ, với bao nhiêu lớp học rộng rãi khang trang, thêm một dãy "căn tin" khoảng khoát lộng gió. Sân trường to lớn thênh thang, cỏ non xanh mướt quanh năm, lúc nào cũng được cắt xén phẳng phiêu. Những giờ nghỉ xả hơi theo với nhịp trống trường muôn thuở, mỗi lần đó đều do mấy thằng bạn kỳ cựu lém lỉnh lớn gộc tranh giành chen lấn, giựt cho được dùi trống để đánh. Học trò tủa ra đông như kiến. Tôi choáng váng, đứng khép nép thui thủi một mình ở những gốc cột thưa đứa tới lui. Buồn xo. Mặc cảm thân phận. Tôi mặc cảm vì xuất thân từ nơi quê mùa, bùn lầy nước mặn đồng chua, xa xôi hẻo lánh mới đặt chân tới. Thêm cái mặc cảm triền miên của những trẻ mồ côi không được chở che, thiếu hẳn tình thương và mất tự tin. Rồi tôi bị chóa mắt khi hồi tưởng đến ngôi nhà lá lụp xụp, nền đất lởm hởm màu xám đen, bốn phía vách kết bằng sóng dừa nước với tấm phên cửa cái được chống lên hằng ngày nhờ hai thanh tre hai bên. Ngôi nhà ấy của thầy tôi, ông Thầy Huế dùng để ở và cũng dùng để dạy học ở xóm Rạch Rít. Dù vậy, nơi đây tôi cảm thấy ấm lòng và an tâm hơn với thầy tôi, thương yêu tôi như con cháu trong nhà, với ba bốn thằng bạn chung xóm, quây quần đùm bọc. Chúng tôi chưa bao giờ nặng lời nhau, đừng nói chi đến những tiếng chưởi thề mỗi khi mở miệng, trái tai khó nghe nơi chốn chợ búa thị thành xô bồ phức tạp.


Trong lớp, tôi được thầy giáo mới xếp ngồi hàng thứ tư. Những bạn trai áo quần bảnh bao, mặt mày sáng sủa, lanh lẹ bặt thiệp, những trò gái xinh đẹp lòa xòa trước trán mớ tóc mai mịn màng đều được sắp ngồi những hàng phía trước. Thầy dụng ý để những dịp đón rước chánh thanh tra Tây hay thanh tra ta đến viếng trường ốc hoặc xét lớp thẩm định thang bậc lương bổng của thầy cô, cho có vẻ trang trọng, lịch sự hơn. Tôi vào học ngay ngang xương nơi lớp dự bị. Cũng nhờ những năm học trước ở nhà ông thầy Huế. Bạn bè chúng nó quen biết nhau từ năm trước, lúc học lớp đồng ấu ở đây. Chỉ có mình tôi là học trò mới, nhút nhát sợ sệt, cù lần lữa, ngồi rũ một chỗ. Tôi tủi thân, tủi phận mình, ao ước phải chi may mắn có được thêm thằng Đực Nhỏ, thằng Bảy Rái hay thằng Hai Đớt cạnh bên, hoặc cùng lắm nếu chỉ có một thằng thôi trong số ba đứa chúng nó cũng đủ làm cho tôi an tâm, bớt lạc lõng bơ vơ. Thằng bạn ngồi cùng bàn với tôi, nhà ở dãy phố trệt, dãy phố buôn bán sầm uất ngay trước chợ Phước Lợi, đối diện nhà lồng, lợp tôn với nền xi măng cao ráo. Nơi này, lâu lâu mới thấy có một gánh hát bội hay hát cải lương đến trình diễn năm bảy đêm liền, tạo bầu không khí lễ hội rình rang, tưng bừng náo nhiệt. Những bậc trưởng thượng cho biết thường thì cứ hai năm cùng lắm là ba năm mới có một lần để bà con được dịp hợp mặt vui chơi, giải trí lành mạnh. Thằng này lém lỉnh, tinh nghịch hết thuốc chạy chữa. Thầy giáo ngày nào hầu như cũng đều có rầy la quở phạt nó. Nhưng nó vẫn trơ trơ phớt tỉnh. Rồi tật nào vẫn hoàn tật nấy. Thỉnh thoảng, nó khơi chuyện này chuyện nọ với tôi, có khi chọc lét phá phách tôi nữa. Tôi càng hoảng sợ. Trong lòng tôi nơm nớp lo thầy giáo tình cờ bắt gặp sẽ giành cho tôi những hình phạt mà mấy hôm nay, từ ngày tựu trường, có đứa đã mô tả tỉ mỉ từng chi tiết khiến tôi muốn run lên phát rét. Sự lo sợ càng làm cho tôi thêm nhớ nhà, nhớ ông bà và mẹ tôi, giờ phút này chắc đang dõi mắt theo tôi. Tôi nhớ xóm Rạch Rít khổ hạnh, nhứt là nhớ ông Thầy Huế phúc hậu thuần lương. Ông xem chúng tôi như những cụm hoa quí vừa hé nụ, cần được tâng tiu, nâng niu chăm sóc đúng mức. Rồi tôi nhớ ngôi trường vỡ lòng mờ khuất quá xa. Nơi này phảng phất không khí gia đình thân mật, quá ư ấm cúng. Và cũng là nơi chúng tôi chập chững mơ ước, khúm núm nghe theo lời khuyên dạy chỉ bảo của thầy tôi. Chúng tôi đi tìm một loé ánh sáng của văn chương văn hóa, của văn minh thời đại? Có lúc chan nản nên manh nha trong tôi ý nghĩ đen tối bỏ học, trốn quách về quê, tìm lại tình cảm và khung cảnh thân mật ngày xưa. Nhưng khốn thay! Đường về quá ư diệu vợi và nhiêu khê trắc trở, không thể vượt qua một mình với lứa tuổi ăn chưa no lo chưa tới của tôi. Tôi đành thất vọng, nhắm mắt buông xuôi theo phần số. Hằng ngày, tôi vẫn tiếp tục cắp sách đến trường lớp với tâm trạng chán chường buồn hiu.


Cái cực hình đối với tôi là giờ tập đọc buổi chiều, lúc mới nhập học trở lại. Tôi ngán ơi là ngán. Những bài tập đọc lớp dự bị tôi đã lão thông từ khi còn học với ông Thầy Huế nơi quê nhà. Thầy tôi có thừa mứa thì giờ vì không bị gò bó ràng buộc bởi chương trình giáo huấn bắt buộc của ty giáo dục. Thầy dạy trước cho chúng tôi để dư sức ganh đua sau này với đám học trò trường nhà nước. Tôi lại có trí nhớ thiên phú hiếm hoi, thường được ông tôi hãnh diện khen ngợi không hết lời. Cả thầy tôi nữa. Có lúc, ông nhìn tôi rồi hóm hỉnh nói với bà và mẹ tôi, sau này chém chết thế nào tôi cũng sẽ trở thành một nghệ sĩ cho mà coi. Tôi có thể theo đi hát cải lương hay diễn kịch Tây ở Nhà Hát Lớn nữa kìa. Vì theo ông nhận xét, tôi có khả năng nhớ tuồng tích, bài bản và lời lẽ đối đáp. Vì vậy, khi thầy giáo mới của tôi giở ra bài nào, tôi đều biết cả. Tôi đọc trôi chảy rạch ròi một mạch ngọt xớt. Tôi không hề vấp váp nức cục, không hề ợ lên ợ xuống hoặc cà kê lẩm nhẩm, lặp cặp đánh vần trong miệng trước khi phát âm như đôi ba thằng bạn kém cỏi cùng lớp. Mỗi lần tập đọc, thầy bảo một đứa đứng lên đọc trước rồi cả lớp cùng đọc một lượt tiếp sau mỗi đoạn hoặc mỗi câu, giống hệch như mấy bà cấy lúa hò hơ hổ trợ tinh thần cặp trai gái đang đối đáp nơi xóm Rạch Rít của tôi. Tôi cũng có cảm tưởng đang lạc vào nơi tĩnh mịch, huyền bí của một ngôi chùa cổ xưa, xa xôi nào đó, vào giờ công phu nghiêm túc, lúc hoàng hôn hấp hối, với giọng tụng niệm trầm đều u buồn, ngân nga bất tận bên tai tôi. Tôi thiêm thiếp lúc nào không hay... Học trò trong lớp quá đông. Ba bốn chục đứa chen chúc ngồi sát bên nhau trên mấy dãy bàn dài. Tiếng đọc bài tập thể cứ lập đi lập lại một âm thanh ru ngủ quyến rủ không cách nào cưỡng chống lại được. Dù nhiều lúc, tôi cố lấy hết sức binh sanh nhướng đôi mi quá nặng nề như để chống chọi lại. Nhưng ác thay, đôi mi nặng nề ấy chỉ chờ giờ phút phụp hẳn xuống. Tôi gục đầu xuống bàn viết, ngáy khò khò, kéo đàn cò đàn gáo bổng trầm bất tận. Thằng bạn lém lỉnh của tôi ngồi cạnh bên thỉnh thoảng cười thin thít làm cho thầy tôi lưu ý cái tư thế bất bình thường của tôi. Thầy điềm nhiên không nói chi cả. Thầy chậm rãi đến bảng đen, nơi thành cây bọc dài theo phía dưới bảng, lấy ngón tay trỏ chấm bụi phấn. Rồi thầy từ từ đi một mạch thẳng đến chỗ tôi ngồi nghiêng đầu một bên, nhẹ nhàng vẽ hai vệt râu trắng bạch lên môi trên của tôi. Tôi vẫn ngáy ngon lành, không hay biết gì cả. Xong, thầy quày quả trở lên bụt, gõ thước mạnh xuống bàn để chấm dứt bài tập đọc. Tôi giựt mình tỉnh giấc, dụi mắt lia lịa tỉnh bơ. Tôi cố che giấu sự ngại ngùng bẻn lẻn của mình, hy vọng thầy tôi và bạn bè không ai để ý đến. Nhưng thầy tôi lại cắc cớ. Thầy cố tình gọi ngay tên tôi lên trả bài học thuộc lòng ngay lúc ấy. Thầy nghiêm nghị như thói quen, mặt lạnh như tiền. Theo thông lệ, tôi phải đứng cạnh bàn thầy, quay mặt về hướng bạn bè tôi, hai tay khoanh trước ngực, tập trung, nuốt nước miếng chuẩn bị. Cả lớp bỗng trở nên im phăng phắt. Mọi con mắt hôm nay lại hướng nhìn tròng trọc về phía tôi một cách bất bình thường. Tôi vô cùng bối rối. Rồi tiếp theo sau đó một trận cười vang dội cả lớp. Tôi ái nái quá, mặt đỏ rần, hai tai nghe nóng bỏng. Tôi không hiểu đầu đuôi cớ sự ra sao. Cả thầy tôi cũng phát lên cười khanh khách, khác hẳn thói quen của thầy. Dù vậy, thầy vẫn bắt tôi tiếp tục trả bài cho đến dứt. Đó là lần đầu tiên tôi đóng vai hề diễn câm trong đời mình. Nhưng tiếc thay, đời tôi sau này không phải là một hài kịch với những chuỗi cười bất tận mà chính là những bi kịch, những thảm kịch tiếp diễn không thôi.


Thuở ấy, không có trường nam và trường nữ riêng biệt như ở giai đoạn về sau nầy. Học trò trai và gái ngồi lẫn lộn trong cùng chung một lớp. Hai dãy bàn đầu bên trái thầy giành đặc biệt cho đám phái yếu, hằng ngày quần áo đều sặc sỡ hoa hoè, tóc thề luôn óng ánh đen huyền phủ kín bờ vai. Trai gái đều bự xộn, lớn đại cả, vóc dáng không thua gì người lớn thuộc vào hàng nhỏ thó bao nhiêu. Tôi đi học khá trễ do điều kiện gia đình có những ẩn tình riêng. Nơi xứ khỉ ho cò gáy cách trở, mọi người đều là những nông dân rặc nòi, suốt đời cậm cụi lam lũ như con tằm nhả tơ. Họ chỉ biết rút ruột mình tạo ra thóc lúa hoa màu để nuôi sống gia đình và xã hội nhân quần. Xuyên suốt như vậy cho đến ngày hóa kiếp, họ mãn nguyện yên giấc trong chiếc kén thơm ngát mùi đất đai, giồng liếp, kinh mương do chính họ tạo ra. Công việc trần thân khoai củ, lúi húi đầu tắt mặt tối hằng ngày làm cho họ quên lửng năm sanh tháng đẻ của con cái và ngày giờ để đưa chúng đi học vỡ lòng. Bảy tám tuổi tôi còn ngồi lớp dự bị, nhưng nhìn kỹ chung quanh mình, vẫn còn nhiều đứa lớn tuổi hơn tôi nhiều. Do vậy, có đứa học đến lớp nhứt, vừa đậu xong bằng Sơ đẳng Tiểu học, được nhà nước "Đại Pháp" thâu nhận ngay vào Ty Giáo dục tỉnh Chợ Lớn. Chúng được bổ nhiệm đi dạy học các trường làng ở những nơi hẻo lánh đèo heo. Có đứa nghỉ học ngay sau năm cuối cùng đó do thừa sức lập thân, lấy vợ ra riêng hoặc về làm dâu nhà người.


Thường cứ giờ ám tả vào sáng thứ hai là lũ chúng tôi ngán thầy như cơm nếp. Thầy tôi khắc khe lắm, đích thân chấm bài ngay tại chỗ, nguyên một dãy bàn, cứ mỗi kỳ ám tả một dãy, tuần tự luân chuyển, dãy này hết đến dãy khác. Dứt dãy bàn chót thầy trở lại dãy đầu, không hề sót một dãy từ đầu năm đến cuối năm. Ngoài dãy bàn được thầy tôi trực tiếp chấm bài, những dãy còn lại trao đổi nhau sửa lỗi theo đúng bài mẫu được viết trên bảng đen. Khi chấm bài, thầy tôi vốn thuộc hàng tân học mới ra trường Sư Phạm, chữ Tây chữ u rơm rớp luôn miệng, nhưng lớn hơn học trò chắc vừa một kỷ hoặc non non một kỷ rưỡi là cùng. Thầy gọi tên từng đứa lên bụt cây, đứng im phăng phắt sát cạnh thầy. Tùy lỗi nặng nhẹ, thầy giải thích dong dài, phân tách có ngần có lớp, khi thì dí dỏm chế diễu, lúc lại nghiêm khắc, chê bai thậm tệ nặng nề. Tôi không sợ phạm lỗi, vì thực tế lỗi nào mà không sửa chữa được, nếu thâm tâm mình cố gắng và quyết tâm phục thiện. Nhưng tôi lại sợ những lời phẩm bình đùa cợt, thêm muối dậm mắm, làm cho tự ái của tôi bị tổn thương đến mức đau đớn. Mãi đến giờ nghỉ xả hơi tuy ngắn ngủi còn bị mấy thằng bạn ác ý bám riết theo chọc quê dằn dai. Học trò nào chẳng may bị lỗi nặng hay tái phạm lỗi cũ bị thầy trừng phạt đích đáng. Có đứa chỉ nhìn vết mực đỏ thầy vừa gạch đậm nét, một gạch hoặc hai ba gạch là đã run cằm cặp như lúc lên cơn sốt rét cách nhựt, trùm mấy lớp mền vẫn lạnh run. Nó đã đoán trước phong phóc hình phạt nào thầy sẽ dành cho nó. Thầy không có thói quen đánh đít hoặc tát tai hay véo mũi... như bao nhiêu thầy cô khác thời buổi đó. Thầy có một cách trừng phạt riêng, lối trừng phạt độc đáo để đời của thầy. Mỗi lần phạm lỗi, thầy nhẹ nhàng thò tay vào háng véo bắp vế non. Vừa chịu cực hình, đứa phạm lỗi còn phải lắng tai nghe những lời giải thích của thầy. Vì thầy có thể bắt lập lại xem đã tâm đắc thấu hiểu tường tận chưa. Với trò gái, không biết thầy véo mạnh véo nhẹ ra sao, không bao giờ nghe các cô chu choa hít hà hoặc rên la chói lói như đám trai, mà chỉ thấy mặt mày đỏ rần bẻn lẻn, thoáng hiện một nét đẹp bình dị, ngây thơ tuyệt vời. Cô nào cắc cớ tránh né, thầy nhéo bồi một cái nữa. Luật lệ thầy đã qui định hẳn hoi từ ngày tựu trường. Đứa nào cũng biết nên con đường cùn là đành phải trân mình chịu trận. Còn đối với lũ trai vạm vỡ chắt nịch chúng tôi, ngoài vế non, thầy thường véo nách để lại vết mấy ngón tay bầm tím rịm, vài ngày sau trở từ màu xanh sậm chuyển ra màu vàng khè như nghệ. Có đứa liếng thoáng, hé mở áo cho nhau xem rồi nhe răng cười bảo là dấu ma cắn. Thầy tôi nhéo có bài bản. Chúng tôi đau chảy nước mắt, lại không có quyền rên la, dù là một tiếng tắt lưỡi hít hà nhè nhẹ. Thầy không muốn lớp khác hoặc người ngoài bất chợt đi ngang qua nghe được. Nếu đứa nào bất hạnh kêu la phá luật lệ, thầy hủy bỏ, véo lại. Chúng tôi đành nhón gót chịu đựng hoặc sụng xuống hy vọng được đỡ đau. Cái hình phạt ngộ nghĩnh đau thấu xương tủy, đau tận mây xanh do thầy tôi sáng tạo ra đã gây cho tôi một ấn tượng phẫn uất, oán hờn bâng quơ. Nhưng cũng may, sự oán hờn phẫn uất đó thoáng qua rất mau trong cảm nghĩ và tâm hồn trong trắng của tôi.


Rồi những ngày buồn, những giờ phút nổi dậy không cố tâm và định hướng đó âm thầm lướt qua nhanh như mây bay đầu ngõ những ngày nắng đẹp lộng gió. Theo ngày tháng tuần tự nối tiếp với những sinh hoạt nhàm chán của kiếp sống gởi ăn nhờ nơi quán trọ bà Cả, tôi bắt đầu quen dần, hòa mình không mấy chốc với lớp trẻ chợ chiền thị tứ Gò Đen. Với tuổi tôi, tôi nhìn tương lai nông cạn không quá mũi, thêm không người ruột thịt thương yêu kềm cương bẻ lái. Bà Cả già yếu quá rồi, nhắc nhở tôi thì quả tình có thật, nhưng chỉ là một hình thức chiếu lệ. Bà còn đăng đăng đê đê trăm ngàn việc lỉnh kỉnh khác nữa. Vì bà phải lo nuôi cơm tháng cả chục đủ đầu học sinh, luôn luôn rần rật trong nhà. Những buổi chiều, sau khi đi học về, cùng thứ bảy, chúa nhật, không bao giờ thấy bóng dáng tôi ở "ký túc xá" tư nhơn ấy. Dĩ nhiên ngoại trừ mấy bữa ăn chánh, phải hiện diện đúng giờ kẻo đói meo. Đôi khi mải mê đánh đôi đánh đọ, tập bè tập lũ, tôi vắng mặt luôn. Về sau, nhớ lại chuỗi ngày dài mất định hướng đó, tôi càng thấm thía lời khuyên dạy của người xưa: "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng".

Các ông Mười Đồ, Tám Dư và Bảy Hoa ở ấp Long Bình giáp ranh làng Phước Lợi ăn nhậu say sưa quất cần câu rồi cao hứng rủ rê kéo níu nhau thả hồn theo mây gió. Các ông nằm vắt ngang, gối đầu trên đường rầy xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho. Gió đêm mát lạnh giúp họ ngủ say bất biết. Chuyến xe khuya ngừng khẩn cấp ở ga Gò Đen, báo động đã cán người, thịt xương, máu me vun vẩy một đoạn đường dài nơi sân ga. Cảnh tượng khủng khiếp hãi hùng. Cả chợ Phước Lợi bị đánh thức sớm hơn ngày thường như ong vỡ tổ chưa từng thấy. Khắp nơi có tiếng người lao xao, ới gọi hấp tấp khẩn cấp. Có tôi ngay, chen lấn trong số người nhăn nhó, thở than quanh các toa xe định mệnh. Một tai nạn duy nhứt từ ngày khánh thành tuyến đường sắt này ở thế kỷ trước. Bà Năm Tơ, nhà nghèo chuyên nấu chuối sứ bán dạo quanh chợ. Bà bưng chảo chuối đang sôi sùn sụt, xề qua để trên ván ngựa chuẩn bị vớt chuối. Bà bất ý, rủi ro đụng nhằm thằng con lửng thửng bò dưới chân. Chảo nước sôi tưới trọn trên thân mình thằng nhỏ vô tội. Có tiếng la thất thanh rùng rợn.






Những người cấp cứu láng giềng chưa kịp chạy tới. Đã có mặt tôi chứng kiến cảnh thằng nhỏ co quắp, khóc la thất thanh đang quằn quại yếu ớt giữa những màn hơi nước bốc lên ngùn ngụt tứ phía. Gánh hát cải lương thuộc hàng ‘bầu tèo’ thường đi hát đình hát miễu vừa chĩa mũi ghe neo ở đầu Cầu Kinh trên con lộ đá xanh Phước Lợi - Long Khê lúc xế chiều. Đã có tôi chàng ràng sớm nhứt ở dốc cầu, đứng xớ rớ ngóng xem đào kép, những ông vua, hoàng tử, quân hầu... và những tiểu thơ, công chúa, cung phi mỹ nữ... đang xúm xích nấu cơm ở mũi ghe chài, hay sắp xếp tranh cảnh. Xế trưa hôm sau, chiếc xe ngựa, với trống giục, chập chõa chập choeng, phèn la inh ỏi, chạy khắp đường phố quanh chợ rải giấy hát. Có tôi trên xe, liếng thoáng, nói cười không ngớt, bỏ học, bỏ cả cơm nước. Chiều chiều, bầu gánh hát đem cái trống chầu cao khỏi ngực đặt nơi phía trước nhà lồng chợ rồi thải cặp dùi láng cón ra. Cũng có tôi trong


đám trẻ loi choi tranh nhau đánh trống, thúc giục làm nôn ruột khán giả ở tận thôn ấp xa xôi: gánh hát sắp kéo màn. Về khuya, đêm nào như đêm nấy, không sót một đêm, tôi thức canh đúng lúc gánh hát vừa xả giàn để chen vào lóng nhóng xem hồi kết cuộc miễn phí. Bà Bảy Quán vừa đặt nãi chuối sứ vàng hườm ở bàn thông thiên, sát hàng rào bông bụp trước nhà. Bà vừa bước tréo vô trong pha trà cúng trời đất cầu mong buôn may bán đắt. Đám lưu linh lãng tử, phá đình phá miễu ẵm gọn biến mất hun hút trong đêm tối. Có tôi trong nhóm thần sầu quỷ khóc đó. Trường cá, trường gà nhưng thực sự là tiệm hớt tóc ông Ba Hỉnh. Những ngày đá cá, xổ gà kẻ ra người vào tấp nập đông người. Văn tục và những tiếng chưởi thề của làng ăn chơi dao búa vang rân do ăn thua nóng mặt. Có mặt tôi. Không thiếu một ngày. Con Sáu "Ma Đờ Long" tuổi lớn hơn chúng tôi không là bao, vú móm vừa mới nhú lum lúp, hông eo đường nét có đẫy đà cân đối gì đâu. Nó còn ngây thơ, nào có biết làm duyên làm dáng, õng à õng ẹo trêu bẹo ai bao giờ. Ấy thế mà lũ trời đánh thánh đâm, tập bè tập bạn, ngày ngày tụ năm tụ bảy, chúng tôi hễ trông thấy nó là ráp nhau bu lại phá phách chọc ghẹo nó. Chúng tôi cặp hết đứa này đến đứa khác làm cho con nhỏ mắc cỡ, sợ lưn tim. Nó cứ đâm đầu chạy hoảng, tìm nơi lẫn tránh. Trông tội nghiệp làm sao! Chú Ba Ngươn sau này rất nổi tiếng với tài tử Thành Công trên làn sóng điện Pháp-Á thường hay ngồi ca dạ cổ hoài lang ở tiệm hớt tóc đầu chợ. Có tôi đứng lặng im dựa chậu bằng thăng phía trước, chăm chú nghe giọng ngân nga mùi mẫn của chú, hòa với tiếng đàn kìm não nùng, ai oán réo rắc. Những lời ca trong bài "Dừng Gót Phong Trần" để "lâm le trở về nơi cắt rún chôn nhao..." làm cho tôi nhớ nhà, nhớ xóm Rạch Rít của tôi không nguôi...


Ngày đó, tôi như chiếc ghe không lái, buồm thì căng, nhưng lang bạt theo gió cuốn. Đời tôi chưa biết rồi đây sẽ tạt vào bờ bến đục, trong nào?! Cũng may, thằng bạn lém lỉnh cùng bàn, hằng ngày hay chọc phá tôi trong giờ học, nay theo gia đình đi làm ăn lập nghiệp ở Xóm Củi, Chợ Lớn. Thầy tôi thế vào một thằng bạn mới. Nó có tên là Bảy Tàn, âm hưởng không sáng sủa gì. Dáng dấp già dặn trước tuổi, nó nói năng chơn chất xẳng lè, nhưng thoang thoáng cái quyến rủ chân thành, mộc mạc của người dân xóm Rạch Rít của tôi. Trong phút chốc, nó chiếm ngay cảm tình tôi. Và nhờ nó mà tuổi trẻ buông tha, không người kềm cương nẩy mực, suýt đưa tôi lún sâu vào ngõ cụt đen tối của hư hỏng xấu xa, đã rẽ sang một hướng đi cứu rổi đời tôi. Những ngày nghỉ học, mỗi cuối tuần hoặc lễ lạc, Bảy Tàn lôi tôi về nhà nó ở xóm Cầu Sắt Long Hưng Trung, xa trường độ năm bảy cây số là cùng. Dần dà, cái nhà lá hai gian ba chái kinh dinh bề thế của nó với dãy lẫm lúa và chòi trâu thênh thang rộng lớn cất sát vách nhà sau, không còn xa lạ đối với tôi. Tôi đã quen với nó vì thường xuyên đi, về. Hai đứa chúng tôi trở nên đôi bạn đồng song rất thân nhau từ dạo đó. Nó đối với tôi là thằng bạn tốt, hiếm hoi khó tìm. Và có những thời gian như vào dịp nghỉ hè lớn hằng năm chẳng hạn, quả thực tôi ở nơi nhà nó còn nhiều hơn ở nhà ông bà và mẹ tôi. Vả lại, hai bác, ba má của Bảy Tàn cũng tỏ ra quyến luyến, thương yêu và quý mến tôi. Trái lại, tôi cũng khá xốc vác, không nề hà kham khổ cực nhọc. Tôi luôn xăn tay áo, xông xáo tham gia mọi sinh hoạt của Bảy Tàn phụ giúp gia đình. Những sinh hoạt đó, tôi quá quen thuộc từ khi còn đi học ở quê nhà. Và qua đó, tôi cũng thấy ấm lòng với lối cư xử đùm bọc, rộng lượng yêu người quý khách vô bờ bến của gia đình nó, không thể chê trách chỗ nào được. Những đức tính tốt đẹp ấy chỉ thấy có nơi thôn dã quê mùa mà thôi. Sau này, cứ mỗi chiều thứ sáu, bà Cả thường hay hỏi tôi, ngày mai tôi có đi Cầu Sắt không? Tôi hiểu ý bà. Dầu sao, bà cũng đỡ đôi ba bữa cơm cuối tuần. Nhưng thật ra, tuần nào tôi bận việc không đi Cầu Sắt được, không gặp mặt để chơi giỡn đùa vui với Bảy Tàn và lũ chăn trâu khét nắng hôi bùn trong xóm, tôi thấy lòng mình rạo rực, ngồi đứng không yên. Quả tình tôi nhớ nó. Quả tình vắng nó, tôi thấy thiếu một cái gì khó tả trong tôi. Thì ra xóm Cầu Sắt đã gợi lại trong tôi cái xóm nhỏ thân thương Rạch Rít của tôi. Xa nó, tôi đau khổ vô ngần.





**


Bảy Tàn là một trong những đứa trẻ lục lăn lục lữa có tiếng ở xóm Cầu Sắt làng Long Hưng Trung. Ngày thường, nó đi học hai buổi, sáng chiều. Những ngày lễ, thứ bảy, chúa nhật, cùng suốt tháng hè, nó gát sách vỡ một bên. Nó lao đi chăn trâu hoặc giúp cha mẹ trong những công việc nhẹ nhàng ngoài đồng áng, từ sáng sớm tinh mơ lúc vừa có tiếng người đi chợ chuyện trò lao xao ngoài bờ tre khóm trúc cho đến lúc chạng vạng tối đỏ đèn mới về. Vạm vỡ, điềm đạm, nói năng có ngần có lớp, nó có đôi chân mày rô, mắt lộ ốc bưu. Tai tượng, rộng và dài như tai bồ tát. Nước da nó đen mun, giống hệt như cột nhà cháy. Con người chơn chất tốt bụng lại nhạy cảm nữa. Bà con chòm xóm vui tánh trêu ghẹo chọc phá, thường nói đùa. Nếu đen hơn chút nữa, Bảy Tàn không khác chi mấy tên lính đánh thuê đánh mướn Phi Châu mặt gạch. Đám này một thời đứng gác nơi đầu cầu Bến Lức, lúc đoàn quân viễn chinh Pháp theo chân lính Anh Ấn đến giải giới Nhựt mới đổ bộ tái chiếm Việt Nam sau khi thế chiến thứ hai vừa chấm dứt. Có người còn dí dỏm, cam đoan chắc chắn như đinh đóng cột. Thế nào bà Sáu Muối, tục danh của má Bảy Tàn, khi bụng chửa dạ mang, nhứt định đã uống quá nhiều nước cơm cháy khét hay cà phê dão quán chú Xồi, cheo chéo dốc cầu. Do đó nên nó mới có nước da ngâm ngâm như chà chóp.


Bảy Tàn có sức mạnh như trâu cui, trâu cổ. Trái hẳn đám mục đồng hoặc trẻ con nhà lành ranh rát khác trong xóm. Bọn này thường hớt tóc ngắn kiểu bàn chải, vừa sạch sẽ, vừa dễ tắm gội. Dù vậy, nhiều lúc đầu chúng nó còn đóng cứt trâu thành dề, khắn vào da nên phải cạo trọc trơn lu bóng láng, óng ánh theo mặt trời trưa. Bảy Tàn để "ma ninh" dài, đen tuyền mướt mượt. Tóc sau ót nó trông dễ thương làm sao, nhờ hơi quăn quăn óp sát vào da đầu, xoáy quyện cổ nó. Những trận gió đồng vun vút thường hất văng những chiếc nón lá bọc gió, tha hồ bay từ thửa ruộng này sang thửa ruộng khác thơm phưng phức mùi rạ mới gặt. Nhưng nhìn kỹ lại, những lúc ấy mái tóc của Bảy Tàn vẫn còn đẹp đẽ quyến rủ, vẫn mượt mà thẳng thếp như mái tóc của những anh chàng làng quê mới nhổ giò tấn lên, đua đòi o bế nhân dạng vào ngày lễ cúng Kỳ Yên nơi đình làng. Loại tóc quăn quăn tự nhiên đó hiếm lắm. Ít người có nên nó mới được để ý. Và nó được liệt vào hạng sáng sủa, thông minh, khôn ngoan trật đời theo như câu ca dao được lưu truyền trong xóm tôi:


Khao khao giọng thổ tiếng đồng


Quăn quăn tóc trán là dòng khôn ngoan.


Cái tên Tàn nó mang canh cánh bấy lâu nay, từ thuở mới nằm trong mo cau nơi chòi bếp, phát xuất từ câu chuyện thù tạc qua lại ở một tiệc vui. Một tiệc vui tai hại để đời đối với nó. Có nhiều lúc nó đâm ra ngượng ngùng khó chịu với bạn bè về cái tên không ưng ý đó, cái tên mà nó buồn hiu bảo là tên tàn tên mạt, tương lai ngốc đầu không lên. Số là như vầy. Ông Ba Thắng là một nông dân hiền lành, giản dị và khiêm tốn trong cuộc sống. Như hằng ngày, cứ đứng bóng đúng ngọ, ông buông tay bỏ hết mọi việc. Ông ngồi bệt ngay trên bờ mẫu cùng với bạn bè, ăn uống hòa đồng vui vẻ. Ông chẳng đòi hỏi gì nhiều. Mỗi bữa ăn, ông chỉ cần có vài con mắm sặc, mắm cá linh, cá trèn hay đôi ba con cá lù đù, cá lốp bốp rim khô hoặc một trách nhỏ cá mồng gà biển kho với tương hột mặn mòi, kèm ít trái dưa leo đèo vườn nhà hái vội vàng lúc hừng sáng. Bấy nhiêu đủ cho ông no bụng. Những lúc đó ông cắn rơm rớp ngon lành ớt hiểm nhỏ hếu đỏ au, cay thấu mây xanh, cay động thiên đình... Như vậy quá đủ đối với ông trong một ngày làm việc cật lực. Còn giải khát, ông chẳng cần trà Tàu trà Huế chi cho bận tâm nấu nước phiền hà con cháu. Ông cũng chẳng cần tách cần tô mang theo lỉnh kỉnh rườm rà. Mỗi lần khát, ông cứ te te thẳng đến bờ ao, nước trong vắt tinh khiết, hai tay bụm nước tha hồ uống đã khát. Luôn tiện, ông phác nước rửa mặt, khoan khoái làm sao. Rồi ông ngã lưng dựa gốc cây trâm, nghe chim chóc líu lo trửng giỡn rầm rập không thôi để thiu thiu ít phút chờ đúng giờ bắt tay làm việc trở lại. Cuộc đời thật giản dị vì tánh ông không thích chen đua, nhìn lên cực thân nhọc xác. Suốt đời, ông không hề mang tai mang tiếng. Quanh năm rị mọ, chí thú làm ăn. Cộng thêm vào đó những đức tính khác của con người có cái tâm quí hiếm, bám đất thương làng luôn luôn tỏa sáng và hy sinh thầm lặng. Không bao giờ bà con xóm tôi nghe ông đặt nặng phần đời cơm áo, se sua tranh giành, vốn níu kéo con người có cơ trở thành hư thân mất nết. Dưới mắt tôi, ông quả là một nông dân đặc sệt, mẫu người gương mẫu, nhưng lầm lầm lì lì ít nói. Dường như có những u ẩn ông cố đè nén trong nội tâm? Ông vừa sinh được Bảy Tàn. Đây là đứa con trai duy nhứt của ông, loại con sanh sau đẻ muộn, con cầu con khẩn, rất mực được ông cưng yêu. Đứa con ông thầm mơ ước từ ngày thành lập gia đình đến nay. Không phải vì ông muốn "đặng hào con đặng hào của" thường tình để hy vọng lúc về già ướm rụng, phây phây nằm phè chờ con cái báo hiếu báo hỉ nuôi ông đâu. Mà chính là tông tộc của ông đã có người nối dõi, chăm lo phần hương lửa. Giờ đây, ông rất đỗi an tâm ở điểm quan trọng hàng đầu này. Sự hiện diện cứu tinh của thằng con đến muộn đã mang cho ông đôi chút thơi thới ngọt ngào trong khoản cách còn lại cuối đời. Ông quá đỗi vui mừng vì ước mơ của ông đã thành tựu. Trước đây, vợ ông, bà Sáu Muối, ăn ở với ông theo đúng nghi lễ cổ truyền của dân tộc, có vấn danh, có coi mắt và cưới hỏi đàng hoàng, rình rang tử tế từ lúc vừa tròn mười lăm mười sáu tuổi. Bà đã lần lượt sanh năm một, chậm lắm là hai năm, cho ra đời một loạt năm cô gái đoan trang thùy mỵ, thật thà nết na. Dù không hoàn toàn toại nguyện nhưng ông bà thường hãnh diện và sung sướng có được "ngũ long công chúa" trong nhà, đố ai bì được.


Ngoài việc làm ruộng rẫy, chăn nuôi chút ít trong gia đình để sanh nhai, ông Ba Thắng còn có biệt tài đến mức tuyệt kỹ, không ai trong xóm trong làng quan tâm bắt chước mà theo kịp. Ở xóm ông, nói tới cái tài tuyệt xảo này của ông, ai ai cũng đều biết cả. Đó là tài thiến dái gia súc. Nó chiếm cũng một phần đời không nhỏ đối với ông. Cũng là một thú vui qua ngày tháng của ông nữa. Và cái tài ấy một thời đã tạo nên bản sắc và diện mạo đặc thù có một không hai trong làng Long Hưng Trung. Mãi lâu lắm về sau, khi ông qua đời, không thấy có ai lên thay thế ông trong lãnh vực đó. Dù có người lặn lội tìm kiếm đỏ con mắt đi nữa. Đây là cái nghề tài tử, làm chơi ăn thiệt, cái nghề tay trái bất đắc dĩ ở thôn làng hẻo lánh, đồng không mông quạnh vắng vẻ buồn tênh. Một cái nghề làm thí công nhằm giúp đỡ bà con, chớ nào có làm giàu làm có gì. Và ông thường nói, nếu ông có cố tâm bám víu sống với nó đi nữa, chắc chắn làm gì có được cái ngày huy hoàng được mọi người trọng vọng, cái ngày mà dân gian lớn nhỏ ai lại không thầm mơ ao ước. Nơi xóm ông, những năm về trước có chú chệt già khắc khổ, biết nói chút ít tiếng Việt, loại tiếng Việt lơ lớ vừa đủ hiểu trong khó khăn. Chú ốm tong ốm teo như con cá lẹp phơi khô trúng nắng. Thỉnh thoảng chú tạt ngang qua làng. Cứ đôi ba tháng một lần. Những lần đó, chú cởi chiếc xe đạp lặc lìa lặc lọi trên đường đê nhỏ hẹp ngoằn ngoèo. Loại xe cũ kỹ ọp ẹp. Mỗi khi chú nhấn bàn đạp, "giây sên" nghe răn rắc... răn rắc... như muốn giản ra hoặc đứt mắc. Quả chiếc xe đạp làm chưn làm cẳng đi đó đi đây mưu sinh này còn già hơn cả chú nữa thì phải. Trông tình trạng của nó, chúng tôi nhẩm tính như vậy. Mà chắc chúng tôi cũng không sai mấy trong nhận xét của mình. Từng chập, những khi sắp đến mấy cụm nhà lá nhà tranh thấp lè tè sau lũy tre xanh hay hàng bông bụp bông giấy, chú thổi sáo tò le tí le... tí le tò le... xa xa nghe nặng nề ngắt khoảng. Sự ngắt khoảng nặng nề đó do hậu quả tuổi đời của chú mà có. Qua bao nhiêu thập niên ly hương chồng chất gió sương bão táp, hơi hướm chú bây giớ không còn như thuở thanh xuân dồi dào sinh lực. Tiếng sáo quen tai này của chú nhằm để mời mọc bà con thiến heo, thiến gà. Nơi đây, chú chệt ‘trôi sông lạc chợ’, gần đất xa trời này bây giờ không còn bén mãn đến nữa. Chú chê đường sá xa xôi. Ít thân chủ. Không đủ sở hụi. Đã phí sức già mà chẳng có tiền thù lao tương xứng. Mà biết chừng đâu chú cũng chẳng đã theo ông theo bà?! Hồi trước, việc bà con tôi hiếu khách từ phương xa đến, quý mến những người trọng tuổi, thỉnh thoảng có ân cần mời mọc chú một tô trà giải lao, đôi ba cái bánh gia đình làm lấy hay gặp dịp nhâm nhi một hai ly đế nếp để trông trời, ngó mưa ngó nắng nghỉ chân... Những cái thứ tình nghĩa thâm trầm ấy cũng không giải quyết được gì trong cuộc sống hằng ngày của chú. Và nghĩa cử đó cũng không cầm chưn cầm cẳng níu kéo chú lâu được.


Ban đầu, ông Ba Thắng thiến gà, thiến heo trong nhà do nhu cầu đòi hỏi từ khi vắng bóng chú chệt già. Dần dà, tiếng tăm đồn đãi, xóm làng, từ hang cùng ngõ hẹp, đâu đâu không ai không biết. Thậm chí các làng chung quanh, bạn bè thân thuộc thường đến ỉ ôi nhờ vã ông mỗi khi cần, nhứt là thiến mấy con chó đực. Chó đực không thiến, bê tha bỏ nhà bỏ cửa không trông giữ, đi lang thang tìm cảnh tìm hứng, rậm rực quến theo chó cái, phá vườn tược hoa màu. Ban đêm, chúng tru tréo đến sáng, không ai tài nào ngủ yên thẳng giấc được. Ban ngày, chúng nó còn trơ trẽn tỉnh queo, mặc nhiên muối mặt trình diễn bao nhiêu trò chướng tai gai mắt. Nhứt là khi trong gia đình có con cháu, trai gái còn nhỏ tuổi. Hoặc có thiếu nữ ở độ cặp kê, vừa mới tập tành biết làm duyên làm dáng, thường lượn qua lượn lại rửng mởn, õng ẹo ở bờ ao, lúc chiều xuống khi cùng nhau đi gánh vài đôi nước ngọt để uống. Tất nhiên mấy cảnh ấy bất tiện vô cùng. Còn thiến gà đối với ông Ba Thắng xem như ăn cơm xường nướng hằng bữa. Không chút khó khăn nào đối với ông cả. Ông lanh tay lão thông bài bản đến mức độ tinh vi tuyệt cú mèo. Chỉ trong phút chốc, chưa tàn điếu thuốc, ông đã thiến xong một con. Trong khi đó, nhiều người không khéo tay, thiếu kinh nghiệm trường nghề, lòng thao lao hồi hộp, tay run bây bẩy. Họ mổ bụng gà, mằn tới mằn lui, mằn xuôi mằn ngược hằng giờ vẫn chưa xong. Đôi khi họ móc ra không phải cặp trứng dái gà mềm nhủn, thon dài trắng ngà mà lại là tim gà nóng hổi, máu me đỏ ối. Ô hô! Con gà giò to lớn, mập mạp xởn xơ, con gà khoẻ mạnh được chọn lựa kỹ càng lúc nảy bỗng nhiên kêu lên cái tót tức tưởi tuyệt vọng, phều phào thễu não đáng thương. Mồng gà đang hồng hào, đỏ au, tràn đầy sức sống, biến sắc, dần dần xanh nhạt rồi tái mét. Nó rùng mình dãi dụa, thân mình run cằm cặp, hai cánh đập đành đạch đành đạch, lông lá tung toé... Nó tiếp tục giựt giựt liên hồi, ban đầu còn mạnh mẽ, về sau yếu dần rồi... tắt thở xui xị. Đối với hạng người vụng về ăn hại này, khi bệ vệ chuẩn bị thiến gà, bà xã nhà biết trước tài nghệ "độc đáo" của ông chồng mình, nên lo xa chuẩn bị nấu sẵn một nồi nước sôi. Bà chực chờ nhổ lông xé phai là vừa. Đó cũng là giải pháp thực tế nhứt vì dù sao gia đình cũng đỡ đi một ngày tiền chợ.


Đàn gà thiến cả chục đủ đầu của ông Ba Thắng khỏi phải sợ ai chê. Chúng nó trổ mã mướt đẹp, đủ màu sắc lộng lẫy, lại to lớn mập lút. Chúng cứ nhởn nhơ oai vệ trong vườn ngoài ngõ. Ai đi ngang qua nhà ông, trông thấy mà chẳng tắt lưỡi hít hà, khen thầm chủ chúng nó quả có lắm công phu. Nhưng cái đặc biệt, sự tìm tòi mới lạ lúc bấy giờ, có một không hai ở đàn gà thiến đó là ông Ba Thắng đã bỏ vào bụng gà trước khi khâu may lại, ở mỗi con một tròng đỏ trứng luộc chín. Đến lúc cắt tiết xẻ thịt, tròng trứng được bao bọc bởi một lớp mỡ vàng lườm hấp dẫn, óng ánh dày cui, đem nấu cà ry nước cốt dừa, điểm thêm chút ít lá nị thơm phưn phức. Khi vào bàn nhậu, ăn kèm với thịt gà ngon tuyệt. Bà con sau một ngày làm việc cật lực và liên tục chỉ nhìn qua cũng đủ bắt cơm rồi. Tuy nhiên, thiến chó mới khó nhứt, đòi hỏi phải có kỷ thuật. Nhưng ông Ba Thắng quá lão luyện từ khuya, nhờ ông thường xuyên có thực tập quen tay. Chó đực từ đầu trên xóm dưới không sót một con đều do ông thiến cả. Nuôi chó thiến là một thói quen của bà con tôi ở thời buổi xa xưa hun hút ấy. Tôi có chứng kiến trong một dịp tình cờ việc ông Ba Thắng ra tay trổ nghề này một lần và cũng là lần duy nhứt trong suốt đời tôi. Từ dạo đó, dù bốn năm mươi năm đằng đẵng trôi qua quá nhanh, nhưng tôi không bao giờ quên được. Tôi vẫn nhớ, nhớ từng chi tiết, nhớ rõ mồn một như ông Ba Thắng vừa kết thúc lần "giải phẩu" ấy mới ngày hôm qua.


Trước khi bắt tay vào việc, ông Ba Thắng chuẩn bị cạo lọ chảo rồi đem pha với chút ít dầu hôi, trộn đều tay nhẹ nhàng, nhịp nhàng. Xong, ông đựng trong cái chén cũ, loại chén mẻ miệng hoặc rạng nứt sắp sửa đem quăng ở góc đa cạnh miễu Bà. Ông thiến rất khoan thai, nhàn nhã. Không bao giờ, dù trong trạng huống tế nhị khó xử, chưa hề thấy ông bối rối, hấp tấp vội vàng. Ông trầm tĩnh đến độ lạnh lùng. Ông chẳng thường hay nói với con cháu trong nhà:


"Đi đâu mà vội mà vàng


"Mà vấp phải đá


mà quàng phải chân".


Cứ thủng thẳng chẫm rãi mà chắc ăn. "Làm lẹ, mẹ rùa" không tốt. Sau khi phì phà mấy hơi thuốc rê Gò Vấp, ông từ từ đem dán điếu thuốc hút dang dở ở gốc cột rồi thẳng đến tách hai tấm ván ngựa ra ở một đầu ván. Ông ngồi chòm hỏm ở chỗ ván ngựa tách đôi, xăn tay áo lên quá cùi chỏ. Xong, ông bảo chủ nhà dụ khị chú chó ngoan ngoản đến quấn quít dưới ván. Chủ nhà mỉm cười bí hiểm, luôn miệng huýt sáo, tróc tróc tay không thôi. Con chó lơn tơn chạy tới vô tư. Ông ta mơn trớn vuốt ve con chó, tỏ vẻ thương yêu trìu mến nó. Ông còn cho nó ăn miếng xương gà để giành sẵn sau bữa cơm chiều tối qua. Quả là một sự chuẩn bị chu đáo, không ai có thể phiền trách gì ông được. Con chó tỏ vẻ biết ơn chủ. Nó lắc lư đầu nó lia lịa. Mũi nó hinh hỉnh xúc động, tươm nước dãi bóng loáng. Chập chập, nó ngước lên, thè lưỡi liếm tay chủ, liếm tới liếm lui mấy lần, đuôi nó quật qua quật lại liên tu bất tận. Nó quá bằng lòng sung sướng. Hôm nay bỗng dưng nó được chủ chiếu cố hậu đãi. Biết đâu trong thâm tâm, nó chẳng nghĩ, nhờ có nó sãy thức, đánh hơi phát giác hữu hiệu lũ trộm vặt đêm qua mà chủ nó không mất toi cả xuồng lúa sớm mới gặt. Chính bây giờ nó đang hưởng phần thưởng xứng đáng của chủ nó chăng? Nó rất tin và không chút nghi ngờ gì về lòng dạ của chủ nó cả. Thình lình, ông Ba Thắng thừa thế thuận lợi, nhanh tay chụp ngay lấy hai chân sau con chó, lôi kéo mạnh hẳn lên trong chớp nhoáng như ánh sét lúc trời mưa giông to gió lớn. Xong, ông lật đật khép vội hai tấm ván khít lại hơn, mặc tình con chó kêu la oang oảng trong tuyệt vọng lần đầu tiên trong đời nó. Đầu nó bị thòng trút xuống ván ngựa. Nó đang ở trong tư thế dị họm bất bình thường chưa bao giờ nó gặp trong đời. Dù vậy, nó vẫn tiếp tục dãi dụa, kêu la không ngớt rùm cả xóm. Hai chân trước của nó chỉ vừa tầm chấm sát mặt đất, mất thế mất thần. Nó đành bất lực, thúc thủ chịu chết. Miếng xương gà năm khi mười họa mới có được, nó nhai ngon lành mấy phút ngắn ngủi trước đó, bỗng văng ra khỏi mõm hồi nào nó không buồn nhìn tới nữa, mặc dầu đang nằm sóng soải ngay trước mặt nó. Nó điến hồn, không còn ham muốn, tha thiết chi cả. Con chó trong thế tuyệt vọng ấy, vô phương chống đỡ cựa quậy, dù đã cựa quậy chống đỡ té đái té cứt đến đuối sức. Giờ phút này, nó đành buông xuôi chịu trận, nhưng thỉnh thoảng cũng ráng kêu la lên đôi ba tiếng mệt mỏi chiếu lệ. Đến lúc đó, nó để mặc tình ông Ba Thắng tha hồ làm gì thì làm.


Ông nắm lấy "hai hột mù u" con chó, kẹp gọn lỏn trong lòng bàn tay ông. "Hai hột mù u" trở nên căn phồng trong bóng, vọt hẳn ra khỏi bên ngoài do sức ép của hai ngón tay cái và tay trỏ của ông. Những làn gân xanh tí teo đan qua đan lại dưới lớp da non nõn nà hồng thắm, hiện lên rõ nét. Xong ông lấy con dao nhỏ rèn bằng lưỡi cưa sắt bén ngót, xẻ cẩn thận hai rạch dài cỡ hai ba phân tây. "Hai hột mù u" con chó bị ông bóp mạnh, đương nhiên vọt phóc ra ngoài, máu me lún phún, lấm chấm trên ván ngựa. Một vài vệt chảy dài theo tay, nhễu từng giọt nho nhỏ nơi đầu cùi chỏ ông. Ông vẫn chăm chú tập trung, đôi mắt giản nở tròn xoe lồ lộ. Cặp kiếng lão dùng lâu ngày, tròng kiếng lóm đóm dấu tay, hai gọng gần như lặc lìa lặc lọi, trệ hẳn xuống bờ mũi ông. Ông cũng chẳng màng để ý tới. Ông cắt gọn hơ, đứt tiện "hai hột mù u" rồi vứt nó xuống ván ngựa ngọt xớt, mặc tình cho con chó vùng vẫy, kêu la thất thanh. Từ từ, ông khẽ bảo thằng Bảy Tàn tỏ con mắt, đến xỏ chỉ để ông khâu may chỗ rạch chu đáo. Đau quá, con chó tiếp tục té đái té cứt tùm lum tà la ở sàn đất lúc nào không ai hay. Càng cố sức xoay trở vùng vẫy để chống đỡ bán sống bán chết, nó càng bị ông Ba Thắng kẹp cứng hơn nữa. Nó bất lực bắt đầu rên hù hụ. Khâu vá xong xuôi đâu vào đó, ông nâng nhẹ chén dầu hôi pha lọ chảo đã chuẩn bị sẵn lúc nảy, tưới đều lên vết thiến. Sau đó, ông kiểm soát tỉ mỉ lần cuối cùng mới chịu buông tha con chó ra. Nó đâm đầu chạy bất biết, chạy như dại như điên, chạy đến hồn phi phách tán. Vừa chạy nó vừa kêu la thảm thiết lắm rồi biến mất dạng ngoài vườn mía rậm rập hay ở chuồng heo, chuồng gà vắng vẻ. Hai ba ngày liền sau đó vẫn chưa thấy mặt mũi nó bén mản vào nhà quanh quẩn dưới bàn ăn. Chắc nó còn oán hận gia chủ hay sao hoặc nó sợ sẽ bị thiến lần nữa chăng?


Do cái nghề tay trái thí công ấy, miệng đời xiêng xỏ xa gần bảo rằng, bấy lâu nay ông Ba Thắng không có mụn con trai cũng phải lắm. Lý do là ngày chí tối ông cứ đi thiến hết gà đến heo, hết heo đến chó, con này vừa dứt lại vựt con khác, làm cho chúng nó tuyệt nòi tuyệt giống thì làm sao có con trai nối dõi tông môn, duy trì dòng họ được? Nay, bỗng dưng bà Sáu Muối hạ sanh Bảy Tàn, dù có muộn màng còn hơn không, lại là mụn trai tròn trĩn kháu khỉnh để chăm lo hương lửa gia tộc. Ông rất hãnh diện, vui mừng tổ chức giết heo giết bò, làm vịt làm gà linh đình, mở tiệc ăn mừng rình rang, mời cả thôn xóm. Nhân tiện, ông cũng có hậu ý gián tiếp nhắn gởi những kẻ miệng mồm ống nhổ đường mương, ngồi lê đấu láo chuyện thiên hạ, còn chuyện nhà mình thì im ỉm kín bưng, từ trước giờ ác ý xỏ xiêng bóng gió vợ chồng ông. Dĩ nhiên, trong bữa tiệc mừng chờ đợi ngoài năm mươi năm nay, ông Ba Thắng quan tâm chiếu cố mời cho bằng được quý vị tăm tiếng, những bậc trưởng thượng trượng triều trượng quốc và đầy đủ hương chức đương nhiệm trong Ban Hội tề làng Long Hưng Trung. Bà con thân quen trong xóm không thiếu một người. Vì lúc nào ông cũng vẫn nhớ phương châm ứng xử trong sáng của người xưa: "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Đây thật là một vinh dự hiếm có cho gia đình ông.


Trong lúc thù tạc chén qua chén lại không lúc nào dứt, ông trịnh trọng ngỏ lời nhờ ông Chánh lục bộ Bảy Kỷ nhờ khai sanh thằng con trai quý yêu sổ sữa của ông tên Nguyễn Phước Thọ. Một cái tên ông chọn lựa kỹ càng nhờ sự hiểu biết qua những năm ông theo học chữ Nho với sư cụ già nơi chùa làng. Ý ông nghĩ, cha là Thắng, con là Thọ, mấy ai theo kịp ông ở xóm Cầu Sắt trên đà phát triển thịnh mậu này. Đã Thắng còn Thọ nữa. Chánh lục bộ Bảy Kỷ đã quá giai đoạn ngà ngà từ khuya, đang gật gà gật gù sắp sửa đến mức đất trời bất biết, do bấy lâu nay ông nhậu như hũ chìm. Rượu đế nếp Gò Đen khét tiếng bọt bèo, trong vắt đúng chữ, châm diêm quẹt đốt cháy phừng phừng, lửa ngọn bốc lên xanh lè, uống cay thấu phổi, bức cả buồng gan. Nhưng với ông chẳng nhầm nhò gì. Ông tu một hơi cả nửa lít mà còn bảo chẳng thấm tháp gì ông. Ông hay nói vui đùa, có uống rượu mới có bạn bè đồng điệu, tri âm tri kỷ. Ông còn khẳng định, người nào không uống rượu không xài được, tánh đàn bà con gái. Nhưng vì tình nghĩa rượu chè quá đáng nên nay ông chỉ nhấp nhấp vài ly nhỏ hếu đã thấy say chếnh choáng. Bà con nói nồng độ rượu trong máu ông quá cao. Ông bảo ông Ba Thắng cứ yên tâm vững bụng để ông lo cho. Đối với ông, có gì đâu ba cái lẻ tẻ đó. Ngày mai họp định kỳ hằng tháng ở Nhà Hội, ông sẽ đích thân vào sổ bộ đời. Ông còn sung sướng bày tỏ sự bằng lòng mãn nguyện của ông, vì làng Long Hưng Trung từ nay sẽ có thêm một nhân mạng mới nữa. Ông hứa chắc không sai, chỗ anh em bạn bè mà. Tình nghĩa là ở chỗ đó. Con người không có tình có nghĩa thì kể như vất đi! Ông Ba Thắng mặt mày cũng đỏ gay như mồng gà cồ sung sức lúc tờ mờ sáng vừa thoát khỏi chuồng trại, oai vệ chờ đón từng con một trong đám gà mái đẻ. Ông nhừa nhựa từng tiếng một, cám ơn Chánh lục bộ Bảy Kỷ không biết bao nhiêu lần.


Sáu bảy năm sau, khi ông Ba Thắng đến Nhà Hội xin giấy trích lục khai sanh, chuẩn bị đưa Bảy Tàn vào lớp đồng ấu trường làng Long Hưng Trung, ông mới tá hỏa tam tinh. Ông bật ngửa như bị trời đánh không bằng. Thằng con trai cưng, con cầu con khẩn của ông mang cái tên quái gở ngoài ý muốn của ông là Nguyễn Văn Tàn. Ông cố mằn mò đọc tới đọc lui thật kỹ tờ giấy khai sanh để rõ hơn. Quả thật là Nguyễn Văn Tàn. Ông thất vọng, kêu trời như bọng. Vì quá buồn nãn do việc đặt tên con không vừa ý mình. Lúc giáp mặt, ông gạn hỏi Chánh lục bộ Bảy Kỷ để biết ngọn ngành cớ sự thì thầy đổ bóng, bóng đổ thầy. Chuyện đã dĩ lỡ. Thật ra, hôm bữa tiệc ăn khao hi hữu ấy, Chánh lục bộ Bảy Kỷ say mèm, chỉ chờ giờ phút gục ngay tại bàn rượu. Ông ta có nhớ Thắng, nhớ Thọ gì đâu. Khi tỉnh rượu, ông ghi vào sổ bộ đời cái tên Tàn ông man mán nhớ đâu đó. Nhưng ông cũng rán gân cổ trả lời ông Ba Thắng:


- Anh đừng buồn tui nhe anh Ba. Anh thương tui một chút đi anh ơi! Tui nhớ rõ lắm mà! Anh đặt tên cho cháu rất có ý nghĩa, có lớp lan. Tàn (Toàn) Thắng mà!


Có tiếng cười khúc khích tiếp ngay theo sau đó. Từ dạo ấy, Bảy Tàn dính liền với cái tên cúng cơm bất đắc dĩ này. Trong đám bạn bè trang lứa chúng tôi, mỗi khi Bảy Tàn đánh trổng hay u mọi, đá cầu hay thải lỗ lạc thua, chúng tôi hay lên giọng mách qué:


- Bảy Tàn ơi, đời mầy tàn rồi! Cho mầy tàn, cho mầy mạt luôn!


Trêu ghẹo cho vui do tuổi trẻ tinh nghịch thích đùa giỡn yêu đời, nhưng anh em chúng tôi lúc bấy giờ cũng như lâu lắm sau này đều nhìn nhận Bảy Tàn rất mực khôn ngoan. Nó rất thông minh đúng như nhận xét của bà con lớn tuổi ở xóm Cầu Sắt nói về nó qua mái tóc quăn quăn tự nhiên sát ót nó.





**


Nord (59), ngày... tháng... năm...


Bảy Tàn thân mến,


Lật bật tao đã rời quê hương, xa mầy hơn mười lăm năm đằng đẵng rồi. Mười lăm năm cay đắng tủi hờn, mà cũng là mười lăm năm canh cánh nhớ thương. Mầy biết không? Thói thường, người ta bảo có thương mới nhớ. Tao thương quê hương mình, thương xóm Rạch Rít của tao, xóm Cầu Sắt của mầy. Tao thương những người thân thuộc cật ruột, thương mầy và lũ bạn bè trang lứa, kẻ mất người còn, đã từng chia xẻ tuổi trẻ bất hạnh của tao nên tao nhớ quá, nhớ tất cả, nhớ triền miên. Nhưng cái khốn nạn và đáng tiếc nhứt của thương nhớ là sự mất mát. Có mất mát mới biết nhớ biết thương. Và chính vì vậy sự thương nhớ mới có ý nghĩa sâu sắc đậm đà. Khi tao thui thủi lầm lũi cúi mặt, âm thầm lặng lẽ bước xuống chiếc ghe định mệnh nhỏ tí teo so với trời biển bao la, thăm thẳm thênh thang để bềnh bồng ra khơi, tao đã bỏ lại sau lưng những gì quý yêu nhứt đời mình... Lúc ấy, tao chưa biết đâu là bờ bến tự do, tương lai hạnh phúc. Nhưng có điều chắc chắn là tao đã mất mát tất cả từ đó, mầy à!


Năm mươi năm trước, khi tao rời xóm Rạch Rít ra học ở trường Gò Đen, mầy đã thật tình an ủi tao trong kiếp sống lạc lõng nơi xa lạ. Và mầy là người duy nhứt lúc ấy tỏ ra rất mực cảm thông nỗi đau đớn chán chường, cả thất vọng làm liều những lúc tao nhớ nhà, nhớ xóm. Tao đi tìm quê hương tao nơi quê hương và xuyên qua quê hương mầy. Quê làng tao nhứt là xóm Rạch Rít chôn nhao cắt rún của tao quả thật buồn tênh hiu hắt, nhiều lúc não nùng thắt ruột thắt gan. Nhưng có một điều đoan chắc là tao không bao giờ tìm có được nó ở một nơi nào khác, dù trên đất nước thân thương Việt Nam mình ngày trước cũng như bên trời Âu lạnh lẽo sương tuyết băng giá này. Mà thật vậy! Dù ở nơi thị tứ phồn hoa đô hội, chợ chiền náo nhiệt, dù sống trong cảnh sung sướng về mặt vật chất tiện nghi nhưng tao vẫn thấy nhớ làng xưa xóm cũ ray rức vô vàn. Nhờ mầy và ở một mức độ nào đó, một dạo tao đã tìm được sự thăng bằng bình ổn và bắt đầu nguôi ngoai trong lòng.


Mầy có nhớ không? Hai cảnh thổ, xóm Rạch Rít mến yêu của tao và xóm Cầu Sắt thân thương của mầy vẫn là quê hương rộng lớn của mình. Do đó, nhiều lúc mầy cự nự hoặc bất bình phản đối tao khi tao buồn bã ủ rũ, khi tao hay nhắc tới mấy chữ lạc loài bơ vơ. Mầy là thằng bạn duy nhứt trong đời tao đã thấu hiểu sự đau đớn tận cùng của tao lúc ấy, hẳn bây giờ, vào giây phút này, nơi quê nhà, dù phải ngậm đắng nuốt cay trong kiếp đời nghiệt ngã, bế tắc không lối thoát trong xứ tù chung thân "xã hội chủ nghĩa", những lúc nhớ đến tao, những khi có dịp nhắc đến tên tao, chắc mầy thương tao vô cùng?! Tao nghĩ như vậy. Và chắc hẳn như thế. Vì tao biết lòng dạ mầy đối với tao. Vì nay tao đã thực sự sống kiếp lưu vong chớ không còn lạc loài bơ vơ như xưa nữa. Mầy đã biết định mệnh nào xô đẩy tao đến đất tạm dung này, để niềm phẫn uất, oán hờn chất ngất cứ dâng trào trong trí não tao, để nỗi thôi thúc kỳ bí, ray rức thương đau luôn hành hạ trái tim héo hắt của tao! Định mệnh ác nghiệt ấy đã tách biệt tao hẳn với quê hương mình, không phải chỉ với xóm Rạch Rít của tao, không phải chỉ với xóm Cầu Sắt của mầy, mà cả cái quê hương rộng lớn thênh thang, ngàn đời diễm tuyệt mà mầy đã hơn một lần nhắc nhở tao. Quê hương Việt Nam muôn thuở của mình. Tâm trạng của tao trong kiếp sống bồng bềnh ly hương xin được gói ghém trong mấy câu thơ mộc mạc chân tình tao bập bẹ thử làm sau đây. Tao mong mầy đọc nó để mầy thêm cảm thông tao:


...Quê hương ngăn cách dặm trường


Rã rời vụt thấy điểm sương mái đầu


Trời xanh sao lắm cơ cầu


Thân không ai đánh mà đau điếng người


Xuân về rực rỡ xinh tươi


Ngổn ngang trăm mối, ngập trời hoa tang


Nắng hè chưa chiếu chói chan


Tiếng ai văng vẳng? Ngỡ ngàng quốc kêu


Thu buồn chưa đến hẩm hiu


Tai nghe lá đổ, gió chiều trối trăn


Đông đi xa tít ngút ngàn


Băng sơn tuyết lạnh ngập tràn con tim


Vườn ai lảnh lót tiếng chim?


Tưởng như than thở, thuyền chìm biển khơi


Tiếng ai ca hát thảnh thơi?


Điệu như ai oán, tơi bời hồn oan


Giọng ai cười giỡn ầm vang?


Ngẩn ngơ nhung nhớ, võ vàn đau thương


Người đi chen chúc phố phường


Trong tôi buốt giá, nẻo đường bơ vơ


Buồn chưa kịp đến bao giờ


Mà sao nước mắt thẩn thờ nhẹ buông


Nắng về nắng ửng tháp chuông


Sao tôi chỉ thấy mưa tuông trong lòng!...


Bảy Tàn ơi! Mầy thấy đó. Tao có vui sướng mảy may gì đâu ở vùng đất mới xa lạ tạm dung, không bao giờ và chẳng bao giờ đón nhận tao trong vòng tay ân nghĩa ruột rà như hai bác và mầy đối xử với tao những ngày trước đây. Cái vùng đất mới dù trên danh nghĩa là quê hương thứ hai của tao, thực sự không mang đến tao sự bình ổn tâm hồn, sự bình an tâm trí. Những phút vui chỉ là gượng ép thoáng qua mau và để lại trong tao nhiều bi phẫn chán chường ngay sau đó. Dư hương quê cũ của mình chập chờn ẩn hiện không nguôi trong tao. Hình ảnh quá khứ cứ lảng đảng bất tận. Nhiều lúc sự nhớ nhung trăn trở khiến tao điên tiết lên khi tao thấm thía suy gẫm những thăng trầm của cảnh ăn đậu ở nhờ với nhiều nhục nhằn tủi hổ ở Gò Đen. Nhưng những giây phút ấm lòng, an ủi vỗ về tao là những lúc tao được sống trên quê nhà ngăn cách, dù trong tưởng tượng hay trong những giấc chiêm bao ngắn ngủi hỗn độn hằng đêm. Tao nhớ bác Ba gái đè đầu cạy miệng đứa em út của mầy bằng chiếc đũa bếp, ép nó uống hết cả một chai dầu xổ đu đủ tía, nhờn nhợn lềnh lềnh. Cái cảnh trị bệnh rất thông thường này ở những thập niên đầu thế kỷ làm cho tao buồn nôn nhăn mặt, thương và tội nghiệp cho thằng nhỏ quá trời.Tao nhớ hôm chúng mình đang rong chơi vui vẻ, bỗng vài vệt nắng hiếm hoi rơi rớt trong ngày không còn nữa trên bầu trời. Rồi bốn bên tứ phía sẫm hẳn với mây đen kịt cuồn cuộn kéo tới. Ông trời đang gầm gừ đe dọa hung lắm và bắt đầu mưa. Giông to gió lớn đầu mùa. Nước lên cao làm bể các bờ mẫu, tràn xuống sông rạch. Những con cá rô mề mập ú, mang bụng chửa kè kè no tròn, chen lấn thi đua nhau lách ngược theo con nước chảy xiết. Mầy la hoảng lảnh lót:


- Cá rô lên... cá rô lên...


Rồi mầy thúc hối tao u ngay về nhà, chộp lấy thùng thiếc, chạy ra xộp đầu chúng nó. Tao cùng mầy mải mê bắt cá trời cho, dầm mình cả buổi, chẳng hề biết lạnh lẽo là gì. Chiều hôm đó, tao nhớ bác Ba trai chễm chệ ngồi tréo ngoải chân ở đầu ván ngựa, gật gù nhậu ba xi đế quê hương với mấy con cá rô mề nướng vàng óng, tươm mỡ phát thèm.Tao nhớ hai đứa mình rong nắng ở bờ bưng Bà Mụ, dốc cầu Ông Hiệu hớt cá thia thia. Loại cá thia thia ta nhỏ nhắn. Tao ham mê quá. Hễ thấy có bọt đóng ở rìa cỏ dựa mé bờ là mừng húm, còn hơn trẻ con ngóng cổ chờ bánh trái khi vừa trông thấy mẹ đi chợ xa về. Tao nhanh nhẹn thò tay xuống vớt. Mầy hất tao té bò lăn trên bờ ruộng rồi xô tao ngã xấp xuống đám năn lấp xấp nước quá gối, miệng quát to:


- Coi chừng rắn... Coi chừng rắn...


Rồi mầy dong dài lên giọng thầy đời giải thích cho tao nghe thế nào là bọt cá thia thia vừa nhỏ vừa trong sạch, trong khi tao đang vô tình thò tay vớt bọt to bằng miệng chén miệng tô lại bẩn dơ đục ngầu. Tao những tưởng con cá thia thia sẽ to lắm và sẽ hãnh diện về nó khi nó chiến thắng những con đồng lứa. Nào ngờ, tao suýt trào đờm, sôi bọt mồm bọt mép nếu không có sự can thiệp kịp lúc của mầy.Tao nhớ lần đầu tiên bác Ba và mầy đãi tao một bữa ăn bún với thịt cua đinh nấu cà ri. Cái vè cua đinh dòn béo khoái khẩu làm sao. Con cua đinh này cũng quái gở lắm. Tao nhớ kỹ mầy và bác Ba bỏ cả một ngày tròn hì hục đào thấu liếp mì, tận cây gừa cổ thụ bên kia miễu Bà mới tóm bắt được nó. Tao nhớ con Vện, con Phèn ở đầu xóm, con Mốc con Vá ở cuối thôn mầy, nhờ phẩu thuật kiến hiệu của bác Ba trở nên mập mạp, hiền hòa và dễ thương. Đêm ngày nó quanh quẩn trong nhà, làm tròn phận sự của chúng. Nhưng tao nhớ nhứt là đám gà trống thiến cả chục đủ đầu của mầy, mập trìu trịu bác Ba canh nuôi cho đúng lứa để ăn Tết. Những năm chiến cuộc không mấy căng thẳng, đi đứng bớt bị kiểm soát khắc khe, do những tên du kích cóc nhái Việt cộng bị Địa phương quân và Nghĩa quân truy lùn đánh bật khỏi thôn làng mình, mầy không quên mang lên Sài Gòn biếu tao mỗi lần một cặp, nhân ngày giỗ ba tao. Mầy còn căn dặn tao, bảo bầy trẻ trong nhà nhớ nhổ lông khô để lấy lông làm chổi quét bàn. Mầy có hay? Tao xúc động đến dường nào khi mầy vẫn nhớ đến ngày giỗ của ba tao? Tao nhớ đời cử chỉ đó của mầy.


Bảy Tàn ơi! Mầy chắc biết? Quê hương tao bây giờ hiện ra trong dư ảnh đó. Quê hương tao bàng bạc ở những giòng chữ này. Bây giờ, tao lại thương mầy nhiều hơn nữa, mặc dầu tao bặt tin mầy từ ngày lang bạt nổi trôi. Tao thương mầy qua cái tên Tàn mà mầy gọi là tên xấu hái với những tình tiết nửa hư nửa thực mà mầy đã kể tao nghe dạo lâu lắm rồi. Nay vẫn còn văng vẳng bên tai tao. Tao thấy quê hương mình vừa thi vị, tình tứ, trọn vẹn tinh anh, vừa mộc mạc hiền hòa, gói ghém trong cái tên cúng cơm bất đắc dĩ của mầy. Mầy đừng buồn. Vì nơi đó, ông bà, chú bác trọng tuổi của mình học chưa dứt lớp dự bị, vần xuôi vần ngược chưa xong đã ra làm làng như ông Chánh lục bộ Bảy Kỷ. Ông không xông xáo dấn thân ra giúp đời thì ai ưng vào làng mình để giúp bà con đây. Ông Bảy Kỷ hãy còn sơ xuất trong suy nghĩ cũng như từng phạm những lỗi chánh tả sơ đẳng khi vào sổ bộ đời. Sự việc ngoài ý muôn này của ông khiến tao giờ đây thêm một dịp tức cười muốn vỡ bụng.


Bây giờ, tụi mình nhìn lại tóc đã muối tiêu tuổi xế chiều, chân mỏi gối dùn, rạm nhiều sương gió. Riêng tao, tao tin rằng giấc mơ cuối đời của tao sẽ được gặp lại mầy một lần trước khi nhắm mắt xuôi tay theo ông theo bà. Và dĩ nhiên, tao chỉ có một ước vọng. Ngày ấy, tao sẽ được nằm yên ấm cúng và toại chí nơi chéo đất quê nhà, cùng với các từng lớp bà con thân quen quyến thuộc. Tao tin, tin ở một ngày quang minh nào đó, tao sẽ về lại xóm làng mình trong hân hoan thấm thía chung của anh em mình, của bà con mình và của cả khối dân tộc thống nhứt trong tâm tư tình cảm từ Nam chí Bắc nữa. Tao thêm tin và vững tin kể từ ngày bức tường ô nhục Bá Linh sụp đổ từng mảnh vụn, tiếp theo sau là những đêm nổi dậy ở Prague, mùa xuân quật khởi ở Budapest... kể từ khi Liên Bang Sô Viết, "thành trì kiên cố của cách mạng vô sản quốc tế" vỡ tan để nhốm lên ngọn lửa hừng hực của tuổi trẻ bất khuất Thiên An Môn, cận kề đất nước mình. Tao tin rằng một phần tư thế kỷ đọa đày trong hỏa ngục "xã hội chủ nghĩa" từ sau tháng Tư đen tối 75 chỉ là khoảnh khắc nước ròng đối với chiều dài của lịch sử dựng nước và giữ nước. Dù khoảnh khắc nước ròng ngắn ngủi đó có làm cho đáy sông cạn kiệt để nhô lên bao nhiêu chướng ngại vật làm cản trở nguồn nước. Nhưng nó không sao ngăn chận được sự trở về của giòng nước lớn. Sông phải có nước lớn nước ròng, lúc đầy lúc vơi, khi đục khi trong. Mầy có bao giờ thấy nước ròng mà chẳng thấy nước lớn bao giờ không? Dĩ nhiên là không có. Như vậy có nghĩa là có nước ròng tức nhiên phải có nước lớn. Tao tin ở chu kỳ tất yếu này của tạo vật. Tao tin ở nguồn nước lớn mong đợi bấy nay. Nó sẽ mang đến bà con mình niềm vui và cuộc sống hạnh phúc. Tức nhiên tao tin ở ngày tàn của chế độ độc tài đảng trị, tham nhũng thối nát hiện nay nơi quê hương mình...


Thôi thơ quá dài... Tao chào mầy, thăm gia đình mầy và hẹn sẽ gặp lại mầy một ngày rất gần, thật gần đây. Chào tái ngộ.


Thân ái


Tái búp: Mầy đừng ngại. Thơ này được chuyển tay đến mầy qua một bạn thân rất đáng tin cậy như mầy đã biết.





**


Khi vào chuyện, tôi được gợi ý nhờ một đoạn văn ngắn của nhà văn Phan Nhật Nam mà tôi càng ngưỡng mộ hơn lúc nào hết khi xúc cảm về cái mất mát lớn trong đời, đến nay chưa thay thế được. Xóm Rạch Rít của tôi mà nhà văn lính chiến nhiều lận đận từng dẫm nát để truy kích địch cách đây hơn hai mươi lăm năm, giờ ngăn cách tôi tròn nửa vòng trái đất. Nó mất hút theo vết chân ly hương phiêu bạt của tôi, trong khi thân phận lưu đày và tâm trạng bồng bềnh đeo đẳng tôi không nguôi. Cuộc đoàn tụ gia đình như ở mùa hè năm ấy tại nhà vợ chồng em tôi, không thể là dược liệu nhiệm mầu hóa giải những uẩn khúc phiền toái ẩn náu thầm kín trong tôi. Những uẩn khúc phiền toái đó chực chờ một dịp gợi thương, một bối cảnh gợi nhớ, một lời nói ác ý, một cái nhìn xoi mói, một cử chỉ thiếu ý thức, dù vô tình hay cố ý, để vụt bừng dậy dầy vò tôi. Làm thế nào để giải tỏa được? Tôi xin mượn lời một nhà văn khác, bạn Nguyễn Văn Sâm, trước 75 một thời là giáo sư Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký, hiện lưu vong ở Mỹ, để tạm gọi là đáp số:


- Cung đình binh biến hoán vị ở Hà Nội, sao kim tinh xuống trần ở Việt Nam, nổ lực tận cùng của toàn thể người Việt hải ngoại sửa con đường đi nhầm lẫn bấy lâu nay của lịch sử Việt Nam. Tất cả những giải pháp đều nằm bên ngoài con người lưu vong, đó mới là điều bi đát nhất cho thân phận lưu vong chúng ta, bản án vẫn miên viễn áp nặng lên tâm thức mình cho tới khi nào ta lấy lại được phần đất mình đã đánh mất. Có đất, chủ thể trở về với quê hương, chữ lưu vong tự nhiên bị giải thể, và tình trạng, tâm thức lưu vong... sẽ đương nhiên giải quyết.


Tôi buông viết, tựa lưng vào thành ghế thở phào nhẹ nhỏm khi ngoái nhìn về tương lai mai hậu. Nhưng ngay sau đó tôi lại bâng quơ lòng hỏi lòng:


- Mình còn viết bao nhiêu chuyện nữa về quê hương trên miền Bắc Pháp lạnh lẽo xa xôi này! Hay đây là lần cuối cùng?

                                                                       

                                              

Nẻo Nhớ Tìm Về

            




Thuở tôi còn nhỏ, gần đến Tết, nhứt là ở cao điểm tháng Chạp là ông bà tôi và bà con lớn nhỏ từ đầu thôn cuối xóm đều nhộn nhịp tập trung chuẩn bị đón Xuân mới vui nhộn lắm. Không khí làng quê bỗng trở nên náo nhiệt lạ thường. Nhứt là đám trẻ chúng tôi càng nôn nao nóng ruột hơn ai hết. Nhớ lại lúc đi học ở trường nhà ông Thầy Huế, Thầy tôi có dạy chúng tôi cách tính toán thực dụng nhưng rất chính xác các tháng dương lịch đủ, thiếu trên mu bàn tay nắm chặt lại. Thỉnh thoảng, chúng tôi quây quần chùm nhum nhau mằn mò đếm tới đếm lui những phần lồi lõm. Chúng tôi nao nao xem còn bao nhiêu tháng nữa đến Tết Nguyên Đán cổ truyền. Chúng tôi cứ nhẩm tính sau tháng giêng Tây là đúng phóc, chẳng thể nào sai được. Có chăng là năm bảy ngày là cùng. Người đời hay nói và nhứt là các văn gia thi sĩ thường ca tụng, cho rằng mỗi năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu và đông cứ nối tiếp nhau thành những chu kỳ bất biến. Nhưng ở Miền Nam Việt Nam thuộc khu vực gió mùa, thực tế chỉ có hai mùa mưa và nắng. Mùa Xuân đến với bà con tôi nhằm vào mùa nắng, lúc những cánh đồng bát ngát thơm nồng, vàng sậm một màu lúa chín đồng nhứt. Vì vậy, gặp những năm thuận trời, mưa gió điều hòa, gieo trồng đúng lúc trúng mùa, sự chuẩn bị mừng Xuân đón Tết càng thêm chu đáo, tiêm tất hơn. Bà con tôi hân hoan tranh đua nhau phô trương thanh thế qua sự thành công sung mãn của mình cùng tài nghệ tháo vát, khéo léo của từng gia đình. Họ có ý như để đền bù lại những tháng năm dài tất bật, bị dằn co níu kéo bởi những ám ảnh tô cao thuế nặng và áo cơm gạo tiền hằng bữa. Do đó, họ phải gắn bó lặn hụp triền miên trong từng ngõ ngách của vùng đồng chua sông nước Rạch Rít này. Tuy chưa đến Tết nhưng họ đã thấy thơi thới, lòng lâng lâng sung sướng để chào đón giờ phút trọng đại trông chờ "năm cũ bước qua, năm mới sắp đến". Người giàu kẻ nghèo, người có chức quyền trong ban bệ Hội Tề làng hay kẻ cùng đinh mấy đời bần cố, tất cả sẽ ăn một cái Tết ý nghĩa giữa tiếng pháo tre, pháo chuột, pháo điển... tưng bừng không ngớt lạch tạch đì đùng rền vang khắp cả xóm.


Khoảng rằm tháng Chạp, các cụ trưởng thượng đứng ra đôn đốc, cổ võ lũ trẻ rậm đám chúng tôi, chen chúc bắt ghế bắt thang, kéo nhánh quằn cành suốt lá mai. Chúng tôi cười nói vui vẻ lúc suốt lá kỹ lưỡng từng nhánh một, không sót nhánh nào. Quen tay quen việc, chúng tôi không đứa nào muốn nghỉ cả nên lẫy sạch sành sanh, không chừa một lá. Nhưng cũng tội nghiệp cho cây mai duy nhứt trong ngôi vườn thênh thang sầm uất của ông bà tôi. Cây mai hiếm hoi này đứng hiên ngang nơi cheo chéo trước cửa nhà, nay đã quá già, vì khi tôi sinh ra và lớn lên nơi vạt đất hương hỏa của dòng tộc đã thấy có nó ở đây rồi. Theo ông bà tôi thì nó được trồng từ thuở cố hỉ cố lai, nhưng ông bà tôi ngập ngừng áng chừng như vậy, chớ không có gì chắc chắn cho lắm. Bây giờ thì gốc nó to lớn đẫy đà không thua thân những cây cau tơ, đầy lá xanh tươi tốt. Trong chốc lát, bỗng nhiên nó trở thành xơ rơ trơ trụi, buồn hiu thảm thương như cây cối vào mùa thu lá chết ở các xứ bốn mùa. Ấy thế, đúng chiều ngày ba mươi rước Xuân, nó lại nở rộ những đóa hoa vàng hừng hực, khoe sắc màu thắm tươi đón mùa Xuân mới. Đêm đêm, dưới ánh trăng lung linh, thơ mộng hữu tình, tiếng giã gạo vần công, chày ba chày tư cùm cụp... cùm cụp, nhịp nhàng đều tay vang vang đây đó, xa xa nghe nôn ruột làm sao. Trai gái đôi mươi thách thức, tranh đua nhau không biết mệt mỏi. Họ vừa xăn xái giã gạo, vừa trêu chọc, luôn miệng tỏ tình bóng gió ngoài sân phơi lúa, ở hiên nhà sau hay ở thềm chòi củi vắng vẻ, đồng tình đồng lõa. Mãi đến khuya lơ khuya lắc thấm lạnh nhưng họ vẫn chưa chịu buông tay ngừng nghỉ. Nhiều khi họ hò đối đáp mua vui cho quên công việc nặng nhọc, mau thấm mệt. Nhưng chánh yếu vẫn là động lực giúp họ được gần gũi hơn trong tâm tình của thời trai trẻ mới lớn, đang rạo rực tình yêu chớm nở. Họ bắt trả tuyệt vời những khúc xuân tình chân quê muôn thuở rút trong ký ức tập thể bản làng, láng lai tình cảm trong sáng. Rồi chập chập, những tiếng cười dòn ran xé màn đêm không ngớt vang lên, tiếp sau những câu chuyện dân gian do những tay kể chuyện đời xưa thuộc hàng "thần sầu quỷ khóc" nhứt trong xóm, vừa duyên dáng vừa hấp dẫn. Nhưng tiếng hò, giọng hát, tiếng cười hồn nhiên đó cũng không thể kéo dài mãi suốt đêm. Nó sẽ tắt hẳn khi đã đến giờ giấc chia tay không thể tránh được. Dù họ đinh ninh đêm mai, đêm mốt hay một đêm tốt trời nào đó, họ sẽ còn cơ hội gặp mặt nhau để tiếp tục tạo lại niềm vui mong manh vừa đánh mất. Ấy vậy, họ vẫn bịn rịn tiếc nuối, quấn quít luyến lưu, như còn vương vấn một cái gì man mác khó tả thành lời, cứ mãi xao xuyến ngăn ngắt, cứ mãi thôi thúc không thôi trong lòng mỗi người. Rồi qua ngày hôm sau hay những ngày kế tiếp, họ có muốn quên trong khoảnh khắc làm việc bù đầu mệt lả, nhưng sao họ lại cứ phải nhớ cảnh trăng thanh gió mát, nên thơ tình tứ và chóng qua đó. Cái nhớ nao nao mà thoải mái. Cái nhớ ray rức mà dễ chịu. Nỗi nhớ ấy bắt họ phải trông chờ ngóng đợi chiều mau xuống, đêm chóng về để họ sớm được gặp nhau cho thỏa lòng thầm kín ước mơ. Dù chỉ gặp mặt để khuây khỏa nỗi nhớ mong trông chờ chớ chưa hẳn giúp họ trút bớt đôi chút u ẩn dằn dặt, chất chứa trong lòng. Cái bí ẩn mà mỗi người trong nhóm họ cố gìn giữ cho riêng mình và chỉ một mình mình thôi.


Xuyên suốt tháng chạp, nhà nào cũng lo chứa gạo trắng ngần đầy lu đầy khạp. Bà con tôi hy vọng trọn năm tới, gia đình họ sẽ được đầy đủ, ấm no hạnh phúc, mùa màng tốt tươi, lúa thóc đầy bồ, đầy lẫm trại. Cuộc sống gia đình họ qua đó xem như sẽ được cải thiện và thôn ấp xóm làng sẽ thành công thạnh mậu hơn so với những năm thất bát bầm dập đã qua. Vì họ không thể nào quên được những ngày bữa đói, đói rát ruột, bữa no, no lưng lửng bụng. Ban ngày, củi đuốc được đốn thành khúc rồi đem phơi khô dọc ngang ngang dọc trước sân hay ngoài vườn liếp. Những khúc lớn đem bửa cho vừa vặn bếp lò, xong tải đi chất ngay hàng thẳng lối ở chòi kho, chòi củi. Đó là biểu tượng của sự làm ăn có kết quả khả quan. Của cải thừa thải dư dả. Vườn tược được rửa sạch sẽ vén khéo. Họ khẩn trương quét dọn khắp mọi ngõ ngách. Ngay cả những nơi ngày thường không mấy khi họ đặt chân đến bao giờ. Nơi này một đống un to, nơi kia một đống un khác đang cháy ngún chầm chậm vào những chiều trong gió mát. Những cột khói trắng đục cứ uể oải la đà, nhè nhẹ đong đưa không thôi rồi bốc cao khỏi ngọn cây chung quanh để sau đó từ từ tan loảng trong không trung quang đảng. Chốc chốc, lửa phất lên hừng hực, cành lá cây khô reo lạch tạch nghe cũng vui tai. Chủ vườn khuyến khích gia nhân ì xèo giựt hết xuống đất nào tàu dừa nào tàu cau khô chưa rụng, còn lủng lẳng ở chót vót ngọn cây. Trẻ nhỏ đua nhau kéo chất ngùn ngụt ở các liếp trống, ở sân phơi lúa sát nhà. Mỗi buổi chiều, lúc mặt trời chưa phụp hẳn xuống, không khí trở nên mát dịu dễ chịu, người lớn, nhứt là đàn bà con gái quây quần tước lá dừa lá cau bó lại thành những bó vừa tay ôm. Hoặc họ chặt sóng dừa để giành nhóm lửa hay đốt lò nấu ăn suốt tháng ngày trước mặt. Hàng lu vú, hũ da bò chứa đầy nước uống trong lành gánh từ ao làng, mặt ao xa trông lúc nào cũng một màu xanh thiên thanh quyến rủ. Một số lu khạp chứa nước sông dùng tiêu xài giặt giũ hằng ngày được bà con tôi lóng phèn chua hay có thói quen quậy đều tay nhiều vòng với một vài nhúm lá cây tươi chọn lọc. Nhưng bà con tôi ưa chuộng nhứt là lá dẹt. Cây dẹt là một loại cây rất dễ trồng ở làng quê để giữ đất không chùi lở xuống kinh mương, ngòi rạch. Nhà nào cũng có một đôi hàng dẹt, lá xanh mướt, chỉ cần vói tay hái là có ngay.


Con rạch quanh năm sầm uất, con rạch thân thương với hai hàng bần và dừa nước dầy mịt giao ngọn hai bên mé, quá quen thuộc với tầm mắt ngắm nhìn của tôi từ thời thơ ấu. Nơi này, chúng tôi tụ năm tụ bảy nhảy ùm xuống tắm những buổi trưa nắng gắt. Và cũng là nơi bà và mẹ tôi ra xách nước mỗi buổi chiều ở cây cầu ván bắt từ sát bờ chúi mũi xuống lòng rạch. Con rạch đó không rộng lắm, chỉ độ vài mươi sải tay chúng tôi là cùng. Nó cũng không hẳn sâu vì khi nước rặc ròng, nơi lòng sông thỉnh thoảng có những khúc trơ lên bãi bùn, địa bàn sinh hoạt của đám cá thòi lòi đầu to đuôi teo. Tùy mùa, nó đục ngầu phù sa màu mỡ để bồi đắp ruộng vườn nhưng có lúc trong xanh một màu thiên thanh gọi mời. Hằng ngày, nước chảy xuôi ngược lững lờ, kéo theo những bựng lục bình lớn nhỏ, những người bạn trăm năm ngàn năm uể oải u buồn. Nhưng khách quan và công bình mà nói, phải nhìn nhận rằng mọi sinh hoạt cá nhân hay tập thể của xóm tôi nhứt nhứt đều xuất phát và trông cậy vào dòng nước duy nhứt trời ban cho đó. Nói vậy quả chẳng sai hoặc chẳng cường điệu chút nào. Vì giá nếu bất hạnh, bà con tôi thiếu vắng nó, chắc chắn cuộc sống dân tình xóm tôi sẽ vô cùng nhiêu khê vất vả hơn.


Bà con tôi vốn cẩn thận lo xa. Đó là bản tánh cố hữu của con nhà nông rặc nòi, không ngớt thắc thỏm những ngày sắp tới. Họ chỉ sợ đến rắp Tết, trăm ngàn công việc đổ dồn cùng một lúc, làm không xuể. Ông tôi làm gì thì làm, dù có bận công việc mùa màng gặt hái dồn dập thúc hối cách mấy cũng không thể nào quên đánh bóng giàn cột cái và mấy bộ lư đồng. Hai ba đứa nhỏ loi choi lóc chóc giúp việc chăn giữ đàn trâu cả chục con đủ đầu, được ông tôi cho nghỉ ở nhà. Nhiệm vụ của chúng nó được ông tôi giao phó hôm nay rất đặc biệt. Chúng mang mỗi đứa một tấm bao bố tời rách nát, mềm nhũng được buộc sít sao trước ngực rồi leo thang lên tận trần nhà. Xong, chúng ôm chặt từng cây cột, tuột một lèo xuống đất. Liên tiếp làm như vậy không biết bao nhiêu lần, hàng cột gỗ quý đã lên nước đen huyền trở nên bóng láng lạ lùng. Ông tôi bảo phải chuẩn bị chu đáo đàng hoàng vườn tược, nhà cửa để đón ông bà cùng về ăn Tết như để thể hiện sự thương yêu kính trọng của ông đối với những bực tiền bối xây dựng dòng tộc. Vì theo ông tôi từng dong dài giải thích qua những câu chuyện chấp nối chung quanh mâm cơm hay khai trà, là cử chỉ kính trọng, thương yêu, quý mến người khuất núi chẳng những là một bổn phận hàng đầu, nhứt thiết phải làm của kẻ hậu sinh "uống nước nhớ người đào giếng", "ăn trái nhớ kẻ trồng cây", mà hơn thế nữa còn là một nghĩa vụ thiêng liêng, cao cả và trong sáng của người sống, không thể thờ ơ chểnh mảng làm chiếu lệ được. Ngoài mấy cây cột cái ra, ông rất quan tâm đến dãy bàn thờ bằng gỗ quý. Những bàn thờ này đều có chạm trỗ những cảnh non bồng nước nhược rất mỹ thuật, vô cùng khéo léo do bàn tay điêu luyện của các nghệ nhân lão thành, may mắn còn đủ khả năng sáng tạo và thực hiện. Họ rất hiếm hoi và nổi tiếng khắp cả tỉnh nhà. Đối với ông tôi, bàn thờ gia tiên đặt ở ngay giữa gian nhà khách là nơi trang trọng và tôn nghiêm, là nơi ông thường khăn áo chỉnh tề lâm râm khấn vái như để thì thầm, như để hòa nhập với người khuất mày khuất mặt. Qua đó ông tỏ ra rất toại nguyện lúc cuối đời, thời điểm con người thường hay kiểm điểm, phê phán, đánh giá một kiếp sống.


Ông cũng hay thố lộ với con cháu trong nhà, ông có quá nhiều may mắn và diễm phúc trong đời. Vì bàn thờ ông bà nhà ông còn có một bộ lư đồng xem như khá lộng lẫy đồ sộ, quý hiếm nơi vùng đất khai hoang lập ấp. Ý ông tôi muốn nói, nhiều gia đình nghèo, nghèo sặc máu, chân ướt chân ráo vừa mới phiêu lưu đặt chân vào đây dò dẫm mưu sinh dựng nghiệp. Trên bàn thờ cây bằng loại gỗ tạp nhạp, vừa nhỏ hếu không hơn một thước vuông, vừa cao chưa được ngang tầm rốn, đôi khi lặc lìa lặc lọi, chỉ vỏn vẹn có một lư hương làm bằng lon sữa bò nhản hiệu "Con Chim". Cái lon đã rỉ sét lốm đốm này, họ lượm đâu đó lúc đi chợ quận, chứa đầy cát sạn để dễ cặm nhang. Tuy nhiên, đêm đêm trong những căn nhà trống huếch trống hoác, cửa nẻo thông suốt từ trước đến sau, thường xuyên thoang thoảng mùi đất mùi bùn, mùi cỏ ướt, mùi năn sậy mục được gia chủ chất ngùn ngụt từng đống bên hè, cái lư hương đơn sơ nhỏ bé đó vẫn hừng hực nghi ngút khói nhang. Bằng chứng là ở miệng lư, lúc nào cũng đầy nhong nhóc chưn nhang màu đỏ sẫm, dài ngắn nghiêng ngả so le, với tàn nhang mịn màng trắng đục tạo thành một lớp khá dầy trải đều trên mặt bàn thờ. Mới hay, chẳng riêng gì đối với ông bà tôi mà cả với bà con trong khắp cả xóm tôi nữa, ngoài việc biểu lộ sự kính trọng, họ còn tỏ ra biết ơn người quá cố từng hiến dâng mồ hôi nước mắt suốt một đời, từng góp công sức xây dựng cơ ngơi cho mỗi tộc họ. Một truyền thống sáng ngời của dân tộc ta vốn yêu chuộng và thăng hoa cương thường đạo lý. Đó là cử chỉ báo hỉ báo hiếu không thể thiếu sót đối với ông tôi cũng như đối với bà con vốn gắn bó với ngôi nhà từ đường, khắn khít với vuông đất thổ cư ông cha để lại. Họ không sao quên gốc rễ cội nguồn của mình, đúng như ý nghĩa trong sáng và sâu xa của sự truyền nối được thể hiện qua tinh thần của bài ca dao họ thường ru con cháu:


Cây có gốc mới nở ngành, sanh ngọn


Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu


Người ta nguồn gốc từ đâu?


Có tổ tiên trước rồi sau có mình...


Thiếu sót là một trọng tội không thể tha thứ đối với tiền nhân, xã hội nhân quần không thể chấp nhận và bỏ qua được. Và hẳn nhiên, sự thiếu sót đáng trách và đáng chê bai đó sẽ là một tổn thương tâm linh và tinh thần chẳng thể nào băng bó lành lặn được, một khi đã ăn năn, nhận thức trong muộn màng. Đối với những người vô tình hay cố ý chểnh mảng việc này, ông tôi thường hay nói khéo khi chê trách họ:


- Đám đó, tụi nó không phải ăn cơm mà. Cơm ăn mới hôm qua còn dính nướu mà sao lại sớm quẹt mỏ, ơn lại vội quên!


Ông tôi còn thêm:


- Chúng nó cũng giống y như cái ngữ "qua cầu rút ván, qua sông đụt đò", không nghĩ đến ai, không xài được.


Sau này, tôi mới hiểu ra ý của ông tôi hồi đó. Ông nói "không phải ăn cơm" tức ăn phải thứ gì để no bụng đây? Ông khéo lời quá! Ông tôi tránh nói một cách hiện thực và sàm sỡ làm dơ miệng mình. Mỗi năm, vào những dịp bận rộn túi bụi đó, tôi đều có góp phần tham gia giúp ông tôi một tay đắc lực trong việc chùi bóng lư hương và chân đèn. Nói tham gia cho thêm phần long trọng, nhưng thực ra chỉ là hụ hợ hào mé theo kiểu bốc đồng tùy hứng, vui thì làm mệt thì nghỉ. Mà buồn buồn nhàm chán cũng dám bỏ cuộc ngang xương, "đứt chếnh" sớm. Thoạt tiên, tôi cứ tưởng ngon ăn lắm, dễ dàng như trở bàn tay. Tôi chà chà thông thả, đặng không bằng mất không hay, còn hơn đi dạo chơi khoan thai ở bờ kinh bờ rạch, nơi tôi thường say mê hướng lên tầng cao ngắm nhìn con diều giấy hực hỡ màu sắc đang vẫy vùng mang chở niềm vui bất tận của tuổi trẻ chúng tôi vào lúc trời trong gió mát. Chưa bao lâu, tôi nhìn chung quanh vắng vẻ không người, len lén bỏ chân sau rồi tự ên âm thầm rút lui êm. Tôi trốn đi rong chơi nơi đình làng sầm uất, biệt tăm biệt tích, bỏ lư hương, bỏ chân đèn đang chùi dang dở nằm la liệt ở thềm nhà, trên cái bao bố tời rách bét. Vì tôi đã lầm to. Tôi lầm vì thấy ngon ăn, việc làm quá đơn giản nhẹ nhàng, chẳng tốn hao sức lực. Nhưng một khi đã đụng vào mới tá hỏa tam tinh, mới thấy khó khăn giàn trời. Những người kém kiên trì và nhẫn nại như tôi cầm chắc rước lấy thất bại.Thuở ấy làm gì có những thứ hóa chất đánh bóng bày bán ở tiệm chạp phô "bỏ túi" duy nhứt trong xóm. Loại hóa chất này được trình bày với bao bì hoa hoè, sặc sỡ màu sắc, thêm tranh vẽ kiểu cách qua nhiều nhản hiệu nhằm cạnh tranh để thu hút người mua như bây giờ. Ở chợ quận xa xôi cả buổi đường nước, nếu có phơi bày nhan nhản ở các tiệm tạp hóa lớn của người Tàu, cũng chẳng ai buồn bỏ công khó chèo chống đi tìm mua đem về xài. Vả lại, loại hóa chất sản xuất theo phương thức kỹ nghệ tối tân này chắc cũng đắc tiền lắm. Giá cả quá khả năng tiêu dùng của một gia đình nông dân suốt đời nhọc nhằn lam lũ, ước mơ ấp ủ chỉ gói ghém hạn hẹp trong cái có cầm chắc trong vòng tay rắn rỏi của mình. Thôi! Họ tạm ép bụng dùng những thứ đang có sẵn chung quanh họ. Họ đành dùng chanh, dùng khế chua trong vườn nhà. Vừa tiện lợi lại không phải tốn kém. Chất chua chua của khế của chanh làm tan biến, dù trong kiên trì khổ nhọc, mấy lớp teng bám lâu ngày làm cho lư hương chân đèn đóng bợn lì câm, biến sắc thâm thâm hay nhợt nhạt. Chanh đôi lúc còn phải đắn đo do hiếm hoi khó trồng ở vùng đất phèn mới lên vồng lên liếp. Chớ cây khế chua trồng ở đầu ngõ nhà ông tôi, hầu như quanh năm trái néo cây, sai oằn nhánh lại to lớn căn phồng, láng bóng óng ánh. Ôi thôi tha hồ mà hái. Cũng chẳng cần trèo cao kéo nhánh níu cành lôi thôi, phí sức tổn hơi. Khế chín tươm nước úng vỏ rụng đầy làm thành một thảm vàng cả mặt đất. Lũ chúng tôi thèm khát, thích thứ gì thì có chớ đối với loại khế chua ăn nhăn mặt té đái cỡ đó, chúng tôi nhứt loạt chê rậm rề. Chúng tôi chỉ lấy mắt ngó cho vui mỗi khi đi ngang. Hoặc nhiều lắm thốt ra vài lời khen vô thưởng vô phạt. Chớ chí tình mà nói, chẳng có đứa nào bạo gan bạo phổi sờ mó, rớ tới bao giờ đâu? Ấy vậy, gần đến Tết, cây khế chua thường xuyên bị bỏ bê ruồng rẫy đó lại được nhiều gia đình bà con chung quanh nhà ông tôi chiếu cố đến vào những ngày gần Tết này. Nghĩ kỹ ra, nó không đến đỗi dư thừa, vô ích. Ở đời, suy cho cùng, có những thứ chẳng ra gì đối với người này ở một thời điểm nhứt định nào đó nhưng lại có giá trị với người kia vào một thời điểm khác. Do quan niệm đó nên ông tôi vẫn giữ mãi cây khế chua này trong vườn ông. Mặc dầu bà tôi cũng thường khuyến cáo nên đốn phức cho rồi, lấy đất trồng những thứ có ích hơn. Mỗi lần như vậy, ông tôi đều dõng dạt thối thoát, không đồng ý. Ông hay phân giải:


- Ậy ậy! Sẽ có ngày dùng đến nó! Đừng có xem thường.


Đối với ông tôi đã đành. Chủ nhà, chủ vườn mà! Trái lại, chập chập bà con tạt ngang qua, ới lên vài tiếng lảnh lót vọng vào nhà, vu vơ để xin năm bảy trái, dù họ chẳng biết trong nhà có người hay không. Lên tiếng chiếu lệ cho phải lẽ, do họ có ý thức tôn trọng của cải tài sản người khác. Nhưng thật tình, bà con chòm xóm xa gần ai vào vườn ông tôi hái hay lượm mót bao nhiêu trái chẳng được. Khế chà lên lư đồng, chà tới chà lui rã cánh tay, toát mồ hôi hột vẫn chưa thấy bóng. Phải chà tận lực cả ngày cả buổi, chà gắt củ kiệu, đôi khi hai ba ngày liên tiếp chưa chắc có hy vọng đạt kết quả mong muốn. Còn nếu chà theo kiểu đưa đò thì biết đến thuở nào! Như ông tôi, hễ thấy mệt mỏi, cứ bỏ mặc đó. Mọi việc tạm gát qua một bên sẽ tính sau. Ông vào nhà ngồi uống trà nóng hay ung dung lần mò trong lưng quần tìm kiếm lôi ra bọc thuốc rê Gò Vấp. Ông lấy cuộn giấy quyến, xé vấn một điếu rồi rít vài hơi dài. Ông sung sướng nhìn khói thuốc trắng đục lan tỏa ra từ mũi. Trông gương mặt ông tươi hẳn lên. Xong xuôi, ông mới tiếp tục trở lại. Những lúc ông tôi chà lư hương, tôi thấy ông thận trọng, o bế từng đoạn chưn đèn, nưng niu từng bộ phận lỉnh kỉnh khác. Ông rất tập trung và nhẹ tay. Mắt chăm chú hơn ở những chỗ chạm trổ thẩm mỹ mong manh như sợ bị gãy hư hoặc trầy trụa tỳ vết. Có những chỗ trầy hay khuyết sâu vừa được phát hiện, ông quan sát kỹ lưỡng, lấy tay vuốt tới vuốt lui rồi nhíu đôi mày đâu gần sát vào nhau. Miệng ông luôn suýt xoa hít hà. Lắm lúc ông tắt lưỡi như muốn tìm kiếm cho ra được nguyên do. Mỗi vật trong nhà đối với ông tôi đều chất chứa, gói ghém bao nhiêu kỷ niệm. Có những kỷ niệm xưa cũ lâu đời lắm nhưng cũng có những kỷ niệm mới toanh, tôi đoán chỉ vừa tròn trèm đôi ba năm trở lại đây thôi. Những kỷ niệm nào cũng dính dáng xa gần, ít nhiều với những khúc quanh quan trọng và có ý nghĩa tiêu biểu cuộc đời phiêu lưu lang bạt, nhứt là giai đoạn khó nghèo thiếu thốn thuở lận đận hàn vi của ông. Và ông tôi muốn gìn giữ những kỷ niệm quý báu khó quên ấy xem như một di sản có một không hai, chẳng những cho suốt đời mình mà còn bảo tồn không ngoài ý hướng lưu lại cho con cháu về sau nữa.


Đây là bộ lư hương đồng thật đẹp ông lặn lội mua từ vùng Trảng Bàng, Tây Ninh với một giá khá cao. Hồi đó, ông còn trai trẻ, nhờ mấy mùa lúa trúng lớn ngay những năm đầu tiên của cuộc đời tay cầm lưỡi hái chuôi cày dài đằng đẵng của ông, dài hơn nửa thế kỷ. Lúc ấy, ông bỏ công chạy đôn chạy đáo tìm kiếm, cố tình mua cho bằng được để trang trí bàn thờ ông thân, tức ông cố tôi. Ông nhẹ nhàng âu yếm nâng niu bộ lư, như thương yêu quý trọng nó lắm. Ông sờ mó măn mê, lau chùi nó bằng tấm vải mịn màng để nước bóng được óng ánh tuyệt vời. Tôi nhìn ông có cảm tưởng như ông thận trọng, o bế nuông chìu sợ nó rêm mình ê ẩm vì ông đã thực sự gán cho nó một cái hồn người. Ông tưng tiu nó như trứng mỏng không bằng. Chà xong, ông ráp lại từng bộ phận, đem phơi ngoài nắng ấm. Thỉnh thoảng ông lấy khăn sạch đánh nhè nhẹ phơn phớt đuổi vội vàng những hạt bụi mong manh vừa bám vào. Xong rồi ông vào thềm nhà trước, ngồi chồm hổm và lần này phì phà điếu thuốc rê Gò Vấp, ông vấn to bằng ngón tay cái. Ông bặp bặp thoải mái nhưng đôi mắt không quên nhìn ngắm bộ lư hương phản chiếu ánh nắng mặt trời. Màu vàng sậm lóng lánh và đồng nhứt của bộ lư như càng khơi dậy nơi lòng ông thêm sự nhung nhớ những hình ảnh để tưởng tiếc người xưa. Ông có vẻ hân hoan, bằng lòng ưng ý lắm về kết quả việc làm của mình. Tôi lại có cảm tưởng như ông muốn hòa nhập hẳn vào nó vì nó thực sự quả là một phần đời của ông, vì nó chính là hạnh phúc bất tận hiện tại của ông vậy. Lũ chúng tôi tới giai đoạn hoàn chỉnh nầy, chẳng đứa nào dám táo bạo hó hé, chàng ràng cạnh bên bộ lư. Chúng tôi lấm lét không hề dám bén mảng đến sợ ông tôi rầy la quở phạt. Ông tôi không thuộc hạng người khó tánh, chi li từng chút. Trái lại là khác. Ông nói cũng như cười, vui vẻ cởi mở lắm. Nhưng hôm nay vì ông tôi ngại chúng tôi đi qua đi lại, chạy giỡn vô tình tung bụi bậm quến vào lư. Lỡ đứa nào rống mắc lúc ông vắng mặt, tay chưn thái mái, tò mò sờ mó vào lưu dấu tay thì hãy mau chưn mau cẳng trốn tránh lánh ngay cho xa, đừng cho ông thấy mặt. Chúng tôi tránh ông càng lâu càng tốt, chờ đến khi ông nguôi ngoai, thật sự bớt nóng giận mới dám lấp ló trườn mặt ra. Nếu không, kể như tên xấu số đó sẽ rước lấy tai họa không sao lường trước được.


Sự quan tâm của ông, tôi chắc hẳn phải có lý do chính đáng của người. Lý do tinh thần của một cuộc sống tâm linh thiêng liêng. Mà thật vậy. Qua đó, ông tôi thấy ẩn hiện hồn thiêng tổ tiên dòng tộc lảng đảng quẩn quanh. Qua đó, ông cũng thầm cảm ơn những bậc tiền bối trong "cửu huyền thất tổ" đã dựng nên tộc họ, đã ưu ái ban hiến cho ông một sức mạnh vật chất và tinh thần vô giá để lăn xả vào đời. Nhờ vậy, ông sớm ổn định vĩnh viễn đời sống đại gia đình ông trên mảnh đất mới này. Trong tâm niệm ấy, ông nghe như có hơi thở đâu đó của người xưa đang đồng nhập vào hơi thở và nhịp tim hằng ngày của ông ngày nay. Hơn thế nữa, ông tôi như còn ngụ ý muốn nêu gương và truyền đạt cái hồn thiêng ấy vào thế hệ non trẻ chúng tôi để mỗi đứa chúng tôi noi theo đó tiếp tục nhắc nhớ cội nguồn, quý trọng công đức của những bậc tiền nhân khuất núi.


Tuổi trẻ của tôi được diễm phúc sống trọn vẹn nơi thôn quê đồng ruộng, nơi cái xóm khỉ ho cò gáy, nghèo xơ xác, nghèo rớt mồng tơi. Đêm ngày ngày đêm không ngớt vo ve muỗi mòng và bù mắt. Từ đó, nó cột chặt vĩnh viễn con người tôi với chéo đất quê hương chôn nhao cắt rún, lúc nào cũng thơm thơm hương đồng vị đất. Chúng tôi hầu như đều có mặt ở các hội hè đình đám, mọi dịp họp mặt đông đủ và vui nhộn của người lớn. Và cứ như thế, chúng tôi lớn dần lên và trưởng thành lúc nào không hay. Dĩ nhiên, Tết đến, vai trò và sự hiện diện của chúng tôi càng thêm xôm tụ. Người lớn mệt mỏi do thức khuya dậy sớm bao nhiêu ngày liên tiếp, bắt đầu kêu réo nhờ vả chúng tôi luôn miệng. Trong khi ngày thường, các vị này có thói quen quát tháo xô đuổi, cho rằng chúng tôi chàng ràng vướn chân bận cẳng. Bỗng nhiên, mấy bữa nay, chúng tôi có cảm giác mình đã bắt đầu trưởng thành để có thể hội nhập vào xã hội người lớn, có vui có buồn, có sướng có khổ nhưng đồng thời cũng có những trách nhiệm ngày càng quan trọng nặng nề hơn. Tết là ngày vui trong gia đình và ngoài xã hội. Họp mặt thù tạt. Qua lại tới lui chúc tụng nhau. Một năm mới có một lần.


Dân Việt Nam vốn có truyền thống hiếu khách, thảo ăn, nhứt là ở vùng đất mới Miền Nam phì nhiêu màu mỡ. Lúa nếp chịu khó cấm xuống đất là có ăn không lâu sau đó. Tôm cá, cua ốc, ếch nhái, lươn lịch... chỉ cần thông thả đánh một vòng ven theo bờ kinh, bờ ruộng, lạch nước hay ao hồ đầm vũng là có ngay một xâu nặng ì ì. Họ xách về nhà tha hồ ăn nhậu. Gặp mặt là mời mọc đãi đằng, trọng vọng khách lạ người quen. Họ có thể chứa chấp bà con hay người lỡ bước trong nhà đôi ba bữa nửa tháng là chuyện thường tình. Không có gì đáng ngạc nhiên, lạ lẫm cả. Đối với lũ trẻ nghịch ngợm chúng tôi, mỗi khi chun lọt vô nhà bà con, chúng tôi không cần phải mở chốt cửa vì họ vốn hãnh diện để cửa nẻo mở toát hoát tối ngày. Ngay cả đêm hôm, họ chẳng chút âu lo sợ bị trộm cắp lặt vặt. Những lúc đó, chẳng những người lớn trông thấy, không gạn hỏi la rầy chi cả, trái lại, còn đem bánh trái ê hề, ân cần bảo chúng tôi ăn thoải mái như người trong nhà, trong họ. Đây không phải là những trường hợp lẻ loi. Có lẽ ở xóm Rạch Rít buồn tênh của tôi, ai ai cũng nghèo khổ, đã từng nhiều lần thấm thía cảnh thiếu thốn triền miên, đã biết qua cơn đói hoành hành dầy vò như thế nào nên họ rất tốt bụng, thích chia xẻ chăng? Quan niệm sống ở đời của họ chẳng có gì cầu kỳ rắc rối cả. Quan niệm đó rất giản đơn như nước lớn nước ròng, như con rạch cắt ngang cái xóm nghèo của họ, có lúc vơi lúc đầy. Vì họ hiểu một cách chân quê mộc mạc rằng người nghèo hèn cùng khổ, sống bấp bênh không ngày mai, chung cuộc cũng chết mà kẻ giàu sang phú quý, danh vọng tột cùng cũng không sao thoát khỏi định luật khắc khe muôn đời muôn thuở của trời đất. Duy chỉ có biết, mới sống thoải mái vui vẻ và sống hạnh phúc, trong khi cuộc đời quá ngắn ngủi chóng qua. Hơn nữa, con người chỉ sống có mỗi một lần trên thế gian hư thực này mà thôi. Cái tuổi “thất thập cổ lai hi" mấy ai không một lần mơ ước nhưng thực tế bao nhiêu người nơi quê tôi được toại nguyện?! Mà biết ở đây không ngoài việc ăn ở, đối xử với nhau cho thuận với lẽ đạo và hợp với tình người, biết thương yêu đùm bọc, biết thứ tha bao dung, biết giúp đỡ và chia xẻ... Nhiều người còn đi xa hơn trong sự suy diễn và hành xử thường nhựt của mình. Họ cho rằng tình phải đặt trên lý, cái nghĩa phải được quý trọng hơn lợi quyền. Tất cả những quan niệm ấy chỉ nhằm làm thăng hoa hướng thượng tiếng cười hồn nhiên và niềm vui bất tận, hầu làm vơi đi hay xô đuổi đôi phần nỗi buồn rức ray gậm nhấm không thôi và nước mắt khổ đau của họ. Nhờ vậy, họ đã đem hết sức mình góp phần khai hóa một vùng đất và làm nên một thời. Họ xem món ăn, thức uống nhẹ hêu, dù họ cũng chẳng thừa thãi dư giả gì hơn ai. Tấm lòng rộng rãi và cử chỉ hào phóng đó đã in sâu, được khắc ghi đậm đà vào tim óc mọi người, trở thành một tập tục, một truyền thống để thế hệ về sau kế thừa noi theo. Nó sẽ được duy trì xem như một tập quán tốt, một lẽ sống đẹp, xuất phát từ nền móng cao quý vững chắc là cái tâm lành, biết "thương người như thể thương thân" của mỗi người.


Tết là dịp để các bà nội trợ đảm đang khoe khéo khoe tài. Các bà vẫn biết, người đời hay ví von "Khoe tài, nặng gánh, lòi con trê" nhưng vào dịp Tết nhứt, ba trăm sáu mươi lăm ngày mới có một lần, "nặng gánh" cách mấy các bà vẫn ép lòng mà gánh tròn đầy, "khoe tài" cỡ nào các bà vẫn phình bụng để khoe cho đáng. Tuy mệt nhưng bù lại các bà có những giờ phút chẳng những sung sướng riêng cho chính bản thân mình mà còn đối với cả bao nhiêu người cật ruột và bạn bè chung quanh. Được vậy, các bà đã mãn nguyện rồi. Không gì có ý nghĩa và cao đẹp cho bằng tạo được hạnh phúc và niềm vui cho kẻ khác. Các bà thường nói, ngày tư ngày Tết mà trong nhà trẽn hoe, bếp núc lạnh tanh, buồn thúi ruột. Chẳng khác nào lúc tang gia bối rối không bằng. Ông bà khuất mặt khuất mày về sẽ rầy la quở mắng là cầm chắc. Việc không làm rạng rỡ gia tộc, không cố gắng làm sáng danh, thăng tiến dòng họ xem như một tội bất hiếu đối với tổ tiên. Ngày xưa, ông bà quá khổ cực, túng quẩn suốt một kiếp người đi khẩn hoang lấn đất, chẳng nghe họ có một lời thở than trách cứ. Giờ đây con cháu phải tỏ ra hơn hẳn những người đã khuất thì dòng họ mới xem như có phúc. Con phất lên hơn cha mẹ, cháu vượt khá xa hơn ông bà thì tông tộc đại phúc là vậy. Hơn nữa, ngày Xuân chóng tàn, tuổi Xuân chẳng có bao nhiêu và chẳng hề trở lại.


Ngoài đòn bánh tét truyền thống, các bà còn có thói quen gói nem, loại nem chua. Loại nem chua này mà bà con tôi cũng như phần đông người Miền Nam đều rất ưa thích trong những ngày hội hè đình đám. Và có những địa danh được nhiều người biết đến chỉ nhờ sản xuất những chiếc nem hương vị đặc biệt thơm ngon như Bà Điểm thuộc tỉnh Gia Định, Cai Lậy tỉnh Định Tường, Bàu Trai tỉnh Chợ Lớn... Tôi có một kỷ niệm khó thể phai mờ trong tâm thức về chiếc nem Tết quê hương. Mỗi lần trong gia đình tôi có gói nem, tôi đều hồi hướng, tưởng nhớ mẹ tôi khôn nguôi. Tôi tưởng chừng như người vẫn còn quanh quẩn đâu đó bên tôi, mặc dầu mẹ tôi thuộc lớp người bình thường trong xã hội, đã âm thầm ra đi khá lâu, đã thuộc về quá khứ xa. Thuở ấy, nơi thôn làng hẻo lánh, thức ăn thức uống bà con tôi ít khi đi mua ở chợ quận, vừa xa xôi vừa tốn kém. Nhứt là vào ngày mùa, lúc nhân công khan hiếm thắc ngặc, người người quần quật ngoài đồng không mông quạnh, làm thụt mạng rắp Tết. Họ chạy đua với đôi mắt thom lom mỗi buổi chiều khi nhìn tờ lịch treo tường lần lượt rơi rụng. Do đó, nhà nhà vẻ duyên tự làm lấy một số thức ăn dự trữ trọn mấy ngày Xuân. Thời gian này, theo phong tục xưa, vừa cấm kỵ nấu nướng, vừa để mọi người nghỉ xả hơi, vui chơi hỷ hạ, một năm mới có một lần. Gói nem là cả một nghệ thuật gia truyền, giới hạn trong phạm vi gia đình. Mỗi người có một phương cách riêng với trọng lượng da bì, thịt thà và gia vị cân đối. Và người nào một khi đã mó tay vào lãnh vực ẩm thực đặc thù này hầu như đều hãnh diện, cho rằng nem mình gói, lúc nào cũng thơm ngon hơn nem của người khác. Gia đình nào biết gói nem đều bo bo thủ giữ những bí quyết đặc sắc riêng. Ngay đối với đứa con gái ruột, thương yêu nuông chìu thật lòng nhưng các bà vẫn đắn đo, sống để bụng, chết cũng nhứt quyết đem theo xuống mồ. Nếu có chỉ dẫn, các bà cũng chỉ dẫn qua loa, đại khái, chớ chẳng bao giờ đi sâu vào chi tiết khúc mắc của nghệ thuật. Họ sợ sau này "xuất giá tùng phu", đi "gánh gian san nhà chồng", con gái mình có thể vô tình phổ biến những cái hay, độc đáo, cái bí quyết thừa kế để làm giàu "xứ lạ". Có lẽ vì vậy nên nghệ thuật làm bánh trái và nấu nướng, nói chung là khoa ẩm thực của người mình bị may một và mất mát không ít. Thật đáng tiếc vô cùng. Nem ngon vừa miệng, màu sắc phải hồng tươi, vẻ vặt khô ráo. Da bì thon dài, đều đặn mềm mại, liều lượng cân đối...


Nhà ông tôi có trồng ở cuối vườn một cây vông to lắm, may mắn sống sót lâu đời nơi vùng đất phèn chua. Cành lá lại xum xuê, lá non lúc nào cũng có. Nhưng bà tôi lắc đầu khoác tay chê rậm rề. Bà chê ra mặt trước mọi người. Vì theo bà tôi, nem gói với lá vông báng mất mùi vị thơm tho quyến rủ. Nhứt là mất tiếng. Mà tiếng thì phải xây dựng biết bao năm đằng đẵng mới có. Cái đó mới đáng sợ. Cái đó mới đáng lo. Một khi đã để mất tiếng rồi thì kể như không thể dễ dàng tạo dựng lại được. Theo bà tôi gói nem, phải gói bằng lá chùm ruột mới đúng bài bản sách vở người xưa truyền lại. Chúng tôi được người lớn phân công đi lẫy lá chùm ruột. Mấy việc nhẹ nhàng đó nhầm nhò gì đối với lũ liếng thoáng tinh ranh chúng tôi. Nghề ruột của các chàng mà! Vừa chơi vừa làm còn được kìa. Chúng tôi nghĩ đơn giản, có khó khăn gì đâu. Do vậy, có đứa còn vênh vênh mặt, róng cổ khoe tài tháo vát của mình. Một tay nó thọt gọn lỏn trong túi quần sọt cũ tưa lai, màu cứt ngựa đã ngã qua thâm thâm đen từ lâu, như người vô tư thong dong dạo chơi ở bờ đê lúc chiều xuống thoang thoảng gió mát... Lúc đó nó chỉ cần một tay kia để lẫy lá là đủ. Dù vậy, bà tôi vốn e dè nhờ có nhiều kinh nghiệm trường đời. Bà biết rõ hơn ai hết tánh nết bốc đồng và bê tha ham chơi của chúng tôi, làm gì cũng tỏ ra hăng hái xông xáo nhưng chỉ có nước nạp chớ ít khi chịu nhẫn nại trì chí làm đến nơi đến chốn. Bà tôi chẳng từng phát biểu:


- Ở đời, cái tánh nết của con người khó thay đổi lắm!


Do vậy, bà tôi cố tình như để khích động lũ chúng tôi:


- Ối! "Nói trước, bước không qua". Chừng nào bây lẫy xong hả hay.


Cây chùm ruột của ông tôi thuộc loại chùm ruột ngọt thanh tao nên ông tôi tưng tiu cưng lắm. Ông quí nó như vàng. Bà con lối xóm luôn trầm trồ. Ở vùng đất ráo hổi, phèn chua còn đòng đọng đó đây, cây trái ngon ngọt gốc miệt vườn Cái Mơn, Cái Bè, Cái Tàu Hạ... được tuyển chọn ươn trồng, chăm sóc, dưỡng nuôi tận tình vẫn khó có cơ phát triển sung mãn. Thường thường, chúng hay chết nhát. Mà nếu có may mắn sống được, đa số đều xơ rơ èo uột. Ông tôi mỗi khi nhìn cây xoài cát giống Hòa Lộc, cây bưởi ổi loại bưởi tháp mua tận Biên Hòa hay cây mãn cầu dai gốc Vũng Tàu ông trồng mỗi thứ mấy cây... chúng ra được hoa chiến là mừng húm. Mặc dầu trong thâm tâm, ông chẳng hy vọng gì mấy ở những đợt hoa các mùa kế tiếp sẽ cho ra trái ngon ngọt như ước ao mong muốn trông chờ. Ông quí cây chùm ruột vì mấy năm liên tiếp gần đây nó cho trái to lớn, màu vàng tròng đỏ hột gà trong bóng mặc dù trái rất ít. Lưa thưa ở đôi nhánh mảnh khảnh. Và chỉ bao nhiêu đó cũng đủ cho ông bằng lòng sung sướng và hãnh diện với bà con chòm xóm. Cây lại thưa cành ít lá so với loại chùm ruột chua, thân to nhánh lớn, trái néo cây, rụng la liệt đầy mặt đất. Chúng tôi dạ dạ vâng vâng, nhắm mắt thi hành một cách máy móc lệnh của bà tôi. Chúng tôi chạy u một mạch ra vườn rồi a thần phù, lẫy lá tận lực. Chẳng mấy chốc, cây chùm ruột cưng của ông tôi trụi lá trơ cành như cây mai già ngày rằm tháng chạp ở đầu ngõ, như con gà con vịt bị mẹ tôi nhổ lông trơn lu đưa ức. Báo hại, ông tôi cằn nhằn quá cỡ. Ông nơm nớp sợ cây chùm ruột sẽ không chịu nổi sự phá hoại vô ý thức của chúng tôi và sẽ chết tức tưởi ở những ngày tới. Thì ra chúng tôi xớn xơ xớn xác lẫy lầm, thay vì lẫy lá cây chùm ruột chua ở liếp cạnh bên.


Trời còn tối thui thui, không nhìn rõ được mặt nhau. Cảnh vật vắng vẻ buồn hiu. Chim chóc còn đang ngáy ngủ im lìm. Bà tôi đã chuẩn bị rổ quảo để đến nhà chú Hai Khình chia thịt heo ăn Tết như hằng năm. Hôm nay, bà không thể chần chờ, chểnh mảng. Dù có định tâm làm gì, dù công việc có cấp bách đến đâu, bà vẫn tạm thời gát qua một bên. Bà nhứt định không để mất một dịp độc nhứt ngày cận Tết này. Vì chú Hai Khình cũng đã báo trước cả tháng cho bà con, chú xẻ thịt hôm nay là lần cuối cùng trong năm. Nhứt là khi bà tôi phải mua thịt để gói nem Tết nữa. Bí quyết gói nem ngon của bà con tôi vẫn là việc chọn lựa thịt heo da dẻ hồng hào tươi tốt nên bà tôi phải đến "lò heo" một ngày một buổi này rất sớm. Bà tôi kỹ lưỡng kén chọn lắm. Không phải bà khó tánh. Vì thịt không được hồng hào bà bảo cầm chắc sẽ thất bại.


Có lẽ bà tôi là người gói nem tài tử. Một năm bà gói nhiều lắm đôi ba lần là cùng, những lúc giỗ chạp lớn hoặc nhằm ngày Tết như năm nay. Giá nếu là những người gói nem chuyên nghiệp mà kén chọn như thế chắc phải húp cháo trắng và dẹp tiệm luôn? Bà tôi đón mò nhưng trúng phong phóc. Con heo bị thọc huyết kêu rên eng éc, thét la thất thanh hồi canh hai canh ba... nhứt định giờ này đã được cạo lông xong xuôi. Thì ra người ta cũng đang ra thịt. Con heo mập ú trắng bông, nằm sóng soải trên những tàu dừa tươi có lót lá chuối hột xanh mướt, sát cạnh cầu rửa chén nơi bến sông. Mọi người lăng xăng lích xích. Họ thúc hối nhau trong vui vẻ thân tình. Mấy bà hàng xóm cũng bắt đầu đến chực chờ khá đông. Lâu lâu họ mới có dịp gặp nhau tha hồ đấu chuyện trời trăng mây nước vang vọng cả một góc vườn. Bà tôi khụm nụm mở ruột tượng, cẩn thận kiểm tra tiền bạc đem theo để được sòng phẳng "tiền trao cháo múc". Tết nhứt tới nơi bà không thích mang nợ. Nhưng thường khi, mỗi lần chia thịt, chú Hai Khình ít khi nhận tiền của bà con ngay tại chỗ. Chú bận rộn lắm. Chú tập trung để tâm lo mọi việc cần thiết và khẩn cấp khác. Hơn nữa, bà con biết tên quen mặt cả, lúc nào thư thả chú đến thâu tiền chẳng được. Cái suy nghĩ đơn giản và chơn quê của chú là bà con chẳng ai chạy đường trời, mất tăm biệt dạng đâu mà chú lo? Có lúc, nhậu vào vài ly đế quê hương cay nồng, ngả nghiêng chếnh choáng, chú gãi gãi đầu vuốt tóc rồi nói qua giọng nhừa nhựa với đám trẻ trai tráng trong xóm như thách thức chúng. Chú nói:


- Tụi bây có đứa nào cả gan nhanh chân nhanh cẳng chạy trốn tận trên chín tầng cao hay chui xuống ba bốn thước trong lòng đất, tao nói thiệt với tụi bây, tao cũng bám riết theo sát gót mà đòi cho bằng được tao mới nghe. Tao đố trong đám tụi bây có đứa nào dám thử trốn cho tao xem nào! Tao thách bây đó.


Thêm nữa, có mất mát bao nhiêu để chú Hai Khình phải bận lòng lo lắng? Mà dù có người trốn mất nơi nào đi nữa, chú cũng tìm đến tận ổ mới nghe. Đúng với những lời chú mới vừa thách thức kia mà. Không phải vì chút ít tiền thịt chẳng đáng bao nhiêu so với thời gian và công sức đi đòi mà cốt chỉ để chú có cơ hội phân giải việc phải trái ở đời. Chú cười hô hố tự hào ra mặt. Nhưng trong thực tế, từ khi làm cái nghề tay trái thọc huyết heo chia thịt trong xóm, chú chẳng bao giờ phí công phí sức đi tìm một lần nào cả. Vì chẳng một ai ở xóm Rạch Rít quê mùa lại bỏ làng bỏ ấp trốn đi chỉ vì một vài ký thịt nhẹ hêu, ăn vào chẳng thêm mập béo gì. Lối sống tin cậy lẫn nhau này lưu truyền từ đời cha ông xa xưa trở thành khuôn vàng thước ngọc trong giao tế và cách ứng xử hằng ngày của bà con tôi, vốn lấy chữ tín thành làm gốc. Có khi chú Hai Khình lỡ đến thâu tiền sớm vài ngày còn bị trách khéo:


- Bộ sợ tôi bỏ xứ trốn biệt không trả hay sao mà đến thâu tiền sớm vậy anh Hai? Nhiều nhỏi gì đó sao lại thúc hối? Anh coi nhẹ tôi quá chừng chừng vậy! Còn hơn tờ giấy quyến hút thuốc hay sợi lông chim không bằng! Thịt ăn còn nghèn nghẹn ở cổ họng, đừng nói chi qua khỏi bao tử nữa kìa!


Hôm nay, bà tôi phải trả tiền dứt khoát cho bằng được, bà mới an tâm vững bụng. Vì nếu chú Hai Khình bận việc dồn dập hay lo ra lơ đểnh quên lững không qua nhà bà tôi thâu tiền trước chiều ba mươi Tết, bà coi như còn mắc nợ chú. Chẳng phải chỉ có món nợ thịt thà hôm nay thôi đâu. Như vậy năm mới năm me xui xẻo lắm. Theo bà tôi, suốt năm tới, chắc chắn chạy đàng trời không khỏi, nợ nần sẽ bũa vây ngập lút đầu hay ít ra mùa màng thóc lúa cũng thất bát tai hại. Một điềm chẳng lành theo nhận xét của bà. Và bà tôi nhứt định phải tránh bằng mọi giá.


Năm nọ, mẹ tôi đi dạy học ở Sò Đo, thị xã Tân Phú Thượng. Thuở thực dân Pháp còn trong thời kỳ huy hoàng, thị xã này thuộc địa phận quận Đức Hòa tỉnh Chợ Lớn, thời Việt Nam Đệ Nhị Cộng Hòa trở thành tỉnh Hậu Nghĩa. Địa danh Sò Đo theo sự giải thích của nhiều nhà nghiên cứu am tường về đất đai, địa lý và thảo mộc là do nơi này ngày xưa người địa phương có trồng nhiều cây sò đo, một loại cây giờ đây hiếm hoi, có cơ tiệt chũng là khác. Vì vậy, người đời sau lấy tên cây đó đặt để cho vùng đất ấy. Về danh xưng của cây sò đo cũng phức tạp lắm. Riêng ở vùng đất này có đến đôi ba loại khác nhau. Theo các nhà chuyên môn, dầy công nghiên cứu và xếp loại thực vật mà tôi có đọc đâu đó thì cây sò đo có hai loại chính. Thứ nhất là cây sò đo màu cam được người ta phân biệt dễ dàng nhờ hoa nó to lớn màu đỏ cam. Thứ hai là sò đo màu vàng. Dĩ nhiên hoa nó màu vàng tim tím, nở tốt tươi tứ mùa. Cả hai loại đều rất đẹp, có mảnh lực quyến rủ, lôi cuốn người thưởng ngoạn vào mùa trổ hoa. Việc đặt để tên đất như vậy cũng chẳng lạ lẫm gì đối với người Việt Nam rất yêu thích và khắng khít với thiên nhiên vạn vật. Người ta bắt gặp nhiều địa danh nổi tiếng nơi quê hương tôi mang những tên cây cối như Vàm Cây Trôm ở tỉnh Chợ Lớn, vùng Cây Quéo tỉnh Gia Định và khu Cây Da Xà thuộc Quận Sáu Đô thành Sài Gòn chẳng hạn.


Trường học ở Sò Đo Tân Phú Thượng có năm lớp khang trang nằm sát trục giao thông khoảng giữa chợ Bàu Trai và Hãng Đường Hiệp Hòa. Những ngày lễ lớn, tôi có đến Sò Đo sống với mẹ tôi và giữ nhiều kỷ niệm đến nay vẫn tốt đẹp đậm đà. Khác hẳn với xóm Rạch Rít của tôi, vùng này thuộc đất cát, một màu vàng lợt mịn màng. Chúng tôi chạy giỡn băng ruộng băng đồng không khi nào sợ bùn đất dính vào chưn nhão nhè nhão nhẹt. Vạt đất này lúc bấy giờ hãy còn nhiều khu rừng nhỏ rải rác đó đây. Nhà cửa từng cụm không được bao nhiêu cái, cách nhau không xa. Có nhiều cái nằm chơi vơi đơn lẻ một mình, hắt hiu u trầm. Dù không sống tập trung thành từng cụm, từng xóm đông đảo nhưng dân tình vẫn qua lại tương trợ trong công việc đồng áng ngày mùa. Nhờ đó cuộc sống tuy vất vả nhưng không đến đỗi cô đơn buồn tẽ lắm. Chim chóc hằng hà sa số, bay nhảy trửng giỡn ríu ra ríu rít tối ngày nhờ những khu rừng chồi cây lá xanh tươi quanh năm. Khổ nỗi, chúng thường bị thợ rừng hay đám trẻ cò ke lục chốt ranh mảnh, ngày ngày không ngớt săn đuổi, tìm kiếm, rình rập đánh bẫy, xem như một nguồn lợi sinh sống không kém phần quan trọng của gia đình họ. Loại bẫy được thông dụng nhứt là lưới giật tay. Mỗi lần, chim chóc lớn nhỏ đủ loại sa lưới rất nhiều. Mẹ tôi lâu lâu về thăm nhà một lần. Người tha hồ chọn lựa, mua ăn mệt nghỉ. Nhứt là hai loại cu cườm, cu ngói mập lút vào mùa gặt, ức tròn quây nặng trìu trịu.


Con đường nhựa duy nhứt xuất phát từ ngả tư nơi nhà lồng chợ Phú Lâm dẫn đến thị trấn Hiệp Hòa, nhứt thiết phải chạy ngang qua trường tiểu học Sò Đo tức làng Tân Phú Thượng. Con đường độc đạo này lúc bấy giờ nhiêu khê trắc trở vô cùng. Nhiều nơi lởm chởm đá xanh bén ngót. Từng đoạn, người ta thấy lục lộ năm ba người, hằng ngày làm việc thư thả, được không mừng mất không hay như lục bình trôi. Họ chậm rãi trám sơ sài bằng đất thịt lấy từ những thửa ruộng hay vườn tược hai bên lề đường. Chỉ vài khoảng được tráng nhựa bằng phẵng nhưng rất ngắn. Còn lại rải rác nơi này chỗ kia có những ổ gà, ổ trâu, cả ổ voi lở lói tầy quầy... úng nước lầy lội, dơ bẩn đục ngầu. Vào mùa mưa, người dân khấp khởi vui mừng vì không còn bụi đường tung bay ngột ngạt nhưng cỏ dại mọc dài theo mé lộ đâu còn màu xanh tươi mướt dịu mắt. Trái lại, chúng nó trở thành một màu vàng sậm u tối, co ro nằm mẹp sát mặt đất, héo queo héo quát như sắp chết rũ vì bị khách bộ hành dẫm đạp hằng ngày. Các bác đánh xe thổ mộ phải xuống dẫn ngựa từ từ đi qua những nơi lầy lội sâu hóm này, đôi mắt thom lom hồi hộp. Họ sợ xe lật ngang bất thình lình nguy hiểm. Xe nào may mắn không lật thì dằn xốc đến ngất ngư trong khi hành khách cố níu vào thành xe ngồi im thin thít. Con đường đã vậy. Phương tiện di chuyển còn khó khăn gấp bội phần. Xe hơi chỉ le hoe mấy chiếc xe vận tải lớn nhỏ của Hãng Đường Hiệp Hòa, mỗi ngày chạy vài chuyến khứ hồi, theo giờ giấc nhứt định để chuyên chở các loại sản phẩm về Đô thành Sài Gòn. Chánh yếu là đường cát trắng và rượu "rhum" sản xuất từ mía. Những lúc đó, tiếng động cơ như cứ ngân dài hun hút trong không gian vắng vẻ quạnh hiu.


Ngoài ra còn vài chiếc xe du lịch sắc màu lộng lẫy bóng loáng của mấy ông Tây chủ hãng hay viên chức cao cấp của công ty, bụng bự râu xồm, chở mấy "bà đầm" thực dân, áo quần bảnh bao, son phấn loè loẹt, thân hình thuộc vào hàng nặng cân nặng kí... Những chiếc xe này chạy bon bon, phóng nhanh tới trước bất kể những người dân quê khó nghèo đi bộ dọc theo hai bên vệ đường. Tài xế trang sức chỉnh tề đẹp mắt. Đầu đội "kết" với áo quần một màu trắng phếu, ủi thẳng thóm. Anh ta thỉnh thoảng bóp còi inh ỏi để lưu ý bộ hành trong khi xe tiếp tục tung bụi mịt trời mịt đất, thứ bụi cát màu vàng màu đỏ, vừa sẫm đục vừa nhàng nhạt, màu của trăm năm, màu của ngàn năm khốn khổ... làm xốn mắt khó chịu. Một bức tranh quê với hai phong cảnh màu sắc đối nghịch hoàn toàn nhau. Kỳ dư là xe bò, xe trâu, cộ trâu, xe thổ mộ do ngựa kéo nên dân gian nôm na gọi chung là xe ngựa, chuyên chở dân nghèo và hàng bông hàng hóa đủ loại từ trạm này đến trạm kia ở những tuyến ngắn. Đường xa, khách phải sang xe từng chặng. Ngoài ra thông dụng nhất là mấy chiếc xe đẩy tay đủ loại tùy nhu cầu của từng người và từng địa phương. Dù sao, ngay như chiếc xe bò lịch kịch nặng nề, xê dịch chậm như rùa, nhưng rồi vẫn tới nơi tới chốn an toàn, vui vẻ cả khách lẫn chủ xe. Thỉnh thoảng, đôi ba chiếc xe đạp xuôi ngược, phần lớn chủ nhơn còn đèo thêm bà vợ bé nheo nhẻo hay "cô mèo" trẻ măng tươi rói, ghé cái mông bó sát tròn vo trên sườn xe, ngồi gọn lỏn trong vòng tay người lái. Còn cảnh tình tứ âu yếm nào bằng! Có khi họ đèo một đứa bé non chẻo non chèo, ngồi co rúm cứng đơ bất động trên "bọt ba ga" phía sau. Nó đội nón lụp xụp, mặt mày hốc hác, bậm môi có vẻ lo âu sợ hãi, đôi mắt ngây thơ dường như giản nở vì mãi chăm chú tập trung. Hai tay nó ghì níu, cố bám ôm chặt eo ếch người lái, trông tư thế của nó rất dễ thương và tội nghiệp làm sao!


Cứ vài tháng, mẹ tôi về thăm chúng tôi một lần vào chiều thứ sáu để đến khuya chúa nhựt lại phải khăn gói xa rời chúng tôi. Người đi xe ngựa hay thổ mộ chuyền từng đoạn một, lụp cụp leng keng, leng keng lụp cụp... có khi khuya lơ khuya lắc mới tới nhà.Trong khi đó, anh chị em chúng tôi ngủ say sưa, đất trời bất biết. Đường xa diệu vợi. Vả lại, phương tiện di chuyển vốn đã thô sơ chỉ trông cậy duy nhứt vào sức bền bĩ dẻo dai của ngựa, còn phải sang xe mấy chặng nên khách có cảm tưởng như con đường "thiên lý" này càng diệu vợi ngun ngút thêm. Khách trên xe, mới lạ sau quen. Câu chuyện xã giao theo phép lịch sự thông thường ở làng quê buổi ban đầu bỡ ngỡ ngại ngùng rồi cũng qua mau, nhường chỗ cho sự niềm nở chuyện trò thân mật, dòn còn hơn bắp nổ. Chỉ chốc chốc, họ giựt mình im lặng khi bác đánh xe thọt đầu roi vào câm xe nghe lộc cộc lộc cộc... để lưu ý đám trẻ con rong chơi trửng giỡn ven theo vệ đường. Hay lúc bác quất roi lên mui xe phành phạch phành phạch liên hồi nhằm thúc hối con ngựa mau sải bước. Thói thường, bợm nhậu hay nói, một khi đã chấp nhận cùng nhau ngồi chung bàn rượu thì tất cả kể như anh em cật ruột trong nhà. Không có gì phải ái ngại, khách sáo cách ngăn. "Trà tam rượu tứ" mới tuyệt vui. Cũng một trường hợp. Đối với khách cùng đi chung nhau trên một cổ xe đường dài, nhứt là khi xe chạy chuyến đêm, họ xem nhau như thân tình không khó. Hơn nữa, ở Miền Nam, cứ nhìn dáng vóc, sắc diện và giọng nói của người đối thoại, thấy mình nhỏ về tuổi tác, dù đôi ba tuổi vẫn không ngần ngại gọi họ thân mật bằng anh, bằng chị. Nếu lớn hơn nữa thì gọi bằng chú bác, thím dì... rất tự nhiên. Cho nên có lúc người ta có cảm giác như họ đã quen nhau, biết nhau từ muôn kiếp trước. Chẳng bao lâu, họ bắt đầu đấu chuyện tào lao, trời trăng mây nước, những chuyện chấp nối không vào đâu cứ vang vang không lúc nào dứt. Ngay như bác đánh xe, gương mặt xương xương khắc khổ với những lằn nhăn trước tuổi khuyết sâu hóm, không biết đích xác bác được bao nhiêu tuổi đời và hành nghề kham khổ khó nhọc này được bao nhiêu năm tháng. Nhưng tánh tình rất mực vui vẻ bặt thiệp, miệng vẫn cứ bô lô ba la không ngớt. Có bà khách buôn bán rau cải, hằng ngày đều có đi xe bác. Trông bà có vẻ thân mật gần gũi lắm. Bà buôn lời:


- Ối! Hơi sức đâu mà hỏi tuổi tác ảnh. Ảnh mà có tuổi? Xưa rày vẫn vậy. Ảnh có bao giờ nhớ nổi tuổi đâu! Ảnh thuộc hạng người trên trái đất lăn quay này không có tuổi. Gánh đời của ảnh nặng quá, làm sao mà nhớ.


Rồi bà tiếp:


- Coi vậy mà hai vợ đó bà con! Trông ảnh mù mì mủ mỉ mà lầm chết. Con cái hai dòng lủ khủ. Ảnh lu bu lắm! Thử hỏi ảnh mà biết cho tôi chết đi!


Chập chập, bác đánh xe cũng tham gia vào câu chuyện giúp hành khách quên đi phần mệt nhọc và nhứt là bớt buồn ngủ. Bác nhờ vào cái tài hóm hỉnh ăn nói có duyên, vừa đúng lúc, vừa hợp tình tiết khiến mọi người không ai nín cười lâu được. Hôm bãi trường để về ăn Tết Nguyên Đán, lúc đến chợ Bàu Trai, mẹ tôi có ghé mua vài xâu nem chua, nhân khi bác đánh xe thổ mộ dừng lại rước thêm hành khách cho đủ cổ. Hoặc chở thêm chút ít hàng hóa lấp vào khoản chi phí mua cỏ và lúa ngựa ăn. Và cũng để ngựa nghỉ chân dưỡng sức năm mười phút, quá lắm là một khắc đồng hồ nhằm chuẩn bị nuốt trôi đoạn đường dài hun hút sắp tới. Đoạn đường nhiêu khê trắc trở này, hầu như hoang vu, lâu lâu mới thấy một mái tranh lẻ loi nằm lạnh lùng sát bên cánh rừng chồi hay một thum lá nghèo nàn xơ xác với ánh đèn dầu mờ ảo, leo lét xa xa giữa màu đêm đen dầy mịt. Ếch nhái uềnh oang não nuột và bầy đôm đốm lập loè như ma trơi bên những buội rậm sẫm tối, càng dấy lên trong lòng những người xiêu lạc, trôi nổi mưu sinh nơi xa xôi như mẹ tôi một nỗi buồn hoài hương thấm thía. Nem ở Bàu Trai nổi tiếng là nem ngon nhứt trong vùng. Mỗi xâu là một chục đủ đầu, loại nem to lớn, gói bằng lá chuối xanh mướt. Mua nhiều xâu cùng một lúc có thể kỳ kèo thêm bớt một chục mười ba hay mười bốn. Người bán còn ân cần hết lời mời mọc khách hàng đừng ngần ngại, cứ nếm thử trước rồi hãy mua sau cũng chẳng muộn chi. Mẹ tôi mua cốt ý đem về biếu xén làm quà cáp ăn lấy thảo của người đi xa về, nhân dịp Tết nhứt. Những người bán trong chợ giành giựt níu kéo khách mua bằng lời. Họ không ngớt miệng gọi mời dẻo nhẹo, không tài nào ngoảnh mặt làm ngơ bỏ đi được. Họ cam đoan, đảm bảo chắc như đinh, nem gói với lá chùm ruột non, được cả tuần hơn hoặc vừa chín tới, ăn được ngay.


Chiếc xe thổ mộ khởi hành không lâu sau đó. Bác đánh xe mừng ra mặt khi xe đủ cổ, tức đủ sở hụi. Con ngựa sắc hồng trong thời kỳ sung sức cứ gõ nhịp khô khan trầm buồn, lụp cụp leng keng, leng keng lụp cụp... theo tiếng lục lạc rổn rảng nhịp nhàng. Chạy được một đỗi độ năm ba cây số ngàn, chiếc xe chở chật nức hành khách lớn nhỏ bỗng gặp một ông khách đang cỡi chiếc xe đạp hiệu "an xi ông" đắc giá, đen huyền, láng coón. Chủ xe đạp ra sức cố nhấn bàn đạp, khòm lưng đuổi rút theo. Ông ta sắp bám sát phía sau xe thổ mộ mong núp gió cho đỡ mệt. Trời đã tối khá lâu rồi. Cảnh vật hai bên vệ đường vắng hoe, lạnh lùng dễ sợ. Đêm không trăng. Chỉ thấy xa xa từng chập, ở những gò hoang mênh mông bát ngát hay dọc theo những chéo đất bỏ phế, cỏ lác năn sậy mọc loạn xạ không quá gối, vài ngọn đèn chai soi cá, soi chim khúm núm. Ánh sáng le lói bập bùng như hồn ma bóng quế vui đùa trửng giỡn ở những truyện liêu trai rợn tóc gáy của tác giả Trung Hoa Bồ Tùng Linh hoặc của các cụ nhà mình: Lý Tế Xuyên, Vũ Quỳnh, Kiều Phú... Câu chuyện của các bà bất tận. Họ tuần tự kể nhau nghe những mẫu đời buồn vui sướng khổ, quanh quẩn các đề tài nhân nghĩa đạo lý về thiện ác, về oan khiên nghiệp báo. Câu chuyện của các bà không bao giờ đứt đuôi. Chẳng khác chi các chương các hồi ly kỳ hấp dẫn, cứ nối kết không thôi nhưng cuốn hút trong những pho truyện Tàu dầy cui như Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa hay Thủy Hử, Phong Thần... Trăng bắt đầu từ từ nhô lên mắc lững trên cao hồi nào không ai quan tâm đến. Ánh trăng yếu ớt vừa đủ để soi rọi cảnh vật mờ mờ ảo ảo chung quanh, khi xe chạy ngang một xóm vắng, nằm vắt chơi vơi trên vạt đồng lúa ngút mắt. Gió bắt đầu thổi mạnh từng đợt ở những đoạn đường trống trải. Hai bên vệ đường chẳng có một bóng cây, chẳng có một mái chòi nào cả sau khi xe ra khỏi xóm một đỗi. Chiếc xe đạp núp gió xe thổ mộ trong hoàn cảnh lý tưởng đó, dù chỉ ở một khoản đường ngăn ngắn cũng đỡ cho chủ xe biết mấy. Người cỡi xe không đến đỗi khoẻ re, nhưng cũng chẳng phí sức nhiều. Ông ta tránh được những trận gió đồng se lạnh thỉnh thoảng tạt thẳng vào làm rát rạt cả mặt mày. Ông ta tỏ ra rất bằng lòng sung sướng còn hơn lúc mấy tay ghiền đánh dà dách vui chơi hỉ hạ ba ngày Tết, bài bắt lên hé mắt chớp thấy chộ đúng mười một nút rồi thò tay nâng nhè nhẹ đít bộ bài kéo trúng phóc thằng Tây già râu xồm hay mụ đầm đẹp gái đang cười duyên hoặc anh bồi tình tứ. Hoặc giả lúc đánh tứ sắc chờ tới, trong lòng thấp thỏm nóng hơ, lật đúng ông tướng xanh tướng đỏ.


Ông khách cỡi xe đạp tuổi xấp xỉ năm mươi hay hơn đôi chút. Gân cốt ở vào tuổi đó cũng đã bắt đầu có những triệu chứng giảm sút thê thảm vì tuổi thọ của dân Việt Nam mình thuở xa xưa này thấp kém lắm. May mắn sống đến sáu, bảy mươi kể như người đại phước, cái tuổi mơ ước của thi ông Đỗ Phủ ngày xưa bên Tàu. Trong xóm tôi, số người thổ công, cựu trào thọ đến tuổi này đếm chưa bao giờ giáp mười đầu ngón tay. Qua dáng vóc và phong cách ăn mặc, xem ông ta ra tuồng một viên chức Hội Tề thuộc vào hàng phế cựu nghinh tân. Một con người mới thời buổi "Pháp Việt đề huề". Quần tây màu cức ngựa xếp nếp. Ống quần bên mặt được kẹp kỹ lưỡng bó sát ống chân, tránh bị vướng hoặc bị quấn vào dây "sên" có thể gây té ngã nguy hiểm. Áo bành tô màu xám tro lượm thượm, ông ta bỏ thòng không cài nút. Hai vạt trước bị gió đồng thổi mạnh từng cơn thường bật ra hai bên, đập nghe bành bạch, bành bạch... Hoặc giả chắc cũng là một tay công tử bột giàu có, hạng “phá gia chi tử”, con rơi con rớt của các vị Hội đồng, Cai tổng hoặc phủ hàm, huyện hàm hay chủ điền chủ đất. Các vị này dư giả của tiền, hào hoa phong nhã với bà chánh bà bé hàng tá, vẫn được nhìn nhận đàng hoàng với nhà cửa kinh dinh. Đó là chưa nói đến các bà chỉ được gá nghĩa hào mé những đêm thanh vắng hữu tình khi các ông chủ điền đi thăm các sở ruộng hoặc thăm đàn trâu cho mướn. Các ông xa nhà nhiều ngày... lỡ có con đều khai họ mẹ, vẫn được các ông cung cấp bảo bọc, tuy không danh chánh ngôn thuận. Trường hợp này không phải ít, trái lại nhan nhản khắp nơi. Gặp những năm mùa màng thất bát, tá điền dẫn con gái đến nài nĩ vang xin cho được ở đợ trừ tô. Do đó họ tạo hoàn cảnh thuận tiện để các ông chủ điền bay bướm khát khao của lạ có thêm nhiều nàng hầu trẻ măng.


Ông khách cỡi xe đạp này chắc đi ăn giỗ hay đi nhóm họ đám hỏi đám cưới nơi xa về trễ? Trông gương mặt ông có vẻ lừ nhừ mệt mỏi do thù tạc quá chén? Dù vậy, ông ta vẫn kềm giữ "ghi đông" xe vững vàng lắm. Nhưng khổ nổi, ông ta lẩm cẩm đảng trí sao đó hoặc đang lúc bị ma men bắt đầu gậm nhấm hành hạ ở giờ phút này nên quên trước quên sau. Ông nhè quên lửng cài hàng nút quần tây, để tự do thoải mái cho thằng trời đánh thánh đâm nhóc con, bản tánh ranh mảnh liếng thoáng, đã bị Thượng Đế uy quyền và nghiêm khắc kết án cầm tù chung thân cấm cố nơi chỗ nóng nực chật chội do những tội ác tầy trời của nó gây ra ở thế gian lắm chuyện. Cái thằng thánh vật ó đâm, mắc dịch mắc gió, từng là đầu mối của bao nhiêu đổ vỡ trong gia đạo từ thuở ông Bành Tổ tới giờ, nó chụp lấy ngay cơ hội "ngàn năm một thuở" đó, chẳng chút chần chừ, thò đầu ra ngoài hóng gió. Mặt mày nó tỉnh bơ, đỏ gay, lạnh như tiền. Nó xem trời bằng vung. Mặc kệ tiếng đời thị phi. Mặc kệ con mắt phàm phu tục tử dòm ngó. Nó như cả gan thách thức những người đàm tiếu về nó nữa. Nó tỏ ra quá đỗi sung sướng còn hiu hiu tự đắc là khác. Nó giống như những thằng nhà quê ngu ngơ khờ khạo, dốt nát mới chân ướt chân ráo lò dò ra tỉnh lần đầu tiên trong đời. Nó trố mắt ngạc nhiên, không thôi ngắm nhìn cảnh vật lạ lẫm biến đổi không ngừng chung quanh nhờ bám vững chắc vào yên xe. Rồi nó cứ lắc qua lắc lại, lắc tới lắc lui theo nhịp đạp hai chân đều đều của ông bố bê bối. Trông nó gật gù ngả nghiêng, nghiêng ngả giống hệt như mấy anh chàng bợm nhậu, say rượu bất cần đời. Trên xe thổ mộ, mấy bà bán trái cây và hàng bông, chồng con lũ khũ đầy đàn, tỏ ra dạng đèn lắm. Các bà liếc nhìn, lại tưởng tượng quá đà. Hôm đó, các bà phá lệ, bắt đầu tha hồ tếu đủ thứ chuyện phòng the, "thâm cung bí sử", cả những mẫu "hận tình đầm đìa nước mắt" hay ghen tuông ở xóm mình. Có nhiều chuyện ngoắt ngoéo rất thương tâm chưa đến hồi kết thúc đã làm nghẹn cả cổ họng người nghe. Nhưng cũng có những chuyện vừa lọt vào lỗ tai đã khiến họ tức sặc gạch hoặc phải bật cười muốn vỡ cả bụng. Chập chập, họ phá lên cười dòn rân trong khi ông khách lái xe đạp vẫn vô tư vô lự. Ông ta phớt lờ tỉnh bơ, xem như không có chuyện gì đáng tiếc xảy ra cả. Đôi khi ông ta chẳng biết vì sao các bà lại phá lên cười dòn như thế nên cũng cười duyên đồng cảm. Rồi ông ta tiếp tục miệt mài lo nhấn bàn đạp bám sát khít đeo chiếc thổ mộ để núp gió. Trọng tâm của ông ta lúc này chỉ có thế.


Đường lồi lõm tệ hại. Chiếc xe lúc lắc nhồi xóc liên hồi. Những lúc đó, mấy lục lạc quanh cổ con ngựa càng thêm rộn rả thúc bách. Còn nói gì thường xuyên xe cán lên đá xanh, đá đỏ bật vào lề chồng chành. Thình lình chiếc thổ mộ sụp ổ gà hay ổ trâu, dằn một cái thốn bàng quang, nhảy tưng tưng. Đầu mỗi người thiếu điều chạm lên mui xe. Cũng may, lâu lâu mới có một lần, những khi bác đánh xe gật gù ngủ gục. Còn việc chạm vào hai bên thành xe, người này va chạm mạnh hay đè lên người kia, kể như chuyện bình thường, lúc nào cũng có. Khách không khi nào ngồi yên được vài giây đồng hồ. Càng về khuya, câu chuyện tào lao cũng cạn dần, nhứt là lúc ông khách cỡi xe đạp đưa tay phải báo hiệu rẽ về phía con lộ đất đỏ để mất hút trong vắng vẻ đen ngòm của đêm khuya. Trong cảnh u tối hắt hiu lạnh lùng đó, không biết ông ta làm sao mằn mò về đến nhà an toàn được? Và câu chuyện quái quỉ tinh nghịch chung quanh thằng tù trời đánh chung thân cấm cố lúc nảy cũng tắt hẳn lúc nào không ai để ý đến. Sự buồn ngủ bắt đầu dầy vò các bà. Phần đói bụng, mấy bà khởi sự bày ra bánh trái mang theo để ăn cầm hơi. Các bà rất thảo ăn và tốt bụng lắm do bản chất người chơn quê. Họ giới thiệu từng trái cây ngon, chia xẻ từng cái bánh đặc thù của địa phương mình, còn chu đáo mời mọc ngay cả bác đánh xe. Bác đã quen chịu đựng với những bữa đói bữa no do những chuyến đường dài thất thường, sái cả giờ giấc cơm nước nhưng vẫn tham gia cho thêm vui nhộn thân tình.


Mẹ tôi và bà bạn đồng liêu cùng về trên chuyến xe lắm chuyện đó, sẵn có mấy xâu nem bà mua ở chợ Bàu Trai cũng tháo ra ăn mấy chiếc. Hai người khen nem chua ngon đáo để, nêm nếm vừa miệng, thêm mấy lát ớt hiểm xanh cay không đến hổn hào khó chịu. Cả hai còn hứa hẹn những kỳ về sau này, nhứt định phải ghé Bàu Trai mua cho bằng được. Bà bạn của mẹ tôi còn dong dài, không hết lời tấm tắc tâng bốc nem Bàu Trai ngon hảo hạng, hơn nem Bà Điểm hay Cai Lậy gấp bội. Thật ra bà đã đề cao quá lời vì thực tế nem Bàu Trai dù có ngon cách mấy cũng không sao so bì với hai loại nem vùng Bà Điểm và Cai Lậy, vốn đã nổi tiếng từ bao nhiêu thập niên nay rồi. Có một điều rất dễ hiểu là bà bạn của mẹ tôi quả giàu tính cục bộ, đầu óc nặng chất địa phương hẹp hòi nên bất cứ cái gì thuộc riêng vùng mình ở, bà đều xem trội hơn của người khác. Cái tính cục bộ và cái chất địa phương ấy rất phổ cặp trong quần chúng dân gian, không ai phủ nhận được. Nhưng xét cho cùng, cũng nhờ đó mà mọi người có chung một quyết tâm, cố gắng đóng góp sức mình để tiếng tăm nơi họ cư ngụ ngày càng bay xa hơn. Dù biết như vậy nhưng mẹ tôi cũng gật gù cười mỉm, tỏ vẻ biểu đồng tình mua lòng bạn. Thực ra, trong lúc đói hay thiếu thốn, ăn món chi mà chẳng thấy ngon!


Mùng một, mùng hai Tết, thức ăn thức uống ê hề. Nhà nhà vẻ duyên đủ món ăn truyền thống, những món ăn có thể để lâu ngày mà chẳng hư hao hôi thối chi cả. Chẳng hạn như thịt ba rọi luộc trước rồi ướp ít muối bọt chính hiệu Ba Thắc bên ngoài, đến lúc ăn chỉ cần xắt phai vừa miệng, đem trụn nước sôi, trở nên mềm nhủn hấp dẫn và tiện lợi vô cùng. Như thịt heo kho tàu với nước dừa bị thơm ngon, giò heo hầm với măng tre vừa xắn trong vườn nhà, lạp xưởng tự làm lấy, no tròn tươm mỡ. Hay vịt phơi khô ép dẹp dẹp, nhờ dằn nhiều ngày dưới cối đá, bắt chước theo kiểu vịt Tứ Xuyên phơi khô bên Tàu để giành ăn vào những ngày lũ lụt kéo dài, lúc ăn, hấp với gừng bắt cơm lắm v.v... Đến đâu cũng được ân cần mời mọc, đãi đằn trọng vọng. Qua mấy ngày sau, thức ăn vơi dần. Thêm vào đó, ai ai cũng ngán cảnh tái đi tái lại "nồi xà bần" lớn đại để ấp lủng ở bếp lò. Nhằm đổi bữa, thay khẩu vị, mẹ tôi lấy mấy xâu nem Bàu Trai ra ăn. Lớp cuốn bì nem, lớp bún nem như dự định. Chiếc nào chiếc nấy to lớn đẫy đà, nặng trìu trịu nhưng không được chặc chẽ hồng hào như nem nhà do bà tôi quếch và gói lấy. Nhưng khi nhìn kỹ, mẹ tôi thấy ở từng chiếc nem có những con vật nhỏ ríu, trăng trắng, nhúc nhích liên hồi. Thì ra, không biết có phải xâu nem mở ra từ sáng để cả buổi trời nên đã bị vòi con đục khoét lểnh nghểnh chăng? Mẹ tôi bỗng nhớ đến chuyến về đêm trên chiếc xe thổ mộ đường trường ở tuyến Bàu Trai, Phú Lâm, vụt rùng mình rởn da gà, buồn nôn ghê xương. Rồi mẹ tôi bảo hôm ấy ăn nem ngon có lẽ nhờ mấy con vòi béo bổ này chăng? Nhưng người thoáng buồn ngay sau đó khi nhớ đến mấy xâu nem mẹ tôi đã biếu bà con để ăn một cái Tết không hên...





**


Ngồi ghi kỷ niệm về những cái Tết năm xưa, lòng tôi xao xuyến nhớ thương quê hương vô vàn. Ngày đó, tôi đã từng lặn lội khắp nơi trên cái chéo chôn nhao cắt rún của tôi và đã thực sự sống trọn vẹn với thiên nhiên cố thổ. Tôi đã nghe tận tai, chứng kiến tận mắt cảnh bà con tôi noi dấu chân cần lao khổ nhọc của tổ tiên, qua bao nhiêu thế hệ tuần tự tiếp nối làm giàu đất đai khai khẩn ngày trước. Nhờ đó, tôi khắng khít, gắn bó keo sơn với nếp sống chân tình, thủy chung như nhứt của bà con tôi. Lớp người chơn chất này "ăn chắc mặt dầy", nhập tâm những điều ngay lẽ phải, "tri túc bất nhục", nói năng cẩn trọng như đinh đóng sâu vào cột cẩm lai, câm xe... Một lớp người nhẫn nại chịu đựng, lấy gian khổ vương lên xây dựng lâu dài hạnh phúc gia đình và bản làng thôn ấp. Càng gian khổ lao nhọc bao nhiêu, càng chung lưng đâu cật chia xẻ cay đắng thăng trầm bao nhiêu, tình cảm của họ càng thêm nồng nàn sâu đậm bấy nhiêu. Và những kỷ niệm làng quê, tôi đã hơn một lần trải qua trong thời gian lang bạt mộng mơ của tôi nơi quê nhà, nay vẫn lưu lại sáng trưng trong tôi một chút gì man mác, khó tả, một chút gì êm đềm dễ thương. Từ một làn hương thoang thoảng đưa đến qua cơn gió trong lành ở một góc đồng không mông quạnh, từ một màu hoa sắc lá quen quen tầm mắt tôi ngay thuở còn nhỏ hếu... để mãi mãi gây nhớ gợi thương, để mãi mãi bắt tôi phải tìm về. Có lẽ những cái dù nay đã bị thời gian phũ phàng xoi mòn đục khoét, mất mát đi ít nhiều tình tiết lãng mạn, thơ mộng nhưng vẫn còn đầy đủ ma lực trói buộc vĩnh viễn tôi với quê hương, với lòng đất mẹ. Cho dù đến hơi thở cuối cùng, chắc hẳn tôi vẫn còn ấm ức nuối tiếc.


Tôi có thói quen thường hồi hướng lang thang trở về quá khứ, sống lại những ngày qua xa hút, xem như một phong cách đương nhiên của con người trần tục, lúc tuổi xuân đã bị bỏ lại quá xa sau lưng mình. Ngoái nhìn lại mới hay giờ đây mình đã quá đủ già để nhắc nhớ không sai sót, không lầm lẫn những kỷ niệm của thuở ấu thời chóng qua. Và cũng để nhận rõ ra rằng mỗi cuộc đời đều phải có trước có sau, có cội có nguồn, có căn cư gốc rễ. Cái phần có trước có sau đó được người đời văn vẻ, hoa hoè gọi là "lịch sử", là quá khứ, là dĩ vãng... trong khi người bình dân nói một cách nôm na chơn quê: ngày xưa, lúc đó, hồi năm nẳm... Dù chỉ trong phạm vi nhỏ hẹp của một đời người quá ư ngắn ngủi nhưng nó cũng đủ mảnh lực để ban hiến cho lớp con cháu cùng những thế hệ về sau trong dòng tộc một sức sống tàn ẩn, thiêng liêng, một cái hồn để qua cảm nhận riêng tư của mỗi cá nhân mà hãnh diện tự hào, mà thương nhớ cảm thông. Tôi nghĩ con người cũng như xã hội hay bao la hơn nữa là quốc gia, dân tộc, cần phải nhớ, phải ghi lại tất cả, nhớ những thăng trầm, thành bại, ghi những vui buồn, sướng khổ... Vì đó chính là một hình thức cần thiết, một căn bản vững chắc để hiện hữu và sinh tồn. Sinh tồn và hiện hữu ở đây không phải để hoài niệm trong thụ động, bất lực buông xuôi mà trái lại, là một động cơ, một sức mạnh, một đòn bẫy nhằm hướng thượng vươn lên ở tương lai. Tôi cũng nghĩ, người Việt Nam ly hương đã từng bì bõm lặn lội ở những chéo rừng vạt đất, ở những bãi bồi đầm vũng, đã từng xuôi ngược kinh rạch sông nước nơi dải đất Miền Nam thanh bình trù phú ngày trước. Nay do hoàn cảnh trắc trở ngang trái của dòng sử mệnh oái oăm, dù xa cách quê hương thân yêu vạn dặm, lắm lúc họ không thể không nghe trong sâu thẳm lòng mình như có những vạt đất chéo rừng, những đầm vũng bãi bồi, những ruộng vườn điền đất, những kinh mương sông rạch đan quyện chằng chịt ngày xưa ấy luôn rung rinh, cục cựa không thôi dưới đôi chân mình. Tất cả như để nhắc nhớ réo gọi họ đứng lên đồng hành theo bước chân những bực tiền bối đi khai hoang, mở đất, lập quốc. Tôi nghĩ và hy vọng như thế. Và nhứt định, họ sẽ không thể nào không soi rọi bản thân mình. Họ không thể nào không tham gia đóng góp, dù ít nhiều, dù lớn nhỏ, dù cụ thể hay tượng trưng nhằm góp phần bảo vệ miền đất ấy trong vận hội mới của Tổ quốc, của Dân tộc ở giai đoạn hiện nay. Mọi người trong cũng như ngoài nước đang tập trung đấu tranh xây dựng một quốc gia dân chủ, tiến bộ, không còn bóng dáng của những người cộng sản vô thần hại dân hại nước từ bao nhiêu thập niên qua. Một quốc gia thống nhứt thực sự độc lập tự do, chan chứa tính nhân bản, tôn trọng những quyền căn bản tối thượng của con người đại chúng.





       -***-
                     Mục Lục


* Cảm  tưởng nhân đọc “Quê Cha Quê Mẹ Quê Mình“ 
               Bài của Trần Ngân Tiêu
* Ông Thầy Giáo Làng Quê
* Chữ Nghĩa Một Thời
* Quê Hương Lãng Đãng
* Nẻo Nhớ Tìm Về.

  
 

No comments: