Tuesday, December 4, 2012

TRẦN VĂN GIÀU * HỒI KÝ I

Phụ Lục
Tạp Chí Thời Đại Mới
Số 21 –Tháng 5-2011
________________________________________
Hồi ký
1940-1945
Trần Văn Giàu
Biên tập và chú thích:
Nguyễn Ngọc Giao và bạn hữu
2
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
MỤC LỤC
Phần thứ nhất: TỪ NGỒI TÙ KHÁM LỚN ĐẾN VƯỢT NGỤC TÀ LÀI ...................... 7
1. “Biệt thự S”, khám nhỏ trong Khám Lớn ................................................................... 8
2. Cực độ băn khoăn ..................................................................................................... 15
3. Chưa vui sum họp ..................................................................................................... 17
4. Đã sầu chia ly............................................................................................................ 23
5. Căng Tà Lài: “Trại lao động đặc biệt”...................................................................... 24
Đường lên trại giam.................................................................................................. 24
“Cầu thủ dự bị”......................................................................................................... 29
Chuẩn bị khởi nghĩa.................................................................................................. 32
Thi lội........................................................................................................................ 35
Xỏ vàm trâu cổ.......................................................................................................... 36
Không để bị khiêu khích........................................................................................... 39
Vượt ngục ................................................................................................................. 42
Phần thứ hai: ĐÀ LẠT, PHÚ LẠC, U MINH ................................................................. 48
1. Lên Đà Lạt ............................................................................................................... 48
2. Về Phú Lạc............................................................................................................... 52
3. Đi Xảo Bần, U Minh................................................................................................. 63
Phần thứ ba: TỔ CHỨC LẠI XỨ UỶ............................................................................. 68
1. Xác định đường lối cách mạng ................................................................................. 71
2. Vấn đề “một cổ hai tròng”, ách của hai đế quốc Pháp và Nhật ................................ 78
3. Vấn đề tập hợp lực lượng.......................................................................................... 82
3
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
4. Vấn đề tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền .......................................................... 84
5. Về nhà thăm mẹ ........................................................................................................ 88
6. Về lại Sài Gòn: Chỉ thị của Xứ ủy cho Ban cán sự thành......................................... 94
7. Đấu tranh chống “Huyền thoại Đông Dương”(mythe de l’Indochine) của Pháp và
chống “Chủ nghĩa Đại Đông Á”của Nhật.................................................................. 104
8. Chống chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề mới ................................................................. 106
9. Chống chủ nghĩa Đại Đông Á................................................................................. 109
Phần thứ tư: TIẾN TỚI TỔNG KHỞI NGHĨA ............................................................. 114
1. Tình hình chiến tranh thế giới biến chuyển thuận lợi cho công tác cách mạng của
chúng tôi...................................................................................................................... 115
2. Những bước đầu xây dựng lực lượng trước cuộc đảo chánh tháng 3 năm 1945 .... 121
1) Vận động thành lập Tổng Công đoàn................................................................. 121
2) Những bước đầu của phong trào thanh niên....................................................... 127
3. Chuẩn bị thành lập chiến khu Đất Cuốc và chiến khu Thủ Thừa .......................... 139
4. Bắt liên lạc với cánh Pháp De Gaulle ..................................................................... 143
5. Cuộc đảo chánh Nhật 9 tháng 3 năm 1945 ............................................................. 147
6. Lo việc thống nhất các tổ chức cộng sản ở Nam Kỳ và lo việc đặt lại liên lạc với
miền Bắc ..................................................................................................................... 158
7. “Buồn ngủ gặp chiếu manh, hay là việc tổ chức Thanh niên Tiền phong ............. 180
8. Trí vận có hiệu quả cao, cao nhất trước nay ........................................................... 202
9. Binh vận thành công ............................................................................................... 214
10. Tuyệt đại đa số nông dân xung quanh Sài Gòn vẫn đứng dưới cờ Đảng Cộng sản
như trước nay .............................................................................................................. 218
11. Tìm súng đạn cho các đội xung phong của công nhân và thanh niên................... 220
12. Tương quan lực lượng ở Sài Gòn giữa tháng Tám............................................... 225
Phần thứ năm: TỔNG KHỞI NGHĨA THÀNH CÔNG: KHÁNG CHIẾN CHỐNG
PHÁP BẮT ĐẦU............................................................................................................ 229
4
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
1. Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc................................................................. 229
2. Uỷ ban khởi nghĩa được thành lập.......................................................................... 233
3. Hội nghị Chợ Đệm lần thứ nhất (Tối 16 rạng ngày 17 tháng 8)............................. 238
4. Ta tập hợp lực lượng yêu nước. Sự phân hoá của các lực lượng chính trị thân Nhật ở
Sài Gòn sau khi Nhật đầu hàng. Sự thành lập nhanh chóng và sự tan vỡ cấp kỳ của
“Mặt trận Quốc Gia Thống Nhất”............................................................................... 252
5. Việt Minh “ra công khai”........................................................................................ 255
6. Hội nghị Chợ Đệm lần thứ hai và lần thứ ba .......................................................... 258
7. Đêm 24 tháng 8 ở thành phố................................................................................... 261
8. Ngày 25 tháng 8 ...................................................................................................... 266
9. Quyết định cho tàu ghe cấp tốc đi rước tù chính trị Côn Đảo về............................ 278
10. “Cuộc đi rước tù chính trị Côn Đảo”của Lý Văn Chương................................... 281
11. Vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang. Vấn đề “bốn sư đoàn”............................... 287
12. Ngày 2 tháng 9: Máu đồng bào bắt đầu chảy ở Sài Gòn ...................................... 295
13. Thực dân Anh, Pháp ngày càng lấn lướt............................................................... 305
(1) Anh thả lính Pháp lâu nay bị Nhật bắt giam ở Nam Kỳ.................................... 305
(2) Anh đòi giải tán dân quân, đòi ta nộp vũ khí .................................................... 306
(3) Anh chiếm trụ sở của Uỷ ban hành chánh Nam Bộ .......................................... 307
(4) Bọn thực dân Pháp treo cờ ở sân phủ toàn quyền và tập hợp hát Marseillaise dưới
cột cờ....................................................................................................................... 309
(5) Đòi lấy lại quyền quản lý cảng tàu biển, sở Ba Son và kho thuốc đạn
(Pyrotechnie)........................................................................................................... 310
(6) Thực dân Pháp âm thầm mà gấp rút tổ chức lại bộ máy cai trị Nam Kỳ .......... 311
(7) Tụi Pháp toan “bắt cóc”hay ám sát người phụ trách........................................ 312
14. Nội bộ nhân dân càng lúc càng có cơ chia rẽ........................................................ 313
(1) Biểu tình của nhóm Trốt-kýt tổ chức đòi “võ trang quần chúng”..................... 313
(2) “Minh thệ”–một âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng ............................... 316
5
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
(3) Nổi loạn của Hoà Hảo ....................................................................................... 317
(4) Hoàng Quốc Việt chỉ thị giải tán Thanh niên Tiền phong ................................ 320
(5) Việt đổi đồng chí Mười Thinh, chủ tịch Hóc Môn làm chủ tịch Thủ Thừa...... 322
15. Pháp chiếm trung tâm Sài Gòn bằng vũ lực ......................................................... 323
(1) Được sự ủng hộ của thực dân Anh, thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị dùng vũ lực
đánh chiếm Sài Gòn ................................................................................................ 323
(2) Ta gấp rút hơn nữa chuẩn bị đối phó với tình thế găng sắp nổ ......................... 327
(3) Một cái bẫy của thực dân .................................................................................. 329
(4) Pháp dùng vũ lực chiếm trung tâm Sài Gòn đêm 22 tháng 9............................ 331
(5) Hội nghị đường Cây Mai................................................................................... 331
16. Hai bản kêu gọi ..................................................................................................... 340
(1) Lời kêu gọi của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ .................................................. 340
(2) Tuyên cáo của Hoàng Quốc Việt dưới danh nghĩa Uỷ ban nhân dân Nam Bộ. 344
17. Chính phủ VNDCCH - Hồ Chủ tịch tán thành kháng chiến................................. 346
18. Câu chuyện mười năm kết thúc ............................................................................ 346
19. Chiến trường Sài Gòn lúc tôi ra đi........................................................................ 350
6
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Lời nói đầu
Tôi viết tập “hồi ký” này từ cuối những năm 1970. Viết xong, tôi nhờ anh em
ở Long An ̶ tỉnh nhà ̶ đánh máy; ý muốn viết hồi ký để con cháu xem chớ
không phải để in ra thành sách, vì trong hồi ký có lắm chuyện “không lấy gì
làm hay”, buồn nữa là khác. Nhưng vài ba anh em Long An, không xin phép
tôi, tự ý đánh máy thêm mấy bản, chỉ giao lại cho tôi hai bản, họ giữ mấy
bản tôi không biết, nhưng tôi được biết họ đã chuyền tay đọc khá rộng.
Nhiều bạn bảo tôi cứ phát hành tập hồi ký này đi. Tôi không ưng. Có lý do.
Tôi thấy rằng không ít hồi ký đã được in ấn kể sự việc rất hay mà cũng chen
vào một ít điều hoặc tác giả bịa hoặc lúc nghe kể đã thất thiệt. Viết hồi ký
trước hết là viết những điều mình mắt thấy tai nghe và tự làm là chính, mà
viết về mình thì dễ “chủ quan”: bớt cái dở thêm cái hay là điều khó tránh
khỏi; tôi ngập ngừng khi định viết hồi ký là vì vậy. Nhưng có một số việc,
nếu mình không kể lại thì không ai biết, không ai nhớ, không ai viết, không
ai làm sáng tỏ cho mình bằng mình. Thành ra viết hồi ký vừa là đóng góp sử
liệu vừa là yên ủi mình. Trong lịch sử dù là lịch sử của một khoảng đời ngắn
ngủi, mình chỉ là một tiếng của ngàn trùng ngọn sóng trên biển sôi động:
ghi lại một tiếng, thật ra có nghĩa lý gì lớn lắm đâu, có thêm bớt gì lắm đâu?
Nhiều lắm thì làm cho một số người mất thì giờ đọc, hay mất tiền mua. “Cọp
chết để da, người ta chết để tiếng”; tục ngữ thì như vậy. Song, da, dầu là da
cọp, nhiều năm rồi sâu mọt đục cũng hết. Tiếng, trừ ra tiếng của một số ít vĩ
nhân, làm sao mà còn mãi với thời gian? Năm trăm năm sau cách mạng
tháng Tám, dân ta sẽ còn nhớ chỉ tên của một mình cụ Hồ, mình ông Giáp.
Cho nên, viết hồi ký này, tôi chỉ mong cho cháu một đời sau mình biết được
rằng ông nó đã gắng sức làm tròn trách nhiệm ở đời, đã sống có nhân cách.
Thế là đủ.
Tôi chỉ viết hồi ký khoảng thời gian 1940-1945 vì đó là thời gian tôi sống có
chất lượng hơn hết trong cuộc đời dài quá 80 năm, xấp xỉ 90 năm. Tôi viết
“Lời nói đầu” này ngày 27 tháng 10 năm 1995, sau khi tôi đọc lại bản hồi
ký lần thứ ba.
Trần Văn Giàu
7
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Phần thứ nhất
TỪ NGỒI TÙ KHÁM LỚN
ĐẾN VƯỢT NGỤC TÀ LÀI
Thành phố của chúng ta mất đứt ba cái di tích lịch sử lớn: Thành Quy
bị Minh Mạng triệt phá; Thành Phụng bị thực dân Pháp triệt phá; và tiếc
quá, ở Sài Gòn, có lẽ không có gì tiêu biểu cho 80 năm chế độ thực dân bằng
Khám Lớn, mà Khám Lớn thì bị họ Ngô triệt phá.
Khám Lớn Sài Gòn
Khám lớn Sài Gòn nằm trong ô B2 của bản đồ, phía nam
Tòa án (số 16) và phía tây Dinh Thống đốc (số 11), ba tòa
nhà này họp thành “Tam giác Quỷ” nổi tiếng thời thực
dân. Khu đất này hình thang, hai cạnh song song là Rue de
la Grandière (nay là đường Lý Tự Trọng), Rue d’Espagne
(Lê Thánh Tôn), hai cạnh kia là Rue Filippini (Nguyễn
Trung Trực) và Rue Mac Mahon (Nam Kì Khởi Nghĩa).
Nay là Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh (69, Lý Tự Trọng, Quận 1).
Tôi qua cửa Khám Lớn lần đầu tiên vào giữa năm 1930, sau khi trong
số mấy trăm sinh viên và lao động Việt Nam biểu tình trước điện Elysée
8
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
(dinh Tổng thống Pháp) đòi thả chiến sĩ khởi nghĩa Yên Bái, mười chín
người bọn tôi bị bắt giam rồi bị trục xuất về nước. Lần thứ hai tôi vào Khám
năm 1933 về tội “vô gia cư”. Tội “vô gia cư”là cái quái gì? (Ai đi làm “cách
mạng chuyên nghiệp” cũng có những nơi tạm trú, hai, ba, năm, bảy nơi;
nhưng lần đó Pháp nó khảo mãi, tôi khai là tôi ở trên xuồng ba lá rày đây
mai đó trên sông rạch, không có nhà ở; trong mình tôi không có tài liệu cách
mạng, chỉ có một cái giấy thuế thân của người khác, cho nên, lần này, theo
pháp luật toà chỉ có thể kêu án tôi về tội “vô gia cư”). Và, lần thứ ba, tôi vào
Khám Lớn năm 1935, lãnh án năm năm tù; lần này tôi ở đủ cho đến 1940.
1. “Biệt thự S”, khám nhỏ trong Khám Lớn
Khám Lớn nằm chình ình giữa Sài Gòn trên diện tích non mẫu, bên
phải của Toà án, bên trái của dinh Thống đốc. Tường dày chừng bốn năm
tấc, dưới đá trên gạch, cao chừng bảy, tám thước, chơm chởm miểng chai
bên trên, bốn góc là bốn chòi canh luôn luôn có lính Âu Phi gác và giữ cổng
một cửa duy nhất. Ở cổng, bất cứ ai vào đây cũng đụng một cái đầu chúa
ngục đúc bằng xi măng, to tướng, miệng sơn đỏ lòm, răng lởm chởm thấy
mà ghê: các tử tù thì bị hành hình dưới mắt của tử thần này… Cổng sắt hai
lớp, có một đội cai ngục tây và mã tà nam túc trực. Chính giữa sân trong,
một lầu chuông cao nhìn xuống toàn bộ các buồng có cửa song sắt chứa nổi
một ngàn tù nhân. Suốt gần tám mươi năm chưa nghe nói có một người tù
nào trốn khỏi Khám Lớn. Năm 1916, nghĩa quân Thiên địa hội của Nguyễn
Hữu Trí1 đông mấy trăm người vũ trang bằng gươm dao, búa tạ, chày vồ,
không phá nổi cửa khám, tường khám nhằm giải thoát “hoàng đế” Phan
Xích Long và chính trị phạm, rốt cuộc phải rút lui thất bại. Khám Lớn vững
chắc lắm. Vậy mà từ năm 1937, chính quyền thực dân thấy cần phải xây
thêm một cái khám nhỏ riêng biệt trong vòng thành của cái Khám Lớn;
1 Nguyễn Hữu Trí (?-1916) một trong những người cầm đầu Thiên Địa Hội năm 1916 tổ
chức hàng trăm nghĩa sĩ giáo mác xông tới Khám Lớn phá ngục để giải cứu lãnh tụ Phan
Xích Long. Phan Xích Long (1893-1916) tên thật là Phan Phát Sanh, tức Lạc, thủ lĩnh
các hội kín mang màu sắc tôn giáo ở Nam Kì đầu thế kỉ XX trong phong trào Phản
(chống) Pháp Phục Nam. Ông tự xưng là Đông Cung, con vua Hàm Nghi, rồi tự phong
Hoàng Đế. Năm 1913, tổ chức đặt bom ở Sài Gòn, bị bắt. Trong cuộc “Cứu Đại Ca” năm
1916, Nguyễn Hữu Trí bị chết. Sau đó, Phan Xích Long và 56 nghĩa sĩ khác bị xử tử
hình. Xem thêm Wikipedia (http://vi.wikipedia.org/wiki/Phan_X%C3%ADch_Long) và
Văn nghệ Sông Cửu Long
(http://vannghesongcuulong.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=3831&LOAIID
=3&TGID=868).
9
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
khám nhỏ đó, Tây gọi là Bâtiment S; S là “spécial”, đặc biệt, chúng tôi gọi là
“biệt thự S”, để nhốt riêng vài ba bốn người tù chính trị mà chúng cho là
nguy hiểm đặc biệt, trong số đó có tôi.
Tây sợ chúng tôi cưa song sắt, khoét vách tường, vượt ngục chăng? –
Không phải! Có ai vượt nổi Khám Lớn bao giờ? Vậy mà phải xây riêng một
khám nhỏ trong Khám Lớn vì lẽ gì? –Vì lẽ rất đơn giản là: từ ngày chính
phủ Mặt trận bình dân lên cầm quyền ở Paris, toà án Sài Gòn nói chung
không xử án chính trị nặng lắm như trước: thường nhất là ba tháng, sáu
tháng, một, hai năm tù đối với những người biểu tình, bãi công, làm báo.
Anh chị em ta vào Khám Lớn đông lắm, từng tốp, từng tốp, vào ít lâu lại ra,
ra vào như đi chợ, như đi học. Trong Khám Lớn lúc này, tù “cố cựu” rất ít:
hầu hết chính trị phạm của thời 1930-1935, đã được chính phủ Mặt trận bình
dân “ân xá”; số được ân xá có hàng trăm, hàng ngàn, từng đợt, từng đợt. Tôi
“lọt sổ” hoài; tôi được Tây xếp gọi lên cho hay “không được ân xá” đâu đến
ba lần, không phải do tôi làm đơn mà do đoàn thể, do trạng sư. Nhưng tôi
không thất vọng; không thất vọng vì chưa hề hy vọng được ân xá. Mình vào
tù đến bốn lần thì Tây nó biết chắc mình sẽ có ngày vào tù lần thứ năm. Anh
Tôn Đức Thắng lãnh án hai mươi năm khổ sai, bốn lần nặng hơn mình, vậy
mà ai nghe nói anh ấy có hy vọng gì đâu để mà thất vọng? Vả lại tù Khám
Lớn Sài Gòn được bạn bè, gia đình thăm viếng mỗi tuần một lần, quà bánh,
báo chí có đủ; nhất là ở tù mà vẫn có công tác cách mạng sôi nổi thì an tâm
quá đi chớ! Công tác của tôi là huấn luyện tù nhân mới vào và sắp ra, họ
đông tới hàng trăm, thường xuyên là hàng mấy chục. Trường Khám Lớn có
nhiều giảng viên kinh nghiệm, lý luận, trình độ khá cao. Tụi tôi tổ chức ba
bậc huấn luyện lý luận cách mạng và kinh nghiệm hoạt động sơ, trung và
cao. Vô tù thành ra đi vào trường học chính trị. Trường học được mở liên tục
mà khỏi phải mướn nhà, khỏi phải nuôi cơm. “Kinh tế” biết mấy. Khám Lớn
góp phần đào tạo hàng trăm cán bộ cho các đoàn thể cách mạng ở bên ngoài.
Tôi lúc ấy là “Chủ tịch hội đồng giáo sư đỏ”. Tôi viết xong trên mười đầu
sách; đều là “sách giáo khoa”; sách được giấu trong tường; đục tường lấy ra
một cục gạch thì có một tủ sách. Cơm nước xong, cửa Khám đóng lại, thì lấy
sách ra đọc. Sàn xi măng là bảng đen, gạch vụn là phấn; một số Thầy Chú
dám bí mật đem giấy bút cho chúng tôi. Bài vở viết ra được đánh morse từ
khám nam ở trên xuống khám nữ ngay ở dưới. Đánh morse thì nằm sấp để
tai sát sàn, lấy một bù lon quấn vải gõ vào sàn, khám dưới nghe được, chép
lại, “phát hành”đi các khám cũng bằng cách đó. Ngoài công tác liên lạc
chính thức thì chuyên viên morse khám nam, anh Nguyễn Hữu Thế,2 và
2 Nguyễn Hữu Thế, giáo học, bị kết án 7 năm tù (1935-1942), 10 năm quản thúc (theo
Nguyên Hùng: http://www.quansuvn.net/index.php?topic=17085.20
10
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
chuyên viên morse khám nữ, chị Đinh Thị Tiếu, nói gì với nhau, có trời mà
biết, chỉ biết rằng, ra tù, hai cô cậu thành vợ, thành chồng với nhau.
Khám lớn (Maison Centrale de Saigon), những năm 1920
Mặt tiền trông ra đường Mac Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa)
Tây nó biết rõ thành công của công tác huấn luyện đào tạo cán bộ của
chúng tôi, cho nên nó mới xây cái “biệt thự S” nhằm cô lập các ông thầy
giáo đỏ chủ chốt. Thống đốc Nam Kỳ đưa ba chúng tôi Giàu, Thế, Vi xuống
đó để tha hồ mà giảng bài cho thằn lằn và gián. Tôi ở “biệt thự S” trọn ba
năm cho đến ngày mãn tù; giống như mấy ông thầy tu ép xác.
“Biệt thự S” là một ngôi nhà nhỏ hoàn toàn không dính với bất kỳ một
dãy nhà nào hết; nhà dài mười thước, ngang bốn thước, cao năm thước, chia
ra ba buồng. Phía sau mỗi buồng có một cửa sổ gần sát trần nhà, chắn song
sắt, bịt lại bằng một cái phễu sắt miệng ngảnh lên mái nhà và miệng sắt có
bao lưới sắt; người ngoài không thể ném vào buồng bất cứ một vật gì dù là
một hòn sỏi; người trong buồng không thể thấy bóng dáng bất cứ một ai đi
ngoài sân dù là một mã tà. Phía trước của mỗi buồng có cửa sắt mở ra một
sân chung, nơi ăn uống, đi lại; sân dài mười thước, rộng ba thước, được bao
kín bằng vách bêtông cao bốn thước; sân này giống y như một cái giếng cạn;
ở trong sân không trông thấy bất kỳ một sinh vật nào trừ một vài con chim
se sẻ bay qua hay một con cò lạc lối. Những ngày trời nắng, tường bêtông
giữ sức nóng tới nửa đêm; may mà trong mỗi buồng có một vòi nước để tụi
tôi tự làm vệ sinh. Không biết Tôn Ngộ Không khi bị Thái Thượng Lão
Quân bỏ vào lò Bát Quái thì Tôn Ngộ Không chịu đựng cách nào chớ tôi
trong “biệt thự S” suốt hơn một ngàn ngày thì cũng phải quen dần với cái
giếng nổi bêtông của mình. Mỗi ngày hai lần, “cóc vê”đem cơm nước vào;
11
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
“cóc vê”được chọn trong số tù người dân tộc thiểu số ở rừng núi không biết
nói tiếng Việt, khi qua hai lớp cửa thì đã phải tuột hết quần áo để lại bên
ngoài. Phải thừa nhận rằng, ở “biệt thự S”, suất ăn của chúng tôi thịt cá
nhiều hơn bình thường, mỗi bữa ăn đều có miếng cơm cháy vàng tươi, dòn
rụm, chỉ những ai đã lãnh án tử hình mới được ăn. Ở “biệt thự S”, chúng tôi
được mượn sách của thư viện Khám Lớn, cũng được đem một ít sách ở
ngoài vào. Thêm vài chục quyển, thậm chí một trăm quyển nữa, ông Giàu có
“đỏ” thêm đâu mà sợ? Tôn Ngộ Không chịu được lò Bát Quái nhờ đã ăn
trộm trái đào tiên vườn Thượng uyển, còn tôi chịu đựng được giếng nổi
bêtông nhờ sách các bạn mượn dùm: thời chính phủ Mặt trận bình dân, có
phần dễ thở hơn trước, nhất là đối với mấy thầy giáo đỏ bị vô hiệu hoá.
Không được dạy học, tôi quay ra tự học; tự học để giết thời giờ, tự học để
lấp những chỗ trống về kiến thức, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, thật sự là
được nhiều.
Ba năm ở “biệt thự S”, tôi học chữ Hán bằng quyển từ điển Đào Duy
Anh để đếm nét tra mặt chữ, tôi lấy một quyển sách Tàu dịch sách Tây để từ
đó suy diễn ra mà biết văn phạm chữ Hán, lõm bõm đọc báo, đọc sách được
rồi, số chữ đã đầy hơn một lá mít, nhưng vì ít khi dùng nên dễ quên. Còn
được cái triết học Trung Quốc và triết học Ấn Độ mà các học giả Pháp, Anh,
Đức nghiên cứu kỹ, thư viện của Nguyễn An Ninh và của sư Thiện Chiếu3
có đủ loại sách này, có bao nhiêu tôi đọc hết bấy nhiêu, đọc rồi giảng lại
chút đỉnh cho hai anh bạn tù, nhờ vậy mà tôi càng hiểu rõ. Thật ra thì hai
ông “giáo đỏ” ở “biệt thự S” với tôi, họ chả thích triết học chút nào, giảng
cho họ hoá ra tôi “trả bài”cho tôi. Một kỳ công là ba năm ở “biệt thự S”, tôi
có thời giờ và can đảm để đọc bộ Tư Bản, mà khi ở trường Đại học Đông
Phương, tôi chỉ thuộc mấy trích đoạn bắt buộc của giáo sư hướng dẫn. Khám
Lớn Sài Gòn quả là một trường đại học chuyên tu của tôi. Khám Lớn Sài
Gòn, cũng như banh một Côn Lôn là những nơi góp phần quyết định cho tôi
sau này trở thành một giáo sư có kinh nghiệm. Nói rằng nhà tù là một cái lò
rèn luyện, rất đúng; anh Ninh có lần bảo tôi: “en prison le coeur se brise ou
se bronze”4 là chí lý. Vấn đề là trong tù mình học cái gì; học tư tưởng Mác-
Lênin, thì mười người mãn tù, chín người tiếp tục hoạt động cách mạng;
3 Nhà sư Thiện Chiếu (1898-1974) tên là Nguyễn Văn Giảng hay Nguyễn Văn Tài quê
quán tại xã Vĩnh Hựu, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang. Ông xuất gia từ nhỏ, học
vấn uyên thâm. Từ năm 1923, trụ trì ở chùa Linh Sơn, khởi xướng phong trào chấn hưng
và canh tân Phật giáo ở Nam Kì, từng ra Hà Nội bàn bạc việc thống nhất Phật giáo. Ông
là nhà sư đầu tiên tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí hội và Đảng cộng sản Việt
Nam. Xem tiểu sử
http://www.tiengiang.gov.vn/xemtin.asp?idcha=3609&cap=2&id=5535
4 Tiếng Pháp: trong tù, trái tim hoặc bị tan vỡ hoặc được tôi luyện thành đồng thau.
12
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
không học gì, cứ nằm co chờ ngày về, để cho thời gian gặm nhấm lần ý chí,
thì mãn tù, chỉ có thể trở thành con chim bị đạn sợ làn cây cong. Tôi đã ra
sức tự rèn luyện, tôi được bạn tù rèn luyện, tôi cố giữ cho mình một ý chí sắt
đá. Vậy mà, những ngày cuối cùng của một bản án chỉ năm năm cầm cố, tôi
không khỏi trải qua một tâm trạng băn khoăn cực độ, nói ra đây tôi không
thấy xấu hổ chút nào. Làm gì có nợ nước thoát ly khỏi tình nhà?
Trong thời gian hơn ngàn ngày bị cầm cố, biệt giam ở “biệt thự S”, tôi
chứng kiến một chuyện mà tôi không bao giờ quên, chuyện “Mất ngủ” của
Hà Huy Tập.5 Tập là một nhân vật mà tôi kính mến. Tập có “đá móc” tôi
mấy đá, khi anh báo cáo với Đông phương bộ, và báo cáo đúng sự thật, là tôi
đã phê phán một vài điểm trong “chương trình hành động 1932, của Quốc
Tế Cộng Sản” làm giúp cho Đảng Cộng sản Đông Dương (với sự cộng tác
của Tập, Toàn6 và tôi; vừa được tôi dịch từ bản tiếng Pháp và tiếng Việt). Đá
nhẹ mà đau dai!
Một buổi trưa không nhớ là vào ngày tháng nào đầu năm 1939, Hà Huy
Tập bị Tây đưa vào Bâtiment S. khi Tập bị giam ở Bâtiment S, xảy ra một
việc lạ kỳ liên quan đến câu tôi vừa nói: nợ nước, tình nhà.
5 Hà Huy Tập (1906-1941), tổng bí thư Đảng cộng sản Đông Dương (1936-1938) trước
khi bị bắt giam Khám Lớn. Khi Nam Kì khởi nghĩa bùng nổ, ông ở trong tù (vì một án
khác), nhưng vẫn bị quy “trách nhiệm tinh thần” và bị xử tử hình cũng như Nguyễn Thị
Minh Khai, Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần. Được đào tạo ở Liên Xô, cũng như Trần Phú,
Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, ông đi theo đường lối tả khuynh giáo điều của Stalin,
từng phê phán nghiêm khắc đường lối “cải lương”, “hợp tác”, “tàn tích quốc gia chủ
nghĩa”, “tàn tích tư sản” của Nguyễn Ái Quốc. Xem tiểu sử đầy đủ: Wikipedia
(http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_Huy_T%E1%BA%Adp), Báo điện tử Đảng
cộng sản Việt Nam
(http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30291&cn_id=1599
99)
6 tức Nguyễn Khánh Toàn (đừng nhầm với người trùng tên, hiện làm thứ trưởng Bộ Công
an, nổi tiếng qua vụ Cô gái Đồ Long bị bắt giam khẩn cấp). Nguyễn Khánh Toàn (1905-
1993) sinh tại Vinh, quê quán ở Hương Trà, Thừa Thiên. Tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm
năm 1926, tổ chức lễ truy điệu Phan Châu Trinh, nên bị thực dân đàn áp, không cho dạy
học, cấm viết báo. Từ 1929 đến 1939 sang học ở Liên Xô, được giữ lại để đào tạo thanh
niên Việt Nam sang học làm cách mạng. 1939-1945 ở Diên An (Trung Quốc). Sau Khởi
nghĩa 1945, về nước, làm thứ trưởng Bộ Giáo dục rồi phụ trách Ủy ban Khoa học Xã hội.
Ủy viên Trung ương ĐCS (1951-1976). Chủ trì nhiều bộ sách và công trình nghiên cứu
chính thống, được nhiều giải thưởng và huân chương. Đọc lời mở đầu của ông cho bộ
Lịch sử Việt Nam (1971-1989) mà ông đứng tên chủ biên thì thấy ít sử học và nhiều đao
búa.
13
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Hà Huy Tập
Ở chung với chúng tôi được ít lâu, một hôm Tập nhận được một bức
thư của vợ. Vợ chồng Tập sinh được một đứa con gái. Năm 1928, Tập đi học
ở Nga; tới năm 1936, Tập về Sài Gòn, bí mật gặp lại vợ; vợ Tập là một cô
giáo, tám, chín năm nay đã bền lòng đợi chồng. Vợ chồng Tập yêu nhau
lắm. Trong lúc đó thì Tập cũng bí mật tiếp xúc với một người bạn học cũ
hoạt động công khai, một người đồng hương là Đinh Nho Hàn. Hàn là một
cộng tác viên của báo “Le Peuple”, một tờ báo cơ quan công khai hợp pháp
của Đảng. Tự nhiên, Đinh Nho Hàn và cô vợ của Tập làm quen với nhau.
Mọi việc đều trôi qua như bình thường cho đến khi Tập bị bắt. Tập bị bắt thì
ai cũng đoán rằng anh sẽ bị xử tù nặng lắm vì anh hoạt động cách mạng từ
thời Tân Việt cho đến nay, anh là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương.
Chắc vợ Tập và Hàn đều nghĩ vậy. Nếu Tập được anh em ở Le Peuple trọng
vọng là một lãnh tụ, thì anh em đó cũng biết Hàn là một “con dê xồm” lắm
tiền, lẻo mép; nhưng thuở ấy chưa ai biết rằng Hàn là một tay giúp việc đắc
lực cho sở mật thám Đông Dương cài vào nhóm Le Peuple. Một hôm, ở
Bâtiment S, sau một buổi thăm viếng, Tập được một bức thư của vợ mình.
Thư nói gì tụi tôi ở Bâtiment S không biết. Nhưng chúng tôi thấy Tập đột
nhiên bị khủng hoảng tinh thần, mà cuộc khủng hoảng tinh thần mỗi ngày
thêm tệ hại. Tập đi đi lại lại trên sân giếng, mười lần, một trăm lần, nện gót
chân, thỉnh thoảng tay đấm vào không khí. Sớm chiều đều như vậy. Hôm
nay, ngày mai đều như vậy. Hỏi Tập có vấn đề tư tưởng, tình cảm gì không,
Tập trả lời: không. Đêm, Tập ngủ buồng sát buồng tôi. Nửa đêm, hay bất cứ
lúc nào, Tập đều lấy gót chân mình nện vào vách tường đùng đùng và tôi
lắng nghe Tập gọi theo lối kéo dài: “Giàu ơi, thức hay ngủ?”. Tôi trả lời rằng
14
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
thức, cũng bằng cách nện gót chân vào tường. Cứ như vậy, suốt ba đêm.
Sáng sớm, chúng tôi xin thuốc véronal cho Tập. Tập uống một viên, đêm ấy
anh cũng ngủ không được. Sáng sau, xin hai viên, chiều tối uống; cũng
không ngủ được! Có khủng hoảng gì đấy? Chắc không phải khủng hoảng tư
tưởng. Tôi hỏi nhỏ nhiều lần, Tập mới nói riêng với tôi: “Vợ mình đã quyết
định ly dị với mình để lấy Đinh Nho Hàn. Thôi rồi! Tám, chín năm trung
thành chờ đợi nhau!”. Biết nguyên nhân bệnh: nhưng chữa bệnh bằng cách
nào bây giờ? Tôi báo cáo bệnh tình với y tá Khám Lớn! Tập ăn ngủ không
được, mắt thụt, má hóp, người đã gầy còm lại gầy còm thêm, trông thấy rất
thảm! Phải đưa đi nhà thương Chợ Quán, không thì Tập chết mất. Tập đi
Chợ Quán. Không quá một tuần sau, Tập trở về Bâtiment S, vui vẻ như
thường. Ai chữa? Uống thuốc gì? - Chẳng có thuốc gì ráo! Chẳng có thuốc
trị sao lại hết bệnh? - Số là lúc ấy, không chỉ có người cộng sản bị bắt vào
Khám Lớn mà có cả một ít người đứng đầu của báo La Lutte, như Tạ Thu
Thâu, Tạ Thu Thâu thuộc phe đệ tứ, công kích Mặt trận bình dân Pháp, công
kích Mặt trận Dân chủ Đông Dương do Đảng Cộng sản đệ tam chủ trương.
Bất ngờ hai lãnh tụ đệ tam và đệ tứ đụng đầu nhau tại bệnh viện Chợ Quán.
Hai anh Thâu, Tập vốn quen biết nhau từ những năm 1926-1927, khi họ dạy
học ở trường tư thục Nguyễn Xích Hồng tại Sài Gòn. Tất nhiên họ tranh
luận hết sức sôi nổi giữa một số tù chính trị cũng nằm bệnh viện; cãi nhau
rồi ăn cơm, ăn cơm rồi tiếp tục cãi nhau, sôi nổi, kịch liệt, bất phân thắng
bại. Thâu lên án rằng phe Stalin - Tập là phe “phản động Thermidor7 ”, Tập
lên án rằng phe Trotsky - Thâu là “đội tiền phong tư sản phản cách mạng”
chống Liên Xô. Cãi nhau đến tối vào giờ ngủ mới thôi. Đêm ấy sau trận
khẩu chiến, Tập ngủ một giấc tới sáng trưa, ăn cơm rồi lại ngủ! Bệnh mất
ngủ dứt hẳn, khỏi phải uống thuốc gì hết. Ít lâu sau, bệnh viện trả Tập về cho
Khám Lớn. Tập trở lại Bâtiment S với tụi tôi, tường thuật chuyện “thiệt
7 Thermidor (Tháng nóng): nguyên thủy là một trong 12 tháng của Lịch Cộng hòa, do
Cách mạng Pháp lập ra để thay thế Lịch Gregor thông dụng (và ngày nay vẫn được sử
dụng phổ biến). Tháng Thermidor là tháng thứ 11, khoảng từ 19 tháng 7 đến 17 tháng 8.
Trong ngôn ngữ chính trị Pháp, Thermidor hay 9-Thermidor chỉ ngày 27 tháng bảy 1794,
là ngày phe Robespierre (chủ xướng chính sách Khủng bố) bị lật đổ; “Thermidor” do đó
được phe “tả” coi là một cuộc phản cách mạng, chuyển Cách mạng Pháp từ thời kì
Jacobin sang chế độ độc tài của Napoléon Bonaparte (xem bài viết của Trostky:
Thermidor and Bonapartism
http://www.marxists.org/archive/trotsky/1931/xx/thermidor.htm)
15
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
chiến” ở Chợ Quán. “Thiệt chiến” là đánh nhau bằng lưỡi, bằng miệng theo
tích “thiệt chiến quần nho”8 ở Tàu, thời Tam Quốc
2. Cực độ băn khoăn
Tôi vốn là một tâm hồn bình tĩnh, ít nhất là bình tĩnh hơn anh Hà Huy
Tập của tôi. Tôi tự phụ như thế. Trước những khó khăn, những thất bại, rất ít
khi tôi dao động tinh thần, trí óc băn khoăn, người mất ăn mất ngủ. Ấy vậy
mà vào lúc gần mãn tù, tháng 4 năm 1940, cái đức bình tĩnh bẩm sinh đó nó
biến đi đâu mất hồi nào không hay. Càng gần mãn án, tôi càng dao động,
băn khoăn. Âu cũng là một nhân tính bình thường. Trầm tích của quả đất có
lớp dưới lớp trên; tâm tình của con người có lớp sâu lớp cạn, dưới đáy là con
người gia đình, bên trên hết là con người xã hội, xã hội phủ lên gia đình mà
không chôn vùi nó cho dù mình đã nhất nguyện hy sinh gia đình cho Tổ
quốc, cho đồng bào, cho lý tưởng.
Máy chém đặt trước cổng Khám Lớn
mỗi khi có cuộc hành quyết
(cuối thế kỷ XIX)
Những ngày cuối cùng của cái bản án tù năm năm sao mà dài thế! Dài
vô tận. Nhớ hồi nào, khi lãnh án, tôi xem năm năm tù, mười năm biệt xứ như
một thời gian tu dưỡng cho bản thân, tựa một phật tử theo định kỳ đi “tịnh”
trong khuôn viên một ngôi chùa vậy thôi. Bây giờ, càng gần mãn án, tôi xem
8 Điển tích trong truyện Tam Quốc, Khổng Minh sang Đông Ngô, tranh luận với các đám
“quần nho” của Tôn Quyền, bác bỏ từng lí lẽ của họ, thuyết phục Đông Ngô liên minh
với Lưu Bị chống Tào Tháo.
16
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
mỗi ngày là một chuỗi tràng hạt lần mãi không hết. Tản Đà chẳng đã viết:
“Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê?”. Hay quá, hay ở chỗ chữ “ghê”đó!
Té ra, cũng là thằng tôi mà lúc cực kỳ nguy hiểm, ngàn trùng gian khổ
thì tôi xem gian nguy nhẹ như một chiếc lông chim. Bây giờ, đột nhiên nổi
dậy cái ý thức gia đình, cái ý thức về nợ gia đình không làm sao trả nổi. Tôi
nhớ mẹ, nhớ vợ quá, nhớ phần mộ cha tôi trên đám ruộng trước nhà, nhớ
ngôi nhà cũ kỹ trong đó tôi sinh ra và lớn lên. Tôi tưởng tượng ngôi nhà và
miếng vườn đều lạnh lẽo xơ xác vì, nếu trước đây gia đình tôi tứ đại đồng
đường thì bây giờ chỉ có mẹ già tôi ngoài 70 tuổi và một cháu gái chết chồng
hôm sớm cúng nước, đốt nhang, gõ chuông, giống như bà sư, cô vãi trong
một ngôi nhà chùa vắng. Cái nhà này, khuôn vườn này theo Di chúc, là của
tôi, con út; tôi có trách nhiệm nối dõi tông đường, nhưng tôi biền biệt từ hơn
mười năm rồi; các anh chị tôi đều ra riêng hết, mỗi người “trấn” một giây
ruộng, tía tôi qua đời khi tôi còn ở ngoài Côn Lôn; vợ tôi, sau khi con gái
đầu lòng chết, đã về bên ấy để làm ruộng nhà, lâu lâu mới qua thăm mẹ
chồng một lần, để mẹ chồng nàng dâu ôm nhau mà khóc.
Tôi nhớ nhà quá chừng! Văn xuôi không tả nổi nỗi nhớ, còn văn vần thì
xa lạ với tôi.
Tôi quyết tâm làm chiến sĩ “cách mạng chuyên nghiệp” theo từ ngữ
Lênin - Nguyễn Ái Quốc. Song, xét cho cùng, đó là quyết định của trí tuệ,
của ý thức, của một ý định dầu tuyệt đối vẫn còn dành một phần sinh hoạt
tâm hồn, cho những ai nặng nợ gia đình, tuy đã được mở trói mà vẫn còn khi
lơi khi nhặt một sợi dây vô hình ràng buộc những người vì non sông chung
với gia đình riêng để ngàn đời làm nền tảng cho gia đình ấy.
Chắc mẹ tôi, vợ tôi, lúc này cũng ngày trông đêm đợi như tôi. Tôi được
tin mẹ nuôi mười con vịt tơ sà, mười con gà giò, hai con xiêm cồ, chờ con về
bồi dưỡng; người ta bày lấy vài xăng-ti-lít tiết xiêm cồ pha vào một chung
rượu nếp, uống mỗi buổi sáng, thì mau lại sức. Vợ tôi chắc đã sắm sửa chăn
màn để trở về nhà chồng. Nhưng mẹ và vợ tôi đều ở thôn quê hẻo lánh, nào
có biết gì về tình hình chiến tranh thế giới liên quan đến ngày mãn tù Khám
Lớn của tôi. Tình hình đó, tôi càng theo sát thì càng lo lắng: chiến tranh thế
giới lần thứ hai đã bùng nổ từ tháng 9 năm ngoái. Pháp, Anh đã tuyên chiến
với Đức. Pháp đã ra lệnh tổng động viên ở Đông Dương, cấm báo tiến bộ,
bắt giam những người chống đối. Vậy mà tôi còn ngồi tù Khám Lớn, chờ
ngày về nhà! Về được không? Hay là chính quyền thực dân sẽ ra nghị định
giữ tôi lại Khám Lớn hoặc đưa trở ra Côn Lôn, hoặc tống vào một trại tập
trung nào đó ở núi cao rừng sâu. Tôi ước tính tất cả các khả năng xấu bao
gồm cả việc đày qua Guyane tận nam Mỹ châu ở đó ông Giàu và các thầy
17
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
giáo đỏ tha hồ mà diễn thuyết với thổ dân da đỏ và tù nhân thường phạm
người Pháp bị phát lưu chung thân vì trọng tội. Nghĩ lắm sinh quẫn. Tôi bèn
tập trung tinh lực làm phép tham thiền nhập định học ở Thiện Chiếu, cốt đạt
tới trạng thái tư tưởng không tư tưởng, nhằm đánh đuổi các ý nghĩ xám xịt
kia. Nhưng vô hiệu; chúng nó cứ “lẽo đẽo theo hoài mãi chẳng thôi”.
Vài cơn mưa giông đầu mùa chưa làm dịu không khí nóng bức trong
“biệt thự S”. Nóng bức nên ngủ không được. Không ngủ được nên càng nghĩ
bâng quơ. Một buổi sáng ra giếng, thầy giáo Nguyễn Hữu Thế hỏi tôi:
- Sao coi hốc hác vậy cậu? Ngủ không được hả?
- Ngủ mệt hết sức vì chiêm bao. Thức giấc, mồ hôi ướt đầm, không ngủ
lại được.
- Chiêm bao thấy gì?
- Thấy ngày mãn tù, mình ra tới cửa Khám Lớn, vừa gặp mẹ và vợ đón
ở đó, chưa kịp hỏi mừng gì hết thì cò, lính đã xốc nách giải mình lên xe bít
bùng, trong khi đó thì mẹ té xỉu xuống đường, vợ ôm mặt khóc. Giật mình
thức dậy rồi thức luôn tới sáng.
- Mộng là mị.
- Cũng có khả năng mộng hoá ra thật. Nhưng phải bị đày đi nữa thì
mình vẫn có cách đối phó, sợ gì? Cho tới bây giờ Pháp, Đức chưa đánh
trong lịch sử, các cuộc đại tiến công thường xảy ra đầu thu trời trong đất ráo.
Pháp chưa lâm nguy thì nó còn có thể thả mình ra; khi sắp lâm nguy, thì nó
sẽ đến nhà lượm mình, thì khi ấy mình còn ở nhà đâu mà nó lượm?
Lập luận của tôi mới nghe qua cũng có lý. Vậy mà bụng bảo dạ tôi vẫn
băn khoăn, cực độ băn khoăn.
3. Chưa vui sum họp
Băn khoăn vì trong tình thế rối ren hết sức, lòng tôi hết sức muốn về
nhà với mẹ, với vợ ít ra cũng một vài tháng, trong thời gian ngắn ngủi đó
mình vừa tìm lại được sự đầm ấm đã mất từ hơn mười năm nay (1928-1940),
vừa điều tra tình hình địch, ta, rồi sẽ quyết định cách đối phó trước mùa thu.
Giờ phút nào tôi ít chủ quan, thì tôi nghĩ rằng, thời nay chiến tranh bằng máy
bay, xe tăng, có thể người ta không chờ mùa thu như trước nữa, mới mở
cuộc tấn công qui mô và Pháp nó sẽ quăng lưới trước khi các ông cộng sản
cựu chính trị phạm kịp rút hết vào bí mật. Tôi nghĩ đúng mà tôi không tin
rằng đúng hẳn.
18
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Ngày về tới nơi rồi. Mà về được hay không?
Sáng hôm đó, giáo Thế, biện Vi và tôi vừa uống trà, vừa phập phồng
chờ đợi.
- Tám giờ mà không có giấy gọi là có biến. Thế nói.
- Có giấy gọi mà không có câu “ra về” thì cũng chẳng xuôi chèo mát
mái đâu, Vi tiếp.
Ở chung với nhau bốn, năm năm rồi, tụi tôi không còn cái gì để dặn dò
nhau nữa. Và mỗi đứa đã hai, ba lần bị bắt, bị tù rồi. Mỗi chuyện đã nói đi
nói lại cả chục lần rồi. Có gì mới nữa đâu? Chỉ mời trà với nhau. Bình trà
vừa cạn thì cửa thứ nhất, rồi cửa thứ hai của Bâtiment S mở. Gác dan da đen
xuất hiện, vui vẻ kêu:
- Ông Giàu chuẩn bị. Tám giờ ra về.
- Ăn tiền rồi, tụi bây ơi! Thế nói lớn.
- Còn qua lục hình9 mới biết được trơn tru không, Vị bỏ nhỏ.
Nghe cũng ơn ớn. Ra tù hôm nay, biết hôm nào sẽ bị bắt lại? Còn ngồi
tù trong thời chiến thì khi chiến tranh ác liệt, mãn tù cũng sẽ bị giữ lại, gởi
lên “căng”. Viễn cảnh của cả ba đứa tôi, không chút nào sáng sủa. Không
chừng chúng tôi sẽ sớm gặp lại nhau trên rừng. Tuy vậy, bạn là cố cựu, kẻ ở
người đi, sắt đá cũng bùi ngùi.
Ra sân khám, ngó lên phòng năm, sáu, thấy anh em ngoắc ngoắc sau
song sắt; họ chào từ biệt và gởi một chút lòng tin. Tụi xếp Tây ra vẻ mừng,
có mấy đứa khuyên “đừng trở lại nữa”. Tôi cười trả lời cho thằng “Triệu
tử”10: “Ai mà muốn trở lại, nhưng nếu bất đắc dĩ phải trở lại thì chắc chắn
cũng không hề chi, cả anh và tôi đều còn trẻ, e khi lại cũng còn duyên!”. Cả
lũ đều cười nhạt.
Ra cửa Khám Lớn, đã thấy vợ tôi đứng chờ bên kia đường, không một
ai khác đi đón như hồi chưa có chiến tranh.
Tôi ngoắc vợ sang bên này đường cùng đi lại bót Catinat11 với một thầy
đội. Mười năm rồi kể từ ngày cưới, vợ chồng tôi mới lại được tay trong tay
9 Sở Lục hình: nơi lưu trữ hồ sơ lí lịch các tội phạm.
10 “Triệu tử”: cả hai bản chúng tôi có trong tay (bản in và bản “số hóa”) đều viết như vậy.
“Triệu tử” không có lẽ là Triệu Vân tức Triệu Tử Long, nhân vật Tam Quốc Chí. Xin đợi
những độc giả cao minh chỉ giáo.
11 Bót Catinat: Sở Công an thực dân, ở góc đường Đồng Khởi (xưa là Catinat, rồi Tự Do)
và Nguyễn Du, nay là trụ sở Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
19
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
đi trên đường phố Sài Gòn! Thầy đội có nhã ý dang hơi xa để tụi tôi trò
chuyện với nhau.
Ai cắt nghĩa dùm tôi vì sao tôi không mất vợ? Đáng lẽ năm 1930, nhà
bên vợ chưa cưới không cho tôi làm đám cưới mới phải, vì khi đi Pháp, tôi
hẹn về nước với hai bằng tiến sĩ, nhưng tôi về tay không, bị trục xuất khỏi
Paris. Đáng lẽ, cho dù làm đám cưới rồi, mà tháng sau tôi đi đâu biệt tích
bốn năm lần, sống chết không biết, thì cha mẹ vợ có thể lại gả con gái cho
mấy chỗ quyền quý đi hỏi. Nhưng không, và vợ tôi thà vô chùa học dệt chớ
không chịu lấy chồng lần nữa. Và đáng lẽ sau khi tôi bị kêu án năm năm tù,
bị đày ra Côn Lôn, thì theo lời khuyên của tôi, vợ tôi lấy lại tự do lập gia
đình; nhưng cũng không; cô ấy chờ đến hôm nay, đi đón tôi ở Khám Lớn ra.
Sao mà chung thuỷ đến thế! Tụi tôi chưa dứt lời thăm hỏi nhau thì đã đến
bót Catinat rồi. Vợ tôi lại đứng chờ ở gốc cây, tôi một mình đi vào bót để
“lục hình”và nhận giấy tờ phóng thích. Tưởng đâu việc này có lâu lắm cũng
không hơn mười lăm phút; nào dè? Nào dè, nó kéo dài hơn một giờ, khiến
vợ tôi vô cùng lo sợ: vào hang sói dễ, ra hang sói khó. Còn tôi thì quen tính
“mê đấu”, quên mất vợ đang đứng sốt ruột chờ, không biết lành dữ ra sao?
Cũng mấy thằng cò mật thám tra tấn hỏi cung như xưa: Perroche mặt
gà thiến, Bazin mặt gà chọi, v.v… tiếp tôi hôm nay.
- Chào ông Giàu, ông mạnh khoẻ?
- Cám ơn. Vẫn còn sống.
- Năm năm, dài quá phải không ông?
- Dài nếu so với một năm, ngắn so với mười năm.
- Hôm nay, nhân ngày trả tự do cho ông, chúng tôi muốn hầu ông một
số vấn đề, những vấn đề thuộc chiến tranh thế giới đó mà.
- Nếu các ông muốn tôi sẵn sàng.
Tôi đinh ninh rằng có thể tụi này bày trò khiêu khích gì đây, hoặc
chúng nó tìm hiểu mình để có thái độ, hoặc chúng nó thật muốn mình giải
đáp âu lo thắc mắc của chúng nó, không chừng.
- Ông Giàu ạ, ông cắt nghĩa tại sao Stalin cộng sản ký hiệp ước với
Hitler phát xít? Tại sao Đức và Liên Xô cùng đánh Ba Lan, chia xẻ Ba Lan?
Tình hình chiến tranh trên thế giới sẽ diễn ra như thế nào trong tương lai gần
đây ở châu Âu?
- Tôi cho rằng hoặc các ông không đủ thông tin hoặc các ông được
thông tin không chính xác, cho nên các ông hiểu sai sự diễn biến của tình
hình châu Âu từ hơn một năm nay. Tôi hỏi vặn lại các ông vậy chớ ai ký
20
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
hiệp định Munich với Đức, để Đức nuốt chửng nước Áo, nước Tiệp? Đâu
phải Liên Xô mà chính là Pháp và Anh. Các ông thừa biết rằng khi Pháp,
Anh yêu cầu Liên Xô bảo đảm cho các nước nhỏ đông bắc Pháp mà Pháp,
Anh lại không chịu đảm bảo cho các nước nhỏ ở miền tây bắc, tây nam Liên
Xô. Ý đó là gì nếu không phải là Pháp và Anh đã xui Đức tiến công về phía
đông, phía Liên Xô để cho Pháp, Anh đứng ngoài trông hai con hổ đánh
nhau mà trục lợi về phần mình. Nước cờ ấy như chỉ trắng may vải đen, trẻ
con cũng thấy. Thì Liên Xô phải trả đũa một cách thích hợp với lợi ích của
mình bằng việc ký hiệp ước bất tương xâm phạm với Đức. Hãy biết rằng, đó
không phải là hiệp ước liên minh Xô-Đức mà là hiệp ước bất tương xâm
phạm. Liên Xô trước muốn liên minh với Pháp, Anh mà không được thì nay
định đứng ngoài cuộc chiến tranh giữa Đức và Pháp, Anh. Liên Xô có phản
phúc ai đâu, có đành hy sinh Áo, Tiệp như hiệp ước Munich đâu? Còn như
các ông kêu ca, phản đối việc Liên Xô đưa quân qua chiếm phần phía đông
Ba Lan thì việc ấy đầu đuôi như thế này, nếu các ông chưa biết:
Đức tấn công vào Ba Lan. Anh, Pháp tuyên chiến với Đức mà không
tiến công lớn vào Đức, để Đức tập trung đại lực vào Ba Lan, chỉ trong vài
tuần quân Đức đã bao vây Varsovie, chính phủ Ba Lan chạy sang Rumani,
khi ấy Hồng quân Liên Xô mới kéo vào đông Ba Lan, chiếm đóng nhanh
vùng đất Nga mà hồi chiến tranh thế giới lần thứ nhất các nước đồng minh
thắng trận đã cắt lấy của Nga để giao cho nước Ba Lan mới được lập lại cho
nó đủ lớn đủ mạnh làm đồng minh chí cốt của Pháp, Anh. Đất của Nga, Nga
lấy lại, Liên Xô không thể cho Đức chiếm khi Ba Lan đã bại trận rồi. Đó
không phải là chia xẻ Ba Lan mà đó là một hành động chống Đức. Hồng
quân Liên Xô vào Ba Lan, dừng lại đúng trên giới tuyến Curzon. Các ông
biết giới tuyến Curzon là cái gì không? Nếu không thì tôi cắt nghĩa: đó là
ranh giới đông Ba Lan mà chính khách tên Curzon đề nghị, sau khi chiến
tranh thế giới kết thúc, ranh giới này hợp lý vì bên này không có người Nga
và bên kia không có người Ba Lan. Nhưng thuở đó Anh, Pháp, Mỹ chiến
thắng Đức, Áo, Thổ, quyết cắt một phần đất Nga biếu Ba Lan em út, nay của
César trả về César, thì nói xâm lược, nói bất công là nói làm sao? Alsace
Lorraine12 trở lại với nước Pháp hồi 1918 thì bất công, xâm lược ở chỗ nào?
12 Alsace Lorraine: vùng đất cực đông của nước Pháp, giáp ranh nước Đức, năm 1871, bị
đế quốc Đức sáp nhập, sau Thế chiến lần thứ nhất (1914-18) nước Pháp mới khôi phục
được. Từ năm 1871 trở đi, trong tâm tương của dân tộc Pháp, Alsace Lorraine trở thành
biểu tượng của lòng yêu nước, thiết tha với sự toàn vẹn lãnh thổ (và cả biến tướng của nó
là chủ nghĩa dân tộc, lòng căm thù “bọn Đức” (Boches)). Không phải ngẫu nhiên mà năm
1940, dựng cờ kháng chiến, tướng De Gaulle lấy “thập tự Lorraine” (chữ thập có hai gạch
ngang) làm biểu tượng. Năm ấy, Hitler tái chiếm vùng này và sáp nhập nó vào đế chế
21
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
- Ông Giàu quả là một trạng sư hùng biện cho Liên Xô, cò Perroche
nói.
Tôi tiếp tục trình bày góp ý kiến:
- Tôi muốn nói thêm rằng, bây giờ nước Đức hùng cường từ sông
Vistule đến sông Rhin, từ sông Danube đến Biển Bắc, nước Đức đó có biên
giới chung với Pháp ở tây, với Liên Xô ở đông. Rồi đây Đức sẽ đánh sang
đông trước hay tây trước? Tôi chắc nó sẽ đánh nước nào yếu hơn trước để
lấy sức đánh nước mạnh hơn. Nước yếu hơn chính là nước Pháp của các
ông. Tôi tự hỏi như vậy, trong tình thế mới đó Pháp, Anh và Liên Xô có đủ
khôn ngoan để hợp sức bẻ gãy xương sống của Hitler bằng hai gọn kềm thép
hay không? Tôi đoán chắc rằng nếu ngày nay nhiều người trong các ông còn
có ai coi Liên Xô là kẻ thù, thì ngày mai tất cả các ông sẽ coi Liên Xô là
bạn, là cứu tinh. Tôi cảm ơn các ông tạo một dịp may để tôi vắn tắt nói lên
một vài chính kiến về chiến tranh thế giới.
Bọn cò đều đứng dậy đưa tôi xuống lầu bằng cầu thang của các sếp, và
chúc tôi “đừng trở lại”.
- Sao anh ở trỏng lâu vậy? Em sợ quá chừng. Vợ tôi hỏi.
- Xin lỗi mình, anh bị tụi cò chất vấn khiêu khích. Phải nói. Mà không
hớ chút nào. Thôi ta cùng đi xuống đường Catinat, ngồi lại bờ sông như hồi
chưa cưới, ăn trưa ở Chợ Cũ rồi về nhà dì Tám, không thăm ai hết ngoài
trạng sư Loye và linh mục Tricoare để trả ơn họ nhiều lần đi thăm tôi trong
Khám Lớn. Chiều và tối hôm đó, hai người một xe kéo, tay trên vai, tụi tôi
dạo phố Sài Gòn, Chợ Lớn chuyện trò tâm tình nhiều hơn là xem cảnh vật.
Sáng ngày tụi tôi cà rịch cà tang trên xe lửa về thị xã Tân An. Tôi đi thăm
trường học xưa bên bờ sông Vàm Cỏ. Bao nhiêu là kỷ niệm sống lại trong
lòng; nào thầy, nào bạn. Rồi phải trình diện với phó tham biện. Rồi về quê.
Tụi tôi, hai người một cỗ xe ngựa, tiếp tục chuyện tâm tình, xa xa sau lưng,
bao giờ cũng có vài chú kiếng râm theo “hộ vệ” không kín đáo chút nào.
Về đến chợ Tầm Vu, tôi liền mua một bó nhang, một hộp quẹt. Bà con
ở chợ nhờ quen biết với vợ tôi mà nhận ra tôi, mấy phút sau kéo đến xem
chú Mười Ký như xem một vật lạ: Thuở nhỏ, tôi học ở trường tiểu học Tầm
Vu13, rồi từ vài chục năm nay, ít ai biết tôi đi đâu, chỉ nghe tin tôi làm gì. Ở
góc trời hẻo lánh này không mấy ai bảo con trai họ theo gương chú Mười
quốc xã, thanh niên Pháp quê ở tỉnh này bị bắt lính, tham gia quân đội, SS… gây ra nhiều
tội ác ở Pháp cũng như ở Ba Lan, Liên Xô (họ bị gọi là lính Đức malgré eux –dù muốn
dù không).
13 Tầm Vu, do đó, cũng là một bút hiệu của Trần Văn Giàu.
22
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Ký, cực khổ, nguy hiểm lắm, nhưng rất nhiều người dạy con gái theo gương
cô Sáu Đạo14 tiết hạnh, thuỷ chung, giỏi việc nhà, ăn ở thuận hoà với mọi
người.
Tôi và vợ tôi đi về nhà bằng đường bờ vòng vèo. Còn vài trăm thước
nữa mới tới vuông tre của nhà tôi. Tôi thấy một đám đông, chắc có má tôi ở
đó; tôi băng ruộng còn khô nẻ. Đúng má đây rồi, khăn điều vắt vai. Mẹ con
ôm nhau, khóc, chỉ biết khóc không nói được một lời nào ngoài hai chữ: má!
con! Mọi người đều khóc. Má tôi già đi nhiều; tóc đã bạc phơ, răng cửa còn
hai chiếc. Mặt, cổ, vai đều ướt vì nước mắt của mẹ. “Con về lần này, ở nhà
với má, tía con chết rồi, má hiu quạnh quá con ơi!”. Nghe đứt ruột. Tôi và
vợ tôi xuống ruộng, đi đến mộ cha, thắp hương quỳ lạy tạ tội bất hiếu. Nhớ
ngày nào cha tôi có bảo: “Tận trung là chí hiếu rồi đó”; biết vậy nhưng vẫn
thấy mình lỗi đạo làm con. Các anh chị tôi và bà con xóm giềng kể lại rằng,
gần lâm chung, cha tôi góp tàn lực, ngồi dậy, đứng lên, tay vịn vách, lần đi
mấy bước, vừa đi vừa kêu tên tôi: “Ký ơi, Ký, con ở đâu?”; ai nấy chạy lại
dìu cha tôi về giường, một lát sau, cha tôi tắt thở. Vậy là hình ảnh cuối cùng
trong tâm trí của cha tôi là đứa con bất hiếu này!
Mấy ngày liền, nhà tôi trở lại cảnh “tứ đại đồng đường”15, vui vẻ hết
sức. Trừ ra một ngày về thăm quê vợ, tôi ở luôn bên cạnh mẹ tôi, vợ tôi. Mẹ
tôi, như năn nỉ: “ Má 75 tuổi rồi, cô đơn quá, con ở nhà với má cho đến khi
má theo tía con, rồi con làm gì thì làm, đi đâu thì đi”. Vợ tôi biết tính chồng,
không khuyên can gì hết, chỉ lo cơm nước thuốc thang. Cuộc sống ở gia đình
sao mà đầm ấm quá! Người thì kể chuyện bên Tây, bên Tàu, ngoài Côn Lôn,
trong Khám Lớn. Người thì kể chuyện cười rơi nước mắt, chuyện vợ tôi
xuống chùa cô Ba Yến học dệt vải, học làm tương, đi tu mà không chịu
xuống tóc, trong túi bao giờ cũng có quyển Lục Vân Tiên và hình Trần Văn
Giàu. Chuyện xảy ra lúc tôi thoát ly gia đình đi làm cách mạng chuyên
nghiệp, không ai biết tôi ở đâu, làm gì, sống hay chết; có một quan huyện
chết vợ toan đi hỏi vợ tôi mà ông ấy tin rằng đã goá chồng, vừa đẹp, vừa
giàu, lại nết na, chưa con. Vợ tôi xin phép cha mẹ tạm lánh ở chùa dưới chợ
Tham Nhiên, để tránh người nói hỏi phiền phức.
Một hôm có người bạn tù cũ từ Mỹ Tho qua Tân An thăm tôi, khẽ bảo:
Xứ uỷ dự tính anh sẽ trong Uỷ ban khởi nghĩa. Tôi hết sức dè dặt trả lời cho
bạn:
14 Sáu Đạo tức là bà Đỗ Thị Đạo, vợ ông Trần Văn Giàu (tên quen thuộc là Mười Ký, sau
này là Sáu Giàu).
15 Tứ đại đồng đường: bốn đời (thế hệ) ở chung dưới cùng một mái nhà.
23
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
- Chân ướt, chân ráo mới về, tôi biết gì mà vào Uỷ ban khởi nghĩa?
Chuyện đó chưa nói được. Tôi dè dặt trả lời.
- Anh hãy kíp kíp vào bí mật trở lại đi. Tụi nó đến bắt, e khi anh trở tay
không kịp, chớ chủ quan mà chết.
- Thong thả một chút. Chưa uống hết một góc tể thuốc. Tôi cần chữa
bệnh.
- Nước tới trôn mới nhảy, nhảy sao được?
Tôi nghĩ rằng anh bạn cảnh cáo tôi như vậy là đúng quá, nhưng về phần
mình, tôi phải dè dặt trong sự giao thiệp, vả lại tôi đã vốn lập luận chủ quan
từ ngày còn ở “biệt thự S” rằng Pháp chưa bắt tôi từ trước đầu mùa thu, mà
nay mới là đầu mùa hè.
4. Đã sầu chia ly
Sum họp gia đình được bảy ngày. Ngày thứ tám, vợ tôi xin phép về
Bình Trị để bắt đầu chuẩn bị cho mùa lúa tới, hẹn hai hôm, phơi giống xong
sẽ quay trở lại.
Nào dè, tối hôm đó, cửa ngõ vừa gài, đèn vừa lên, kế hoạch liên hoan
ngày mai vừa đặt, thì ngoài cổng có tiếng gọi: chú Mười có nhà không? Chú
Mười có nhà không? Có khách, có khách! Nghe lạ tai, tôi sanh nghi. Chắc có
biến. Làm sao bây giờ? Có thể lẩn ra vườn sau, vườn rộng, trời tối, ai biết tôi
ngồi ở đâu, đi ngả nào? Nhưng, nếu cò Tây, làng lính đến bắt tôi mà chúng
nó biết rằng mới hồi chiều đây tôi còn ở nhà thì chúng nó có thể sẽ bắt mẹ
tôi để tìm ra tôi, đó là điều tôi không muốn. Vả lại, mấy ngày rày, tôi chưa
hoạt động chính trị gì hết thì dù tôi bị bắt, Tây chỉ có thể đưa tôi đi trại tập
trung là cùng, bắt tôi đi trại tập trung ở núi cao rừng sâu thì cũng giống như
“bắt cóc bỏ dĩa”, sợ gì? Tôi bèn ra mở cửa ngõ.
Hương chủ Mai ở Tầm Vu, Phủ Hoài và cò Tây ở Tân An, mấy tên
làng lính theo sau, tụi nó đi bắt mình đây.
- Quan trên mời chú Mười lên Sài Gòn.
Tôi mời các ông vào nhà xơi nước đã.
Vào nhà, thằng cò đọc lệnh Thống đốc Nam Kỳ. Tôi dịch ra cho má,
anh chị và cháu tôi nghe. Mọi người khóc ròng, trừ anh Năm tôi, ổng nắm
tay trừng mắt, chòm râu cằm run run. Tôi sợ ổng vồ tới bóp cổ hương chủ
Mai, và như vậy sẽ sinh ra đổ máu. Anh Năm tôi vốn là một chiến sĩ khởi
24
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
nghĩa năm 191616, đã tham dự trận phá Khám Lớn Sài Gòn. Tôi để tay lên
vai anh và thưa với mẹ: “Má yên tâm, con sẽ về với má”. Thằng Tây bảo
lính dẫn tôi đi, không còng trói gì hết. Má tôi té xỉu xuống đất. Ra tới cửa
ngõ, tôi sực nhớ đến vợ: mai sáng, được tin không lành, chắc vợ tôi cũng té
xỉu xuống đất như mẹ tôi.
Một trại tập trung được hối hả dựng lên ở Tà Lài, tỉnh Biên Hoà, dành
cho cựu chính trị phạm và một số người “nguy hiểm” ở Nam Kỳ.
5. Căng Tà Lài: “Trại lao động đặc biệt”
Đường lên trại giam
Trên đường bờ quanh co từ nhà ra lộ đá, tôi tự hỏi không biết có người
vợ trẻ nào gian truân như vợ tôi không? Sau đám cưới hơn một tháng, ông
chồng đi đâu biệt tích, không biết sống chết, mãi đến ba năm sau, khi ông ấy
bị bắt, bị đưa ra toà, mới biết chắc chắn rằng mình chưa phải đã goá chồng.
May mà khi ấy tôi chỉ bị bắt có một mình, bị bắt lúc đang đi trên đường cái,
có nhiều tiền trong túi mà không có địa chỉ cư trú, cho nên toà chỉ xử án năm
tù treo vì cái tội nghe lạ tai là “vô gia cư chuyên môn”(vagabondage
qualifié) tuy nó biết chán rằng tôi là “nhà cách mạng chuyên nghiệp”, chớ
không phải là “ma cà bông”.17 Lãnh án rồi, về nhà với vợ được hơn tháng
tôi lại phải vào bí mật. Từ đó lúc tôi mãn án lần chót là bảy năm đằng đẵng.
Kỳ này, ngỡ rằng có thể ở nhà vài tháng, cho đến đầu mùa thu, té ra cuộc vui
sum họp chỉ được tám ngày thì ông chồng bị bắt đi trại giam thời chiến, mà
chiến tranh thì biết khi nào dứt, chưa dứt thì mọi việc tàn bạo nhất đều có thể
xảy ra ở trại giam trên rừng sâu nước độc. Thật khó mà tưởng tượng tâm
trạng của một cô vợ ở trong tình cảm bi đát này. Càng khó tưởng tượng tâm
trạng của mẹ tôi, vừa mới gặp lại thằng con yêu quý thì bị người ta cướp đi
từ tay mình. Trời ơi là trời! Tai hoạ sao mà dồn dập trút xuống một bà già
quạnh hiu gần đất xa trời như thế này?
Can đảm mấy cũng đứt ruột.
Đứt ruột mà vẫn phải can đảm; càng đứt ruột càng phải can đảm.
16 Xem chú thích (1) về Nguyễn Hữu Trí.
17 Ma ca bông: biến âm từ danh từ tiếng Pháp vagabond, người vô gia cư, lưu lãng,
thường có ý xấu (ma cà bông, ma cà cúi, lúi húi đi tìm).
25
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Hai chiếc xe hơi từ tỉnh lộ Tân An - Gò Công bật đèn lên, thấy Châu
Văn Giác ngồi với vài tên tính mã tà.18
- Cậu Mười19 đây rồi! Cậu cháu mình cùng đi trại giam cho có bạn.
Châu Văn Giác là một đứa con xứng đáng của đất Tầm Vu, cậu đã vào
T.K. (Thanh niên Cộng sản) từ 1930, đã đạt kỷ lục bãi thực20 dài mười hai
ngày ở Khám Lớn, kỷ lục này bị phá bởi cuộc bãi thực ba mươi ngày của các
anh Tạ, Thâu, Ninh, Hiển, Quảng21 (cuộc này sở dĩ kéo dài đến thế là nhờ
thủ thuật của nhà cầm quyền Pháp bơm sữa vào hậu môn tù nhân). Quảng là
cháu ruột của tôi, cũng là người xứ Tầm Vu, hôm nay nó không bị bắt với
Giác và tôi, bởi vì sau cuộc chiến tranh kia, nó ho lao nặng, chắc Pháp thấy
rằng không cần bắt giam nó, nó cũng chết tới nơi rồi.
Một đêm, ở xà lim trại lính khố xanh22 thị xã Tân An, Giác và tôi được
đánh thức vào khoảng một giờ sáng và được lệnh đi ngay.
Đi đâu chừng này? Chừng này mà bị dẫn đi thì rất có thể là đi “thủ
tiêu”êm. Tôi sinh nghi. Hỏi mã tà. Hỏi đội sếp. Nếu tụi này ú ớ thì chúng tôi
sẽ chống lệnh, chúng tôi sẽ la ó để báo động cho nhân dân.
- Đi đâu giờ này? Ai ra lệnh? Đưa lệnh coi nào?
- Lệnh đây. Đi Sài Gòn. Phải có mặt ở Bà Chiểu trước hửng sáng, để đi
đâu nữa thì chúng tôi không biết.
Thế là không phải đi thủ tiêu êm. Tôi lên tới trại của Binh đoàn lưu
động Gia Định lúc bốn giờ sáng. Vào sân thấy ngồi ủ rũ trên ghế đá mấy anh
chàng quần áo tử tế, trong số đó có một cậu to béo, mặc quần soóc, xách cặp
da bóng loáng. Họ đang ủ rũ, hỏi ra mới biết, bởi vì họ cũng ngờ rằng Tây
18 Mã tà: hay ma tà, gốc từ tiếng Mã Lai mata mata, chỉ chung lính cảnh sát, công an.
Giữa thế kỉ XIX, mã tà chỉ một loại lính trong quân đội thực dân, cũng như ma ní (người
gốc Philippin). Trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861), Nguyễn Đình Chiểu viết: “Kẻ
đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau,
trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.”và “Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa
hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm
bánh mì, nghe càng thêm hổ.”
19 Tức Mười Ký, tên trong nhà của Trần Văn Giàu.
20 Bãi thực: tức tuyệt thực, nhịn ăn để phản đối hay đòi hỏi điều gì.
21 Có lẽ đây là cuộc tuyệt thực nổi tiếng tháng mười năm 1936 ở Khám Lớn của Nguyễn
An Ninh, Nguyễn Văn Tạo (bản đánh máy viết nhầm là Tạ chăng?), Tạ Thu Thâu.
22 Lính khố xanh: cùng với Lính khố đỏ, là những người Đông Dương ở trong các đơn vị
“bản xứ” của quân đội Pháp. Quân phục của họ là quần áo chẽn, nón dẹp (sau đổi nón
chóp), và giải thắt lưng (quần) màu đỏ (xanh) buộc ở bụng, đầu giải buông thõng ở bẹn
giống như cái khố nên người dân Việt mới gọi là "khố đỏ/xanh". Khố đỏ là lính chính quy
(tirailleurs), khố xanh (miliciens) là địa phương quân (cấp tỉnh).
26
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
nó sắp đem đi thủ tiêu trước khi trời sáng. Thời kỳ chiến tranh mà! Còn đâu
nữa chính phủ Mặt trận bình dân23 mà hòng nói luật với pháp? Trên sân, qua
lại mấy toán lính khố xanh, mấy thằng cò Tây nai nịt súng đạn, chờ lệnh,
mặt sát khí đằng đằng.
- Chào các anh, từ đâu đến mà dám đến sớm hơn tụi này? (Tôi cà rỡn
hỏi).
- Bạc Liêu, Cần Thơ lên.
- Còn hai anh, từ đâu đến mà coi bộ tươi cười như vậy?
- Từ Tân An. Giác trả lời và giới thiệu luôn.
- Ông này là Giàu, tôi là Giác.
- Giàu nào? Có phải Trần Văn Giàu không?
- Mình là Tào Tỵ, hoạ đồ Tỵ Bạc Liêu, còn chú da bánh ít ngọt này là
Nguyễn Công Trung, công tử Cần Thơ.
Bây giờ tan biến cái lý nghĩa bị đem đi thủ tiêu trước trời sáng. Ai nấy
đều chắc rằng sắp phải bị đưa đi xa Sài Gòn nhưng chưa biết đi đâu. Đi ra
biển? Hay đi lên rừng? Hay đi xa hơn nữa tận Ấn Độ Dương, tận châu Nam
Mỹ? Lát nữa sẽ rõ.
Chờ xem.
Đúng năm giờ, một đoàn xe quân dụng bốn chiếc bắt đầu nổ máy trong
sân trại Binh đoàn lưu động. Chiếc đầu chở một thằng quan hai non choẹt,
cao nhồng, vẻ kiêu ngạo, vài thằng Tây nữa là ách đội.24 Chiếc sau chở
khoảng một tiểu đội khố xanh. Hai chiếc giữa chở bọn tôi, chừng vài mươi
đứa. Xe ra cổng, không quẹo tay phải ra phía Sài Gòn, mà quẹo tay trái về
phía Gia Định. Tôi hơi mừng trong bụng. Rồi đoàn xe trực chỉ Biên Hoà,
không phải xuống bến tàu. Tôi nói nhỏ với Giác:
23 Mặt trận bình dân (Front Populaire): Liên minh phái tả nghị trường Pháp (1936-1937)
gồm Đảng xã hội SFIO, Đảng cấp tiến (Radical), có sự ủng hộ của Đảng cộng sản (không
tham gia nội các), mang lại nhiều quyền lợi vật chất và tinh thần cho các thành phần lao
động Pháp. Về đối ngoại, chính quyền Léon Blum không dám ủng hộ chính quyền cộng
hòa Tây Ban Nha chống lại cuộc phản loạn của Franco. Đối với các chính sách thuộc địa,
chính quyền Léon Blum đề ra một vài cải cách nửa chừng, song đã bị các thế lực thực
dân vô hiệu hóa. Tuy nhiên, thời kì này đã có tác dụng rất tích cực đối với phong trào đấu
tranh dân chủ, hợp pháp và bán hợp pháp ở Việt Nam. Đảng Cộng sản đã vực dậy sau
cuộc đàn áp 1931-32. Tự do báo chí được mở rộng hơn (hẳn bây giờ). Dòng văn học hiện
thực nảy nở.
24 Ách: adjudant (thượng sĩ); đội: sergent (trung sĩ); cai: caporal (hạ sĩ).
27
Hồi ký
- Thôi, yên trí; không phải ra biển mà đi lên rừng, ra biển khó về, còn
lên rừng thì như đi píc-níc thôi!
Trưa, đoàn xe đậu lại ở cây số 125 đường Biên Hoà - Đà Lạt. Không có
nhà dân, không có đồn bót, không một bóng người qua lại; chỉ nghe tiếng
vượn hú. Nhưng một trại bỏ trống với mấy bãi cứt bò đã khô quéo, chứng tỏ
rằng đây là một cửa rừng, chỗ thợ rừng kéo súc ra chờ xe chở về dưới xuôi.
Một đường đá nhỏ hẹp dắt đi đâu không biết, cỏ cây mọc tùm lum. Một thầy
đội bảo:
- Đường vào căng25 đó, chúng ta nghỉ ăn sáng cái đã.
Lính trải vài tờ nhật trình xuống cỏ, bày bánh mì, đồ hộp, bình toong
nước, ai có phần nấy.
- Y như hướng đạo sinh đi cắm trại mùa hè!
- Cứ quất no một bụng rồi sẽ xem ra sao.
Anh em bàn luận vui vẻ giống như đi cắm trại thật. Trừ tôi ra, tôi quan
sát đường đi nước bước từ hồi sáng đến giờ.
Từ đường 20 vô tới căng Tà Lài, chỉ mười bảy cây số, vậy mà chạy xe
mất quá một giờ. Càng vào sâu, cây cỏ càng lấp mặt đường, đá tảng gập
ghềnh. Không một ai lai vãng. Không một nhà, một chòi. Nhưng thú rừng
thì vô kể, nhiều nhất là các loài khỉ; khỉ trên cành cây cao vút, khỉ dưới đất
chạy qua đường, nhăn mặt như trêu người, la hét như chào mừng bà con quá
bộ đến thăm. Từng đàn công bay ào ào, kêu chan chát, thằng quan hai nổ
một phát súng hạ được một con công đuôi dài rất đẹp. Thỏ lấp ló ở bụi gần,
nai téc ở trảng26 xa. Thỉnh thoảng heo rừng nghênh mỏ, khoe nanh rồi vụt
nhảy. Tôi chợt nghĩ: thú nhỏ nhiều như vậy, chắc cọp ở đây không ít, cọp ở
đây góp phần quan trọng cho việc canh giữ chúng tôi trong trại.
25 Căng: camp (trại).
26 Trảng: vùng đất trống, không/thưa cây, ở giữa rừng (clairière/glade)
28
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Khu Tà Lài chụp từ vệ tinh: vùng đất màu nậu nhạt ở phía
trên ảnh, gần giữa, có dòng sông Đồng Nai chảy qua. Góc
trái phía dưới: hồ Trị An. Góc phải, phía dưới: đường trắng
chạy ngang là đường 20.
Cuối đường là trại giam Tà Lài.
Tà Lài nguyên là trụ sở đặc biệt của thực dân Pháp tại vùng người
Thượng ở đông và đông bắc Biên Hoà. Xem như một quận lỵ, từ lâu bỏ
hoang. Nói là trụ sở, là quận lỵ, chớ thật ra không còn có đâu! Cư dân? –
Vẻn vẹn chỉ có một nhà dân núp trong vườn chuối sum sê bên cạnh một bến
phà. Công thự? Chẳng có gì cả ngoài ba cái nhà trệt bằng gỗ lợp ngói có thể
chứa một vài ông quan và một vài trung đội lính khố xanh nhưng đã bỏ
hoang, không biết từ hồi nào. Ba cái nhà đó ở giữa một khu đất rộng chừng
bảy, tám mẫu, cây to cao đã bị đốn sạch, nhưng cây nhỏ và cỏ tranh mọc lên
rậm rì, có nơi lút đầu. Ngày chúng tôi lên tới đó thì Tây mới vừa làm xong
một cái trại dài bằng tranh tre nứa chứa được khoảng năm, bảy mươi người,
một cái nhà bếp, một trạm y tế cũng bằng tranh tre. Từ nay về sau mọi sự
xây dựng ở trại giam này đều sẽ do bàn tay của anh em chúng tôi.
29
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Ảnh căn cước ở trại Tà Lài
(Nguồn: Tư liệu gia đình)
“Cầu thủ dự bị”
Ở Tà Lài được vài tuần, số anh em lên đến hơn trăm, mỗi tuần lại thêm
đông, tổ chức sinh hoạt, tổ chức lao động bắt đầu thành nề nếp. Tôi bàn với
vài đồng chí tin cẩn nhất trong Đảng uỷ căng như Văn, Phúc, Giác, Đức về
nhiệm vụ chính trị của những đảng viên cộng sản ở cái trại giam lớn này.
Rõ ràng là bọn thực dân quyết định gấp rút bắt tập trung lại một chỗ
cho kỳ hết những ai mà chúng cho là nguy hiểm đối với quyền thống trị của
Pháp trong cuộc chiến tranh thế giới này, trước hết là những người cộng sản,
nhưng không chỉ có cộng sản mà thôi. Hễ còn trại tập trung thì còn thực dân
Pháp và chiến tranh. Trại tập trung là nhà tù không án, không thời hạn. Giam
giữ là chính. Cái chính không phải là đày ải, bắt lao động. Tách rời cá với
nước, chiến sĩ với nhân dân mới là mục đích lớn; mục đích lớn chắc không
phải là dùng nhân công này làm đường sá, xây đồn luỹ. Tất nhiên là vì nếu ở
trại giam mà các nhà cách mạng chết lần, chết hồi đi thì thực dân Pháp càng
bằng lòng. Về phần của ta thì ta phải xem việc tập trung ở trại giam này như
là một cơ hội để huấn luyện chiến sĩ, đào tạo thêm cán bộ cho cuộc cách
mạng nhất thiết phải nổ ra và thành công ngay trong cuộc chiến tranh thế
giới này. Các đồng chí đang hoạt động bí mật hiện nay có khá đông, đủ năng
lực, đủ tinh thần, nhưng tránh sao khỏi bị bắt, bị giết. Chúng tôi ở trại giam
phải tự xem như “cầu thủ dự bị” để thay thế những người bị bắt, bị giết đó,
30
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
để bổ sung cho lực lượng cách mạng chỗ nào và khi nào cần. Tà Lài phải
đóng vai một “trường học nội trú” của Đảng. Việc chính của chúng tôi ở đây
chưa chắc phải là đấu tranh để cải thiện điều kiện ăn, ở, y tế, lao động, cái đó
tất nhiên là cần thiết mà không phải là chính yếu; cái chính yếu là học, là
huấn luyện.
Ban lãnh đạo căng, công khai, được toàn thể trại viên bầu cử, được xếp
căng công nhân, lo việc tổ chức ăn, ở, lao động. Ban này đa số là đảng viên,
mỗi trại hai người, trên hết là đại diện của toàn thể trại viên đối với xếp
căng: đồng chí Giàu. Đảng uỷ viên chuyên lo việc huấn luyện chính trị tư
tưởng, tổ chức lực lượng nòng cốt, liên lạc với bên ngoài, công tác binh vận
đối với lính khố xanh, công tác dân vận đối với đồng bào Mạ27 trong vùng.
Mọi khả năng đều được tính trước, bàn luận kỹ, phải biết rằng thời này là
thời chiến, không còn là thời bình nữa rồi.
Đồng chí Văn báo cáo nội bộ hẹp về nghị quyết Trung ương tháng 11
năm 1939 (họp ở ngoại ô Sài Gòn), về nhiệm vụ cách mạng Đông Dương
trong tình hình chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Nghị quyết này, mãi
cho đến tháng 5 năm 1940, tôi chưa được biết, tôi cũng không biết rằng, cuối
1939, sau hội nghị Trung ương thì Ban Thường vụ Trung ương đã bị bắt ở
đường Nguyễn Tấn Nghiêm. Phúc nói riêng với tôi là Xứ uỷ Nam Kỳ đã
tính đến việc khởi nghĩa, phải bắt đầu chuẩn bị để đón thời cơ, tin ấy phù
hợp với việc cán bộ Mỹ Tho đến nhà tôi báo cho tôi biết là tôi có thể được
chỉ định vào Uỷ ban khởi nghĩa khi tôi vừa ở Khám Lớn về nhà.
Trong trại giam Tà Lài, đảng viên cộng sản và hội viên các đoàn thể do
Đảng lãnh đạo chiếm đại đa số. Song, những người không cộng sản cũng
không ít, còn có tín đồ Cao Đài, nổi tiếng nhất là “Thiên Bồng đại nguyên
soái”Lê Kim Tỵ; lại có Tờ-rốt-kít như nhà báo ít tiếng tăm Lê Văn Thử từ
đệ tam sang đệ tứ, tiến lên đệ tứ rưỡi, cũng có một tay nguyên thuộc công
đoàn vô chính phủ ở Paris như Trịnh Hung Ngẩu - nay là công thương gia.
27 Mạ hay Châu Mạ: dân tộc Tây Nguyên, ngữ hệ Môn Khmer, hiện nay khoảng 33 000
người, sống ở các tỉnh Lâm Đồng, Bình Phước, Đồng Nai (Tà Lài thuộc huyện Tân Phú
của Đồng Nai). Theo Bình Nguyên Lộc, tiếng Việt đã tiếp thu khá nhiều từ của tiếng Mạ:
sét (han rỉ), cẩm lai (gỗ), cá long tong, chết giấc (ngất đi), ngầy ngà (hay rầy mắng), thét
rồi (mãi rồi), bậu (dùng để gọi vợ), qua (dùng để tự xưng với người yêu hay em út), lung
(nhiều lắm)
BNL:
http://www.binhnguyenloc.de/pages/NghienCuu/LotTranVietNgu/LotTranVietNgu_20.ht
ml
31
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Lác đác vào trại có một ít cụ thuộc các “hội kín” ngày xưa. Và, sao cho khỏi
mấy tay trà trộn vào đây để do thám.
Văn và tôi tổ chức nhiều tổ học tập lý luận. Vấn đề chính, nhiệm vụ lớn
là xây dựng, củng cố lòng tin vào một cuộc cách mạng nhất định sẽ nổ ra
thành công ngay trong thời gian chiến tranh thế giới này. Văn là cựu sinh
viên trường Đại học Đông Phương, khoá sau tôi, người Vĩnh Long, nhỏ con
mà râu xồm, tóc quăn, có lẽ gốc người Phù Nam gì đó chăng? Văn ít nói mà
làm việc nội bộ giỏi. Tôi thì thường xuyên nói chuyện về thời sự, về các vấn
đề chiến tranh và cách mạng thế giới, trả lời cho các câu hỏi chính trị bất
luận là của ai, Cao Đài hay Trốt-kýt. Sinh hoạt tư tưởng xem như là thường
xuyên, lính gác cũng được dự, có khi cả sếp Tây nữa. Nhớ ngày Đức mở
cuộc tấn công chọc thủng chiến tuyến Maginot, tràn qua Bỉ và miền bắc
Pháp, nhắm Paris trực chỉ, một thằng sếp Tây xuống trại 1, tìm hỏi tôi: “Liệu
Paris có thất thủ hay không?”. Đông đảo anh em xúm nghe tôi và ông sếp
Tây tranh luận. Sếp Tây thì đoán rằng sau chiến luỹ Maginot thì Pháp chỉ có
thể lấy sông Loire làm phòng tuyến tự nhiên, chặn đứng quân Đức ở đó;
nghĩa là Paris chắc mất thôi. Còn tôi thì cho rằng Paris có truyền thống cách
mạng, sẽ không để cho quân phát xít chiếm đóng cho dù quân của chính phủ
bỏ ngỏ kinh thành. Đánh cá nhau: ăn thua một chai champagne, có hàng
trăm trại viên Tà Lài làm chứng. Ít hôm sau, chỉ ít hôm sau thôi, tin tới tấp,
chẳng những Paris thất thủ mà nước Pháp cũng sớm đầu hàng nhục nhã! Tôi
không dè rằng Pháp yếu hèn đến thế. Ai, ngoài Hitler, tin rằng một đế quốc
Pháp cường quốc có hạng, mà bị bẻ gãy xương sống chỉ trong vòng hai ba
tuần, quân Pháp chạy chết như một đàn trừu non trước bầy sói dữ? Không
phải là tôi buồn bực gì về cái việc Pháp thua Đức. Pháp thua Đức có thể thấy
trước; nhưng tôi không thể đoán được là Pháp đo ván mau đến thế. Tôi tính
rằng Pháp cầm cự được ít ra cũng cả năm, Đức sẽ yếu đi bớt, Liên Xô sẽ có
thời giờ chuẩn bị thêm. Nay, ở mặt trận Tây Âu như vậy là Đức gần như
rảnh tay, nó có thể sớm đem phần lớn lực lượng sang đông, đánh Liên Xô là
kẻ thù chính của nó. Nước Đức làm chủ thực tế của toàn thể lục địa châu Âu,
đem toàn lực lục địa châu Âu sang đánh Liên Xô thì mệt cho Liên Xô lắm,
mà hễ mệt cho Liên Xô thì cũng rất khó cho cách mạng thế giới.
Quả thật như vậy. Sinh hoạt tư tưởng của căng Tà Lài từ nay tập trung
vào vấn đề mặt trận Đức - Liên Xô. Hơn ai hết tôi khẳng định rằng, tiến
công Liên Xô thì Hitler đến ngày tận số. Nhưng rồi cũng không hẳn như thế,
ít nhất là ở những giai đoạn đầu. Phòng tuyến Stalin chẳng hơn gì phòng
tuyến Maginot. Quân Đức thắng trận này đến trận khác; Hồng quân mất
thành này đến thành khác, có khi một ngày lui hàng mấy chục cây số; quân
Đức vào tới ngoại ô Leningrad; Hitler tuyên bố sẽ nghỉ đông trong Moscou!
32
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Các đồng chí cộng sản buồn hiu; bọn đệ tứ, bọn thân Nhật lên chân; tụi nó
lấy báo ghép lại thành như một chiếc chiếu vẽ địa đồ chiến sự Đức - Liên
Xô, tuỳ tin chiến sự mà cắm cờ chữ vạn và cờ búa liềm, chữ vạn tiến mãi,
búa liềm lui hoài; họ uống trà, bình luận, nói móc họng. Cho đến một hôm
Tào Tỵ đi qua chỗ tụ họp ấy, nghe tụi kia chế nhạo nào là “Hồng quân vô
địch”, nào là “Liên Xô hùng cường”, nào là… Tỵ nổi nóng cho mỗi đứa một
đá, một thoi trời giáng, cả bọn tan như ruồi; anh em cản Tỵ lại, không thì tay
võ sĩ Tiều này còn đại náo thiên cung dài dài và được nhiều người ủng hộ.
Song vấn đề tư tưởng thì phải giải quyết bằng tư tưởng, không giải quyết
được bằng cùi tay gót chân. Văn và tôi bắt đầu tìm cách giải thích sự cố
Đông Âu trong nội bộ các đồng chí; rồi sau đó tranh luận công khai cho mọi
người phát biểu ý kiến: Đức Liên Xô, ai sẽ thắng? Trở lại trước:
–Chủ nghĩa phát xít là gì? Do đâu ra?
–Nguyên nhân của chiến tranh thế giới lần thứ hai? Trong đó có những
vấn đề mà tôi đã nói với tụi cò Catinat hồi tháng Tư!
–Chiến tranh và cách mạng.
Trước mắt, thiết thực là vấn đề Liên Xô có đứng vững được không
trước sức tiến công vũ bão của Đức Hitler. Đảng uỷ, Văn và tôi cố giữ cho
được lòng tin Liên Xô sẽ chiến thắng. Trên lý luận thì như vậy, nhưng thực
tế chiến trường thì khác xa, rất khó giải thích, không dễ giữ được một lòng
tin tuyệt đối như trước.
Chuẩn bị khởi nghĩa
Từ khi đặt chân lên Tà Lài, Văn, Phúc đã cho tôi biết chủ trương đường
lối của Trung ương Đảng và của Xứ uỷ Nam Kỳ về vấn đề khởi nghĩa.
Trung ương hội nghị lần thứ VI họp ở Bà Điểm quyết định chiến lược
mới của cách mạng giải phóng dân tộc, quyết định rằng ta có nhiệm vụ làm
cách mạng thành công trong cơ hội “trăm năm có một”, nghĩa là trong chiến
tranh thế giới lần thứ hai này. Nhưng, rủi quá, Trung ương Thường vụ bị bắt
sau đó ít lâu tại đường Nguyễn Tấn Nghiêm, Sài Gòn. Xứ uỷ Nam Kỳ, căn
cứ vào nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ VI, đã bắt đầu chuẩn bị
khởi nghĩa. Kế đó, Pháp đại bại, đầu hàng Đức, các cuộc xung đột biên giới
giữa Đông Dương thuộc Pháp và Thái Lan thân Nhật càng thúc giục cuộc
chuẩn bị khởi nghĩa. Chúng tôi ở Tà Lài được tin là Xứ uỷ không yêu cầu
chúng tôi cùng hành động, chỉ yêu cầu chúng tôi bảo toàn lực lượng, chờ
ngày được giải phóng. Nhưng về phần mình, chúng tôi không thể ngồi chờ
33
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
mà phải sẵn sàng hưởng ứng khi cần. Chúng tôi cũng chuẩn bị khởi nghĩa và
chuẩn bị bằng những cách sau đây:
Một là, tuyên truyền vận động ráo riết cho mã tà đứng về phe cách
mạng, đánh Pháp, giành độc lập. Pháp mắc kẹt ở châu Âu, bị Đức đánh bại,
thì lính khố xanh, khố đỏ gì cũng dễ thấy được rằng Pháp hết thời rồi, chỉ
còn chờ ngày cút khỏi Đông Dương mà thôi. Ở trại Tà Lài mỗi tuần thay
phiên một tiểu đội hay là hơn nữa, ý định của Pháp là ngăn ngừa lính bị
chúng tôi tuyên truyền, thực ra, có thể xem như Tây nó thường kỳ đem nộp
thêm người để cho chúng tôi tuyên truyền cách mạng. Các toán lao động
ngoài rừng, ngoài đường đều có vài lính đi theo, chúng tôi tuyên truyền vận
động đến mức họ đồng ý tập cho chúng tôi mở ráp súng và thỉnh thoảng bắn
đạn thật, lính về báo cáo với sếp Tây là đã bắn “đuổi cọp”. Đa số lính của
“Binh đoàn lưu động” vì vậy mà hiểu cách mạng, cảm tình với Đảng. Nếu
ngày nào ta quyết định khởi nghĩa lấy đồn Tà Lài, thì việc đó sẽ dễ như móc
thuốc lá trong túi áo.
Hai là, tuyên truyền vận động cho đồng bào thiểu số địa phương
thương và phục những người bị giam ở trại. Việc này khó lắm. Vì đồng bào
rất ít biết tiếng Việt, còn anh em tụi tôi thì không biết tiếng Mạ chút nào. Bà
con lại ở cách trại giam tới năm, ba cây số hay xa hơn nữa, chỉ có Phúc, sếp
ê kíp đốn tre bứt mây, mới có dịp vào làng Mạ. Song đồng bào thường qua
lại Tà Lài. Chúng tôi tìm cách thỉnh thoảng tổ chức những cuộc vui chơi ở
trại thì đồng bào rủ nhau đến xem. Tụi tôi sẽ có cách “tương kế tựu kế” gây
cảm tình.
Ba là, tổ chức một đội võ thuật, nói cho đúng một đội du kích hay tự
vệ, không mang hẳn tên gì mà thực chất là đội vũ trang, xung kích. Đội gồm
những tay “hào kiệt” được chọn kỹ: Tô Ký, Nguyễn Công Trung, Tào Tỵ
v.v… Trong rừng sâu thiếu gì chỗ tập luyện.
Bốn là rèn vũ khí thô sơ. Anh thợ Ba Son,28 Nguyễn Văn Khung, phụ
trách công việc này, dao mác, xà beng của trại thỉnh thoảng được báo cáo
mất, hỏng, thật ra là đưa vào “binh công xưởng” của Khung để rèn dao găm,
mã tấu.
28 Ba Son: từ tên gọi tiếng Pháp Arsenal de réparation (Công xưởng sửa chữa tàu chiến),
xưởng sửa chữa tàu của Hải quân Pháp mở ra từ 1863 ở ngã ba sông Sài Gòn và rạch Thị
Nghè. Nơi đây Nguyễn Ánh đã từng lập xưởng đóng chiến thuyền. Nửa đầu thế kỉ XX,
Ba Son là nơi tập trung một đội ngũ công nhân cơ khí (trong đó có người thợ Tôn Đức
Thắng).
34
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Và năm là làm lương khô và tích trữ thuốc men, việc này do “Tiển cụt”
sếp bếp của căng, phụ trách: mỗi ngày để dành cơm cháy và phơi một số
cơm khô đựng trong bao bố tời treo ở bếp.
Đã có kế hoạch chiếm gọn đồn Tà Lài, ra lấy Xuân Lộc, thắng thì đánh
rốc về Biên Hoà, thất thì vào rừng núi làm du kích chiến tranh; Tà Lài nổi
dậy là phải tuỳ theo lệnh của Xứ ủy, không được tự động.
Sau đây là vài chuyện thuộc mưu đồ khởi nghĩa ở Tà Lài, chuyện xảy
ra vào cuối năm 1940. Chuyện “thi lội” là kế “điệu hổ ly sơn”, tạo khả năng
điều phần lớn Tây và lính đồn ra khỏi trại mà thường xuyên chúng phải túc
trực. Chuyện “xỏ vàm trâu cổ” là chuyện cốt làm cho đồng bào người Mạ
phục anh em bị giam cầm, tạo điều kiện quan hệ thân ái giữa người Kinh và
người Thượng mà Pháp cố tình chia rẽ; nhà cầm quyền thực dân cho rằng Tà
Lài không có tường cao cửa sắt như Khám Lớn nhưng lại có rừng già nhiều
cọp và có xóm làng người thiểu số mà chúng tin là trung thành với Pháp cho
nên chúng tin chắc rằng tù nhân không thể nào vượt ngục mà không bị dân
bản địa bắt nộp cho chúng.
Tháng 7-1989 (kỉ niệm 200 năm cách mạng Pháp), Trần
Văn Giàu được mời sang Pháp. Ảnh chụp trước cổng nhà tù
La Roquette, nơi cậu học sinh Giàu bị giam năm 1930
trước khi bị trục xuất về nước (Ảnh N.N. Giao)
35
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Thi lội
Phong cảnh Tà Lài khá hữu tình. Đồn ngói của Tây, trại tranh của tù
như giấu mình trong khu rừng mênh mông đầy muông thú, bên cạnh một
con sông lớn nước bao giờ cũng trong và đầy, sông Đồng Nai. Bên kia sông
về hướng Tây, một dãy núi xanh biếc. Bên dưới sông, một cái thác tuyện
đẹp, được tù nhân đặt tên là thác “Cồn Mai”, đá dưới nước trồi lên, mai trên
đá soi gương dưới nước. Khoảng trên của con sông, dài không biết bao
nhiêu kilômét, nước đầy, chảy nhẹ, nhiều cá tôm, có cả sấu; chiều chiều đội
đốn tre của anh Phúc thả bè về, quần áo quấn trên cổ, hát giọng chèo đò.
Một hôm chủ nhật, tốt trời, chúng tôi xin phép tổ chức “thi lội” ở khoảng
sông này. Sếp Tây đồng ý.
Trong một số anh em bị đưa đi lên trại giam Tà Lài, có Nguyễn Văn
Minh, biệt danh là “Minh lội”, người dong dỏng, khoẻ, vui tính, nổi tiếng vô
địch bơi lội Đông Dương. (Năm rồi trong cuộc thi bơi lội toàn Đông Dương
thì Minh đoạt giải nhất). Bị đưa lên Tà Lài về cái “tội” không ra tội là “thuộc
nhóm La Lutte29”, chỉ có vậy thôi. Lên đây, Minh có một hồ bơi lý tưởng là
khúc sông Đồng Nai dài, rộng, sâu, nước chảy không mạnh. Những buổi
chiều biểu diễn của Minh được toàn căng tán thưởng, nhiều thầy chú30 ra
xem, đôi khi sếp Tây cũng ra xem. Minh lội nhanh như cá và đẹp như khiêu
vũ ba lê.
Trong số thanh niên bị bắt lên trại giam Tà Lài, có Nguyễn Thanh
Liêm, con đỡ đầu của nghệ sĩ Văn Cừ, Cần Thơ. Liêm trẻ hơn Minh, cũng
dong dỏng, vui tính, đẹp trai, có tiếng bơi lội giỏi mà không đi tranh giải vô
địch bao giờ. Trên khúc sông Tà Lài, Minh và Liêm đôi khi cũng tranh tài
với nhau và mỗi lần như vậy cả hai đều được trại viên, lính tráng cỗ vũ, đánh
cá với nhau.
Tôi, Văn và Phúc nảy ra cái ý là, nếu một ngày nào đó ta phải chiếm
đồn Tà Lài để rồi ra đánh Xuân Lộc, thì khi ấy ta phải tạo ra một tình hình
thuận tiện cho cú đánh bất ngờ, là kéo sếp Tây và phần lớn lính mã tà ra khỏi
trại. Trong lúc đó một số ít người của ta ập vô trại lấy hết súng đạn mà
không phải đánh chác gì. Trước mắt ta hãy thử tổ chức một cuộc đua tài bơi
29 La Lutte: tờ báo tiếng Pháp, xuất bản tại Sài Gòn. Chỉ tồn tại từ 1933 đến 1937, tờ báo
này có tiếng vang và ảnh hưởng sâu rộng trong cuộc đấu tranh chính trị ở Nam Bộ thời kì
Mặt trận Bình dân. Dưới sự chủ trì của Nguyễn An Ninh, La Lutte (Tranh Đấu) tập hợp
cả hai xu hướng cộng sản (đệ tam và đệ tứ) và những người tiến bộ khác. Có thể đọc
thêm bài của sử gia Daniel Hémery “Sài Gòn thập niên 1930: LA LUTTE tờ báo chiến
đấu”(http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/bao-la-lutte/)
30 Thầy chú: giám thị (nhà tù).
36
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
lội giữa vô địch Minh và những ai muốn thử sức mình, nói cho đúng, giữa
Minh và Liêm. Có giải thưởng. Có cá độ. Sếp bắt Liêm, tôi bắt Minh.
Hội thi hôm ấy rất náo nhiệt.
Mấy trăm anh em ra mé sông, có cả mấy chục đồng bào Mạ qua đường
dừng chân xem đấu. Tiếng reo hò vang dội, càng vang dội khi Minh, Liêm
về gần mức ngang ngửa.
Tôi, sếp cùng hàng chục anh em và binh lính đứng trên chiếc phà cột ở
bến. Vui quá là vui! Hai thằng sếp Tây, ở trần trùng trục, tay chống đầu gối
cũng hét lên với mọi người. Tôi và Tào Tỵ đứng bên hông hai sếp, cũng hét
hò. Tôi thua –sếp thắng. Liêm vượt Minh tới một thước.
Người thắng thực sự là Văn, Phúc và tôi, vì hội đua đã kéo được hầu
hết Tây tà ra khỏi đồn trại.
Khi cần sẽ có nhiều cách khác mà Tào Tỵ gọi là “dụ khị”, binh thơ xưa
gọi là “điệu hổ ly sơn”.
Xỏ vàm trâu cổ
Trâu có vàm mới kéo cày, kéo cộ, kéo súc được. Trâu không vàm như
xe cam-nhông máy tốt, xăng đủ mà không có tay lái; vô dụng. Cho nên chủ
trâu ai cũng sớm lo xỏ vàm trâu. Người ta xỏ vàm trâu khi trâu còn tơ.
Không ai đợi tới trâu dậy cổ mới xỏ vàm bao giờ. Trâu đực bốn tuổi thì cổ
nó đã lớn cả ôm; lúc đó nó dữ lắm, sờ tới mũi nó thì liệu hồn! Nó húc chết.
Khép nó vào chuồng để xỏ vàm? Nó phá gãy bất kỳ thứ cổng nào.
Vậy mà tôi đã mắt thấy một vụ xỏ vàm trâu cổ.
Người đã làm cái việc không ai dám làm đó là Tô Ký. Khi ấy Tô Ký
mới mười chín tuổi.
“Chủ mưu”là tôi. Bộ muốn hại thằng trẻ sao mà xui nó xỏ vàm trâu
cổ? –Không! Hay là sai tướng lên đánh Ma Thiên Lãnh? –Có mưu đồ tựa
như vậy; có mục đích chính trị chính đáng. Ai tinh lắm mới hé thấy. Con
mắt bình thường kể cả con mắt hay ngờ vực, cảnh giác của bọn sếp Tây
cũng không hơn mắt bịt bạc. Thôi thì hãy nói ngay rằng việc xỏ vàm trâu cổ
nằm trong kế hoạch của Đảng ủy trại tập trung Tà Lài nhằm vận động đồng
bào Mạ, tạo điều kiện cho một cuộc khởi nghĩa hoặc một cuộc vượt ngục:
phải có cách làm cho đồng bào (bản địa) kính phục và thương yêu mình
bằng một số hành động nổi bật nào đó, chớ tuyên truyền miệng thì đồng bào
có hiểu tiếng Việt đâu!
37
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Tháng 10 năm 1940, bọn tôi, có mấy trăm người bị giam ở trại tập
trung Tà Lài. Trại nằm sát mé sông Đồng Nai. Tại đây có một bến phà. Ở
phía đông của bến phà có một ngôi nhà lụp xụp nuôi tới chừng ba chục con
trâu. Ngoài ngôi nhà này không hề có căn nhà nào khác. Ở đây, bản làng
đồng bào Mạ cách xa Tà Lài nhiều cây số, nhưng ngày ngày vẫn có người
mang nỏ, mang gùi, xách chà gạc,31 xách thịt rừng đi qua đây, có khi một vài
lít rượu. Đỡ buồn cho tụi tôi biết mấy!
Trong bầy trâu của chủ nhân ngôi nhà ở sát bến phà, có một con trâu
duy nhất không vàm. Đó là anh trâu cổ, cổ lớn như thùng bia. Sừng dài mới
chừng hai gang, nhọn hoắt. Cao lớn và gọn gàng. Da nó bóng láng đen thùi
lũi. Nó nghinh lên thì mắt nó như hai cục lửa, mũi phì ra hai luồng khói.
Thấy mà ghê. Thế mà chẳng lợi gì ráo cho chủ nhà ngoài hai việc: nhảy cái
và giữ cọp. Bảy, tám chú nghé đều là con của anh trâu cổ này. Bầy trâu sáng
đi ăn cỏ ở trảng thì anh trâu cổ gom tất cả vào một cụm rồi nó đi rảo xung
quanh, nhìn vào mé rừng. Bầy trâu, chiều về nhà, nằm ở sân, nghé chính
giữa, lớn xung quanh, đưa đầu ra ngoài, còn anh trâu cổ ta thì tự cho phép
mình đi đi lại lại như một “chú cai”, hình như nó có ý thức cảnh giác: ở đây
cọp rình luôn. Người ta kể rằng, mới mấy tháng trước thôi, anh trâu cổ húc
xẹp lép một ông cọp già vào gốc cây bằng lăng!
–Anh trâu cổ này nếu có vàm thì tui cho người ta mướn kéo súc, được
nhiều tiền lắm: đổi lấy muối cũng được mấy chục giạ! Chủ nhà nói bập bẹ
với tôi như vậy.
–Sao không liệu xỏ mũi cho nó?
–Làm sao được? Nó chém chết. Sức trai, mưu già, ở mấy bản làng
xung quanh đây, không làm gì được; không ai dám làm. Có lẽ rồi phải để
người ta bắn nó, làm thịt bán thôi.
–Nếu có ai xỏ mũi con trâu cổ đó thì anh tính sao?
–Thưởng cho một đùi heo rừng và một vò rượu cần.
Tôi hẹn với chủ nhà, để tôi hỏi anh em tôi có ai biết xỏ mũi trâu không
rồi sẽ báo lại.
* * *
–Ê, Ba Ký ơi! Chú mày nói là lớn lên từ cái nghề làm ruộng chăn trâu,
vậy có biết xỏ mũi trâu không? Tôi hỏi.
31 Chà gạc: dao rừng cán cong, phổ biến trong các dân tộc vùng Tây Nguyên và miền núi
Đông Nam Bộ.
38
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
–Dễ như quấn thuốc rê.
–Đừng chủ quan: không phải trâu tơ mà trâu cổ. Dám không? Được
không?
Tô Ký suy nghĩ một phút, chỉ một phút thôi, rồi trả lời:
–Lấy thế thì làm được liền.
–Thế là thế nào?
–Như vầy, như vầy…
–Uất Trì Cung tắm ngựa được thì chú mày xỏ vàm trâu cổ được chứ gì.
Có biết Uất Trì là ai không?
–Truyện Thuyết Đường Chinh Đông, nhiều truyện Tàu khác nữa trong
lịch sử bắc phương tôi thuộc làu làu. Tôi cũng sẽ làm việc “tắm ngựa” cho
các anh xem.
–Cố gắng nghen! Tôi sẽ bảo chủ trâu kêu đồng bào Mạ mấy bản xa gần
đến xem. Hễ đồng bào họ khen, họ phục thì tụi mình dễ vào bản làng, vào
làm gì chú Ba mày biết rồi, không phải chỉ có việc mua gà và mua rượu.
Ngày giờ xỏ vàm trâu cổ đã tới.
Trên bãi cỏ bờ sông sau trạm y tế, bầy trâu non già ba chục con họp
đông đủ. Cũng đông đủ sếp Tây hai thằng, vài chục chú mã tà, mấy trăm anh
em tù nhân đều tề tựu, như để xem xiếc.
Tôi hồi hộp, dẫu rằng tin chắc ăn.
Tô Ký đầu trần, lưng trần, bận xà lỏn, tay cầm một sợi dây mây vót
nhọn. Coi như một võ sĩ sắp lên võ đài.
–Chắc ăn không mậy, Ba Ký? Văn hỏi.
–Như ba bó một giạ –Tô Ký đáp và cười có duyên.
Bỗng Tô Ký dõng dạc ra lệnh:
–Lùa hết trâu xuống sông một lượt!
Trót, trót, trót, roi quất đít trâu!
Trâu ùa xuống sông, con này trước con kia, con này sát con kia.
Nước Đồng Nai chảy không lấy gì làm mạnh.
Tô Ký cầm dây mây, nhảy trên lưng trâu, một con, hai con, ba con, rồi
nhảy lên lưng anh trâu cổ. Gã trâu cổ lúc này ở gần giữa bầy trâu ba mươi
con chen nhau như nêm. Đoạn Tô Ký hai chân kẹp cổ trâu ngạnh, mình
39
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
trườn dài ra trên đầu trâu, nằm giữa cặp sừng của nó, với tay ra trước nắm
mũi trâu, lấy dây mây đã vót nhọn, đâm một cái sựt, kéo nhanh dây mây
buộc chặt vào mang tai trâu. Tất cả làm xong chừng một vài phút. Anh trâu
cổ bị người ngồi trên cổ, nằm sấp trên đầu, sờ mũi, đâm mũi; nó lồng lộn
nhưng không cách nào được vì chân không chấm đất, nó quơ sừng mà người
ta nằm giữa hai cái sừng, nó chém sao được, nó muốn hất mà hất sao được vì
người ở cổ nó chớ có ở trước mặt nó đâu; nó lồng phải, lồng trái đều đụng
trâu khác; trước nó, sau nó đều có trâu. Rốt cuộc, hình như nó bực lắm, mà
phải chịu thôi!
Cột dây vàm rồi, Tô Ký đứng phắt dậy trên lưng trâu ngạnh, nhảy qua
lưng trâu khác, một con, hai con, ba con, bốn con, rồi nhảy lên bờ, hô:
Xong!
Mấy trăm người hoan hô nhiệt liệt.
Sếp Tây Ménétrie nói:
–Vous êtes formidable! (Anh cừ thật)
Đội, cai, lính hết lời khen:
–Gan hết cỡ, mưu rất cao!
Đồng bào Mạ tỏ ý khâm phục, chỉ tay về phía mặt trời lặn, bảo: “Làng
tôi ở bên kia”như tỏ ý mời.
Bầy trâu xuôi dòng, tới Cồn Mai thì lên bờ, lại gặm cỏ. Riêng anh trâu
cổ rày đã có vàm, lồng lộn dữ dội: chạy tới, chạy lui, cụng vào gốc cây, lăn
trên bụi rậm, rống lên. Cuối cùng mệt lừ, nó nằm sấp xuống bãi cỏ.
Mấy tháng sau, chúng tôi, trong đó có Tô Ký, vượt ngục Tà Lài. Địch
ra lệnh cho đồng bào xuống núi, xé rừng tìm bắt bọn tôi; chúng treo giải
thưởng cho đồng bào, hứa nào muối nào gạo, nào tiền nếu bắt sống hay đem
đầu về được. Nhưng chúng tôi vẫn an toàn ẩn náu trong rừng núi Tà Lài để
rồi an toàn về thành thị, về đồng bằng, tiếp tục hoạt động cách mạng.
Không để bị khiêu khích
Tháng 12, được tin chính xác rằng khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra ngày 23
tháng 11, đã hoàn toàn thất bại, nên chúng tôi bãi bỏ sự chuẩn bị khởi nghĩa
ở Tà Lài. Dĩ nhiên là công tác binh vận, tuyên truyền trong đồng bào Mạ thì
vẫn tiếp tục. Hàng trăm anh em ở các tỉnh mới bị bắt đưa lên trại giam cho
chúng tôi biết do khởi nghĩa đã nổ ra cuối tháng 11 thất bại; thực dân Pháp
đàn áp rất dữ dội, tàn sát dã man hơn cả những năm 1930-1931. Chúng tôi
40
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
không biết tình hình căng Tà Lài sẽ ra sao để mà đối phó. Địch sẽ khủng bố
tới mức nào ở trại giam? Dù sao đi nữa thì mình cũng phải bình tĩnh, đề
phòng, dự tính các khả năng.
Một hôm, chủ tỉnh32 Biên Hoà La Rivière lên Tà Lài với một tiểu đội
lính khố xanh hộ vệ. Hôm đó, cũng như mấy hôm trước, từ sau khi nổ ra
khởi nghĩa tháng 11, trại viên không toán nào đi làm ngoài xa cả; tuyệt đại
đa số đều tập trung, già cả thì chẻ tre đan ky trong nhà, trai trẻ thì xeo đá
gánh đất làm con đường lớn gần sát trại đi lên hướng đông bắc dọc theo
sông Đồng Nai. Bỗng sếp căng dẫn chủ tỉnh đến chỗ tù nhân đang xeo đá33
đắp đường:
- Tất cả, tập hợp lại! Cuốc xẻng bỏ hết xuống đất! Sếp căng ra lệnh.
Anh em mới cũ, già trẻ non năm trăm người tập hợp lại dưới dốc. Sau
lưng y là toán lính lên cò súng trường nghe rôm rốp.
- Có biến rồi; chắc khủng bố; anh em nói với nhau.
- Bình tĩnh, bình tĩnh! Đứng thưa ra, thưa ra! Tôi bảo anh em.
Chủ tỉnh nói: Hãy nghe ta đây! Vừa qua, thừa lúc nước Pháp bại trận ở
châu Âu và bị rối ở biên giới Thái Lan, Đảng Cộng sản các nước đã cầm vũ
khí nổi lên toan đánh đổ chính quyền Pháp ở Nam Kỳ. Đảng của các người
đã hoàn toàn thất bại. Chính phủ đã và đang thẳng tay đàn áp và đàn áp
không thương tiếc. May lắm mươi, mười lăm năm nữa, đảng của các người
mới có thể ngóc đầu dậy. Ta báo tin cho các người biết. Bây giờ các người
hãy trả lời cho ta câu hỏi sau đây:
Hỡi các người ở căng Tà Lài này, tán thành hay phản đối cuộc bạo
động vừa qua ở Nam Kỳ?
Như thường lệ, là đại biểu được toàn thể anh em bầu cử, tôi dịch cho
anh em nghe. Tôi thấy anh em lo ngại lắm. Rõ ràng quá, thằng chủ tỉnh cố
khiêu khích. Mấy trăm cặp mắt ngó vào tôi như bảo phải trả lời sao cho vừa
giữ thanh danh của đoàn thể, vừa tránh khủng bố đẫm máu cho anh em. Tôi
yêu cầu các anh em ủng hộ tôi. Khó trả lời quá. Nói tán thành khởi nghĩa thì
thằng chủ tỉnh có thể sẽ ra lệnh bắn. Lúc này, bắn chết năm, bảy chục, một
hai trăm người, tụi Tây ở đâu cũng dám làm, bọn tề xã còn dám tự tiện giết
người kia mà. Còn nói không tán thành hay phản đối khởi nghĩa mặc dầu
32 Chủ tỉnh: administrateur, viên chức Pháp, cai quản một tỉnh ở Nam Kì dưới thời thực
dân (Nam Kì là thuộc địa, nằm dưới chế độ trực trị). Ở Trung Kì và Bắc Kì, bộ máy
chính quyền vẫn là bộ máy của triều đình Huế, nhưng tại mỗi tỉnh, các quan phủ, quan
huyện chịu lênh của viên công sứ (résident) người Pháp.
33 Xeo đá: dùng đòn bẩy để lay chuyển những hòn đá lớn.
41
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
khởi nghĩa đã nổ ra rồi, đã thất bại rồi, thì hoá ra mình hèn quá, Tây nó
khinh mình, mình cũng xấu hổ với anh em. Tôi xoè tay làm dấu hiệu bảo anh
em đứng thưa ra hơn nữa. Rồi tôi bước tới mấy bước, đứng lên một tảng đá
lớn, khá cao, với ngụ ý là, nếu tôi bị bắn, tôi sẽ đổ từ trên xuống, chớ không
phải ngã bẹp. Tất cả diễn ra hết sức nhanh. Tôi trả lời bằng tiếng Pháp, sau
lưng tôi có Văn dịch lại cho tất cả anh em nghe.
“Này ông chủ tỉnh! Ông hỏi vậy chúng tôi ở Tà Lài tán thành hay
không tán thành cuộc khởi nghĩa vừa mới xảy ra ở đồng bằng? Tôi xin trả
lời cho ông và tôi chắc ông đủ bình tĩnh để nghe. Ông ơi! Nước Việt Nam
(lúc ấy tôi nói là Đông Dương) của chúng tôi từ mấy chục năm nay ở dưới
quyền thống trị của nước Pháp, cũng như mấy tháng nay nước Pháp yêu dấu
của các ông bị quân Đức Hitler xâm chiếm, dày xéo, thống trị. Chúng ta, ông
cũng như tôi, đều là đồng cảnh ngộ mất nước. Tôi được biết, và ông thừa
biết hơn tôi, rằng hàng chục vạn người Pháp thường dân và binh lính đang
nổi lên cầm vũ khí tiếp tục đánh Đức để giải phóng quê hương. Tôi tin chắc
rằng trong thâm tâm của ông chủ tỉnh, ông rất đồng ý với những người Pháp
kháng chiến rằng không thể van xin quân Đức rút lui mà nhất thiết phải đánh
đuổi chúng bằng vũ lực, bằng súng đạn. Ở góc trời Đông Dương xa xăm
này, vì tấm lòng yêu nước Pháp, vì ý thức bảo vệ danh dự người Pháp, ông
tuy không nói ra, ông không thể nói ra, mà ông thực sự một lòng với những
người Pháp kháng chiến trong lòng nước Pháp. Chẳng nói giấu chi ông, ở
cái xó rừng núi Tà Lài này, tôi sao lại không thông cảm với đồng bào của tôi
trong biến cố tháng 11 vừa qua ở Nam Kỳ?
Đó, tôi đã trả lời cho câu hỏi của ông chủ tỉnh”.
Thằng Rivière nãy giờ nín thinh, bây giờ tay không chống nạnh nữa; nó
nhìn xuống đất, rồi nhìn lên khi tôi nói tiếp:
“Còn như ông bảo rằng may ra mười, mười lăm năm nữa Đảng chúng
tôi mới sống lại được. Thì, ông ơi, làm sao biết được mười lăm năm hay năm
năm nữa, cục diện thế giới và cục diện Đông Dương sẽ biến đổi hoàn toàn.
Ông còn sống, tôi chắc cũng còn sống, mọi người ở đây cũng còn sống,
chúng ta tất cả là chứng nhân của lịch sử, chúng ta nhất định sẽ vui mừng
thấy được nước Đức của Hitler bị bẻ gãy xương sống, nước Pháp của các
ông và nước Việt Nam của chúng tôi đều được tự do”.
Thằng Tây xem chừng mất hết cái hùng hổ ban đầu. Nó không nói năng
gì hết. Nó quay lưng đi; sếp căng và toán lính khố xanh mang súng trên vai,
theo sau, êm ru. Mấy trăm anh em chúng tôi cười thầm, bàn bàn luận luận.
Thắng một trận!
42
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Thoát nạn; khi nãy tưởng đâu đại biến tới nơi!
Ông Trần Hữu Độ,34 tục gọi là ông “Hồi trống tự do” hay là ông “Biện
chứng pháp”, vỗ vai tôi, nói: “Thiệt chiến35 Tà Lài, nghe khoái thật”. Ở sở
đan ky,36 trong số người có tuổi, ông Trần Hữu Độ nổi tiếng là một kho
truyện Tàu và một kho tiếu lâm.
Vượt ngục
Ở căng Tà Lài cuộc sống không đến nỗi cực khổ quá, có thể nói thảnh
thơi là khác, được như vậy không phải do chế độ của trại giam mà do tổ
chức tù nhân của chúng tôi; công việc khoán phần lớn ở trong rừng, chỉ có
mã tà đi theo cốt để giữ không cho chúng tôi trốn hơn là để thúc bách tù làm.
Chỉ một lần sếp Tây đánh một đồng chí một gậy, đồng chí ấy quơ xà beng
lên đỡ, tất cả anh em đều đứng lên, xẻng, cuốc dao, mác trong tay, mắt đổ
dồn vào tên sếp Tây, nó khiếp quá, bỏ đi luôn. Từ đó trở đi không có vụ
đánh đập nào nữa. Ăn, thì gạo thừa, cá khô đủ; chúng tôi còn đánh cá trên
sông, mua thịt rừng, rượu cần ở đồng bào thiểu số. Rau thì thiếu gì trong
rừng. Thuốc men không biết đâu là đủ, nhưng sốt rét thì có ký ninh, uống
nước thì có nước sông lọc bằng thuốc tím. Ở, thì nhà tranh vách nứa, tự làm,
nhưng được phát mùng, phát chiếu. Tây nó cốt được yên bằng việc tách tụi
tôi khỏi nhân dân, không cốt được kết quả lao động khổ sai. Chúng tôi, cốt
học tập dạy nhau để làm “cầu thủ dự bị” lúc cần, không cốt đấu tranh vì lợi
ích hàng ngày. Sếp, mã tà đều nể chúng tôi, vì chúng tôi bao giờ cũng giữ
nhân cách người yêu nước, người cán bộ cách mạng, cộng sản.
Thế nhưng, chẳng những riêng mình tôi, rất nhiều anh em nuôi chí vượt
ngục ngay từ đầu. Có người muốn vượt ngục vì không muốn bị giam giữ vô
thời hạn. Có người cho rằng, ngày nào đó, Tây bị cách mạng nổi lên đánh đổ
hoặc bị một đế quốc khác giành lấy thuộc địa thì chúng sẽ tàn sát mình trước
khi tháo chạy, cho nên mình phải liệu trước, thoát khỏi trại là hơn. Riêng tôi
34 Trần Hữu Độ: nhà văn, bút hiệu Quân Hiến (1887-1945), quê quán Trà Vinh. Chịu ảnh
hưởng của phong trào Duy Tân, dịch sách Tân Thư của Lương Khải Siêu, viết Tiếng
chuông truy hồn (1925), Hồi trống tự do (1926); năm 1928 bị tù vì tội “xúi dân làm loạn”
(tương đương với điều 88 của Luật hình sự ngày nay). Ra tù, tham gia phong trào Đông
dương Đại hội, thành lập Tân Văn Hóa Tùng Thư, chịu ảnh hưởng mác-xít, viết - Biện
chứng pháp (1936), Mười một công thức của Karl Marx làm cơ sở Duy vật sử quan
(1936), Đế quốc chủ nghĩa (1937). Bị giam lần thứ nhì năm 1941.
35 Thiệt chiến: giao tranh bằng lưỡi (thiệt), tranh luận. Ý nói tới cuộc “thiệt chiến quần
nho”giữa Khổng Minh và bọn nho sĩ Đông Ngô thời Tam Quốc.
36 Ky: đồ đan bằng tre dùng để xúc đất, hót rác.
43
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
và một số cán bộ nòng cốt xác định rằng thời kỳ chiến tranh đế quốc chính là
thời kỳ cách mạng giải phóng. Cơ hội trăm năm có một. Cha anh đã thất bại
hồi chiến tranh 1914-1918; bây giờ chúng ta nhất thiết phải thành công. Cho
nên chúng tôi đã tính đến vượt ngục từ những ngày mới đến Tà Lài; còn tính
đến khởi nghĩa ở Tà Lài nữa.
Vào thời điểm cuối 1940, khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, rất nhiều đồng
chí bị giết, bị bắt, kể đến hàng ngàn, nhiều hơn bất cứ lúc nào. Cả Trung
ương, Thường vụ đều bị bắt, chưa kịp phục hồi tổ chức thì tới phiên Xứ ủy
Nam Kỳ hai lần bị bắt, rồi lần lượt các tỉnh ủy viên bị bắt, cơ sở Đảng và
quần chúng bị đánh tan tác. Các bạn mới lên căng sau này báo cáo tình hình
bi đát ấy. Và hôm rồi tên tỉnh trưởng La Rivière quả quyết rằng: “Hoạ may,
mười, mười lăm năm nữa, đảng của các anh mới có thể ngóc đầu dậy”.
Vậy thì đến lúc “cầu thủ dự bị”phải vào sân kẻo trễ. Đã đến lúc các
đồng chí bị giam ở Tà Lài, ai có nhiệt huyết, ai có tinh thần, phải vượt ngục
trở về với dân, hoặc để bổ sung cho phong trào bị tổn thất quá nặng nề, hoặc
gây dựng lại hệ thống cơ sở bị tàn phá tan hoang. Các bạn mới lên căng Tà
Lài kể lại một phần tình hình địch khủng bố: nhà tù đầy nhóc, địch phải
dùng các sân banh rào kẽm gai để nhốt người dưới nắng, dưới mưa; chúng
xỏ dây xâu chuỗi người bị bắt để dẫn về trại giam, xỏ dây kẽm ngang bàn
tay như ta lấy nhánh trâm bầu xỏ vào mang con cá, địch phải dùng tới xà lan
ghe chài để giam chính trị phạm; chiến sĩ bị giam đông đến mức chỉ có chỗ
đứng, không có chỗ ngồi, nói chi chỗ nằm; bọn thực dân cho tù uống nước
bằng vòi rồng, cho ăn bằng cách rải cơm xuống xà lan, ghe chài nêm đầy
người như người ta rải lúa cho gà trên sân; đến một lúc nào đó thì đám thực
dân ra lệnh cho ca nô dắt những xà lan ghe chài đầy người kia ra cửa biển
rồi lạnh lùng đánh chìm! Nghe đau thương hết sức! Pháp cố làm sao cho
trong lúc chiến tranh này, không còn một tổ chức cách mạng nào, nhất là
không còn có Đảng Cộng sản, thì mới giữ được Đông Dương trong tay
Pháp. Toàn quyền Catroux đã công khai tuyên bố như vậy ngay từ khi hắn
chân ướt chân ráo mới đến trấn nhiệm xứ này.
Phải vượt ngục thôi! Để góp phần xây dựng lại Đảng bộ mạnh. Không
có một Đảng bộ mạnh thì không có giải phóng.
Phải vượt ngục sớm; nếu chậm trễ thì có thể sẽ không còn cơ hội vượt
ngục nữa. Mấy hôm nay, ê kíp đan ky của Trần Hữu Độ được lệnh sản xuất
thật nhiều, đan bao nhiêu, xe cam-nhông chở đi hết bấy nhiêu. Chở đi đâu?
Để làm gì? Tụi Pháp chuẩn bị một “căng” nào ở núi cao rừng sâu hơn Tà
Lài? Và biết đâu chúng nó không thực hiện kế hoạch đưa những người đặc
biệt “nguy hiểm” đi xa hơn, đi các đảo thuộc địa Pháp trên Ấn Độ Dương?
44
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Có thể lắm; và khi ấy thì không còn vượt ngục được nữa. (Sau mới biết rằng
dự đoán của chúng tôi là đúng: anh em Tà Lài bị dời qua trại giam Bá Rá, và
một số đồng chí như Phan Vân, Minh, cả giáo chủ Cao Đài Phạm Công Tắc
cũng bị đưa sang tận Madagascar).
Trong lúc chuẩn bị vượt ngục, Đảng ủy căng Tà Lài đặc biệt chú trọng
đến việc tập hợp tư liệu, thông tin về cuộc khởi nghĩa thông qua các đồng
chí mới bị đưa lên căng Tà Lài sau ngày 23 tháng 11 năm 1940, nghiên cứu,
sơ kết kinh nghiệm, rút ra một số bài học cần thiết để trang bị cho anh em
sắp về công tác.
Việc chuẩn bị vượt ngục được bắt đầu ngay sau Tết Tân Tỵ 1941: chọn
người, điều tra đường đi nước bước, phơi cơm khô, trữ thuốc men, tạo một
thiểu giấy tờ hợp pháp, kiếm tiền, bắt liên lạc với các đồng chí bên ngoài còn
sống sót. Ba anh được lệnh đi trước để sắp xếp thực hiện một kế hoạch vượt
ngục có quy mô; đó là Khước (người Mỏ Cày có bộ râu Quan Công), “Minh
Thẹo”(người Long Hồ, tháo vát) và Khuy (được gọi là “con chim ngủ
ngày”, lầm lì ít nói). Ba anh đi trót lọt. Nhưng ở Tà Lài chúng tôi chờ mãi,
không nhận được tin gì của họ. Như vậy là phải thực hiện kế hoạch vượt
ngục cho một số ít người có năng lực đã được thử thách về các mặt lý luận,
tổ chức, đấu tranh. Phải từng toán nhỏ mới dễ đi trót lọt được. Tôi khá lúng
túng trong việc chọn người. Số anh em có tinh thần, có năng lực thì nhiều;
lựa ai, không lựa ai? Lấy nhiều thì khó đi trót lọt, lấy ít thì hàng chục đồng
chí tốt sẽ thắc mắc, phiền trách. Cuối cùng Đảng ủy đồng ý tám người cùng
đi. Ngoài tôi ra, còn có các anh:
- Văn, tức Kiệt, kỹ sư, nguyên là sinh viên trường Đại học Cộng sản
Đông Phương.
- Phúc (Dương Quang Đông), dân cựu trào, đã vào tổ chức từ năm
1927.
- Nhâm, công nhân, đã là thành ủy viên thành phố Sài Gòn cùng thời
với chị Minh Khai; lái xe, lái tàu đều giỏi.
- Giác, một cán bộ cựu trào từ năm 1930, đã từng hoạt động ở Cao
Miên.
- Đức, một cựu tỉnh ủy viên Bến Tre, giỏi nông vận.
45
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
- Trung, một cán bộ hoạt động công đoàn trong nhóm Dân chúng37 thời
Mặt trận dân chủ.
- Tô Ký, một thanh niên Hóc Môn, võ giỏi, mưu trí, thuộc làu các
truyện Tàu như Tam Quốc, Đông Chu liệt quốc; tôi nhằm rằng tay này có
thể trở thành một cán bộ quân sự đắc lực; trong vụ “Xỏ vàm trâu cổ” vừa
qua, Tô Ký tỏ ra rất can đảm, mưu trí.
Tôi tính rằng với số tám người này cộng với ba anh đã đi trước, nếu
không bị mất mát hay ít bị mất mát, thì có thể thực hiện được nhanh chóng
kế hoạch gây dựng lại cơ sở và hệ thống tổ chức Đảng bộ Nam Kỳ, tạo điều
kiện tổ chức vượt ngục quy mô lớn cho anh em trại giam. Vấn đề trước mắt
là phải làm sao cho chúng tôi nhờ ít người mà vượt ngục trót lọt.
Muốn đi trót lọt, phải quyết định đúng hướng đi. Chắc chắn là một khi
sếp căng và chủ tỉnh hay rằng tụi tôi đã thoát khỏi căng thì lập tức chúng ra
lệnh truy nã, cho cả bộ máy cai trị trong tỉnh Biên Hoà, trong xứ Nam Kỳ, từ
trên xuống đến xã, khắp các làng thiểu số, ra sức săn lùng. Nhóm tụi tôi, gạo
cội của cộng sản, mà tuột khỏi tay chúng nó thì sẽ gây ra vô vàn khó khăn
cho nhà cầm quyền. Vậy chắc chắn là Pháp sẽ phải tức tốc, trong ngày,
giăng một lưới dầy đặc xung quanh Tà Lài trước hết chặn tất cả các ngõ ra.
Chúng tôi đoán bọn Tây sẽ chặn hướng đông là hướng ra đường 20, cách Tà
Lài mười bảy cây số; đồng thời chúng sẽ chặn hướng tây là hướng về Thủ
Dầu Một, và nhất là chặn hướng nam là hướng về Biên Hoà dọc sông Đồng
Nai. Tôi cho rằng Pháp không quan tâm mấy đến hướng bắc đông bắc là
hướng càng đi càng vào rừng sâu, lên núi cao, dân cư toàn là người thiểu số,
hướng ngược dòng sông Đồng Nai đầy gành thác. Cho nên tôi đề nghị với
anh em là ta nên đi theo hướng ngược sông, hướng vào rừng sâu, núi cao,
tuy dễ bị sốt rét rừng, nhiều cọp beo, nhưng là hướng mà địch ít ngờ nhất,
còn ta thì đã chuẩn bị lương thực, thuốc men khá đầy đủ rồi, có thể chịu
đựng một tháng hoặc hơn thế.
Vào một đêm tối trời đầu tháng ba năm 1941, thời giờ vượt ngục đến.
Tôi tiếp mấy người cai đội mới lên đổi gác, những cuộc tiếp ấy đã thành lệ,
cùng họ uống trà, đàm đạo, trong một cái chòi tứ giác ở gần nhà y tế, còn
bảy đồng chí khác đã bí mật tập kết tại một địa điểm bờ sông. Buổi tiếp
xong, tôi gọi Tào Tỵ lại, báo cho Tỵ biết rằng đêm nay tụi tôi ra đi, Tỵ ở lại
để giữ vững tinh thần của anh em, và để lập kế sao cho Tây tà không thể sao
biết sớm là ông Giàu đã đi khỏi trại. Tỵ được lệnh phải ở lại. Ông Trương
37 Dân chúng: tờ báo (tiếng Việt) công khai của Đảng cộng sản, xuất bản tại Sài Gòn
trong thời gian 1938-1939, cùng trụ sở với tờ báo tiếng Pháp Le Peuple, ở số 43 đường
Hamelin (nay là Lê Thị Hồng Gấm).
46
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Phi ấy nổi nóng, phản ứng dữ, nhưng mau chóng tuân theo quyết định của
Đảng ủy. Tỵ phải vào mùng của Giàu, đắp mền, nằm im cho đến gần sáng,
đề phòng khi lính đi rỏn nửa đêm thấy vắng ông Giàu, Giàu nằm đầu sập tre
trại một, lính tuần tra đêm đêm vẫn ghé coi ông Giàu còn đó hay không. Gần
sáng Tỵ sẽ báo lại với anh em rằng hồi hôm Giàu, Văn, Phúc,… đã đi rồi.
Đến lúc đó đoàn vượt ngục đã đi cách xa trại giam mấy chục cây số bằng
đường sông ngược lên phía đông bắc, hướng an toàn nhất. Sáng ra, thay mặt
cho các trại viên còn lại, Tỵ sẽ đem bức thư của tôi gởi cho sếp căng. Thư
ấy, Tô Ký còn thuộc lòng dù đã mấy mươi năm sau. Trong đó tôi viết:
“Ông sếp căng:
Hôm nay chúng tôi ra đi, xin để lại mấy dòng từ biệt.
Chúng tôi ra đi không phải trước hết vì muốn gặp cha mẹ, vợ con.
Gặp lại sao được trong tình cảnh tù vượt ngục?
Chúng tôi ra đi, nói thật, không phải vì chế độ căng quá khắc nghiệt. Ở
căng tuy khổ –mà ở nhà tù nào lại không khổ –nhưng ông sếp không ác. Vả
lại ông và tôi đã nhiều lần tâm sự với nhau, thông cảm với nhau về cái nhục
mất nước, nước ông và nước tôi.
Chúng tôi ra đi vì mục đích giải phóng dân tộc chúng tôi, giành lại độc
lập tự do cho đất nước chúng tôi.
Chắc những người Pháp ở Pháp hiện giờ cũng đang chiến đấu chống
lại sự chiếm đóng của quân Đức Hitler, nhằm giành lại độc lập tự do cho
nước Pháp. Hẳn rằng ông sếp đồng tình với những người Pháp yêu nước đó.
Việc làm của họ và việc làm của chúng tôi giống nhau.
Mong rằng, chúng tôi ra đi rồi, ông sếp và những người cộng sự của
ông sẽ tiếp tục đối xử ôn hoà, phải lý với anh em chúng tôi còn ở lại.
Xin chào từ biệt ông.
Thay mặt các bạn của tôi
Trần Văn Giàu”
Tào Tỵ kể lại: hửng sáng ngày hôm sau, khi anh lên văn phòng sếp
căng báo cáo lại rằng: Trần Văn Giàu và bảy người đã trốn đi từ bao giờ
không biết mà có để lại cho sếp một bức thơ, thơ đây. Ménétrier bình tĩnh
báo cáo ngay cho La Rivière, chủ tỉnh Biên Hoà, đồng thời ra lệnh giới
nghiêm ở trại giam: không một ai được ra ngoài hàng rào dây kẽm gai. Chín
giờ, La Rivière lên tới Tà Lài, liền tập hợp tù nhân, la hét, đe doạ và tuyên
47
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
bố: “Trong vài ngày, lâu nhất là một tuần, các ngươi sẽ thấy người Mọi đem
đầu của Trần Văn Giàu và đồng bọn treo ở trước cửa trại giam”.


No comments: