Friday, June 22, 2012

SOPHIE QUINN JUDGE * NHỮNG NĂM THÁNG V



CHƯƠNG 5: CAO TRÀO CÁCH MẠNG (1930‐1)
Việc trở về của những học viên Quốc tế Cộng Sản

Vào cuối năm 1929 phong trào cộng sản Việt Nam bao gồm hai đảng đối lập đang tranh giành
thành viên. Đông Dương Cộng Sản Đảng (ĐDCSĐ) đã tiến xa hơn khi thông báo rằng nếu Hồ
Chí Minh quay lại, ông chỉ được đối xử như một đảng viên bình thường [1]. Những cựu lãnh
đạo của Thanh Niên tại Hồng Kông đang đấu tranh để thống nhất hai nhóm cộng sản với điều
kiện việc này không có nghĩa là một thất bại hoàn toàn đối với An Nam Cộng Sản Đảng
(ANCSĐ). Họ đã sắp sửa gửi Lê Duy Điếm đi Moscow để tìm Hồ Chí Minh khi người đại diện
môi giới là Cao Hoài Nghĩa thố lộ rằng ông đã gặp Hồ tại Xiêm. Ông chỉ bị thuyết phục tiết lộ
nơi ẩn náu của Hồ khi nhận ra rằng sự chia rẽ trong hàng ngũ Thanh Niên đã trở nên quá trầm
trọng [2]. Cuối cùng thì Trương Văn Lềnh, một trong những thành viên kiên trung còn lại của
Thanh Niên, đã đi tìm Hồ vào tháng 10 để thuyết phục ông quay lại miền nam Trung Quốc [3].
Cùng lúc đó tại Moscow QTCS đang bắt đầu ra quyết định đã quá chậm trễ về phong trào cộng
sản taị Ấn Độ, Nam Dương và Đông Dương. Trần Phú và Ngô Đức Trì vừa hoàn tất chương
trình học tập tại Đại Học Stalin (Đại Học Lao Động Cộng Sản Phương Đông ‐ ND), đang chuẩn
bị qua Pháp để về Việt Nam. Một chương trình ngắn gọn về ʺChỉ thị về những hoạt động tại
Đông Dươngʺ được soạn thảo tại Moscow vào ngày 27 tháng 10 1929,[4] đây là nghị quyết về
việc thành lập một Đảng Cộng Sản Đông Dương [5]. Hôm sau Trần Phú tham gia một ngày thảo
luận do Kuusinen chỉ đạo về cương lĩnh tương lai của ĐCS Ấn [6]. Đây chắc chắn là cách để giúp
ông chuẩn bị đối phó với những lý thuyết và thực hành đầy gai góc mà ông sẽ phải gặp tại Việt
Nam. Cẩn trọng là tinh thần chủ đạo trong các chỉ thị về Đông Dương. ʺPhương hướng chungʺ là
thành lập những tổ chức cộng sản rồi tiến tới hợp nhất chúng lại thành một đảng. Hai người Việt
Nam vừa rời Đại Học Stalin sẽ thu thập tin tức về phong trào nông dân và những cuộc bãi công
xảy ra trong năm trước; họ sẽ thiết lập các mối liên lạc với những phần tử vô sản và bần nông
trong những đảng phái quốc gia và ʺkích động sự khác biệtʺ trong lòng các đảng phái này nhằm
lôi kéo các thành viên vô sản tham gia các nhóm cộng sản. Nhiệm vụ khác nữa là thành lập các
nghiệp đoàn lao động mới hoặc cũ, các hội tương tế (họ được khuyến khích tận dụng truyền
thống này của người Việt và người Hoa để xây dựng các tổ chức trên]. Điểm 15 của bản chỉ thị là
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 131 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

lời cảnh báo chống lại sự nhầm lẫn giữa ʺnhững phần tử của chúng ta và Đảng Độc Lập của cựu
thành viên cộng sản Nguyễn Thế Truyềnʺ. Mặt khác, hai học viên từ Moscow này sẽ phải phát
triển quan hệ với những tổ chức cộng sản Trung Quốc đang có mặt tại Đông Dương và tận dụng
những kinh nghiệm của họ. Điểm 17 yêu cầu thu tập dữ liệu về chính trị và kinh tế để chuẩn bị
cho bộ ʺLuận Cươngʺ về Đông Dương.
Trần Phú và Ngô Đức Trì trên giả thiết là sẽ quay về Việt Nam với vai trò như nhau. Một bổ
xung trong những chỉ thị cho họ về ʺNhững vấn đề kỹ thuậtʺ xác định rằng ʺhai đồng chí Việt
Nam rời khỏi Đại Học phải được xem như là những phần tử tiên phong cho hoạt động của
chúng ta tại Đông Dươngʺ [7]. Nhưng Trần Phú, một người đã từng là lãnh tụ của nhóm người
Việt tại Đại Học Stalin, thì được xem là người nổi bật hơn, có lẽ vì ông không có tì vết gì vì đã
không dính líu đến Nguyễn Thế Truyền (không như Ngô Đức Trì, đã biết Nguyễn Thế Truyền
trong thời gian ở Paris]. Trong khi cả hai đang chuẩn bị cho cuộc hành trình, họ được giới thiệu
đến nhân vật có bí danh ʺThibaultʺ, đại diện của QTCS đang sắp đi châu Á qua ngỏ Siberia.
Thibault/Crémet đã sắp xếp một cuộc gặp riêng với Trần Phú tại Hồng Kông trong khoảng giữa
ngày 1 và 15 tháng 1 1930, hoặc nếu như cuộc gặp này không thành, họ sẽ gặp nhau tại Hải
Phòng trong hai tuần lễ đầu của tháng 2 [8].
Ngoài những nghị quyết và chỉ thị mà Thibault có nhiệm vụ cung cấp cho họ, QTCS còn trang bị
cho hai người một bộ hướng dẫn chi tiết hơn. Nó bao gồm một tập tài liệu dài 48 trang có tựa đề
Những Nhiệm Vụ Cấp Bách của Cộng Sản Đông Dương, được soạn thảo vào tháng 10 và 11.
Trên thực tế đây là một văn bản phê bình những nghị quyết của Đại Hội Tháng 5 1929 của
Thanh Niên. Khi Trần Phú và Ngô Đức Trì đến Leningrad vào ngày 11 tháng 11 1929, họ được
báo rằng họ sẽ nhận tiền ở Berlin và Paris; nghị quyết và thư hướng dẫn thành lập đảng cộng sản
cũng sẽ được gửi cho họ từ châu Âu. Sau khi đi bằng đường thuỷ đến Hamburg, họ đến Berlin
theo đường tàu hoả, ở đó họ đã nhận được một ʺcuốn tiểu thuyết đóng bìa đẹp đẽʺ. Họ được
lệnh không được bóc trang bìa ra trước khi đến Sài Gòn, ở đó họ sẽ tách những trang tài liệu do
QTCS giấu kín bên trong [9].
Chỉ thị Những Nhiệm Vụ Cấp Bách của Cộng Sản Đông Dương, một tài liệu đặc trưng của QTCS
lúc ấy, trong đó đã cố gắng phối hợp những yếu tố trong bản Luận Cương về Những Vấn Đề
Dân Tộc và Thuộc Địa của Lenin với những nghị quyết cấp tiến hơn từ Đại Hội 6 QTCS và Đại
Hội Toàn Thể 10 của Ban Chấp Hành QTCS [10]. Phong trào cách mạng Đông Dương vẫn là
ʺmột cuộc đấu tranh với những tàn dư của phong kiến và cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp
vì nền độc lập dân tộcʺ [11]. Nhưng giờ đây đảng cộng sản phải là ʺmột thành quả của cuộc đấu
tranh giai cấpʺ chứ không phải là một kết quả từ những nhóm đào tạo chính trị [12]. Cương lĩnh
của Thanh Niên bị phê phán vì đã vạch ra tiến trình của từng chặng đường cách mạng để dẫn
đến đấu tranh vũ trang. Bản chỉ thị nói rằng ʺkhông thể nào xây dựng trình tự hoặc thời gian cho
những giai đoạn phát triển cách mạngʺ. Phải dùng sự ʺPhân tích vững chắc cho phong trào trong
mỗi giai đoạnʺ để hướng dẫn hành động. Đánh giá quá cao tình hình có thể dẫn đến ʺchủ nghĩa
mạo hiểm và chủ nghĩa manh độngʺ [13]. Sự thăng hoa của phong trào Đông Dương đã xảy ra
trong thời gian khi sự đột phá của phong trào cách mạng thế giới đang bắt đầu ‐ việc này bắt
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 132 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

buộc những người cộng sản Đông Dương không những phải tự hướng mình đến sự phát triển
từng bước của phong trào mà còn ʺhướng đến khả năng và sự chắc chắn của những cuộc đấu
tranh trong phạm vi rộng và những sự kiện đang diễn biến nhanhʺ [14].
ʺSai lầm chủ yếu của những quyết định của Thanh Niên là chúng đã không chứa đựng tính
chính xác cần thiết về tầm quan trọng của các giai cấp và vai trò của chúngʺ [15]. QTCS nhận
định. Giai cấp tiểu tư sản không còn được xem là thành phần của ʺlực lượng tiên tiếnʺ của cuộc
cách mạng như cương lĩnh của Thanh Niên đã khẳng định. Họ có thể được sử dụng trong quá
trình đấu tranh phản đế và cách mạng ruộng đất, nhưng chỉ dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô
sản. Lực lượng thực sự thúc đẩy cho quá trình cách mạng là giai cấp công nhân và nông dân;
thành phần cách mạng chủ yếu của nông dân là tầng lớp bần nông ‐ những nông dân không có
đất sở hữu một ít ruộng đất [16]. Những gian hệ với những tổ chức hợp pháp và đảng phái khác
giờ đây được định nghĩa là chỉ mang tính lợi dụng. Đảng phải ʺnới rộng, sử dụng và dẫn dắt
cuộc đấu tranh phản đế của giai tầng tiểu tư sản, kể cả sinh viên [17]. Văn bản cũng khẳng định
ʺViệc thành lập những tổ chức cộng sản bất hợp pháp nhưng vững mạnh, những tổ chức đã
nhuần nhuyễn trong việc sử dụng những vũ khí đấu tranh đa dạng để đưa ra những ảnh hưởng
hợp pháp hoặc bán hợp pháp ‐ việc này phải là cơ sở của hoạt động đảng trong hoàn cảnh hiện
thời của Đông Dươngʺ [18]. Hoạt động trong những vùng nông thôn cũng không được lơ là. Một
trong những nhiệm vụ trọng yếu của đảng là phát triển phong trào nông dân chống lại địa chủ:
ʺđảng cộng sản phải phát động, chuẩn bị và lãnh đạo cuộc đấu tranh của nông dân chống lại chế
độ tá điền, chống lại việc bóc lột ruộng đất, thuế má, lĩnh canh, vân vân. Chúng ta phải nhắm
vào việc phát triển từ những cá nhân bộc phát thành một phong trào nông dân rộng khắp chống
lại địa chủ và đế quốcʺ [19]. Nhưng ʺtrọng tâm của đảng và hoạt động quần chúng vẫn phải
nhắm vào các xí nghiệp, mỏ than, hoả xa, đồn điền, vân vân” [20] Những chỉ thị trên đã gây áp
lực rất lớn đến những nhà hoạt động Việt Nam để khởi động một cuộc đấu tranh bạo lực nhưng
lại khẳng định rõ ràng rằng những sai lầm về việc phân tích hiện tình cách mạng tại địa phương
sẽ là lỗi của họ.
Mãi cho đến ngày 8 tháng 2 1930 Trần Phú và Ngô Đức Trì mới đến được Sài Gòn với những chỉ
thị của họ. Họ bị cầm chân tại Paris vì những khó khăn trong việc thu thập hộ chiếu giả. Mặc dù
QTCS thường được cho là có một cơ sở làm hộ chiếu giả tại Berlin, nhưng hình như nó vẫn chưa
bước vào hoạt động trong năm 1929 hoặc 1930. Đối với hai người Việt Nam hồi hương và hai
người Pháp được QTCS gửi đến Đông Nam Á trong thời gian 1929‐31, việc tìm được những giấy
căn cước giả là một trở ngại tương đối lớn. Trần Phú và Ngô Đức Trì đã nghe theo lời khuyên
của người bạn học cũ tại Moscow là Bùi Lâm và đã di chuyển một cách bí mật. Mỗi người đã trả
1.500 franc cho một thuỷ thủ Trung Quốc để trốn lên chiếc tàu Porthos cho cuộc hành trình đến
Sài Gòn. Việc khởi hành chậm trễ của họ có nghĩa là Trần Phú đã không đến được Hồng Kông
vào khoảng giữa tháng 2. Vì thế ông đã bị trễ cả hai cuộc hẹn với Thibault, chưa kể cả việc tham
dự hội nghị thống nhất hai đảng [21].
Thông tin về phương pháp và thời gian của việc chuyển giao những chỉ thị của QTCS đến Việt
Nam và Hồng Kông vẫn còn là vấn đề nhạy cảm đối với những người cộng sản Việt Nam hiện
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 133 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

nay vì họ vẫn khẳng định rằng Hồ Chí Minh chính là người đã thống nhất đảng. Ngày tháng đề
trong phiên bản tiếng Nga của tài liệu dài 48 trang này đề ngày 23 tháng 11 1929 (việc Trần Phú
và Ngô Đức Trì có nhận được phiên bản hoàn tất của những chỉ thị này hay không thì không rõ].
Tài liệu này hình như đã được biết đến như là ʺnhững chỉ thị tháng Chạpʺ về việc thống nhất
đảng [22]. Những giải thích hiện tại cho rằng đây chính là nguồn tài liệu của lãnh đạo QTCS về
vấn đề thống nhất đảng [23]. Nhưng từ năm 1970 phiên bản tiếng Việt của tài liệu đã được trích
dẫn để làm cơ sở cho giả thiết rằng Hồ chính là người thống nhất đảng lại đề ngày 27 tháng 10
1929. (Phiên bản này của tài liệu không thể tìm được trong văn khố của QTCS). Với đầu đề ʺVề
Vấn Đề Lập Đảng Cộng Sản Đông Dươngʺ, tài liệu này nhấn mạnh vai trò của ʺđại diện QTCSʺ
trong việc thành lập một đảng cộng sản [24]. Dù vậy, dựa trên cơ sở của những phê bình trong
giai đoạn 1930‐31 về vai trò của ông trong việc hợp nhất đảng, cũng như dựa trên những khai
báo của Ngô Đức Trì sau này, dường như Hồ đã không hề được đọc những ʺchỉ thị tháng Chạpʺ
hoặc những tài liệu được in trong Văn Kiện Đảng khi ông hợp nhất hai đảng cộng sản vào đầu
năm 1930.

Quá trình hợp nhất
Hồ Chí Minh đã đến Hồng Kông trước Trần Phú gần hai tháng [25]. Mặc dù ông đã báo cáo với
QTCS rằng ông đến Trung Quốc vào ngày 23 tháng 12 [26], một chỉ điểm của Sở Liêm Phóng cho
rằng đã phát hiện ʺLý Thụyʺ trên chuyến tàu hoả đi Cửu Long (Kowloon ‐ ND) trước ngày 15
tháng 12 [27]. Tại Hồng Kông Hồ nhận ra rằng phong trào cộng sản Việt Nam đang nhận chỉ thị
từ một đại diện Trung Quốc của Phân Bộ Viễn Đông. Ngoài ra, Thibault, được giao nhiệm vụ
hướng dẫn phong trào cộng sản Việt Nam, đã đến Hồng Kông sau Hồ không bao lâu. Dường
như ông chính là vị đại diện vô danh của QTCS ʺcó nhiệm vụ kiểm tra tất cả các tổ chức cộng sản
trong vùng Viễn Đôngʺ, người được cho là đã xuất hiện tại Hồng Kông vào hạ tuần tháng 12
1929. Căn cứ theo báo cáo của Sở Liêm Phóng, kiểm soát viên này đã lập lại những thông tin từ
người đồng nghiệp Trung Quốc, rằng hướng hoạt động của những người cộng sản Việt Nam
tạm thời đang nằm trong tay của ĐCS Trung Quốc [28]. Phân Bộ Viễn Đông đã báo cáo vào ngày
3 tháng 3 1930 rằng ʺJaquesʺ, ʺnhân vật người Phápʺ đã đi Hồng Kông vào cuối tháng 12; sau khi
liên lạc được ở đó và có lẽ đã đi lại một vài nơi, ông sẽ phải quay lại Thượng Hải vào cuối tháng
2. ʺNhưng vì báo cáo từ Hồng Kông chỉ đã nhận được vào cuối tháng 1, trong đó ông viết rằng
ông dự định đi Đông Dương, chúng tôi đã không nhận được thêm tin tức gì từ ông ta,ʺ họ đã
báo cáo [29]. Trong những thư từ trước đó, Phân Bộ Viễn Đông đã ám chỉ ông là ʺđồng chí phụ
trách Nam Dươngʺ [30]. Điều kỳ lạ là đại diện người Pháp này dường như đã không hề gặp Hồ
tại Hồng Kông.
Tại Hồng Kông Hồ nhanh chóng chấm dứt tình trạng mà ông cho là ʺtrò tranh chấp trẻ conʺ, mặc
dù giờ đây ông cũng đã trở thành một phát ngôn viên cho QTCS trong số những người tự cho là
có quyền điều khiển phong trào cách mạng Việt Nam. Báo cáo của Dương Hạc Đính với Sở Liêm
Phóng vào năm 1930 cho thấy rằng Hồ đã không chấp nhận việc giải tán Thanh Niên [31]. Hội
này vẫn nên được giữ lại sau khi đảng cộng sản được thành lập, ʺít nhất là trong thời gian đầuʺ.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 134 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Sự phản đối này nhấn mạnh quan điểm của Hồ về Thanh Niên như là một mặt trận chính trị
hữu ích và có thể là nguyên nhân vì sao các thành viên Thanh Niên vẫn tiếp tục phát hành tờ báo
Thanh Niên của mình cho đến tháng 5 / 1930 [32], bên cạnh tờ báo mang tên ʺĐỏʺcủa An Nam
Cộng Sản Đảng (ANCSĐ) ra đời vào ngày 1 tháng 9 1929 [33]. Báo cáo của Đính đã củng cố giả
thiết rằng Hồ đã quá lạc hậu đối với tình hình chính trị đang phát tiển nhanh chóng. ʺChúng tôi
đã báo cáo với Hồ mọi chuyện đã xảy ra trong và ngoài nướcʺ, ông cho biết. Hai ngày sau khi
đến nơi, Hồ đã viết thư cho lãnh đạo của Đông Dương Cộng Sản Đảng (ĐDCSĐ) để giải thích
nhiệm vụ của ông từ QTCS là nhằm thành lập một đảng cộng sản cho Việt Nam. Từ cơ sở này,
Hồ đã đưa ra quyền hạn của mình từ chỉ thị mà ông có được trước khi đi Xiêm. Dường như ông
đã linh tính rằng ông phải hành động gấp mà không phải chờ đợi cập nhật từ những chỉ thị mới.
Ông yêu cầu Đông Dương Cộng Sản Đảng phải gửi hai đại biểu đến gặp ông tại Hồng Kông.
(Đến cuối tháng 12 đã có hai đại diện của ANCSĐ có mặt tại Hồng Kông, đó là Nguyễn Thiệu, bí
danh là Nghĩa đang lẫn trốn cảnh sát Pháp, và Châu Văn Liêm, người được chi bộ Sài Gòn gửi
đến để tham dự hội nghị sắp tới ở Singapore [34]). Hồ cũng đã viết thư cho Phân Bộ Viễn Đông
để thông báo sự có mặt của ông tại Hồng Kông và đệ trình cho họ những đề xuất của mình. Theo
lời Dương Hạc Đính, Hồ đã yêu cầu cung cấp lương tháng cho ông khoảng 240 ‐ 300 đồng Trung
Quốc, được trả qua tài khoản của Tỉnh Uỷ Quảng Đông của ĐCS Trung Quốc [35]. Hình như ông
đã ra vẻ biểu dương quyền lực trước những đồng chí của mình. Vì cuối tháng 2 1930 ông đã viết
thư cho đại diện QTCS để tìm hiểu rõ ràng hơn nhiệm vụ của mình: ʺHiện nay tôi không biết
được chính xác vị thế của mình là gì... tôi là đảng viên của ĐCS Pháp hay ĐCS Việt Nam?ʺ Ông
còn hỏi: ʺNhiệm vụ mà QTCS đã giao cho tôi đã bị huỷ bỏ rồi chăng? Nếu không thì tôi có phải
là nhân viên của Phân Bộ Viễn Đông hay không?ʺ Ông yêu cầu Ban Chấp Hành QTCS đưa ra
quyết định về việc này [36].
Quá trình được biết như là ʺHội Nghị Hợp Nhấtʺ đã tiến hành trong khoảng thời gian từ ngày 6
tháng 1 đến ngày 8 tháng 2 1930. Trong bản báo cáo cho QTCS (bằng tiếng Anh) đề ngày 18
tháng 2 1930, Hồ đã tường thuật hoạt động của mình với giọng văn súc tích quen thuộc: ʺTôi đã
kêu gọi đại diện của hai thành phần (Dongzuong(sic) và Annam). Chúng tôi đã gặp vào ngày 6
tháng 1. Là đại diện của QTCS với đầy đủ quyền hạn để quyết định mọi vấn đề liên quan đến
phong trào Cách Mạng tại Đông Dương, tôi đã chỉ ra việc họ đã phạm sai lầm ở đâu và họ cần
phải làm gì. Họ đã đồng ý thống nhất thành một đảng. Chúng tôi đã cùng nhau chỉnh sửa cương
lĩnh và chiến lược theo đúng hướng của QTCSʺ [37]. Ông lưu ý rằng sẽ thành lập một Uỷ Ban
Lâm Thời Trung Ương bao gồm 7 uỷ viên chính thức và 7 uỷ viên dự bị. Những đại biểu đã về
lại Việt Nam vào ngày 8 tháng 2, ông cho biết [38]. Hồ cũng gửi cho Phân Bộ Viễn Đông bản dịch
tiếng Anh của ʺLời kêu gọi công, nông, binh, thanh niên, học sinh, anh chị em bị áp bức và các
Đồng chíʺ, tuyên bố việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Bản kêu gọi dự định sẽ được phân
phát vào khoảng ngày 20 tháng 3, vào lúc Uỷ Ban Trung Ương sẽ được thành lập [39].
Trong vấn đề vị thế của Việt Nam trong hệ thống giai tầng cộng sản, dường như Hồ đã có một
thoả hiệp ngoại giao. Ông giải thích rằng: ʺBộ phận Singapore đã viết thư cho chúng tôi rằng
ANCSĐ sẽ nằm dưới sự chỉ đạo của Singapore. Nhưng căn cứ theo hiện trạng địa lý (Nga ‐
Trung Quốc ‐ An Nam) cũng như hiện trạng chính trị (Đảng vững mạnh hơn, công nghiệp tiến
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 135 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

triển tại Bắc Kỳ hơn là ở Nam Kỳ)) ‐ Tôi đề nghị rằng ANCSĐ nên được chỉ đạo từ Thượng Hải
qua ngỏ Hồng Kông. Dù thế, ANCSĐ vẫn nên giữ liên lạc chặt chẻ với Singapore. Vì lý do trên,
tôi yêu cầu ĐCS Trung Quốc gửi một lá thư giới thiệu để chúng tôi có thể điều một đồng chí An
Nam đến làm việc với Singaporeʺ [40]. Hồ vì thế đã gửi tín hiệu rằng ông sẵn sàng hợp tác với
liên hiệp mới đang được thành lập tại Singapore, nhưng đảng cộng sản Việt Nam sẽ liên hệ trực
tiếp với QTCS thông qua Phân Bộ Viễn Đông. Việc ông muốn hoạt động qua ngỏ Thượng Hải
không nên hiểu là thân Trung Quốc mà chính là một phản ứng không chịu thần phục ĐCS
Trung Quốc. Đảng mới được đặt tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam, trong khi đó Hồ thường gọi
nó là Đảng Cộng Sản An Nam (Annam Communist Party ‐ ND) khi ông viết bằng tiếng Anh.
Tài liệu chính thức của Hà Nội về hội nghị này được lấy ra từ tường thuật của Nguyễn Thiệu,
một đại biểu của ANCSĐ [41]. Hai đại biểu của thành phần ĐDCSĐ là Nguyễn Đức Cảnh và
Trịnh Đình Cửu, cả hai đều xuất thân từ tổ chức ĐDCSĐ nguyên thuỷ. Một lá thư của ĐDCSĐ
gửi cho các thành viên ngày 7 tháng 1 cho thấy rằng hai đại biểu được QTCS triệu tập sẽ đi Hồng
Kông trong khoảng 17 hoặc 18 tháng 1 [42]. Do đó có thể Hồ Chí Minh đã dùng ngày tháng âm
lịch khi viết báo cáo cho QTCS rằng hội nghị được bắt đầu vào ngày 6 tháng 1 ‐ tức là ngày 4
tháng 2 dương lịch [43]. Một khả năng nữa là hội nghị đã diễn ra trong hai hoặc ba giai đoạn với
phiên họp tiền hội nghị được tổ chức vào ngày 6 tháng 1, theo sau là cuộc hội ý giữa Phân Bộ
Viễn Đông và các thành viên của ĐDCSĐ từ Bắc Kỳ, và một phiên họp cuối cùng từ ngày 3 đến
ngày 7 tháng 2. Để làm cho bức tranh vốn đã khó hiểu càng thêm phức tạp, theo tài liệu của
Trung Quốc về Hội Nghị Hợp Nhất thì Hồ Chí Minh đã không có mặt khi hội nghị khai mạc vì
nó quá ʺrộng lớnʺ (hàm ý là quá công khai), nhưng nó đã được diễn ra dưới sự ʺchỉ đạo trực tiếpʺ
của Hồ [44]. Thật khó mà biết được lời tường thuật này đang nói về cuộc họp nào. Dù sao,
những tài liệu khác về hội nghị đều cho thấy đây là một cuộc họp đầy thân mật.
Ngày tháng chính xác của Hội Nghị Hợp Nhất đã không quá là quan trọng nếu như nó không là
dấu hiệu của những tranh chấp vẫn đang tiếp diễn trong hàng ngũ lãnh đạo đảng. Điều này
được tìm thấy trong văn khố của Pháp và thậm chí trong bài viết thứ hai của Nguyễn Thiệu về
sự kiện thành lập đảng [45]. Và vì thế việc lẫn lộn ngày tháng đã củng cố cho ấn tượng rằng vẫn
còn những xung đột trong giới lãnh đạo của ĐCS Việt Nam sau ngày 8 tháng 2 1930. Cuối cùng
Hội Nghị cũng đã tạo ra được khuôn khổ để thống nhất các thành phần Việt Nam đang đối chọi
nhau, nhưng không thực sự có nghĩa là nó đã hoàn thành quá trình này. Cương lĩnh vắn tắt do
Hồ Chí Minh soạn thảo cho đảng mới cũng không khác biệt với cương lĩnh 8 điều về các nước
thuộc địa mà Bukharin đã đưa ra tại Đại Hội 6 QTCS. Rõ ràng là Hồ vẫn chưa từ bỏ chiến lược
mặt trận thống nhất vì ông đã không lên án toàn bộ giai cấp tư sản. Cương lĩnh của ông kêu gọi
ʺlật đổ thực dân Pháp, chế độ phong kiến và những thành phần tư sản phản cách mạngʺ; một
nền độc lập hoàn toàn cho Việt Nam; một chính quyền công‐nông‐binh; tịch thu toàn bộ ngân
hàng và những phương tiện sản xuất khỏi bàn tay của bọn đế quốc; quốc hữu hoá toàn bộ đồn
điền và ruộng đất tư hữu của đế quốc và tư sản phản cách mạng để chia cho nông dân nghèo;
một chế độ làm việc ngày tám tiếng; huỷ bỏ nợ quốc gia, sưu thuế cá nhân và miễn thuế cho dân
nghèo; tôn trọng quyền tự do dân sự; mở mang giáo dục xã hội; thực hiện nam nữ bình
đẳng[46]. Chính sách trưng thu ruộng đất có vẻ đã giống hệt chính sách do Uỷ Ban Điền Địa
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 136 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Trung Ương của Quốc Dân Đảng Trung Quốc đưa ra tại những cuộc họp ngày 19 tháng 4 và 6
tháng 5 1927 [47]. Vì thế bản cương lĩnh nói chung đã không thể được chấp nhận đối với QTCS
thời kỳ sau Hội Nghị Toàn Thể lần thứ 10 và đã có rất ít điểm tương đồng so với chỉ thị do
Moscow soạn thảo vào mùa thu trước. Nó sẽ được thay thế bởi một chính cương mới và một bộ
luận cương dài tại đại hội toàn thể lần thứ nhất của đảng vào tháng 10 1930. Sự kiện này đáng
dấu một giai đoạn thực sự trung thành của đảng đối với đường lối hiện tại của QTCS được thay
đổi từ giữa mùa hè 1928 đến giữa năm 1929.
Bất chấp quyền lực rõ ràng của Hồ, thành phần ĐDCSĐ dường như đã đóng vai trò chủ đạo
trong ĐCS Việt Nam trong những tháng đầu sau khi hợp nhất [48]. Ngô gia Tự vẫn giữ vai trò
then chốt trong cơ cấu của Đảng tại Sài Gòn. Ông giữ chức vụ đứng đầu Chấp Uỷ của Uỷ Ban
Lâm Thời ở phía nam cho đến khi ông bị bắt vào cuối tháng 5 1930. Hai thành viên ĐDCSĐ tại
hội nghị hợp nhất được giao nhiệm vụ hoạt động tại miền Bắc và Trung Việt Nam [49]. Một xu
hướng liên hiệp dường như đã tồn tại trong tổ chức đảng trong nửa đầu năm 1930: Nguyễn Văn
Lợi, người được các thành viên còn lại của đảng Tân Việt bầu vào Chấp Uỷ Uỷ Ban Lâm Thời
phía nam, sau này đã khai với Sở Liêm Phóng rằng ʺTrung Ương Thường Vụʺ, họp mặt thường
xuyên tại miền nam và miền trung, đã được trao quyền để thực hiện những quyết định tại Nam
Kỳ [50]. Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương thành lập vào đầu tháng 3 bao gồm năm thành viên của
ĐDCSĐ, trong khi đó chỉ có một thành viên của ANCSĐ và một từ đảng Tân Việt cũ. Nhưng
những uỷ viên chính thức của Uỷ Ban Trung Ương đã không thể gặp nhau. Những thành viên
của Trung Ương Thường Vụ đóng tại phía bắc gồm toàn những đảng viên của ĐDCSĐ: Trịnh
Đình Cửu, Nguyễn Hới, Trần Vân Lan [51]. Một số đảng viên của đảng mới có thể đã nghi ngờ
việc cần thiết phải hợp nhất. Ví dụ như Nguyễn Đức Cảnh, được cho là đã từ chối chức vụ trong
Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương vì ông muốn tiếp tục hoạt động trong Ban Chấp Hành của Tổng
Liên Đoàn Lao Động Bắc Kỳ, cơ quan này có thể là một chi nhánh của Liên Hiệp các Công Đoàn
Lao Động Nam Dương [52]. Nhìn chung, ta có ấn tượng rằng những cơ cấu uỷ ban khác nhau đã
được dùng trong quá trình tranh giành quyền lực.

Cuộc khởi nghĩa đầu năm
Những biến động đầu tiên của cuộc khởi nghĩa vào năm 1930 đã ở trong giai đoạn chuẩn bị cuối
cùng vào thời gian ĐCS Việt Nam thành lập. Không có dấu hiệu là QTCS đã biết trước những
biến động này, nhưng ĐCS Trung Quốc và những người Việt dường như đang hoạt động với
một lịch trình chung. Cuộc bãi công tại đồn điền cao su Phú Riềng phía tây Nam Kỳ từ ngày 3
đến ngày 7 tháng 2 trên thực tế có thể đã là một phần của cuộc ʺTổng tấn công Tếtʺ 1930. Một
trong những người tổ chức là Trần Tử Bình, thành viên của ĐDCSĐ đã nói đến trong cuốn hồi
ký ʺĐất Đỏʺ của mình rằng cuộc đình công thực ra đã xảy ra vào ngày 30 tháng 1 tức là mồng
một tết Nguyên Đán, khi 5.000 công nhân tập trung tại dinh thự của viên quản lý đồn điền để
xem múa lân và đưa ra yêu sách đòi hỏi điều kiện làm việc tốt hơn [53]. Dường như cuộc đình
công này hoàn toàn do ĐDCSĐ phát động với sự chỉ đạo của Ngô Gia Tự từ Sài Gòn và những
nhà hoạt động khác từ Bắc Kỳ, nơi lực lượng lao động đã được tổ chửc.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 137 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Vào ngày 2 tháng 2 Sô Viết Long Châu (Loung Zhou ‐ ND) và Quân Đội Hồng Quân số 8 của
Trung Quốc đã được thành lập tại tỉnh Quảng Tây, phía bắc biên giới Việt Nam. Căn cứ theo tài
liệu chính thức của ĐCS Trung Quốc, phong trào Sô Viết bao trùm tám quận chung quanh Bình
Hương (Ping Xiang ‐ ND) và Long Châu và đã đứng vững trong khoảng sáu tháng. Nó được cho
là đã xuất phát từ cuộc nổi dậy của binh lính Quốc Dân Đảng tại Nam Ninh (Nan Ning ‐ ND) và
đã đi theo tổ chức của Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping ‐ ND) đang có cơ sở cách mạng tại Bách
Sắc (Bose hoặc Pai‐se ‐ ND) vào tháng 12. Cuộc khởi nghĩa Long Châu do một người cộng sản là
Yu Zouyu, là sĩ quan trong lực lượng của sứ quân Lý Minh Thụy (Li Mingrui ‐ ND) đóng tại
Nam Ninh.
Không có bằng chứng trực tiếp về vai trò của Việt Nam trong việc thành lập Sô Viết, nhưng sẽ
không có gì ngạc nhiên nếu những người cộng sản Việt Nam đang định cư tại Quảng Tây tham
gia phong trào. Đây là một khu vực mà người Pháp cho là nằm trong vùng ảnh hưởng của họ, và
trên thực tế việc đem máy bay thả bom đã giúp nhanh chóng phá huỷ phong trào Sô Viết này.
Có một số thành viên cộng sản người Việt sống tại Long Châu, trong đó có hai nhân viên lái xe
của vị tỉnh trưởng, Lê Quảng Đạt đã khai với người Pháp sau này [55]. Lê Hồng Sơn được cho là
đã nhận được sự ủng hộ của vị tỉnh trưởng này là Yu Zuobo, anh em họ hàng với Yu Zouyu và
là một trong những sứ quân mà ĐCS Trung Quốc đang hợp tác vào năm 1929 [56]. Hồ Chí Minh
đã viết trong báo cáo ngày 18 tháng 2 1930 rằng năm ʺđồng chíʺ người Việt đang hoạt động tại
Quảng Tây vừa mới bị bắt [57]. Trong cùng bản báo cáo ông nói rằng ʺphân bộ phản đếʺ của
đảng cộng sản vừa thành lập phải ʺlàm việc hết mình để mở rộng ảnh hưởng của Sô Viết Quảng
Tâyʺ [58]. Ấn bản cuối cùng của tờ Thanh Niên vào tháng 5 đã nhận định rằng ʺchúng ta phải
phản đối việc đế quốc Pháp đưa quân đến biên giới Việt‐Trung nhằm lật đổ chính quyền Sô Viết
Long Châuʺ [59]. Bất chấp những dị biệt về nhận thức chính trị và thành phần người Việt tham
gia thành lập Sô Viết, ĐCS Việt Nam đã hậu thuẫn phong trào này.
Cuộc khởi nghĩa bất thành tại Yên Bái được chuẩn bị từ tháng 9 1929 đến tháng 1 1930, mặc dù là
do Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) tổ chức, nhưng có thể đã có liên hệ với những nổi dậy
trong dịp đầu năm. Được dự định là một cuộc ʺtổng tấn côngʺ đánh chiếm các thị trấn lớn và các
cơ sở quân sự của Pháp [60], cuộc khởi nghĩa đã có thể là một cách đánh lạc hướng quân Pháp từ
Long Châu. Như ta đã thấy, thành phần ĐDCSĐ đã tuyên bố chủ tâm hợp tác với VNQDĐ từ
ngày 7 tháng 1 1930. Trong lá thư ngày 18 tháng 2 Hồ Chí Minh cũng đã báo với Phân Bộ Viễn
Đông rằng ʺcánh tảʺ của VNQDĐ ʺđang có quan hệ mật thiết với chúng tôi;ʺ cũng cùng lúc đó
ông lưu ý rằng thành phần thiên hữu của đảng này đang mang khuynh hướng manh động [61].
Một yếu tố chủ chốt trong cuộc nổi dậy đã không được đưa ra kịp thời đó là việc tổ chức một
cuộc tấn công từ Vân Nam xuống vùng thung lũng sông Hồng. (Vào năm 1930 lãnh sự quán
Pháp tại Vân Nam đã báo với người Anh rằng trong số những thành viên của VNQDĐ trong
tỉnh đã có ʺmột số lớn thành phần cộng sản mà giờ đây đang ở tại học viện quân sự Trung
Quốcʺ[62]). Một tổ chức tại Ma Cao có tên là ʺHội Đồng Chấp Hành của Hiệp Hội Binh Lính và
Thuỷ Thủ Cách Mạngʺ đã nhanh chóng xuất bản một tập tài liệu ủng hộ cuộc khởi nghĩa Yên
Bái. Tại Hồng Kông người Pháp đã tịch thu những truyền đơn (đề ngày 17 tháng 2 / 1930) kêu
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 138 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

gọi thuỷ thủ của chiến hạm Waldeck Rousseau ủng hộ ʺcuộc khởi nghĩa cách mạng của người
Việt Namʺ. Người Việt đã ʺanh dũng đứng lên tại Hà Nội, Yên Bái và Hồng Hoa[sic], vân vân...,
khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam cần được giới lao động Pháp hậu thuẫn và giúp đỡʺ [63].
Người Pháp cho rằng tài liệu này có liên quan đến tổ chức Thanh Niên, nhưng cũng có thể là do
thành phần ĐDCSĐ hoặc VNQDĐ viết ra. Khởi nghĩa Yên Bái sau này đã bị những người cộng
sản Việt Nam phê phán, nhưng nó vẫn được xem như là một cuộc đứng lên đầy anh dũng và đã
châm ngòi cách mạng trong năm 1930. Người Pháp đáp trả lại cuộc khởi nghĩa của VNQDĐ này
bằng cách phá huỷ toàn bộ những ngôi làng đã ủng hộ những quân nổi dậy. Việc đàn áp này có
thể đã làm suy yếu việc phát triển hoạt động của cộng sản trong vùng nông thôn Bắc Kỳ vào
cuối năm 1930.

Những nhiệm vụ mới
Ngày 13 tháng 2 Hồ Chí Minh rời Hồng Kông đi Thượng Hải, ở đây ông đã viết một báo cáo
tiếng Anh bằng tay về những gì ông đã làm từ khi đến Xiêm năm 1928. Bản báo cáo cho thấy ông
đang bận tâm về những quan hệ với ĐCS Trung Quốc. Ông không những nói về quan hệ với bộ
phận Singapore mà còn đề cập đến việc ông yêu cầu ĐCS Trung Quốc một bức thư gửi cho ʺmột
số đồng chí lãnh đạo (Trung Quốc) ở Xiêm để những thành viên An Nam tại nước này có thể
làm việc với các thành viên của Ch. [sic]ʺ Ông còn nói rằng ông đã yêu cầu ĐCS Trung Quốc ʺgửi
vài đồng chí chỉ huyʺ đến Sài Gòn, nơi mà ông bảo rằng đã có khoảng 200 thành viên Trung
Quốc nhưng họ lại thiếu một người có khả năng lãnh đạo. Ông đề nghị rằng nên thành lập một
hội đồng bao gồm một hay vài đại diện của mỗi bên để điều phối hoạt động liên quan đến
những quyền lợi của quần chúng Trung Quốc và An Nam [64]. Vào lúc đó, ông đang dự định đi
Vladivostok để gặp người liên lạc không rõ danh tính. Báo cáo của ông (đề ngày 18 tháng 1) cho
thấy rằng ông đã chưa gặp Trần Phú. Ông viết rằng ông đã không nhận được tin tức từ người
Pháp và ʺhai đồng chí An Namʺ vào thời điểm trên. Tôi đã không tìm ra được bằng chứng rằng
ông đã thực sự đi Vladivostok sau khi viết bản báo cáo này.
Vladivostok đã trở thành địa điểm cho trường đào tạo ngắn ngày được thành lập cho những
đảng viên ĐCS Trung Quốc cập nhật kiến thức và phương pháp hoạt động cộng sản. Vào tháng
5 1929 Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc đã đề nghị thành lập những cơ sở đào tạo này vì họ
không có đủ thành viên hoặc công nhân để đào tạo tại Moscow như QTCS mong muốn. Trung
Quốc xem đây là nơi để phát triển những ʺthành phần trí thức và nông dân đã có kinh nghiệm
quân sự trong những lực lượng hồng quân đã tan rã sau thất bại của Sô Viết Hải‐Lục‐Phong [65].
Một vài người Việt biết nói tiếng Hoa như Lê Quảng Đạt, Hồ Tùng Mậu và vợ của ông là Lý
Phương Thuận được cho là đã đến đây năm 1930 để tham dự một khoá đào tạo tuyên truyền dài
ba tháng [66]. Năm 1930 Nghiệp Đoàn Thái Bình Dương cũng có một văn phòng bí thư thường
trực tại đây [67]. Nhưng Hồ Chí Minh chắc hẳn đã được miễn tham dự khoá đào tạo và đã bị
ngăn cản không cho đi Vladivostok vì Phân Bộ Viễn Đông đang cần ông làm việc tại Thượng
Hải. Họ báo cáo vào ngày 3 tháng 3 rằng Hồ đã xuất hiện ʺtrong vài ngày trước đâyʺ. Họ giải
thích ʺChúng tôi gửi kèm theo bản báo cáo của ông ấy trong đó đề cập mọi việc mà ông ấy đã
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 139 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

báo cáo bằng miệng với chúng tôi. Chúng tôi quyết định sử dụng ông ấy trong vài nhiệm vụ liên
quan đến công tác tổ chức và tiếp tục hoạt động trong nước.ʺ Lý do mà ông được giao phó
nhiệm vụ đặc biệt này có thể là vì việc mất tích của Thibault. Hơn nữa, cả Kylski, người đã khởi
hành đi Moscow, và Eisler đều không nói được tiếng Trung Quốc. Do đó Hồ có thể làm công
việc của một người thông dịch trung gian đang rất cần và cũng là nguồn thông tin về chính trị
của Trung Quốc. Phân Bộ Viễn Đông đã không nhắc đến trong bức thư rằng Hồ đã được đề bạt
vào chức vụ đứng đầu Phân Bộ Miền Nam (không biết chắc rằng ông đã thực sự mang chức vụ
này hay không], hoặc ông đã được phái sang tham dự hội nghị ĐCS Mã Lai được tổ chức vào
trung tuần tháng 4 tại Singapore. Họ ghi chú rằng một thành viên người Trung Quốc sẽ tham dự
hội nghị này với ʺnhững chỉ thị từ chúng tôiʺ [68]. Chỉ cho đến tháng 5 họ mới tiết lộ rằng họ đã
gửi Hồ đi Singapore để tham dự hội nghị ĐCS Mã Lai.

Hồ quay lại Hồng Kông vào giữa tháng 3, rốt cuộc ông đã tiếp xúc với trước tiên là Trần Phú rồi
Ngô Đức Trì. Sau một thời gian ngắn đặt chân đến Sài Gòn, Trần Phú đã đi trước đến Hồng
Kông để gặp Thibault. Trì đợi ở Sài Gòn trong ba tuần lễ mà vẫn không thấy tin tức nên đã quyết
định đáp tàu đi Hồng Kông để tìm Trần Phú. Nhưng trước khi khởi hành ông đã gặp Bùi Lâm,
một bạn học tại Moscow vừa về từ Paris vào ngày 9 tháng 3. Bùi Lâm mang theo một tập hướng
dẫn có tên Những Nhiệm Vụ Cấp Bách của Cộng Sản Đông Dương đã được dịch sang tiếng
Pháp tại Paris (Trì không giải thích rằng đây có phải là phiên bản của lá thư mà ông mang từ
Berlin hay không, hoặc là bản bổ xung hay là một bộ hướng dẫn hoàn tất hơn]. Vào đầu tháng 3
Trì đáp tàu thuỷ đi Hồng Kông và cuối cùng đã tìm ra Trần Phú tại hội YMCA (Young Menʹs
Christian Association, một hội từ thiện Thiên Chúa Giáo thành lập năm 1844 tại Anh ‐ ND). Trần
Phú đã trễ cuộc hẹn với Thibault và đã không thể đi Hải Phòng vì người Pháp đang tăng cường
bố ráp sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Ông vẫn chưa gặp Hồ Chí Minh cho đến khi Hồ quay lại
Thượng Hải vào tháng 3. Ông kể với Trì về cuộc gặp gỡ giữa ông với Hồ và những tin tức về
việc thống nhất đảng cộng sản vào tháng 1. ʺChúng tôi chẳng có gì để làm ngoại trừ phải quay
về và bắt đầu hoạt động vì Hồ đã nắm trách nhiệm liên lạc với QTCS,ʺ Trì đã khai với người
Pháp [69].
Sau này Hồ đã gặp Trì và giải thích: ʺVào cuối năm 1927 tôi đã nhận được lệnh từ QTCS để
tuyên truyền về việc thành lập một đảng cộng sản tại Đông Dương. Tôi đã bị bệnh ở Xiêm hơn
một năm và đã không thực hiện được điều gì.ʺ Rồi Hồ đã tường thuật việc hợp nhất đảng và nói
rằng Phân Bộ Viễn Đông đã phê chuẩn. ʺSau khi hợp nhấtʺ, ông kết luận, ʺtoàn bộ những đảng
viên cộng sản Trung Quốc sẽ tham gia ĐCS Đông Dươngʺ [70]. Vào thời điểm này, Hồ đã có đủ
quyền hành để ra lệnh cho Ngô Đức Trì quay lại Sài Gòn và Trần Phú được điều đi Hà Nội. Lời
khai báo của Trì đã không cho thấy được điều gì hơn về những chỉ thị hoặc kế hoạch của Hồ.
Về lại đến Sài Gòn vào đầu tháng 4 1930 [71], Ngô Đức Trì được đưa đi gặp Ngô Gia Tự. Tự
phân công ông vào công tác tuyên truyền nhưng đã không giao cho ông một công việc cụ thể
nào. Tự cho biết rằng hiện giờ ʺchúng tôi vẫn còn quá bận rộn với một số công việc chưa hoàn
tấtʺ. Sau đó Trì được đưa đến Chợ Lớn và ở trong một ngôi nhà được dùng làm văn phòng của
chi bộ cộng sản nhà máy điện Chợ Lớn. Ông đã không được mời tham gia các cuộc họp chi bộ,
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 140 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

và cũng chẳng được giao cho nhiệm vụ gì ngoài việc chuyển ngữ bản ʺNghị Quyếtʺ mà ông
mang theo từ Berlin và lá thư do Bùi Lâm mang về. Cho đến cuối tháng 4, Trì được bảo rằng ông
sẽ phải soạn thảo tài liệu tuyên truyền cho một cuộc đình công ở các thị trấn và thôn quê. Nhưng
chỉ sau cuộc đình công 1 tháng 5 (May Day, ngày Quốc Tế Lao Động ‐ ND) tại nhà máy điện và
một lần di chuyển cơ sở, ông mới được giao phụ trách tờ báo Cờ Đỏ. Chỉ sau khi Ngô Gia Tự bị
bắt vào cuối tháng 5 Ngô Đức Trì mới được mời tham gia vào Xứ Uỷ Nam Kỳ và sau đó là Uỷ
Ban Trung Ương.
Vai trò quan trọng mà Ngô Gia Tự được giao phó đã được nhấn mạnh trong lời tường thuật của
Nguyễn Nghĩa (Nguyễn Thiệu) từ phần hai của hồi ký của ông về quá trình hợp nhất. Hồi ký
của Nghĩa giải thích rằng hai tổ chức cộng sản ở phía nam đã chọn ra hai công nhân để làm việc
trong Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương là Sáu (Hoàng Quốc Việt) và Lộ (Phạm Hữu Lầu) [72].
Nhưng ông lại kể rằng Ngô Gia Tự, người được chọn đứng đầu Xứ Uỷ Nam Kỳ là người nắm
quyền quyết định mọi việc. Chính Ngô Gia Tự là người đã giao nhiệm vụ hoạt động tại cách tỉnh
cho Nghĩa và Châu Văn Liêm, hai đại diện từ Hội Nghị Hợp Nhất do Hồ Chí Minh gửi đến để
đảm trách việc thành lập đảng tại miền nam, dưới danh nghĩa của QTCS [73]. Vì thế, cũng như
tại Trung Quốc, trên thực tế quyền hạn của QTCS dường như đã yếu hơn so với giả thuyết của
những quan chức QTCS tại Moscow.
Hồi ký của Nguyễn Nghĩa cũng chỉ ra những khó khăn trong việc hoà nhập những đảng viên
Trung Quốc vào đảng cộng sản Việt Nam. Nghĩa chỉ ra rằng tổ chức người Hoa tại Nam Kỳ lớn
hơn cả những thành phần cộng sản người Việt ở đây, bao gồm nhiều nhà hoạt động đầy kinh
nghiệm đã trốn khỏi Quảng Đông sau Công Xã Quảng Châu. Họ không phấn khởi mấy về việc
chỉ định thành viên tham gia vào Uỷ Ban Trung Ương của ĐCS Việt Nam vì một số lý do:họ cho
rằng những người Trung Quốc không có giấy tờ hợp pháp, không quen thuộc với hiện tình
chính trị, hoặc không biết nói tiếng Việt. Họ chỉ muốn đưa người vào Xứ Uỷ Nam Kỳ [74]. Cuối
cùng, theo một tài liệu của Hà Nội thì đã có hai thành viên Trung Quốc được lựa chọn để đưa
vào Uỷ Ban Trung Ương: Lưu Lập Đạo (A Lầu) và A Duyên (Duy) [75].
Không có gì ngạc nhiên khi người Trung Quốc đã chần chừ trong việc tham gia vào đảng mới vì
đảng này không phải là chi nhánh của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc. Theo báo cáo của
Ngô Đức Trì với người Pháp thì căng thẳng về hướng phụ thuộc của đảng mới vẫn tiếp tục cho
đến mùa xuân. Ông biết được từ Ngô Gia Tự rằng một đại diện Trung Quốc từ Phân Bộ Viễn
Đông đã quá cảnh Sài Gòn trên đường từ Thượng Hải đi Singapore. Đại diện này đã cho thấy
ông không hài lòng về liên hệ trực tiếp của ĐCS Việt Nam với Phân Bộ Viễn Đông, và đã nhận
định rằng những người cộng sản Đông Dương phải trực thuộc ʺBan Bí Thư của Liên Đoàn Cộng
Sản Nam Dươngʺ (hàm ý là Liên Đoàn tại Singapore]. Sở Liêm Phóng cho rằng vào tháng 4 đã có
một cuộc họp tại Sài Gòn với ʺmột kiểm soát viên Trung Quốc từ Phân Bộ Viễn Đôngʺ đến từ
Xiêm và người này đã không biết được rằng ʺPhân Bộ Viễn Đông đã thông qua tư cách độc lập
của ĐCS Việt Namʺ. Ông đã triệu tập một cuộc họp vào ngày 19 tháng 4 nhằm liên kết những
người cộng sản Trung Quốc và Việt Nam [76]. ĐCS Trung Quốc vì vậy đã không hài lòng về
việc mất đi quyền lực đối với một đảng cộng sản tại vùng Đông Nam châu Á.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 141 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Cao trào cách mạng tại Trung Quốc và Nam Dương
Trong khi những người cộng sản Việt Nam đang thành lập cơ chế mới, Lý Lập Tam cũng đang
thúc đẩy ĐCS Trung Quốc tiến đến đỉnh điểm của một làn sóng cách mạng mới. Ngày 26 thán 2
1930 ông đưa ra Thông Tư số 70, được cho là ʺphương thức đầu tiên và rõ ràng, minh bạch nhất
của ʺĐường Lối Lý Lập Tamʺ trong tương laiʺ[77] Thông tư này cho rằng trong khi ʺlàn sóng
cách mạng mới đang tiến triểnʺ và khi ʺcuộc chiến tranh sứ quânʺ đang tiếp tục lan rộng, mục
tiêu cơ bản của việc phát triển một ʺcao trào cách mạngʺ đang được hình thành. Lý cho rằng
ʺcuộc đấu tranh quần chúng trên toàn quốcʺ đang phát triển đều khắp và công tác tổ chức đảng
tại thành thị đang hồi phục sau giai đoạn thoái trào 1927. Chiến lược của ông là ʺtập trung và tấn
côngʺ để giành chiến thắng ban đầu tại một hay nhiều tỉnh. Việc này có thể đạt được bằng cách
tổ chức ʺmột cuộc tổng đình công trong toàn nghành nghềʺ, hậu thuẫn và thâm nhập cuộc đấu
tranh ruộng đất của nông dân, và phát động binh biến trong hàng ngũ quân đội của các lãnh
chúa. Lý cũng đã kèm theo một cảnh báo chống lại những kẻ ʺcánh hữu và xét lạiʺ, những người
này, ông cảnh cáo, sẽ phê phán ʺchủ trương của đảng là manh độngʺ [78].
Đầu tháng 3 Tỉnh Uỷ Quảng Đông của ĐCS Trung Quốc tổ chức hội nghị tại Thượng Hải để
tránh những mật thám Nam Kinh và những người ʺTái Tổ Chứcʺ ở Hồng Kông [79]. Trong
khoảng thời gian ấy, một ʺuỷ ban hành độngʺ tại Thượng Hải do phụ tá của Lý Lập Tam là Lý
Duy Hán (Li Wei Han ‐ ND) thành lập để tìm cách vô hiệu hoá sự ngoan cố của bộ phận Giang
Tô (Jiang Su ‐ ND) [80]. Vào ngày 15 tháng 3 Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương cũng đã tổ chức
cuộc họp, chắc hẳn là ở Thượng Hải, cũng như cuộc họp của Liên Hiệp các Dân Tộc Phương
Đông bị Áp Bức cũng xảy ra tại Thượng Hải vào cùng thời gian và rất nhiều những đại biểu đã
tham dự cả hai cuộc họp. Tại hội nghị này một nghị quyết ủng hộ Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp
Hành Trung Ương QTCS lần thứ 10 được thông qua. Nghị quyết này nhấn mạnh lòng trung
thành của ĐCS Trung Quốc đối với đường lối của QTCS và cũng phần nào là một phản hồi
những phê bình từ Phân Bộ Viễn Đông vào tháng 10 1929. Nghị quyết viết: ʺUỷ Ban Trung Ương
nhận định rằng đường lối và nghị quyết của Hội Nghị Toàn Thể [QTCS lần thứ 10) đã đáp ứng
đầy đủ những yêu cầu của cấp lãnh đạo Cách Mạng tại Trung Quốc và Nam Dương, và đặc biệt
là hiện tình của cuộc đấu tranh với chủ trương khuynh tả, xét lại, thoả hiệp và cơ hội... ʺ[81] Nghị
quyết của chi bộ Nam Dương đã phản đối phê bình của Trần Độc Tú và những người ʺcho rằng
cuộc đấu tranh hiện tại của quần chúng Trung Quốc là ʺđối lập với cao trào cách mạngʺ [82]. Tài
liệu khẳng định: ʺViệc chuyển hoá từ một cuộc tổng bãi công của công nhân tại Nam Dương
sang thành một cuộc tấn công chính trị là một vấn đề cấp bách cho phong trào công nhân hiện
nayʺ [83]. Cuộc họp này có thể là cơ hội để những người ủng hộ Lý Lập Tam truyền bá chính
sách mới của ông.
Một báo cáo của Sở Liêm Phóng cho thấy rằng một ngày sau khi nghị quyết trên được thông
qua, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản đã tổ chức một cuộc họp tại Thượng Hải [84]. Báo cáo này cho
thấy sự can thiệp ngày càng nhiều của ĐCS Trung Quốc vào công việc của những đảng châu Á
khác. Tại cuộc họp này thành viên người Đài Loan là Lee Nan Mow thông báo rằng: theo chỉ thị
từ Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc, Đoàn Thanh Niên đã được giao nhiệm vụ hỗ trợ
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 142 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

phong trào cách mạng tại vùng đảo Đông Ấn, Đông Dương và Triều Tiên ʺbằng mọi phương
tiện có thểʺ. Những thành viên người Ấn và Triều Tiên cho biết rằng mặc dù phong trào cách
mạng của họ đang tiến triển gần đây, nhưng sẽ vô cùng khó khăn để tiếp tục nếu không có sự hỗ
trợ của ʺđảng anh em Trung Quốc vĩ đạiʺ. Cuộc họp đồng ý gửi yêu cầu lên Uỷ Ban Trung Ương
ĐCS Trung Quốc đề nghị gửi những tuyên truyền viên Trung Quốc trẻ tuổi và những đảng viên
cách mạng đến các nước đang gặp khó khăn, những người này sẽ được chu cấp vũ khí, tài chính
và tài liệu tuyên truyền. Điểm hẹn của những người Đông Dương sẽ là Quảng Châu. Vào lúc bế
mạc, vị chủ tịch thông báo rằng ʺvăn phòng địa phương của Quốc Dân Đảng đã hứa giúp đỡ
phong trào cách mạng tại vùng đảo Đông Ấn, Đông Dương và Triều Tiên và không phụ thuộc
vào chính sách của Chính Phủ Trung Ương.ʺ Đây có lẽ là dấu hiệu về việc thành phần cánh tả
của Quốc Dân Đảng vẫn ít nhiều hợp tác với ĐCS Trung Quốc trong giai đoạn mùa xuân năm
1930.
Mặc dù những thảo luận từ tài liệu của Sở Liêm Phóng đã không liên hệ trực tiếp đến Ban Bí
Thư của Liên Đoàn Cộng Sản của Các Dân Tộc bị Áp Bức Đông Nam Á nhưng báo cáo của họ đã
đưa ra những trích dẫn rằng cuộc họp của Đoàn Thanh Niên Cộng sản đã xác nhận sự hiện hữu
của ban bí thư trên. Hội nghị này cũng có thể là một cuộc họp của Liên Đoàn Phản Đế thuộc
Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, được thành lập như là vỏ bọc cho những hoạt động ʺhợp pháp và
bán hợp phápʺ của họ. Phân Bộ Viễn Đông đã chú thích trong bức thư vào tháng 5 1930 rằng bắt
đầu từ năm 1930 đã có đến ba Liên Đoàn Phản Đế khác nhau tại Trung Quốc ‐ ʺLiên Đoàn mạnh
nhất và phổ biến nhấtʺ là của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, bức thư nhận định. (Họ nhận xét rằng
một trong ba tổ chức này, Liên Đoàn ʺViễn Đôngʺ ‐ do ĐCS Trung Quốc thành lập ‐ đã được thu
nhỏ vì nó chẳng qua chỉ là ʺmột dụng cụʺ). Phân Bộ Viễn Đông muốn khuyến khích ĐCS Trung
Quốc làm việc với tổ chức mà họ gọi là ʺLiên Đoàn Phản Đế Trung Quốcʺ đóng tại Thiên Tân
(Tian Jin ‐ ND) [85]. Phía sau sự nhận định ôn hoà dường như ẩn giấu một diễn biến đầy kịch
tính, nhưng qua những tài liệu của người Pháp ta có thể tìm được vài dấu vết của nhữnggì đã
xảy ra.
Ấn bản cuối cùng của tờ báo Thanh Niên phát hành tháng 5 1930 tường thuật rằng đã có một
Liên Đoàn Phản Đế mới của phương Đông đang bắt đầu ʺlên án những dối trá và thủ đoạn của
Quốc Dân Đảng Trung Quốcʺ. Hội nghị đầu tiên của Liên Đoàn vào tháng 4 1930 có những đại
diện từ Ấn Độ, Triều Tiên, Java, Đài Loan, Đông Dương, Trung Quốc và những quốc gia phương
đông khác tham dự. Bản tường thuật đề cập đến việc ra đời vào năm 1928 của Liên Hiệp các Dân
Tộc Phương Đông bị Áp Bức như là ʺmột sự ngụy biện nhằm tách rời các phong trào cách mạng
châu Á khỏi QTCSʺ [86]. Có thể là Hồ Chí Minh đã tham dự hội nghị tháng 4 này. Trong giai
đoạn này, những học giả Nga tin rằng Phân Bộ Viễn Đông đang gặp khó khăn trong việc thu
thập thông tin về những gì đang xảy ra trong nội bộ của ĐCS Trung Quốc; cũng cùng lúc ấy, họ
cho rằng sự e ngại bị qui chụp cho những sai lầm thiên hữu đã làm cho cách nhân viên của Phân
Bộ Viễn Đông ʺcực kỳ cẩn trọngʺ trong việc báo cáo hoặc phê bình những biểu hiện mà họ cho là
thiên tả trong chính sách của ĐCS Trung Quốc [87]. Đây có thể là nguyên nhân vì sao các nhân
viên của Phân Bộ Viễn Đông đã không nỗ lực mấy trong việc kêu gọi ĐCS Trung Quốc chấm dứt
hoặc cắt đứt liên hệ của mình khỏi một trong những Liên Đoàn Phản Đế trên, tức là Liên Đoàn
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 143 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

được thành lập vào khoảng tháng 7 ‐ 8 1928. Như chúng ta đã thấy, nguồn gốc của tổ chức này
dường như là một hình thức hợp tác giữa phong trào Quốc Dân Đảng cánh Tả và ĐCS Trung
Quốc.
Những báo cáo của Sở Liêm Phóng từ mùa xuân 1930 thì bị lẫn lộn và đôi khi mâu thuẫn nhau.
Một mặt, vào tháng 3 một mật thám của họ tại Hồng Kông là Neron đã báo cáo rằng Nguyễn Ái
Quốc đã mất khá nhiều ảnh hưởng đối với QTCS sau khi Stalin củng cố quyền lực [88]. Nhưng
vào tháng 9 1930 Sở Liêm Phóng lại đưa ra một nhận định mới. Đến lúc đó họ đã đi đến kết luận
Hồ/Quốc chính là người đại diện của QTCS đã xuất hiện vào tháng 12 1929 với đủ quyền hành
để ʺkiểm tra... những tổ chức cộng sản tại khu vực Viễn Đôngʺ [89]. Sự thay đổi quan điểm về
vai trò của Hồ có thể đã phản ánh từ quyết định của Phân Bộ Viễn Đông nhằm tham gia tích cực
hơn trong việc đối chọi lại ảnh hưởng của Lý Lập Tam. Trên thực tế, dường như Hồ Chí Minh đã
đảm trách thêm những nhiệm vụ mà lúc đầu được giao cho Thibault, kiểm soát viên của QTCS
(người đã được đề cập ở trên và được Phân Bộ Viễn Đông gọi là ʺngười đồng chí đến hỗ trợ
Nam Dươngʺ), khi người này đã không quay về lại Thượng Hải từ chuyến đi đến Đông Dương.
Theo tài liệu của Nga, quyền lực của Hồ dường như đã bị Phân Bộ Viễn Đông ở Thượng Hải
phân tán trong khoảng tháng 3 và 4 1930 và có lẽ đã không được nhiều như quyền hạn mà
Thibault được giao phó.
Đến tháng 4 1930 quan hệ giữa Phân Bộ Viễn Đông và Lý Lập Tam đã đến hồi căng thẳng nhất.
Ngày 17 tháng 4 Lý viết thư cho Chu Ân Lai và Cù Thu Bạch (Qu Qiubai ‐ ND) (đang ở Moscow)
đề nghị QTCS tái tổ chức Phân Bộ Viễn Đông. Ông cho rằng những sai lầm của Phân Bộ Viễn
Đông là ʺnguy hiểm, mang đặc điểm hữu khuynhʺ và họ đang trong tình trạng ʺkhông có tư
cách lãnh đạo chính trịʺ [90]. Rõ ràng là Lý đã tin rằng ông sẽ được hậu thuẫn từ Stalin hoặc Mif
trong mối bất hoà này. Trong khi Moscow chần chừ không đưa ra dấu hiệu rõ ràng về thái độ
của mình đối với Phân Bộ Viễn Đông, Lý đã tiến hành những kế hoạch cho cuộc tổng khởi nghĩa.
Chính trong hoàn cảnh này Phân Bộ Viễn Đông đã quyết định sử dụng Hồ Chí Minh như là một
phái viên bí mật tại Xiêm và Mã Lai để giúp đỡ những người cộng sản địa phương thành lập
những đảng mới. Sự vội vã thành lập những tổ chức để thay thế những chi nhánh trực thuộc Uỷ
Ban Lâm Thời Nam Dương có thể phần nào là do mong muốn của Phân Bộ Viễn Đông nhằm
giới hạn ảnh hưởng của Lý Lập Tam và Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc [91]. Chỉ sau khi
mọi việc đã xong thì Eisler và Bespalov mới thông báo cho Ban Bí Thư Cục Đông Phương trong
một lá thư đề ngày 18 tháng 5 1930 rằng họ đã gửi Hồ đi Singapore để tham dự Đại Hội ĐCS Mã
Lai, và cũng giao cho ông nhiệm vụ tuyển chọn đại diện Mã Lai gửi đi tham dự Đại Hội Công
Đoàn Quốc Tế Đỏ lần thứ 5 sắp đến tại Moscow. Họ cũng báo cáo trong cùng bức thư rằng họ
vẫn chưa tìm ra phái viên người Pháp vừa đi Đông Dương, mặc dù họ những người cộng sản
Việt Nam đang đi tìm dấu tích của ông [92]. Bức thư không hề đề cập đến vai trò của Hồ tại
Xiêm.
Khó mà xác định được chính xác ngày tháng đi lại của Hồ. Cho đến nay Hoàng Văn Hoan vẫn là
nguồn tài liệu chủ yếu về giai đoạn này trong sự nghiệp của Hồ, Hoan cho rằng Hồ đến Bangkok
vào khoảng cuối tháng 2 1930. Theo lời Hoan thì sau khi thảo luận với những đồng chí Trung
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 144 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Quốc tại Bangkok, ông đến Udon để giải thích về chính sách của QTCS cho những Việt kiều tại
đây. Với sự ra đời của ĐCS Xiêm, những người cộng sản Việt Nam được cho là sẽ gia nhập đảng
này thay vì tham gia vào ĐCS Việt Nam. Nguyên tắc này cũng được áp dụng với những Hoa
kiều tại Xiêm. Hoan nói rằng sau cuộc họp tại Udon, Hồ quay về lại Bangkok để giám sát việc
thành lập ĐCS Xiêm vào ngày 20 tháng 4 [93].
Nhưng một báo cáo của ĐCS Xiêm gửi đến Moscow vào năm 1935 lại đưa ra một trình tự khác
hẳn [94]. Tài liệu này nói rằng vào tháng 6 1930 Ban Bí Thư Cục Đông Phương đã gửi một đại
diện đến Xiêm để thuyết phục Đảng Uỷ Xiêm (bao gồm toàn thành viên người Trung Quốc)
cùng với những người Việt tại vùng đông bắc nước này thành lập một ĐCS. Nhà cầm quyền
Anh đã giữ được một giấy thông hành có hình của Hồ, mang tên Sung Man Sho khi họ bắt giữ
ông vào tháng 5 1931. Thông hành này có giá trị 6 tháng, do Tổng Lãnh Sự Trung Hoa Dân Quốc
tại Eo Biển Malacca cấp ngày 28 tháng 4 1930. Thông hành viết rằng ông là công dân của Trung
Hoa Dân Quốc đi làm việc tại Xiêm [95]. Điều này cho thấy Hồ đã đi Bangkok vào cuối tháng 5,
sau khi tham dự Đại Hội Đại Biểu lần 3 của Uỷ Ban Lâm Thời Mã Lai tại Singapore. Nhưng mãi
cho đến tháng 9 1930, khi Hồ quay lại Hồng Kông thì quá trình hợp nhất của ĐCS Xiêm mới
hoàn thành với hai đảng viên người Việt nằm trong Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Xiêm. Vì thế Hồ
Chí Minh có thể đã đến Xiêm vào tháng 4 1930, như Hoàng Văn Hoan đã nói, nhưng nếu như
thế thì chuyến đi của ông đã không trùng hợp với thời điểm hợp nhất của ĐCS Xiêm.
Đại Hội Đại Biểu lần 3 của Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương được tổ chức cùng dịp kỷ niệm ngày 1
tháng 5 ở Singapore. Nhưng theo một bức thư gửi cho ʺEnglish Kompartyʺ tại London lại viết
rằng tại buổi họp ngày 29 tháng 4 nhằm chuẩn bị cho ngày Lao Động Quốc Tế, cả 11 đại biểu
tham dự đều bị bắt, trong đó có cả bí thư đảng, bí thư Liên Đoàn Lao Động và một thành viên
của Uỷ Ban Trung Ương. Bức thư này nói rằng vào ngày 21 tháng 5 ʺHội Nghị được triệu tậpʺ,
và ĐCS Mã Lai được thành lập vào ngày 24 tháng 5 [96]. Cuộc họp có 11 đại biểu tham dự không
kể những thành viên của Uỷ Ban Trung Ương và đại diện của Phân Bộ Viễn Đông. Bản tường
trình hội nghị mà có lẽ là do Hồ Chí Minh soạn thảo [97] cho thấy rằng Phân Bộ Viễn Đông hiện
đang kiềm chế ảnh hưởng của Lý Lập Tam và Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc tại Nam
Dương. Bản báo cáo này lên án Uỷ BAn Nam Dương về sai lầm manh động và thái độ vô trách
nhiệm đối với những kế hoạch nổi dậy.
Sau khi liệt kê ʺMười Yêu Cầu Lớn cho Cách Mạng Mã Laiʺ, bản báo cáo đưa ra một danh sách
dài về ʺNhững Sai Lầm và Bài Học về những Công Tác đã quaʺ. Sai lầm trước tiên là ʺthực hiện
một cuộc cách mạng Trung Quốc tại Mã Laiʺ: ʺCông tác đã được thực hiện theo cùng đường lối
của ĐCS Trung Quốc, xa rời cuộc sống thực tế tại Mã Lai, và đã bỏ qua những nhiệm vụ cơ bản
của cách mạng Mã Laiʺ. Đảng cũng đã lơ là trong công tác đối với nông dân và binh lính. Báo cáo
tiếp tục: ʺViệc phát triển tổ chức đã không những hướng về nhân dân Trung Quốc mà còn
hướng về chỉ một thành phần của nhân dân Trung Quốc (những người gốc Quảng Châu, Quảng
Đông]...ʺ Dưới tiêu đề ʺSai lầm manh độngʺ, bản báo cáo đã dẫn ra một loạt sai lầm trong đó có
ʺra lệnh và ép buộc đình côngʺ; ʺbất chấp cuộc nổi dậy và khủng bố cá nhân (ĐCS Mã Lai đã
tham dự vào việc cưỡng ép những công nhân đình công xem việc nổi dậy là một trò đùa ‐ một
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 145 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

lỗi lầm không thể bỏ qua]ʺ; ʺĐào thải các xí nghiệp và tịch thâu tài sản của các chủ xí nghiệpʺ; và
ʺđưa ra khẩu hiệu ʺnắm lấy quyền lực và thành lập công xãʺʺ. Tác giả đã mở rộng điểm cuối
cùng: ʺTrong khi ĐCS Mã Lai vẫn đang trong thời kỳ đầu thành lập, thiếu quần chúng chung
quanh đảng, nếu chúng ta đưa ra khẩu hiệu: chiếm lấy quyền lực và thành lập Sô Viết thì việc
này sẽ làm ta lơ là thực lực của địch, đánh giá quá cao thực lực của mình và bỏ rơi công tác
chung của Đảng là chiếm lấy quần chúng, tổ chức quần chúng và cuối cùng là chuẩn bị khởi
nghĩa vũ trang” [98] Điểm cuối cùng đã chỉ ra ʺmối liên hệ giữa ĐCS Mã Lai và các đảng anh
emʺ. Điều này chỉ ra thực tế là ĐCS Trung Quốc không có độc quyền chỉ dẫn ĐCS Mã Lai: ʺĐCS
Mã Lai, bên cạnh việc chịu sự điều phối của QTCS, hy vọng rằng các ĐCS Trung Quốc, Anh, Hà
Lan và Pháp thường xuyên giúp đỡ và hướng dẫn kinh nghiệm” [99] Tờ báo Police Journal (Tạp
Chí Cảnh Sát ‐ ND) của Eo Biển Malacca sau này đã viết rằng tài liệu tuyên truyền và hướng dẫn
từ ʺTrung Ươngʺ tại Thượng Hải đã giảm thiểu vào giữa năm 1930, sau Đại Hội Đại Biểu lần 3
[100].

Làn sóng cách mạng tại Việt Nam
Báo cáo của Phân Bộ Viễn Đông ngày 25 tháng 6 cho biết họ vừa được tin Hồ Chí Minh sẽ đến
Thượng Hải vào những ngày tới (họ nhẹ lòng vì ông đã không bị bắt tại cuộc ruồng bố tại
Singapore vào cuối tháng 4 khi họ nghe tin này qua báo chí Singapore [101] ). Chắc hẳn ông đã
quay lại Hồng Kông vào trung tuần tháng 6. Và ông cũng đã mất đi cơ hội chứng kiến làn sóng
đấu tranh đầu tiên của ĐCS Việt Nam trong năm 1930: hàng loạt những cuộc đình công và biểu
tình trong cả ba miền Việt Nam bắt đầu từ tháng 4 và đã dẫn đến hậu quả là rất nhiều người bị
bắt giữ vào đầu tháng 5. Như chúng ta cũng đã thấy tại Nam Kỳ, những hành động này, ít nhất
là tại các khu thành thị, đa phần được tổ chức bởi thành phần ĐDCSĐ còn lại trước Đại Hội Hợp
Nhất. Cả Ngô Gia Tự và Dương Hạc Đính đều bị bắt tại Sài Gòn vào cuối tháng 5. Trước ngày
Quốc Tế Lao Động 1 tháng 5 Hoàng Quốc Việt đã bị bắt tại Hải Phòng khi ông đến đây để hội ý
với Trần Phú. Nhiều nòng cốt của phong trào lao động phía bắc cũng đã vào tù cùng ông sau
ngày 1 tháng 5 [102].
Tổn thất của phong trào tại thành thị đã làm cho những người cộng sản Việt Nam tái chú tâm
vào phong trào tại vùng nông thôn. Điều mỉa mai là ngay sau khi Hồ đưa ra hành loạt chỉ trích
đối với ĐCS Mã Lai, một nhóm người trong Uỷ Ban Chấp Hành Lâm Thời Trung Ương tại Hà
Nội đã quyết định tiến hành nổi dậy tại Nghệ An và Hà Tĩnh, hai tỉnh thường được gọi chung là
ʺNghệ Tĩnhʺ. Tại một cuộc họp tại Hài Nội (theo tài liệu là vào tháng 6), Trần Phú, Nguyễn Thế
Rục, Trần Văn Lân, Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Phong Sắc (ba người cuối cùng từ thành phần
ĐDCSĐ nguyên thuỷ) đã đi đến quyết định trên [103]. Nguyễn Phong Sắc, một cựu giáo viên
của trường Thanh Long ở Hà Nội là một thành viên cốt cán được giao nhiệm vụ lãnh đạo Xứ Uỷ
Trung Kỳ. (Đồng đội của ông từ đảng Tân Việt cũ là Lê Mão đã ở lại Nghệ An khi cuộc họp xảy
ra). Những người tham dự đã cử Nguyễn Đức Cảnh ở Hải Phòng làm việc với Nguyễn Phong
Sắc để phát động phong trào Nghệ Tĩnh. Vì thế những thành viên chủ chốt hướng dẫn phong
trào Sô Viết Nghệ Tĩnh là những người miền bắc tương đối có học thức từng ở trong tầng phần
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 146 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

lãnh đạo của ĐDCSĐ. Trong những nằm 1950 và 1960, chính quyền Việt Nam đã ca ngợi vai trò
của Lê Viết Thuật, một công nhân người Bến Thuỷ đã trở thành người đứng đầu của Xứ Uỷ
Trung Kỳ vào tháng 4 1931 [104]. Nhưng đến năm 1957 nhà sử học của Hà Nội là Trần Huy Liệu
đã cho rằng Nguyễn Đức Cảnh chính là người trực tiếp lãnh đạo Sô Viết Nghệ Tĩnh [105]. Trần
Phú, một người thấm nhuần quan điểm cấp tiến của QTCS về ʺGiai Đoạn Thứ 3ʺ, có thể đã được
những đồng chí của mình vốn có nhiều kinh nghiệm hoạt động trong nước thuyết phục rằng
thời điểm hành động đã chín muồi. Nhưng cũng phải công nhận rằng chúng ta hiểu biết rất ít về
quyền hạn cũng như vị trí thực sự của ông trong đảng vào giai đoạn này. Cuộc họp đã đưa ra lời
kêu gọi các tầng lớp công nông binh ở Nghệ An tiếp tục cuộc kháng chiến và chuẩn bị đối phó
với sự đàn áp của đế quốc ‐ một do dự nhỏ nhất cũng tương đương với việc tiếp tay cho đế quốc
tiêu diệt mình, lời hiệu triệu viết [106].
Hồ Chí Minh dường như lúc này đã đạt được quyền hạn cao nhất của mình trong QTCS, ông đã
quay về lại Hồng Kông để đối phó với tình hình hiện đã vượt khỏi tầm ảnh hưởng của mình.
Mặc dù Huỳnh Kim Khánh (nhà sử học ‐ ND) đoán rằng Hồ có thể đã ʺđóng vai trò quan yếu
trong việc khởi xướng và chỉ đạo phong trào công xã nàyʺ, cơ sở cho quan điểm này là việc quy
nhận đầy nghi ngờ trong việc Hồ là tác giả của tài liệu về kháng chiến nông dân đã được thảo
luận trong phần Giới Thiệu của cuốn sách này [107]. Những thư từ và báo cáo của Hồ trong thời
kỳ 1930‐1 có chứa một chỉ thị về công tác hoạt động quân sự. Nhưng nội dung và văn phong của
tài liệu viết năm 1928 về hoạt động vũ trang trong tầng lớp nông dân thì rất khác biệt so với tài
liệu của Hồ viết năm 1930. Tài liệu 1930 là một bài viết tay dài 6 trang dường như đã lùi thời
điểm Hồ quay lại Hồng Kông và Thượng Hải vào tháng 6 vì nó đã đề cập đến một cuộc biểu tình
tại Chợ Lớn, sự kiện này có thể đã xảy ra trong hoặc sau mùa xuân 1930 [108]. Với tựa đề đơn
giản là ʺQuân Sựʺ, tài liệu này (phiên bản tiếng Anh) là một cố gắng để quân bình hiện tượng
quá trú trọng đến những vấn đề quân sự và việc lơ là chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang sắp
đến [109]. Ông khẳng định rõ rằng: ʺCông tác quân sự của đảng bao gồm: huấn luyện quân sự
cho đảng viên; phát động tuyên truyền trong hàng ngũ quân đội; thành lập lực lượng công nông
tự vệ.ʺ Ông lưu tâm phần lớn vào công tác ʺphát động tuyên truyền trong quân độiʺ. Những
người lính bản xứ là những người bị bắt lính từ làng quê và không nên xem họ là ʺlũ chó sănʺ
của đế quốc, ông nói. Tại một cuộc biểu tình tại Chợ Lớn, ông đã chỉ ra rằng những người nông
dân mắc phải sai lầm là đã lăng mạ binh lính thay vì nên ʺ tuyên truyền cho họʺ. Trong công tác
phát động tuyên truyền, ông nói ʺđảng phải nên tuyên truyền cương lĩnh ʺCách mạng tư sản dân
tộcʺ với những binh lính, và tận dụng lòng yêu nước để hướng họ đi theo phong trào cách mạng
của giai cấp công nhân và nông dân cũng như nhìn nhận vai trò lãnh đạo của đảng.ʺ
Đến tháng 6, Eisler đang bị cô lập tại Thượng Hải đã thất bại trong việc dung hoà những chính
sách của Lý Lập Tam mặc dù trên thực tế những cuộc biểu tình ngày 1 tháng 5 đã dẫn đến một
số lớn đảng viên bị bắt [110]. Hồ Chí Minh có thể đã lâm vào hoàn cảnh tương tự đối với đảng
của mình vì ông không quyền biểu quyết trong Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương. Dù thế, là một
người Bolshevik chân chính, ông đã phải chấp hành quyết định của đảng là phát triển phong
trào công nông Nghệ An. Một bức thư đề ngày 9 tháng 6 gửi đến những người Việt đang chiến
đấu trong lực lượng Hồng Quân Trung Quốc, yêu cầu họ quay về ʺMặt trận An Namʺ, có thể là
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 147 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

đã do ông viết. ʺCông việc của cách mạng Việt Nam giờ đây là công việc của chúng taʺ, lá thư
viết, ʺcông việc tại Trung Quốc không phải là nhiệm vụ của chúng tạʺ[111] Nhưng trong cùng
lúc ấy Lý Lập Tam đang hối thúc QTCS gửi những thành viên ngoại quốc từ ʺAnh, Pháp, Nhật,
Ấn và Đông Dươngʺ đến để thực hiện công tác tuyên truyền tại Trung Quốc cùng với những
thuỷ thủ ngoại quốc đang đóng tại đây. Ông nhấn mạnh rằng họ phải làm việc dưới sự chỉ đạo
của ĐCS Trung Quốc [112]. Vì thế đến tháng 6 một số đảng viên người Việt đã được bổ sung vào
công việc tuyên truyền quân sự tại Thượng Hải. Người tổ chức của ĐDCSĐ từ Bắc Kỳ là Đỗ
Ngọc Du, bí danh Phiếm Chu, nói rằng Hồ đã ra lệnh cho ông đến làm việc tại Thượng Hải vào
cuối tháng 3, sau khi ông trốn khỏi Hà Nội. Sau này ông đã khai với Sở Liêm Phóng rằng ông bắt
đầu biên tập các bài viết nhắm vào quân đội Pháp sau ngày 14 tháng 6 1930. Một người Việt khác
là Lưu Quốc Long có nhiệm vụ in ấn và phát hành những bản tin và bài viết. Tờ báo tiếng Pháp
mang tên Quân Đội (LʹArmée ‐ ND) bắt đầu xuất bản một tháng hai kỳ [113]. Một tờ báo tiếng
Việt tên Giác Ngộ do Lê Quảng Đạt (còn có tên Hoàng Cao], vợ của ông là Lý Phương Đức và
Nguyễn Lương Bằng đảm trách. Lê Quảng Đạt có nhiệm vụ liên lạc giữa Phân Bộ Viễn Đông và
Hồng Kông cũng như thu xếp đi lại cho những người Việt Nam đến Moscow và trở về [114].
Báo cáo của người Pháp cho biết thời gian từ ngày 1 tháng 5 đến 30 tháng 8 1930 là giai đoạn
biểu tình bất bạo động tại Việt Nam [115]. Trên thực tế đã có hai quá trình đang tiến hành vào
tháng 6 1930: một là việc thành lập cơ chế đảng dẫn đến việc lựa chọn đại biểu tham dự đại hội
toàn thể sắp tổ chức vào mùa thu; thứ hai, như đã nói ở trên, là việc chuẩn bị cho làn sóng hành
động trực tiếp lần hai tập trung vào phía bắc Trung Kỳ. Thật khó mà biết được hai quá trình này
được điều phối chặt chẽ như thế nào. Về công tác tổ chức đảng, lời khai của Ngô Đức Trì đã
dựng lên một bức tranh (thiếu hai miền còn lại của Việt Nam) về quá trình tái tổ chức đang diễn
ra tại miền nam sau khi Ngô Gia Tự bị bắt. Căn cứ trên lời khai của Trì, vai trò lãnh đạo của Ngô
Gia Tự đã không làm vừa lòng những đảng viên địa phương. ʺKể từ khi ĐDCSĐ và Ban Chấp
Hành Lâm Thời thành lập mọi công tác đều do các thành viên của uỷ ban này quyết định mà
không thông qua các thành viên của các chi bộ,ʺ ông giải thích. Ông bổ sung rằng: ʺKhông hề có
báo cáo về công việc của các chi bộ và điều này đã gây ra vài bất mãn.ʺ Những cuộc biểu tình
vào tháng 5 và đầu tháng 6 tại Sa Đéc, Vĩnh Long, Đức Hoà và Chợ Lớn thuộc Gia Định đã dẫn
đến nhiều thành viên bị bắt giữ và cái chết của Châu Văn Liêm ‐ sự kiện này cũng có thể đã làm
cho đảng bộ phía nam tái thẩm định chiến lược của mình [116]. Vào khoảng ngày 18 tháng 6
1930 một cuộc họp của Ban Chấp Hành Lâm Thời Nam Kỳ được tiến hành với đại biểu từ các địa
phương được mời đến để cho biết ý kiến. Ngô Đức Trì đã cùng Ung Văn Khiêm (Huân) và
Nguyễn Văn Sơn (Dũng) gia nhập Uỷ Ban trước khi hội nghị khai mạc [117]. Sau đó ông cũng
tham gia vào Uỷ Ban Lâm Thời Trung Ương. Trì khai trong suốt mùa hè ʺmột số đồng chí đã
muốn phát động các cuộc nổi dậy và thực hiện hoạt động khủng bố.ʺ Ban Chấp Hành Lâm Thời
đã phải triệu tập các chi uỷ lâm thời để yêu cầu họ huỷ bỏ những kế hoạc trên. Ban Chấp Hành
đã chỉ thị các tỉnh uỷ phải giải thích cho quần chúng biết rằng chủ trương ám sát mâu thuẫn với
nguyên tắc chủ đạo của chủ nghĩa cộng sản [118]. Có lẽ trong thú nhận này, Ngô Đức Trì đã tìm
cách rũ bỏ trách nhiệm về trách nhiệm về mình cho những bạo lực trong những năm 1930‐1,
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 148 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

nhưng một báo cáo năm 1931 mà ông gửi đến Moscow cho thấy rằng ông đã đánh giá thấp
những kết quả hoạt động của đảng (xem chú thích 149).
Tại miền Bắc và Trung Việt Nam, dường như đảng đã có một phương hướng khác. Trên nguyên
tắc Trần Phú đã nắm giữ nhiều quyền hạn trong cơ cấu đảng khi ông tham gia Uỷ Ban Lâm Thời
Trung Ương vào mùa hè, sau khi Nguyễn Hội bị bắt. Khi Trịnh Đình Cửu rời bỏ chức vụ trong
Uỷ Ban Thường Vụ để gia nhập Xứ Uỷ Bắc Kỳ, Trần Phú cũng đã đảm đương chức vụ cũ của
Cửu [119]. Nhưng trên thực tế, đảng uỷ phía bắc đã hoạt động tương đối độc lập, theo những
báo cáo sau này của QTCS. Ví dụ như trong một lá thư không đề ngày được viết sau ngày 4
tháng 4 1931, Phân Bộ Viễn Đông đã chỉ thị rằng ʺvấn đề chủ trương phân lập cần phải được xoá
sạchʺ [120]. (Những chủ trương này dường như đã xuất hiện vào mùa thu trước, như sẽ thảo
luận dưới đây). Sau khi Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương được đổi thành một tổ chức của các đảng
cộng sản của các nước, Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc đã không giữ vai trò trực tiếp
chính thức tại Đông Nam Á. Cho đến nay ta hoàn toàn không thể biết được chương trình hành
động của Lý Lập Tam về ʺcao trào cách mạngʺ cho Trung Quốc đã có ảnh hưởng như thế nào đế
những sự kiện xảy ra tại Việt Nam. Nhưng có dấu hiệu cho thấy rằng đã có sự tương quan nào
đấy giữa những thời điểm chuẩn bị và hành động trên cả hai quốc gia.
Tại Trung Quốc việc chuẩn bị của Lý cho những khởi nghĩa vũ trang trong tháng 8 và 9 1930 đã
được tiến hành từ hàng loạt các hội nghị được tổ chức từ đầu tháng 6 đến ngày 6 tháng 8. Vào
ngày 11 tháng 6 Bộ Chính Trị ĐCS Trung Quốc đã thông qua một nghị quyết kêu gọi Liên Bang
Sô Viết và ʺquần chúng lao động thế giớiʺ ủng hộ cuộc cách mạng Trung Quốc. Họ tuyên bố rất
rõ rằng cách mạng Trung Quốc đã trở thành trọng tâm của cách mạng thế giới [121]. Đạo Quân
số 3 của ĐCS đã thực hiện thành công một cuộc tấn công chớp nhoáng tại Trường Sa (Chang Sha
‐ ND) vào ngày 28 tháng 7. Vào ngày 6 tháng 8 ʺUỷ Ban Hành Động Trung Ươngʺ của Lý Lập
Tam kêu gọi tổ chức cách mạng và nổi dậy ngay lập tức tại Vũ Hán (Wu Han ‐ ND), Bắc Kinh,
Thiên Tân (Tian Jin ‐ ND), Cáp Nhĩ Tân (Harbin ‐ ND) và các thành phố khác (Phân Bộ Viễn
Đông đã trả lời bằng một bức điện tín yêu cầu ʺtriệu tập ngay lập tứcʺ Lý Lập Tam về Moscow
[122] ). Một cuộc tấn công thứ hai vào Trường Sa được tiến hành giữa ngày 24 tháng 8 và 12
tháng 9. Trong thời gian này Moscow đã giữ một thái độ không dứt khoát đối với những hành
động của Lý, để mặc Phân Bộ Viễn Đông tiếp tục những nỗ lực của mình nhằm kiềm chế đường
hướng phiêu lưu của Lý. Một trong những đại diện mới của Phân Bộ Viễn Đông là vị đại biểu
của Công Đoàn Quốc Tế Đỏ S.Stoyar, còn biết đến dưới những bí danh ʺJackʺ hoặc ʺLeonʺ, đã
viết cho lãnh đạo Công Đoàn là Lozovsky vào ngày 5 tháng 8 yêu cầu hậu thuẫn Eisler. Ông than
phiền rằng Lý Lập Tam đang huy động tất cả các thành viên nòng cốt chống lại QTCS [123].
Điều lý thú là cao trào cách mạng mà Lý đang phát động đã xảy ra cùng lúc với cuộc nội chiến
toàn cục bên trong Quốc Dân Đảng Trung Quốc diễn ra từ ngày 5 tháng 4 đến đầu tháng 11
[124]. Trần Công Bác và những người ʺTái Tổ Chứcʺ với căn cứ mới tại Bắc Kinh đã đóng vai trò
chính yếu trong cuộc xung đột này. Rất có thể là Lý Lập Tam đang trông chờ vào chiến thắng tất
yếu của họ.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 149 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Tại Việt Nam, theo sau cuộc họp tháng 6 của Ban Chấp Hành Lâm Thời tại Hà Nội, các tỉnh uỷ
Nghệ An và Hà Tĩnh đã được thành lập vào tháng 7. Tại Nghệ An chi bộ đảng được thành lập
đến cấp xã [125]. Làn sóng hoạt động thứ hai tại Nghệ Tĩnh đã dẫn đến sự tan rã của chính
quyền địa phương và dựng nên Sô Viết đã bắt đầu vào ngày 29 tháng 8 và đạt đến đỉnh cao vào
ngày 11 ‐ 12 tháng 9 (vào ngày 12 tháng 9 nông dân các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn và Tân An cũng
đã biểu tình [126]). Ở một số nơi, huyện đường bị đốt trụi và quan nha đã giao nộp ấn triện cho
dân làng; những hương chức xã hoặc là theo quân khởi nghĩa hoặc bị giết [127]. Quân Pháp đã
ném bom vào đoàn biểu tình đang đổ về Vinh vào ngày 12 tháng 9 làm chết trên 120 người. Trần
Huy Liệu giải thích rằng ngày hôm ấy đã có phối hợp các cuộc biểu tình trên khắp vài huyện.
Những sự kiện này được nhắc đến tuần tự trong các báo cáo của Pháp cũng như của Trần Huy
Liệu [128]. Điều đáng lưu ý là ngày 12 tháng 9 sau này đã được kỷ niệm như là ngày thành lập
phong trào Sô Viết Nghệ Tĩnh và cũng được ĐCS Trung Quốc tưởng nhớ như là ngày kỷ niệm
của cuộc Khởi Nghĩa Trung Thu 1927 [129].
Không còn nghi ngờ gì về việc những nông dân địa phương, bị đè nặng bởi quá nhiều loại sưu
thuế, đã rất hăng hái đấu tranh chống lại người Pháp và quan lại địa phương. Nhưng luận điểm
cho rằng hành động của họ đã phát sinh hoặc bị lôi kéo bởi một số kẻ kích động thì khó mà chấp
nhận được, căn cứ theo quan điểm kế hoạch do ĐCS Việt Nam thực hiện cũng như hướng dẫn
kích động mà những người cộng sản đã nhận được từ Moscow. James Scott (giáo sư khoa học
chính trị Yale ‐ ND) cho rằng ʺtrong khi đảng có thể đã giúp kết nối những cuộc biểu tình ban
đầu, nhưng họ đã không cần phải chỉ ra những đối tượng làm nông dân căm phẫn” [130] Nhưng
chính những chiến lược mà ông đề cập đến đã dấy lên từ ʺnhững đau khổ tột cùng của những
nông dân miền quêʺ ‐ những đòi hỏi chấm dứt sưu thuế (hoặc hoãn trả thuế) và ʺchính sách thâu
tô của những địa chủ các vựa lúaʺ ‐ là những điều mà những nhà tổ chức phong trào nông dân
đã thụ huấn từ Học Viện Nông Dân Bành Bái từ những năm 1920. Những hoạt động tháng 9 tại
Nghệ Tĩnh, thường là đốt huyện đường và tiêu huỷ sổ sách về điền địa và sưu thuế, đã được tiếp
thu từ những phương pháp được sử dụng trong phong trào Sô Viết Hải‐Lục‐Phong [131]. Ta có
thể kết luận rằng thay vì đi theo phong trào nông dân, những người cộng sản đã tạo ra những
phương pháp tổ chức phù hợp với tình hình địa phương, ít nhất là trong một thời gian
ngắn[132]. Ta cũng có thể kết luận rằng những hành động của Lý Lập Tam ở Trung Quốc đã
phần nào tác động đến các sự kiện tại Nghệ Tĩnh. Khởi nghĩa Nghệ Tĩnh cũng có thể đã xảy ra
dưới một tình trạng không có sự liên quan của QTCS hoặc đã đi ngoài mong muốn của ĐCS
Trung Quốc nhằm thúc đẩy bước tiến của cách mạng Trung Quốc và thế giới. Dù thế, nó đã
không thể xảy tra với tình trạng như thế nếu không có sự lãnh đạo của những người cộng sản.
Nó đã không thể xảy ra vào thời điểm ấy nếu không có một chương trình hành động nào đấy.

Hội Nghị Trung Ương tháng 10 và việc Trần Phú củng cố quyền lực
Đảng Cộng Sản vừa thành lập của Việt Nam đã không thể hợp nhất hàng ngũ lãnh đạo trên toàn
quốc mãi cho đến hội nghị Uỷ Ban Trung Ương lần thứ nhất tổ chức tại Hồng Kông vào tháng 10
1930. Trong thời gian giữa chuyến đi Thượng Hải vào tháng 6 đến hội nghị tháng 10, Hồ Chí
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 150 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Minh dường như đã định vị công việc của mình như là một trung gian giữa các đảng Mã Lai,
Xiêm và Việt Nam. Trong giai đoạn từ 23 tháng 7 đến 2 tháng 9, ông nói rằng đã gửi cho Phân Bộ
Viễn Đông sáu bức thư. Trong số này, chỉ có bức thư ngày 2 tháng 9 là nằm trong văn khố của
QTCS. Trong thư ông đã giải thích rằng vào ngày 13 tháng 8 ông đã bị một cơn lao phổi, một thứ
bệnh mà ông tường thuật là ʺđau phổi và nôn ra máu, vô cùng yếu đuối và mệt mỏiʺ [133]. Ông
cũng liệt kê những chi tiết hoạch định sẽ được đưa ra trong cuộc họp của Uỷ Ban Trung Ương
sắp đến: ʺ(a) Tự phê bình những việc đã qua; (b) dự định tiếp tục hoạt động cho đến khi hội
nghị; (c) chuẩn bị cho hội nghị; và (d) chuẩn bị gửi học viên.ʺ Rõ ràng là ông đã không nhận thấy
trước rằng hội nghị tháng 10 sẽ liên quan đến sự chuyển hướng quan trọng của đảng. Trong
cùng bức thư ông có nhắc đến việc mình vừa hoàn thành công việc ʺbình dân hoáʺ một cuốn
sách mang tên Nhật Ký Chìm Tàu. Ông nói mình phải bỏ ra 8 ngày để viết và gần một tháng để
in được 20 ấn bản [134]. Đây là một chuyện ngụ ngôn về ba thuỷ thủ, một người Pháp, một
người Phi và một người Việt bị đắm thuyền và được một chiếc tàu Sô Viết cứu sống. Họ được
đưa đến Moscow và được chăm lo sức khoẻ, được đào tạo tại một học viện cộng sản và đối xử
đàng hoàng, không như trước đây khi họ còn là lao công của Pháp. Người thuỷ thủ Việt Nam ấn
tượng với ʺsức hút mạnh mẽ kỳ lạʺ của học thuyết về chủ nghĩa thực dân của Lenin ʺvề những
người đã bị tước đoạt tổ quốcʺ [135]. Việc Hồ bỏ cả tháng để soạn thảo cuốn sách này có lẽ ngoài
lòng tự hào của một nhà văn, ông đang muốn bày tỏ lòng trung thành của mình đối với Moscow
vào thời điểm mà ĐCS Trung Quốc đang đi theo con đường mà người Nga cho là chống đối lại
QTCS.
Dù sao Hồ vẫn giữ được mối quan hệ có lẽ là tốt đẹp với ĐCS Trung Quốc. Ông đã báo cáo với
Phân Bộ Viễn Đông vào ngày 22 tháng 9 rằng ông đã thỉnh ý kiến của Phân Bộ Miền Nam Trung
Quốc về việc ĐCS Việt Nam nên lựa chọn chiến lược nào để đối phó với ʺcuộc khủng bố Trắngʺ,
một biện pháp đàn áp mà người Pháp đang sử dụng chống lại nông dân Nghệ An. Ông đã báo
cáo rằng vào ngày 19 tháng 9, ba thành viên của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Việt Nam đã đến
Hồng Kông tham dự hội nghị Uỷ Ban Trung Ương và đã trình một báo cáo về những sự kiện tại
Việt Nam. Vì thời gian để hội ý với Phân Bộ Viễn Đông kéo dài quá lâu (một bức thư ʺnhanhʺ từ
Thượng Hải đến Hồng Kông lúc ấy phải mất 15 ngày mới đến][136], các thành viên Uỷ Ban
Trung Ương và Hồ đã thảo luận với những người Trung Quốc để quyết định những bước tới
của ĐCS Việt Nam. Bản tường thuật mang tính ngoại giao của Hồ về cuộc thảo luận này nói rằng
Trung Quốc đồng ý với quyết định của ĐCS Việt Nam về việc quyên góp tiền bạc cho các nạn
nhân và tổ chức một phong trào phản đối trên toàn quốc. Cả nhóm cũng đã quyết định bắt đầu
thổ chức lực lượng ʺnông dân tự vệʺ, củng cố hoạt động của đảng trong hàng ngũ công nhân và
tuyên truyền đối với binh lính [137].
Ngô Đức Trì đã đưa ra nhiều chi tiết hơn về việc gặp gỡ hai thành viên Trung Quốc từ Phân Bộ
Miền Nam mà ông nói là bao gồm Hồ, Hồ Tùng Mậu, Trương Văn Lềnh, người bạn trong Uỷ
Ban Trung Ương của ông là ʺSáuʺ (Nguyễn Trọng Nhã, còn có tên là Nguyễn Trọng Nhât, một
cựu sinh viên từ Hà Tĩnh [138]) và ông. (Những thành viên khác của Uỷ Ban Trung Ương đã
chưa đến hội nghị). Những người Trung Quốc cho rằng những cuộc biểu tình đánh dấu bước
khởi đầu của ʺphong trào nổi dậyʺ là một điều tốt. Nhưng Hồ Tùng Mậu đã trả lời rằng việc nổi
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 151 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

dậy đang đem đến ʺnhiều thất bại hơn thành côngʺ, mặc dù không có tổn thất gì khi tiếp tục
những cuộc biểu tình. Hồ tin rằng không thể nào tổ chức được một cuộc tổng khởi nghĩa, nhưng
ở các làng xã nông dân có thể dựng lên công xã và thực hiện chính sách phân chia ruộng đất.
Ngô Đức Trì cho rằng ông là người phản đối quyết liệt nhất chủ trương nổi dậy tại Nghệ Tĩnh.
ʺPhong trào cách mạng chỉ vừa mới thành hình... chủ trương nổi dậy là sai lầm; nó sẽ không
mang lại giá trị gì cho phong trào cách mạng ngoại trừ bom đạn và thất bại. ĐCS Trung Quốc
kêu gọi khởi nghĩa, nhưng... những gì có thể ở Trung Quốc không hẳn luôn có thể tại Đông
Dương. Việc thành lập Sô Viết và phân chia ruộng đất mà không có hậu thuẫn của một cuộc nổi
dậy thì không thể nào thực hiện được,ʺ Trì khai là đã phát biểu như thế. Trong số những người
Việt, chỉ có ʺSáuʺ là hoàn toàn đồng ý với những người Trung Quốc [139].
Đại biểu người Hoa của Uỷ Ban Trung Ương từ Sài Gòn là A Lầu đã không tham gia vào cuộc
thảo luận. Nhưng có thể ông đã đóng góp trong phần báo cáo của đảng về Nam Kỳ ‐ Cam Bốt
mà Hồ đã gửi cho Phân Bộ Viễn Đông vào ngày 22 tháng 9. Vào thời điểm này ĐCS Trung Quốc
ở miền nam có vẽ đã chính thức hợp nhất với người Việt. (Nhưng trong năm 1931 một báo cáo
từ Sài Gòn lại một lần nữa đề cập rằng chi bộ Nam Kỳ ‐ Cam Bốt là một thành phần hoàn toàn
riêng biệt với ĐDCSĐ [140]). Tại Campuchia, đảng đã có 120 thành viên người Trung Quốc và 4
người Việt, với 300 thành viên Trung Quốc trong các nghiệp đoàn lao động. Tại Nam Kỳ đảng
cho thấy sự lớn mạnh với 70 thành viên Trung Quốc và 400 người Việt, tăng 350 người Việt kể từ
tháng 2 1930. Có 500 thành viên trong các nghiệp đoàn lao động (tính chung mọi chủng tộc) và
13.500 thành viên trong các nông hội [141].
Hai thành viên còn lại của Uỷ Ban Trung Ương là Trần Phú và Lê Mão đã đến Hồng Kông vào
ngày 2 tháng 10, trước khi những thành viên miền nam không thể chờ đợi được nữa và định
quay trở về. (Một thành viên thứ ba là cựu đảng viên cuả ĐDCSĐ là Trần Văn Lan bị trễ hẹn và
đã phải đợi tại một khách sạn trong suốt cả tháng 10. Không biết là có phải ông đã nhận được
địa chỉ không chính xác hay không). Nguyễn Phong Sắc, một thành viên vắng mặt khác thì đang
quá bận bịu với phong trào Nghệ Tĩnh đã không tham dự. Ngô Đức Trì bị đau ruột thừa ngay
trước ngày hội nghị và do đó phải nằm tại bệnh viện trong suốt hai tuần. Mặc dù ít nhất một học
giả Việt Nam đã cố gắng chứng minh rằng Hồ cũng đã vắng mặt trong hội nghị tháng 10 nhưng
tài liệu của QTCS đã cho thấy không phải vậy [142]. Vào ngày 28 tháng 10 Hồ đã viết một trong
những báo cáo ít tin tức nhất về quá trình này. Bên cạnh việc thống kê những số lượng đảng viên
trong những tổ chức khác nhau (giờ đã lên đến 1.740 đảng viên, trong đó có 190 người Trung
Quốc], ông đã liệt kê những hạng mục và nghị quyết đã được thảo luận, chú thích rằng những
tài liệu này chưa được chuyển ngữ. Báo cáo về chi tiêu của ông cho thấy tổng số chi phí cho việc
đi lại, ăn ở trong thời gian hội nghị chiếm hết 440 đô‐la Hồng Kông. Cuối cùng ông hỏi: ʺXin hãy
gọi điện cho chúng tôi ngay bởi vì chúng tôi phải quay về lập tức sau khi gặp ông” [143] Điều
này cho thấy ông thực sự đã đi cùng Trần Phú đến Thượng Hải để báo cáo với Phân Bộ Viễn
Đông sau đại hội.
Đối với những ai tìm cách chứng minh Hồ Chí Minh luôn là ngọn đèn dẫn đường của ĐCS Việt
Nam thì việc ông vắng mặt tại Hồng Kông trong lúc ấy khá là tiện lợi. Bởi vì tại hội nghị tháng
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 152 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

10 này ông đã bị mất quyền hành của một người chuyển giao chính sách của QTCS đến Việt
Nam. Chính cương cho ĐCS Việt Nam vào tháng 2 1930 do ông soạn thảo đã bị thay thế bằng
một Luận Cương Chính Trị mới và các nghị quyết hợp với đường hướng hiện tại của QTCS.
Như ta đã thấy, việc này đòi hỏi đảng phải phát triển thành một tổ chức giai cấp. Hai nhiệm vụ
của đảng là cách mạng chống đế quốc và chống phong kiến giờ đây đã trở thành việc giải phóng
giai cấp công nhân tại thành thị lẫn nông thôn. Cho đến năm 1931 tư tưởng này đã gây nên việc
thanh trừng nhiều người trung lưu yêu nước trong đảng, tách rời họ ra khỏi phong trào cách
mạng. Trong cùng lúc ấy, hội nghị đã phê bình cuộc khởi nghĩa tháng 9 tại Nghệ An. Một thông
tư được gọi là Văn Kiện Đảng viết vào tháng 10 đã phê phán ʺXứ Uỷ Trung Kỳʺ. Thông tư nói
rằng: ʺVào thời điểm hiện tại với hiện tình đất nước, mức độ chuẩn bị của tầng lớp vô sảnvà
quần chúng bị bóc lột tại thành thị và nông thôn, mức độ chuẩn bị của đảng và sức mạnh của
địch, những cuộc khởi nghĩa riêng rẽ tại một vài nơi là manh động và sai lầm” [144] Vào cuối hội
nghị, những đại biểu đã quyết định thành lập Uỷ Ban Trung Ương tại Sài Gòn. Trần Phú được
bầu làm bí thư Uỷ Ban Trung Ương, với Ngô Đức Trì và Nguyễn Trọng Nhã là uỷ viên trong Uỷ
Ban Thường Vụ. Nguyễn Phong Sắc và Trần Văn Lan vẫn giữ chức uỷ viên Uỷ Ban Trung Ương.
Thành viên người Trung Quốc là A Lầu đã quyết định ở lại Hồng Kông để làm việc với ĐCS
Trung Quốc vì ông từng là học viên của Hoàng Phố [145].
Theo lời của Ngô Đức Trì thì sau hội nghị, Hồ và Trần Phú cùng đi Thượng Hải để báo cáo với
Phân Bộ Viễn Đông. Khi Trần Phú quay lại Hồng Kông vào ngày 20 tháng 11, ông đã đem theo
một bức thư ngắn của Hồ, Ngô Đức Trì nói. Bức thư nhìn nhận rằng quá trình hợp nhất đảng đã
được thực hiện vội vàng và đã có những thiếu sót về phương hướng vì đã thiếu thông tin từ
trong nước. Hồ cũng đã đồng ý việc đổi tên đảng thành Đảng Cộng Sản Đông Dương [146]. Một
thông tư đề ngày 9 tháng 12 cho các đảng uỷ công bố việc Hồ nhìn nhận những sai lầm của
mình. Thông tư đã lưu ý rằng đã không có một xứ uỷ nào thực hiện chỉ thị của QTCS được gửi
cho họ vào tháng 2 và tháng 3 193; trên thực tế, những chỉ thị này đã được ʺtiếp thu một cách
lạnh nhạtʺ. Các đảng viên đã không biết được rằng ʺngười đồng chí kêu gọi Hội Nghị Hợp Nhất
đã được QTCS gửi về nước hoạt động mà không có một hướng dẫn cụ thể nào... ông đã tự mình
khởi xướng và đã mắc phải hàng loạt sai lầm... Đồng chí này đã nhìn nhận sai lầm của mình và
đã đồng ý sửa chữaʺ [147]. Thông tư này cũng đã chỉ ra việc cần phải xem tất cả địa chủ là một
ʺgiai cấpʺ. Đối nghịch lại với chính cương tháng 2 của Hội Nghị Hợp Nhất, bản thông tư khẳng
định rằng tất cả các địa chủ là kẻ thù của nông dân và quyền lợi của họ ʺliên quan mật thiết với
quyền lợi của đế quốcʺ [148].
Đến cuối tháng 1 1931, mặc dù những làn sóng biểu tình mới đang xảy ra tại Hà Tĩnh và Quảng
Ngãi, Ngô Đức Trì đã viết cho Moscow rằng ʺcuộc khủng bố đẫm máu đang ảnh hưởng đến tinh
thần quần chúng và làm cho hoạt động của chúng tôi thêm khó khănʺ. Đến tháng 10 1930, ông
ghi chú, trong số 90 đảng viên tại Hải Phòng đã có 17 người bị bắt, 10 người khác đã bỏ trốn, và
45 người đã bỏ đảng vì sợ bị đàn áp. Đến tháng 12 1930, số lượng đảng viên đã tăng lên 93 đảng
viên nhờ những thành viên mới được kết nạp, nhưng số lượng thành viên công đoàn đã giảm từ
99 vào tháng 10 xuống còn 67 vào trong tháng 12 [149]. Trong khu vực mỏ than Hồng Gai, Cẩm
Phả và Hà Tu, nơi có hàng nghìn công nhân mỏ, ông viết: ʺChúng tôi chỉ có 29 đồng chíʺ [150].
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 153 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Đảng đã không thể thâm nhập vào các đồn điền kể từ sau cuộc nổi dậy ở Phú Riềng, và tại khu
vực nông thôn, nơi việc đàn áp đặc biệt dữ dội, các nông hội ʺđã bị phá huỷʺ [151]. Trong phần
tái bút ông nói thêm rằng Uỷ Ban Trung Ương đã bắt đầu thiết lập liên lạc với Thượng Hải
nhưng hiện tại hệ thống này làm việc rất tồi tệ. Có thể là việc Phân Bộ Miền Nam của ĐCS Trung
Quốc bị cảnh sát Anh tại Hồng Kông khám phá vào tháng 12/1930 đã làm gián đoạn hệ thống
liên lạc vốn đã chậm giữa Hồng Kông và Thượng Hải. Theo báo cáo của người Anh vào năm
1932, phân bộ ʺđang sống trong tình trạng hấp hối, như một cơ quan chuyển giao và thông dịch
tin tức của Phân Bộ Viễn Đông, với một nhân viên là Nguen[sic] Ai Quac, một người Cộng Sản
An Namʺ [152].
Tình trạng thảm hại này dường như đã ảnh hưởng đến quan hệ giữa Uỷ Ban Trung Ương và Hồ.
Vào ngày 12 tháng 2 ông đã chuyển một bức thư (mà ông đã dịch sang tiếng Anh) của Uỷ Ban
Trung Ương Việt Nam đến Phân Bộ Viễn Đông. Lá thư mở đầu: ʺQuan điểm của QTCS về bản
thảo nghị quyết của chúng tôi là gì? Có thư từ gì cho chúng tôi không? Nếu không thì đặt văn
phòng tại Hồng Kông để làm gì. Ít nhất QTCS cũng nên gửi thư cho chúng tôi. [...] Nếu các đồng
chí không thể giúp chúng tôi liên lạc với QTCS và Cục Đông Phương thì các đồng chí làm gì ở
đây?ʺ[153] Những chỉ thị và hậu thuẫn mà Đảng Cộng Sản Đông Dương mới đang mong muốn
đã mất quá nhiều thời gian để đến Việt Nam. Không hẳn là lỗi của Hồ khi Phân Bộ Viễn Đông
chậm trả lời những yêu sách của họ. Trong một bức thư gửi cho Phân Bộ Viễn Đông vào tháng 2,
Hồ đã nhấn mạnh vai trò tế nhị của tầng lớp lãnh đạo trong Uỷ Ban Trung Ương và tầm quan
trọng của việc củng cố quyền lực của họ. Lý do mà ʺnhững giám đốc mới trong công ty Đông
Dươngʺ đang vô cùng nôn nóng trông chờ những bức thư mà các ông đã hứa, ông nói, là vì ʺhọ
vừa đặt chân đến trong nước và họ vẫn chưa có được những ảnh hưởng cần thiết đối với những
người dưới quyền đã ở trong công ty lâu hơn” [154]. Nhưng Phân Bộ Viễn Đông chỉ giỏi trong
việc đưa ra những chỉ thị chung và phê bình những báo cáo nhận được hơn là giải quyết những
khó khăn (trong mùa đông năm 1931 họ cũng đã hoàn toàn bận rộn trong việc khống chế ảnh
hưởng của Lý Lập Tam]. Họ đã viết cho Hồ vào ngày 12 tháng 1 hứa hẹn là sẽ sớm có ʺmột tài
liệu đầy đủ và chi tiết hơnʺ kèm theo các chỉ thị, nhưng nó đã không thành hình mãi cho đến
cuối tháng 3. [155] Bức thư ngày 12 tháng 1 của Phân Bộ Viễn Đông cũng đã phê bình công việc
báo cáo của Hồ và bỏ qua thực tế là có thể ông đã phải thay đổi địa chỉ và hình thức thông tin
sau khi Phân Bộ Miền Nam của ĐCS Trung Quốc bị khám phá. ʺChúng tôi thấy liên lạc của đồng
chí với những nơi khác dường như không đầy đủ và không chấp nhận được. ... Hơn nữa thông
tin về cuộc Khủng Bố Trắng thì quá ʺkhô khanʺ (chỉ đề cập là bao nhiêu người bị bắt]; điều quan
trọng là cần phải biết họ bị bắt khi đang làm gì, vì sao họ bị bắt, vân vân” [156] Cũng trong cùng
bức thư này, Phân Bộ Viễn Đông đòi hỏi cần có thêm những cuộc biểu tình: ngày 25 tháng 2 là
ʺNgày Thất Nghiệpʺ, được đánh dấu bởi ʺsự vận động quần chúng rộng rãi nhất có thể được
trong các công xưởng và nhà máyʺ.
Dường như Hồ đã báo với Phân Bộ Viễn Đông về dự định cưới vợ của mình trong khoảng mùa
đông. Phân Bộ Viễn Đông nhắc nhở ông trong bức thư ngày 12 tháng 1 rằng ông phải báo cho họ
biết trước hai tháng ngày cưới của ông. Vì bức thư này đã không dùng mật mã dưới dạng công
ty thương mãi, ta có thể cho rằng họ thực sự đang nói về việc Hồ lấy vợ. Trong tháng 2 ông có đề
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 154 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

cập đến việc vợ mình đang bận rộn chuẩn bị Tết và dự định mở tiệc đón khách từ Sài Gòn và Bắc
Kỳ, do đó có thể là ông đã tảng lờ yêu cầu của Phân Bộ Viễn Đông hoặc là thư của họ đến quá
trễ. [157] Từ tài liệu QTCS khác trong giai đoạn 1934 và 1935, chúng ta biết được rằng vợ của ông
rõ ràng là Nguyễn Thị Minh Khai, cựu thành viên đảng Tân Việt ở Vinh được giao nhiệm vụ làm
việc tại Hồng Kông sau khi đảng hợp nhất. [158] Sau này bà được giao nhiệm vụ làm việc với
ĐCS Trung Quốc. Việc Hồ và bà có còn giữ quan hệ vợ chồng sau khi hai người bị bắt vào tháng
4 và tháng 6 1931 thì không rõ. (Nguồn hồ sơ của người Pháp về Nguyễn Thị Minh Khai làm ta
tin rằng bà đã có nhiều quan hệ với những đồng chí nam giới trong khoảng 1930 đến 1940. Ví dụ
như vào năm 1932, Sở Liêm Phóng tin rằng bà là tình nhân của Trần Ngọc Danh, em trai Trần
Phú. Vào năm 1933 họ đã giữ được một bức thư của bà viết từ Hồng Kông, dường như để từ
chối việc cầu hôn của một người nào đó, trong đó bà tuyên bố ʺTôi không còn ám ảnh chuyện
hôn nhân hoặc làm mẹ... Người chồng duy nhất của tôi là cuộc Cách Mạng Cộng Sảnʺ [159].
Nhưng cho đến cuối năm 1934, khi bà đến Moscow, bà lại viết rằng bà đã có chồng là ʺLinʺ, bí
danh của Hồ lúc ấy [160]. Ở Việt Nam, tiểu sử về bà viết rằng bà đã lấy Lê Hồng Phong tại
Moscow vào năm 1935, nhưng hiện tại không có một bằng chứng gì về cuộc hôn nhân này [161])
Hội nghị tháng 3 và sự chấm dứt của ʺcao trào cách mạngʺ
Đến ngày 12 tháng 3 1931, khi Hội Nghị Toàn Thể lần 2 bắt đầu tại Sài Gòn, quan hệ giữa Uỷ Ban
Trung Ương và Hồ Chí Minh đã suy giảm đến mức ông đã phải nhanh chóng yêu cầu được từ
bỏ nhiệm vụ của mình tại Hồng Kông. Một trong những đề mục trong chương trình nghị sự của
Hội Nghị tháng 3 là ʺvấn đề Hồ Chí Minhʺ. Theo Ngô Đức Trì thì những người cầm đầu tại
Trung Kỳ và Bắc Kỳ đã than phiền rằng Hồ liên tục yêu cầu họ phải tường trình cho Phân Bộ
Viễn Đông tại Thượng Hải những báo cáo mà Thường Vụ Uỷ Ban Trung Ương có trách nhiệm
soạn thảo. Hội nghị đã quyết định viết thư yêu cầu Hồ nên chấm dứt việc đòi hỏi những báo cáo
này; khi cần thiết, Uỷ Ban Trung Ương sẽ gửi báo cáo cho Phân Bộ Viễn Đông qua ngõ Hồng
Kông, và sẽ yêu cầu Hồ chỉ đơn giản là chuyển giúp cho họ [162]. Vào tháng 4, Trần Phú đã viết
thư thông báo cho Phân Bộ Viễn Đông rằng họ không nên tiếp tục dùng Hồ làm người trung
gian vì ʺông ta quá vắn tắt và đôi khi chỉ thị cho chúng tôi những ý kiến cá nhân của mình mà
không thông qua các đồng chíʺ [163].
Hồ phản hồi những phê bình trên trong một bức thư gửi cho Uỷ Ban Trung Ương ngày 23 tháng
4 nói rằng ông thấy vô ích khi chỉ đóng vai trò của một trạm đưa thư đơn thuần. Ông giải thích:
ʺTôi biết hoàn cảnh khó khăn và Uỷ Ban Trung Ương có rất nhiều việc phải làm. Nhưng ʺhọʺ cần
phải hiểu rõ tình thế của chúng ta, và đó là lý do tại sao chúng tôi đã yêu cầu các văn bản báo
cáo từ các đảng uỷ địa phươngʺ [164]. Vào cuối tháng 3 Phân Bộ Viễn Đông tìm cách thuyết phục
ông ở lại Hồng Kông với lý do là việc giữ liên lạc với Thượng Hải sẽ không dễ dàng hơn cho
ông. Họ đã trấn an ông rằng, ʺBản thân đồng chí vô cùng quí giá và trên hết là sự cần thiết mà
chúng ta đã thảo luận vào tháng 11 trước. Chúng tôi đã xác định nhiệm vụ của đồng chí như sau:
(1) giữ vững các liên lạc mật thiết nhất có thể được với những đảng uỷ trong nước; (2) báo cáo
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 155 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

với chúng tôi mọi việc tại nơi sinh hoạt của đồng chí; (3) chuẩn bị và giáo dục đảng trong những
cuộc đấu tranh tương laiʺ [165].
Kiểm soát viên QTCS là Joseph Ducroux đã gặp Hồ vào tháng 3 và tháng 4 khi trên các chuyến
đi và rời khỏi Việt Nam, nơi ông đã tổ chức một số cuộc họp với Trần Phú và Ngô Đức Trì. Ông
đã không hé lộ nhiều về mối căng thẳng giữa Hồ và Uỷ Ban Trung Ương trong một bức thư viết
sau khi gặp Hồ vào tháng 4. Nhưng ông đã lưu ý rằng Hồ cảm thấy bị cô lập và đề nghị Phân Bộ
Viễn Đông nên củng cố sự chỉ đạo của mình và ʺsự hậu thuẫn vững chắcʺ mà họ đã dành cho Hồ
và ʺnhững người bạn trong nướcʺ của ông. [166] Ducroux cũng đã báo cáo rằng giới lãnh đạo
trung ương của Đảng Cộng Sản Đông Dương ʺcuối cùng đã được mọi người công nhận và có
thực quyền, mặc dù có một vài chủ trương liên bang nhỏʺ. Dù thế những chủ trương này lại rất
mạnh ở miền bắc đến độ tại hội nghị, Uỷ Ban Trung Ương đã quyết định thay thế bộ phần lãnh
đạo ở đấy. Cả lời khai của Ngô Đức Trì lẫn thư từ liên lạc giữa Ducroux và Trần Phú đã cho thấy
một thành viên của Xứ Uỷ Bắc Kỳ trong khi được giao nhiệm vụ chuyển ngữ bức thư của QTCS
ʺNhững Nhiệm Vụ Cấp Bách của Cộng Sản Đông Dươngʺ đã thêm vào một lời mở đầu rằng Đệ
Tam Quốc Tế đã không hiểu được tình hình tại Đông Dương. Nhân vật phản kháng này, được
nhận diện là ʺKyʺ, đã giữ được ảnh hưởng của mình trong hàng ngũ lãnh đạo phía bắc, ngay cả
khi đã bị đưa ra khỏi chức vụ của mình và đã tìm cách thành lập một thành phần đối lập. [167]
Một bức thư của Phân Bộ Viễn Đông được viết sau hội nghị tháng 3 đã lặp lại rằng ĐCS Đông
Dương phải chống lại những ʺphần tử tại các tỉnh phía bắcʺ đã cho rằng QTCS không thấu hiểu
được hiện tình của Đông Dương. ʺNhững lập luận này đã được dùng trước đây bởi Lý Lập Tam,
người đã không thực hiện những chỉ thị của QTCS và đã dẫn đến những thiệt hại to lớn của tổ
chức tại đâyʺ [168].
Hồ Chí Minh đã đứng ở vị trí nào trong mối mâu thuẫn về đường lối của QTCS là một vấn đề
phức tạp. Chúng ta có thể giả định từ mối quan hệ tốt đẹp của ông với Phân Bộ Viễn Đông, báo
cáo của ông từ Mã Lai vào năm 1930 cũng như từ bức thư của ông trong tháng 4 1931 rằng ông
đã không mong muốn dính líu đến việc phản đối lại Moscow. Nhưng vị thế của ông đã có thể bị
suy yếu từ việc Mif đang cố gắng nắm lấy Phân Bộ Viễn Đông vào mùa thu 1930. Theo quan
điểm của Trần Phú, việc Hồ thất bại trong việc đưa ra một chính sách giai cấp rõ rệt trong nội bộ
đảng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự mất đoàn kết trong đảng. Trong bức
thư ngày 17 tháng 4 1931 ông đã buộc Hồ chịu trách nhiệm về những tàn dư của ʺnhững tổ chức
cách mạng cũʺ bên trong đảng Việt Nam. Ông cho rằng ʺnhững tháng qua cho thấy rằng tất cả
những thành phần tư tưởng thuộc những nhóm cách mạng cũ đã kết hợp thành một thành phần
chống lại phương hướng mới về chính sách thống nhất tư tưởng và hành động của đảng.ʺ Hội
nghị hợp nhất vào tháng 2 1930 đã bị thấm nhuần tư tưởng của những tổ chức cách mạng cũ,
ông nói. Tư tưởng này bao gồm việc thừa nhận những địa chủ bậc tiểu và trung cũng như thành
phần tư sản quốc gia là một bộ phận của cách mạng. Ông giải thích: ʺKết quả của ʺhội nghị hợp
nhấtʺ này đã chứa đựng rất rõ dấu vết của giai đoạn hợp tác giữa Quốc Dân Đảng và ĐCS Trung
Quốc, đặc biệt là chính sách hữu khuynh của ĐCS Trung Quốc từ 1925 đến 1927ʺ [169].
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 156 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Việc thúc đẩy chủ trương giai cấp của Trần Phú với uy thế của Stalin có thể đã mang lại một hậu
quả ngoài ý muốn. Nỗ lực áp đặt một ʺđường hướng giai cấpʺ của ông tại Hội Nghị tháng 3 1931
có thể đã dẫn đến một giai đoạn mới của chủ nghĩa cực đoan tại Trung Kỳ vào mùa xuân 1931.
Những quyết định được đưa ra trong phiên hội nghị tháng 3 kéo dài 2 tuần thường được cho là
đã phê bình nghiêm khắc những ʺkhuynh hướng thiên tảʺ trong nội bộ đảng của những người
như Ngô Vĩnh Long [170]. Có lẽ chính xác hơn thì đây là sự thay thế một chủ trương cực đoan
bằng một chủ trương cực đoan khác. Trong khi hội nghị đã không lên án khủng bố cá nhân và
cách sử dụng bạo lực đầy hấp tấp, nó đã kêu gọi củng cố tính chất giai cấp của ĐCS Đông
Dương. Bản nghị quyết viết: ʺMột trong những nguy hiểm lớn nhất là việc các đảng viên vẫn
chưa hiểu rõ về vị trí của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng và những nhiệm vụ của
đảngʺ[171]. Những nhiệm vụ tổ chức đầu tiên phải được thực hiện là: giải pháp cho cuộc khủng
hoảng trong hàng ngũ lãnh đạo tại Bắc Kỳ và đẩy mạnh vị thế của Uỷ Ban Trung Ương tại miền
trung và miền nam. Cần thiết phải từng bước một thay thế các đại diện của thành phần trí thức
và bảo thủ trong những bộ phận lãnh đạo bằng tầng lớp công nhân hoặc bần nông [172]. Đảng
được giao nhiệm vụ điều tra những hội nông dân và loại bỏ những thành phần không dính líu
đến giai cấp nông dân; đưa những đại biểu bần nông và người lao động thành thị nghèo khó
nhất vào hàng ngũ lãnh đạo. Cuộc đấu tranh giai cấp tại nông thôn cần được mở rộng và ảnh
hưởng của chủ nghĩa quốc gia cần được loại bỏ [173]. Tổ chức phụ nữ không còn chỉ chú trọng
vào ʺphụ nữ nói chungʺ mà cần được thực hiện chỉ trong tầng lớp phụ nữ lao động. Hội Phụ Nữ
Giải Phóng phải bị giải tán tức thì [174].
Một hệ quả của nghị quyết về giai cấp dường như là sự thanh trừng của Đảng Uỷ Trung Kỳ vào
tháng 4. Một lần nữa, đã có một sự nhầm lẫn về nguyên do của việc thanh trừng này. Nguyễn
Duy Trinh đã miêu tả nó như là việc loại bỏ những thành viên ʺđã mắc những sai lầm thiên tả
nghiêm trọngʺ [175]. Nhưng Trần Huy Liệu lại nhắc đến một thông tư đề ngày 29 tháng 4 1931
từ Xứ Uỷ Trung Kỳ trong đó kêu gọi bài xích những thành phần trí thức, phú nông, địa chủ và
thân hào [176]. Thuật ngữ này nhắc lại khẩu hiệu nổi tiếng trong thời điểm mạnh mẽ nhất của
phong trào Nghệ Tĩnh: ʺTrí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễʺ. Trần Huy Liệu viết rằng
khẩu hiệu mang tính chia rẽ như thế đã giúp cho người Pháp lôi kéo được một phần khá lớn
trong dân chúng vào thời điểm mà sự đàn áp của Pháp đang lên cao. Khi Thông Tư ngày 29
tháng 4 được ban hành, Lê Viết Thuật đã được tín nhiệm để nắm quyền lãnh đạo Xứ Uỷ Trung
Kỳ, theo lời Nguyễn Duy Trinh. Cả Nguyễn Đức Cảnh và Lê Mão đều bị bắt giữ vào ngày 9
tháng 4; Lê Viết Thuật có lẽ cũng nằm chung số phận vào ngày 1 tháng 5, trong khi Nguyễn
Phong Sắc bị người Pháp bắt vào ngày 3 tháng 5 1931 [177].
Việc loại bỏ giai cấp tư sản có lẽ đã được toan tính như là một cuộc thanh trừng bất bạo động.
Nhưng nó đã chuyển thành một quá trình tìm vật tế thần khi người Pháp đưa thêm quân vào
Vinh và nạn đói lan rộng. Tài liệu của toà án Pháp cho thấy tại Hà Tĩnh, bắt đầu từ tháng 11 1930
và trong suốt nửa đầu 1931, những người bị tình nghi là gián điệp và dân làng bị tố cáo ngăn cản
phong trào Sô Viết đã bị ám sát bằng nhiều biện pháp [178]. Một người phản đối đảng đã bị trói
và thả trôi sông cùng với vợ và con; một kẻ trộm lúa và khoai đã bị chôn sống; một người bị tình
nghi là chỉ điểm đã bị đánh chết. Ta không biết rõ rằng những việc này có nằm trong chủ trương
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 157 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

thanh trừng mà Trần Huy Liệu nhắc đến hay không. Trong hoàn cảnh nguy hiểm ngày càng
tăng đối với những đảng viên, một ʺkẻ thù giai cấpʺ bị loại bỏ khỏi chức vụ lãnh đạo trong đảngsẽ tự động biến thành kẻ bị tình nghi phản bội.
Theo tài liệu trong Văn Kiện Đảng, một chỉ thị do Uỷ Ban Trung Ương ban hành vào ngày 20
tháng 5 1931 đến Xứ Uỷ Trung Kỳ kêu gọi chấm dứt việc thanh trừng. Tài liệu này nói rằng ʺXứ
Uỷ Trung Kỳ, cụ thể là bí thư xứ uỷ, đã đưa ra một chỉ thị loại bỏ khỏi đảng những trí thức, phú
nông, địa chủ và thân hào; chỉ thị này không có cơ sở, thiếu giải thích cặn kẻ, độc đoán và cẩu
thảʺ [179]. Xứ Uỷ Trung Kỳ được chỉ đạo phải tự kiểm điểm với thái độ nghiêm khắc nhất và sửa
chữa những sai lầm của mình. Điều kỳ lạ là trong bài viết của Trần Huy Liệu năm 1957 đã không
thấy nhắc đến chỉ thị này. Như ta đã thấy, Nguyễn Duy Trinh, tự nhận rằng đã trực tiếp chứng
kiến những sự kiện này và đã tham dự cuộc họp của Xứ Uỷ Trung Kỳ vào tháng 4 đã đặt thời
điểm sửa chữa những sai lầm tả khuynh vào khoảng tháng 4, khi trong thực tế thời kỳ bạo lực
hơn nữa của phong trào Sô Viết chỉ mới bắt đầu. Dường như đã có một khả năng khác là những
hành động mà trong thời gian 1935‐6 được cho là ʺsai lầm thiên tảʺ trên thực tế đã không được
sửa đổi trong năm 1931. Giai đoạn cực đoan này có thể chỉ đơn giản đã lắng dần khi cơ cấu đảng
bị phân tán.
Như ta đã biết được từ những bức thư cuối cùng của Trần Phú và Hồ Chí Minh gửi đến Phân Bộ
Viễn Đông (trước khi họ bị bắt], vào tháng 4 1931 và đầu tháng 5 1931 toàn bộ cơ cấu bên trên
cấp tỉnh của ĐCS Đông Dương đã bị phá huỷ vì những bắt bớ của Pháp. Ngô Đức Trì bị bắt vào
ngày 1 tháng 4, cùng với toàn bộ Xứ Uỷ Nam Kỳ. Vào ngày 15 tháng 4 cơ quan của Uỷ Ban
Trung Ương tại Sài Gòn bị khám phá, dẫn đến việc mất mát tất cả thư từ và 1.500 đô‐la do
Ducroux đưa sang để trang trải chi phí trong 3 tháng. Trần Phú thoát được nhờ đang đi vệ sinh
khi cuộc ruồng bố xảy ra [180]. Ông đã viết vào ngày 28 tháng 4: ʺMỗi ngày đều có bắt bớ.ʺ Các
tỉnh Thái Bình và Nam Định bị tấn công dữ dội làm liên lạc viên của họ bị bắt giữ và đã khai báo.
Cơ sở in ấn mới của Uỷ Ban Trung Ương bị khám phá và thêm vài đảng viên bị bắt. [181] Hồ đã
báo cáo việc Trần Phú bị bắt vào ngày 19 hoặc 20 tháng 4. Sau đó Hồ viết rằng chỉ còn sót lại một
công nhân trẻ trong ban bí thư. Tại Hồng Kông một trong những ʺđồng chí có nhiệm vụ thông
tinʺ là Nguyễn Thị Minh Khai đã bị bắt vào ngày 29 tháng 4.
Vì những bắt bớ rộng rãi ở trên, việc soạn thảo của chỉ thị ngày 20 tháng 5 1931 cho Xứ Uỷ Trung
Kỳ đã gặp khó khăn. Có phải Uỷ Ban Trung Ương đã ban hành một tài liệu như thế vào lúc ấy?
Có phải chính Hồ Chí Minh đã soạn thảo và gửi đến miền trung Việt Nam dưới danh nghĩa của
một Uỷ Ban Trung Ương đã không còn tồn tại? Có phải Hồ Chí Minh vẫn sẵn sàng khởi xướng
việc này trong khi QTCS đã hoàn toàn ủng hộ những chính sách do Trần Phú đưa ra? Nó có
được thực sự chấp nhận và thi hành tại Trung Kỳ? Bằng chứng duy nhất từ văn khố của Pháp về
vấn đề này là một thông tư dang dở do cảnh sát Hồng Kông tịch thu được từ máy đánh chữ của
Hồ Chí Minh khi ông bị bắt vào ngày 6 tháng 6. Chủ đề của tài liệu này là đường lối đúng đắng
để chống lại cuộc khủng bố của Pháp. Người Pháp cho tài liệu này là ʺkhông đáng quan tâmʺ
nhưng tin rằng nó cho thấy quyền lực của Hồ trong đảng [182].
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 158 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Theo bức thư từ Đức mà Phân Bộ Viễn Đông đã gửi đến Moscow vào ngày 10 tháng 6, dường
như họ đã quyết định đưa ra lời kêu gọi ʺđến toàn thể các thành viên trong đảngʺ trên danh
nghĩa của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương. Lời kêu gọi này có mục đích ʺkhẳng định rằng
đảng đang lập lại trật tự và bắt tay vào việcʺ [183]. Người viết, có thể là Rylski, đã không đưa ra
những chi tiết liên quan đến tài liệu này. Nhưng trong bức thư ngày 12 tháng 5 rõ ràng là gửi
cho Hồ, viết bằng tiếng Anh không nguyên thuỷ, người viết đã giao cho ông nhiệm vụ viết lời
kêu gọi đến đảng: ʺChúng tôi cho rằng cần có một bức thư do đồng chí viết, một bức thư ngỏ cho
tất cả các thành viên. Trong thư đồng chí nên nói về những nhiệm vụ của đảng đối với hoạt
động quần chúng, việc tổ chức những cuộc đấu tranh kinh tế của công nhân tại các đồn điền,
nhà máy, những công nhân nông nghiệp, việc tổ chức các nghiệp đoàn lao động, Liên Đoàn
Phản Đế, Uỷ Ban Nông Dân, Uỷ Ban Binh Lính, vân vân. Đồng chí nên nói về sự cần thiết phải
lãnh đạo và tổ chức những hoạt động tự phát của nông dân của các thành viên, vân vân. Đồng
chí nên cảnh báo đảng về hiểm hoạ của xu hướng manh động và nhất là cho thấy khả năng của
hiểm hoạ hữu khuynh đang dâng cao là một phản ứng đối với cuộc khủng bố trắngʺ [184]. Căn
cứ trên ngày tháng của hướng dẫn này, có khả năng là Hồ đã viết thư dưới danh nghĩa của Uỷ
Ban Trung Ương vào ngày 20 tháng 5. Cũng có thể là ông đã nhận ra rằng thông điệp mà Phân
Bộ Viễn Đông yêu cầu ông chuyển giao đã không còn hợp với thực tại. Có thể ông đã tự tay giải
quyết công việc và đã soạn thảo bản chỉ thị đã được tìm thấy trong Văn Kiện Đảng.
Chúng ta biết được suy nghĩ của Hồ trong tháng 4 từ những bức thư của ông. Vào ngày 28 tháng
4 ông than phiền với Phân Bộ Viễn Đông về trình độ học vấn của những đảng viên mới. Những
học viên được lựa chọn để đào tạo tại Moscow lẫn những đảng viên công nhân và nông dân đều
thất học, ông viết. ʺĐiều này có nghĩa là mặc dù họ dũng cảm và hi sinh, họ vẫn làm việc rất tồi,
tư tưởng và trình độ chính trị của họ rất thấp.ʺ Ông bổ xung: ʺHệ quả của việc thiếu trình độ
hoàn toàn này là công việc của các đồng chí gốc công nhân và nông dân hoàn toàn phụ thuộc
vào những thành viên trí thức.ʺ Trong cùng lúc ấy ông lưu ý rằng phần đông những trí thức Việt
Nam được gửi đi Moscow từ Pháp thì ʺkhông dùng đượcʺ. Họ bao gồm những con em được
nuông chiều của thành phần tư sản, ông than phiền [185]. Ông cũng lo lắng về chiến lược đang
được sử dụng để chống lại sự đàn áp của người Pháp. Trong khoảng ngày 12 đến 20 tháng 4 ông
ghi chú rằng đã có 65 nông dân đã bị giết trong những cuộc biểu tình. Quân đế quốc đã quyết
định ngăn chận phong trào bằng ʺthảm sátʺ, ông nói. ʺChúng ta nên đưa ra chương trình đấu
tranh cụ thể gì cho các đồng chí của mình? Nếu chúng ta để họ tiếp tục con đường này thì sẽ dẫn
đến hiểm hoạ manh động” [186] Điều mỉa mai là trong cùng bức thư ấy, ông đã đề cập đến việc
hãng tin Reuters vào ngày 25 tháng 4 đã đưa ra bản tin về việc ĐCS Đông Dương đã được QTCS
thừa nhận như là một ʺbộ phận độc lậpʺ. Nếu bản tin này là đúng, ông viết, ʺthì đây sẽ là một
khích lệ tinh thần rất lớn cho đảng và quần chúngʺ [187].
Uy tín của Hồ tại Việt Nam có thể vẫn còn tương đối lớn để ảnh hưởng đến hướng đi của ĐCS
Đông Dương trong giai đoạn này nếu ông đã không bị bắt vào đầu tháng 6. Nhưng tài liệu của
Trần Huy Liệu viết vào năm 1960 về giai đoạn mùa xuân 1931 đã không đưa ra ấn tượng rằng
Hồ thật sự có ảnh hưởng đến những tiến trình của các sự kiện: ʺPhong trào Sô Viết ở Nghệ An và
Hà Tĩnh, không những đã không lụi tắt mà còn tăng thêm cường độ và bạo lực trong những
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 159 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

tháng cuối. Máu đổ ngày càng nhiều. Khi chuyển đổi từ giai đoạn yêu sách kinh tế và chính trị
đến đấu tranh chống lại khủng bố trắng, những cuộc biểu tình ngày càng trở thành đấu tranh vũ
trangʺ [188]. Ta nghi ngờ rằng xét đoán của Liệu trong nhiều năm sau về những sự kiện trên là
không thể có được trong thời kỳ 1931. ʺCương lĩnh hành động năm 1930 đã phạm sai lầm về việc
kêu gọi lật đổ tầng lớp tư sản dân tộc cùng với chính quyền thực dân Pháp và giai cấp phong
kiến...Lẽ ra họ nên được lôi kéo vào hàng ngũ cách mạng dân chủ tư sản và không nên bị tách rời
một cách có hệ thống,ʺ ông viết. ʺTại nông thôn, những cuộc đấu tranh chống lại thành phần phú
nông, trung nông và hương lý và thân hào là những sai lầm nghiêm trọng đã làm mất đi uy tín
của cả phong trào và tạo điều kiện cho địch tuyên truyềnʺ [189].
Một báo cáo viên vô danh tại Sài Gòn trong năm 1931 khi viết về tình hình của Đông Dương đã
không đưa ra một dấu hiệu nào về việc ĐCS Đông Dương đang chỉnh sửa đường lối. (Người viết
nhân danh là một thành viên trong tổ đảng 4 người ở một kho hàng có đến 200 công nhân. Bản
báo cáo được QTCS đóng dấu ngày nhận vào tháng 6 1931). Vào lúc bản báo cáo được viết trong
nước đã có 2.400 đảng viên, trong đó có 600 người tại Nam Kỳ (không kể 200 thành viên người
Hoa của nhóm Nam Kỳ ‐ Cam Bốt]. Khi nhận định về ʺkhuynh hướng cơ hộiʺ, ông viết rằng
những thành phần cách mạng dân tộc đã gia nhập đảng sau hội nghị hợp nhất và những người
bị loại bỏ trong cuộc đấu tranh giai cấp đang ʺtìm cách tổ chức một cơ sở của Đảng Độc Lập tại
Nam Kỳʺ, (tức là đảng của Nguyễn Thế Truyền]. Còn có một tổ chức vô chính phủ vừa được
thành lập cũng như một nhóm Trotskyist đang hoạt động trong thành phần trí thức, và một
ʺLiên Đoàn Cộng Sảnʺ mới được thành lập của những đảng viên đã bị khai trừ. ĐCS Đông
Dương đang đấu tranh chống lại tất cả những xu hướng này ngoại từ nhóm chủ trương vô chính
phủ vì họ đã không còn hoạt động. Ông viết rằng 30 thành viên còn lại của Việt Nam Quốc Dân
Đảng ở phía nam đang sẵn sàng gia nhập ĐCS Đông Dương. Nhưng họ đã quyết định tổ chức
một ʺđêm hành động lớnʺ làm rung chuyển chính quyền đế quốc trước khi gia nhập đảng.
Những người cầm đầu đã bị bắt trước khi những kế hoạch được thực hiện, ông nói. [190] Như ta
thấy được trong bản báo cáo này, sự tan rã của phong trào cách mạng đang ở phía trước. Việc
Hồ Chí Minh trở lại vai trò lãnh đạo vẫn còn cần nhiều năm nữa trong tương lai.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 160 Diễn đàn www.x‐cafevn.org


CHƯƠNG 6: CHẾT Ở HỒNG KÔNG, CHÔN TẠI MOSCOW?
(1931‐8)


Tù nhân
Vào ngày 8 tháng 6 1931, Toàn Quyền René Robin tại Hà Nội đã đánh điện cho Bộ Trưởng Thuộc
Địa để thông báo về việc bắt giữ Hồ Chí Minh hai ngày trước đó [1]. Việc tìm được Hồ là nhờ đã
khám phá được cuốn sổ địa chỉ của Joseph Ducroux tại Singapore khi đại diện người Pháp này
bị bắt trong lúc đang trao đổi tài liệu với những người cộng sản địa phương. Bức điện của Robin
thông báo rằng việc bắt được Hồ là nhờ ʺsự phối hợp giữa Sở Liêm Phóng với cảnh sát Anh tại
Hồng Kông và Singapore cũng như cảnh sát tô giới Pháp tại Thượng Hải.ʺ Những kết hợp này
đã giúp Pháp bắt Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Huy Bon, người trở về từ Moscow, công nhân Phan
Đức Mau, từng tham gia Đại Hội Công Đoàn Quốc Tế Đỏ lần thứ 5 tại Moscow, và hầu hết
những thành viên cộng sản người Việt đang hoạt động tại Thượng Hải. (Nguyễn Thị Minh Khai,
bị bắt tại Hồng Kông vào ngày 29 tháng 4, đã bị dẫn độ về một nhà tù tại Quảng Châu vì họ ngỡ
rằng bà là người Trung Quốc. Ở đấy bà gặp Trương Văn Lềnh và ba người Việt Nam khác đã bị
bắt từ đầu năm 1931). Vợ của Hồ Tùng Mậu là Lý Phương Thuận (Lý Ung Thuân) cũng bị bắt
chung với Hồ. Tổn thất nặng nề nhất đối với những hoạt động của QTCS xảy ra vào ngày 10
tháng 6, khi đại diện của Cục Thông Tin Quốc Tế (Otdel Mezhdunarodnoi Svyazy hay OMS ‐
ND) là Hilaire Noulens và vợ của ông bị theo dõi qua một địa chỉ tìm được từ cuốn sổ của
Ducroux. Mặc dù trong nhiều năm trước người ta nghĩ họ là hai công dân Thụy Sĩ tên Paul và
Gertrude Ruegg, nhưng giờ họ được nhận diện là hai vợ chồng người Nga tên Jakov Rudnik và
Tatiana Moiseenko‐Velikhaya [2].
Bức điện của Robin chứa đầy nội dung tự ca ngợi. Việc bắt giữ ʺtoàn bộ giới lãnh đạo cộng sản
tại Việt Namʺ, trong đó có 9 người về từ Moscow và đa số những nhà hoạt động người Việt tại
Trung Quốc, là ʺthành quả của sự điều tra khéo léo do những ban ngành đầy khả năng thực
hiệnʺ, ông viết; ʺlàm cho chúng ta chiếm ưu thế hoàn toàn đối với tình hình chính trị.ʺ Nhưng
ông cũng không mong đợi việc dẫn độ Hồ Chí Minh về Đông Dương. Lãnh sự Pháp tại Hồng
Kông đã cảnh báo với ông rằng những người Việt bị bắt giữ tại Hồng Kông rất có thể sẽ được trả
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 161 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

tự do. Robin đề nghị giải pháp tốt nhất có thể là thuyết phục người Anh giam giữ Hồ tại những
vùng ʺthuộc địa xa xôiʺ như là một hành động trao đổi đối với những người cộng sản người Ấn
hoặc Miến Điện đã bị bắt trong khu vực của Pháp [3]. Đến cuối tháng 6 viên thám tử của Sở LiêmPhóng là Neron đang tìm cách chuyển giao số tiền thưởng cho những vụ bắt giữ trên (15 nghìn đô‐la cho Hồ và 10 nghìn đô‐la cho Hồ Tùng Mậu và mỗi nhà cách mạng bị bắt tại ThượngHải[4]). Nhưng phương pháp xét xử của Anh đã đi ngược lại với ý muốn của người Pháp.
Số phận của Hồ Chí Minh nằm trên hoàn cảnh của trát lệnh trục xuất được đưa ra tại Hồng
Kông. Neron tin rằng những tài liệu tìm được tại địa chỉ của Hồ được xem như bằng chứng để
trục xuất ông về Thượng Hải với tội danh tuyên truyền cộng sản. Không những người Anh đã
tìm được bức thông tư dang dở lên án đế quốc Pháp trên máy đánh chữ của Hồ, họ còn tìm đượcnhững bức thư cho thấy rằng ông đã đóng một vai trò quan trọng trong việc kích động phong trào cộng sản tại Mã Lai Á. Nhưng một số cố vấn pháp luật của Anh nhận định về vụ án nàytrong hồ sơ của Văn Phòng Thuộc Địa đã biện hộ rất mạnh mẽ cho quyền công dân của bị cáo.
Ông đã không hề vi phạm pháp luật tại Hồng Kông, và vì thế lý do duy nhất để trục xuất ông là
việc ông là một người cộng sản. Một luật sư là Walter Ellis đã viết rằng: ʺTôi thấy rằng chúng takhông thể bắt buộc ông ấy phải bị trục xuất về Đông Dương nhiều hơn là nếu chúng ta có cơ hộibắt buộc một cựu quan chức trong chính phủ Sa Hoàng phải bị trục xuất về một nước cộng hoàSô Viết.ʺ Ellis giải thích rằng nếu người Pháp có bằng chứng rằng Hồ đã vi phạm ʺmột tội có thểdẫn độ đượcʺ thì họ nên đưa ra một kháng án chính thức để dẫn độ ông [5].
Hồ đã không khai nhận bất cứ tên tuổi nào ngoài Tống Văn Sơ (Sung Man Cho ‐ ND), tên này
được ghi trong hộ chiếu Trung Quốc mà ông nhận được từ Singapore. Nhưng mâu thuẫn với
việc ông tự nhận mình là người Trung Quốc, ông đã sắm vai là một người quốc gia chiến đấu
cho nhà vua và đất nước với bản án tử hình đang chờ đợi ông tại Việt Nam. [6] Như Dennis
Duncanson (học giả người Anh ‐ ND) đã chỉ ra, lời khai báo mâu thuẫn này có thể là một chiến
thuật bào chữa do QTCS đề xướng [7]. Đến tháng 7 1931 ông đã có được cố vấn luật pháp rất tài
giỏi từ một nhóm luật sư do Frank Loseby dẫn đầu, rõ ràng đây là sự sắp đặt của tổ chức Trợ
Giúp Đỏ (International Red Aid, tổ chức cứu trợ của QTCS ‐ ND). Những luật sư của ông lập
luận rằng việc trục xuất ông về Thượng Hải cũng chẳng khác gì một cuộc dẫn độ trá hình về
Đông Dương [8]. (Trên thực tế Hồ Tùng Mậu và các đồng chí của mình đã bị trục xuất về
Thượng Hải vào cuối tháng 6 mà không có một sự nhận diện chính thức. Họ bị bắt lại tại tô giới
Pháp và bị đưa về Việt Nam [9]).
Chiến lược của bên bào chữa là đòi hỏi cho Hồ quyền lợi của một tù chính trị chiếu theo Sắc
Lệnh Trục Xuất trong đó cho phép ông được quyền chọn lựa điểm đi và điểm đến một cách bí
mật. Nếu quyền lợi này không được bảo đảm, bị cáo sẽ ʺphản kháng quá trình xét xử bằng mọi
hình thức và tiến trình có đượcʺ, luật sư Jenkin tuyên bố trước toà.
Nhờ đã vận dụng chiến lược này mà vụ án của Hồ đã kéo dài mãi cho đến tháng 1 / 1933. Việc
huy động toàn lực lượng cánh tả trên toàn thế giới để hậu thuẫn cho đôi vợ chồng bí ẩn Noulens
có lẽ đã làm mọi người quan tâm đến hoàn cảnh của Hồ nhiều hơn là nếu ông bị bắt một mình.
Tin tức báo chí cũng cho thấy ông cũng đã gây ấn tượng tốt tại toà bằng việc phát biểu bằng
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 162 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

tiếng Anh mà không cần phiên dịch và đã biểu lộ sự thành khẩn trong việc chứng minh rằng ông
mang tư tưởng quốc gia. Văn Phòng Thuộc Địa rõ ràng là cũng muốn giao ông cho người Pháp;
một quan chức gọi ông là ʺmột trong những kẻ kích động tồi tệ nhất đã bị bắt vào rọ trong cuộc
ruồng bố sau khi bắt được Lefranc (Ducroux)ʺ [11]. Sau khi toà án Anh bác bỏ yêu cầu bị cáo cóđược quyền Habeas Corpus (Quyền của bị cáo yêu cầu nhà chức trách đối chất với bị cáo trước
toà về việc bị bắt giữ có hợp pháp hay không ‐ ND), người Pháp càng tin tưởng rằng cuối cùng
họ sẽ có được người họ muốn. Ngày 24 tháng 8 1931 Sở Liêm Phóng tại Hà Nội đã đánh điện vào
Sài Gòn để thông báo rằng Hồ Chí Minh sẽ rời Hồng Kông vào ngày 1 tháng 9 trên chiếc tàu
General Metzinger đi Sài Gòn. Hai cảnh sát người Pháp được giao nhiệm vụ áp giải Hồ về Việt
Nam [12]. Nhưng chỉ vài ngày trước khi trục xuất, những luật sư của Hồ đã kháng án đến Uỷ
Ban Xét Xử thuộc Hội Đồng Cơ Mật tại London. Họ cho rằng lệnh trục xuất Hồ thì không có giá
trị dưới luật pháp Hồng Kông. Vì thế vào ngày 23 tháng 10 1931, Thư Ký Chính Phủ đã thông
báo rằng sẽ không có lệnh trục xuất cho đến khi họ biết được kết quả kháng án từ Hội Đồng Cơ
Mật [13]. Vì thời gian cần thiết để chuẩn bị cho những hồ sơ pháp lý, phiên toà phúc thẩm đã
không bắt đầu cho đến tháng 11 1932.
Trong lúc ấy Sở Liêm Phóng đã bắt đầu thúc giục Lâm Đức Thụ thu thập thông tin của những
người Việt bị bắt tại Quảng Châu, và có lẽ để liên lạc với Hồ. Sau khi Lý Phương Thuận (Lý Ung
Thuân) được phóng thích vào cuối tháng 8 1931 vì lý do bà là người Trung Quốc, bà đến ở tạm
với Thụ. Vào tháng 11 ʺđiệp viên Pinotʺ (tức Lâm Đức Thụ ‐ ND) báo rằng đã nhận được tin tức
từ Hồ yêu cầu trợ giúp trong việc trả tự do cho những người Việt bị bắt tại Hồng Kông cũng như
giúp đỡ thực hiện những công việc của đảng cho đến khi những nhà hoạt động mới từ Moscow
đến. Hồ đặc biệt mong mỏi Trương Văn Lềnh được phóng thích để nắm lấy việc vận hành đảng
tại Trung Quốc, theo lời Lâm Đức Thụ; có lẽ Hồ cũng đã lo lắng đến tình trạng của Nguyễn Thị
Minh Khai [14]. Thật là lạ lùng khi ông đã liên lạc với một người chỉ điểm lộ diện lúc này ‐ có lẽ
ông đã tin rằng Thụ không thể làm tổn hại gì hơn nữa với tình hình hoạt động của đảng đã bị
phá vỡ thảm hại. Những sự liên lạc này có lẽ đã dẫn đến việc Hồ bị phê bình về cách hành xử
của mình sau khi được thả ra. Nhưng những tiếp xúc này dường như không kéo dài được lâu.
Từ một báo cáo Thụ gửi vào ngày 16 tháng 5 1932 ta biết được rằng Thụ đã thu thập tin tức của
Hồ một cách gián tiếp qua văn phòng của Loseby.
Đến cuối năm 1931 Hồ Chí Minh được chuyển vào bệnh viện có canh gác. Vào tháng 12 Hoàng
Thân Cường Để gửi thư cho ông khi nghe tin ông đang bị bệnh nặng. Hoàng Thân đã gửi 300
Yên để trả viện phí cho ông và khuyên ông nên giữ gìn sức khoẻ ʺvì lợi ích của nước nhàʺ [15].
(Vào thời điểm này những người cộng sản Việt Nam như Lê Hồng Sơn vẫn giữ quan hệ với
Cường Để, có lẽ chỉ hoàn toàn vì lý do thực dụng và tài chính [16]). Việc Dennis Duncanson
khẳng định rằng Hồ không bị bệnh trong thời gian bị giam cầm rõ ràng là không chính xác [17].
Như chúng ta đã thấy, Hồ đã từng nói rằng ông bị bệnh lao phổi rất nặng vào tháng 9 1930; viên
lãnh sự Pháp tại Hồng Kông là Soulange Teissier vào năm 1932 đã xác nhận trong một bức thư
gửi cho bộ trưởng bộ ngoại giao rằng ông đã bị mắc chứng lao phổi trong tình trạng chậm phát
triển và có thể chữa được. Vào mùa hè 1932 tin tức báo chí về ʺmột người Việt Nam nhỏ bé, có
thân thể bị suy nhược vì lao lực và tinh thần của một lãnh tụʺ bắt đầu xuất hiện [18]. Sau này
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 163 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

truyền thông cộng sản đã loan báo rằng Hồ đã chết vì lao phổi vào tháng 8 1932 [19]. Nhưng
người Pháp đã không tin vào những báo cáo này. Lãnh sự quán của họ tại Hồng Kông đã cập
nhật cho nhà cầm quyền tại Hà Nội những bước đi của Hồ trong nỗ lực rời khỏi mảnh đất thuộc
địa của Anh [20].
Việc ra đi của ông cuối cùng đã xảy ra vào cuối tháng 1 / 1933, sau một lần bị đình chỉ. Ngày 27
tháng 6 1932 kháng cáo đến Hội Đồng Cơ Mật đã được rút lại khi luật sư của Hồ đồng ý với luật
sư của chính quyền Hồng Kông về những điều khoản mới trong việc trục xuất ông. Cuối cùng
Hồ được đưa lên một chiếc tàu đi Singapore và đã đến đây vào ngày 6 tháng 1 1933. Nhưng nhà
chức trách vùng eo biển Malacca đã không cho ông ở lại đây, vì thế ông đã bị gửi về lại Hồng
Kông và đã bị bắt lại khi vừa lên bờ vào ngày 19 tháng 1. Toàn quyền Hồng Kông là William
Peel quyết định không áp dụng án tù 1 năm dành cho những di dân bất hợp pháp; ông cũng
không chịu thông báo cho Teissier về chi tiết của chuyến khởi hành thứ hai của Hồ. [21] Lần này
Loseby đã thuyết phục chính quyền nên đóng vai trò tích cực hơn trong quá trình giúp đỡ Hồ đi
đến nơi mà ông tự quyền lựa chọn. Chính Peel đã giải thích trong thông điệp của mình rằng ông
đã thu xếp để Hồ đáp một ʺchiếc thuyền dân sựʺ để lên chiếc tàtàu An Huy đang bỏ neo ngoài
cảng Hồng Kông vào ngày 22 tháng 1 [22].

Lẩn trốn/những làn sóng cách mạng mới

Hồ đi Sán Đầu cùng với viên thư ký của Loseby dưới vỏ bọc là một người Trung Quốc giàu có
tên là Lung [23]. Vào thời điểm này của năm 1933 những người cộng sản Việt Nam vẫn chưa tái
lập liên lạc chính thức với ĐCS Trung Quốc và, theo điều lệ của nguyên tắc cách mạng, một đảng
viên vừa ra khỏi tù thì bị nghiêm cấm không được quay về những địa điểm mà người ấy thường
lui tới trước khi bị bắt. Vì vậy có lẽ Hồ vẫn phải tiếp tục giả dạng là một thương gia giàu có và ẩn
dật tại Sán Đầu cho đến tháng sau. Những người Việt vẫn còn lẩn trốn hoặc như Nguyễn Thị
Minh Khai, vừa được phóng thích, đã phải trải qua khoảng cuối năm 1932 và gần trọn năm 1933
tìm cách phục hồi mạng lưới liên lạc của họ. Điều cay đắng là những thành viên tín cẩn của Hồ
tại Hồng Kông như Lê Hồng Sơn và Minh Khai cũng như những người từ Moscow về như Trần
Ngọc Danh, em của Trần Phú, đã bị nghi ngờ khi tìm cách liên lạc với ĐCS Trung Quốc trong
năm 1932.
Một đảng viên người Việt vẫn còn giữ liên lạc với ĐCS Trung Quốc tại Thượng Hải là Trương
Phước Đạt, một thợ máy tàu gốc Phan Rang đã sớm gia nhập thành phần ĐDCSĐ tại Sài Gòn
vào năm 1929. Sau khi vượt ngục tại Sài Gòn và đến Hồng Kông vào năm 1931, ông được đảng
đề cử đi Nga để học tập. Nhưng ông và hai bạn đồng hành đã bị chặn lại tại biên giới Mãn Châu,
vì vậy ông đã phải quay về Thượng Hải. Tại đây uỷ ban quân sự tỉnh Giang Tô (Jiang Su ‐ ND)
thuộc ĐCS Trung Quốc đã giao cho ông nhiệm vụ tái lập liên lạc với những quân nhân người
Pháp và Việt Nam; những đầu mối này đã bị cắt đứt khi những tuyên truyền viên người Việt bị
bắt vào mùa hè 1931. Vì thế đến giữa năm 1932 Trương Phước Đạt được yêu cầu bảo đảm cho
những Việt đã đến Thượng Hải để xin ĐCS Trung Quốc giúp đỡ và trợ giúp tiền bạc. Trần Ngọc
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 164 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Danh yêu cầu ngân sách hỗ trợ cho công đoàn của những đầy tớ người Việt mà ông đã tổ chức
với những thành phần cũ của Thanh Niên tại Hồng Kông. Ông và Minh Khai tìm cách tái thiết
hệ thống liên lạc của ĐCS Đông Dương tại đây với sự giúp đỡ của một số thuỷ thủ. Một số báo
cáo của Pháp cho rằng lúc ấy bà đang là vợ lẽ của ông. Lê Hồng Sơn đang dự định quay về
Xiêm, nơi mà ông hy vọng sẽ tái tổ chức Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương. Những người
Việt qui tập về Thượng Hải quyết định gửi Đạt đi Xiêm để hoạt động cùng với Lê Hồng Sơn. Vì
không hài lòng với quyết định này, Trương Phước Đạt đã phá hoại những dự án của họ bằng
cách cáo buộc họ đã có những hành vi ʺtiểu tư sảnʺ (ví dụ như thuê khách sạn hiện đại có thang
máy) trong báo cáo của ông gửi cho Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc. Hơn thế nữa, ông đã
không nhìn nhận là có quen biết bất cứ ai trong họ trước khi họ đến Thượng Hải. Cuối cùng toán
người Việt với 5 thành viên đã phải cầm cố quần áo của mình để trả tiền khách sạn và chi phí
đến Nam Kinh (Nan Jing ‐ ND), nơi họ có thể dựa dẫm vào lòng hiếu khách của Hồ Học Lãm.
[24] Chúng ta không biết được rằng sự kiện này đã phản ánh mối căng thẳng liên tục giữa
những thành phần ĐDCSĐ và ANCSĐ cũ trong ĐCS hay đơn giản chỉ là một trường hợp hai
mang. Trần Ngọc Danh và Lê Hồng Sơn rốt cuộc bị bắt vào ngày 25 tháng 9 1932. Trương Phước
Đạt bị bắt vào tháng 4 1933. [25] Đến tháng 3 Minh Khai quay về Hồng Kông để liên lạc với
những người Việt tại Nam Kinh [26].
Một chỉ điểm cho Pháp tại Thái Lan nói rằng Hồ Chí Minh đã lẩn trốn tại khu vực Nakhon
Phanom từ đầu tháng 1 1933, nhưng sau này được tiết lộ là nhầm người. [27] Vào tháng 9 1933
một chỉ điểm cho Pháp khác nói rằng đã phát hiện Hồ đang sống tại Nam Ninh (Nan Ning ‐ ND)
cùng với một nhóm nhỏ người Việt. Mật vụ ʺMariaʺ nói rằng trong số 4 người Việt Nam đang
sống tại số 78 đường Cau Song Kai có một người giống với ảnh chụp Hồ Chí Minh. Người chỉ
điểm này cũng nhắc đến 3 phụ nữ cùng với hai bé gái và một bé trai cũng đang sống chung
trong ngôi nhà này. Hồ được cho là đang dùng tên Lý Sính Sáng (ngài Lý) [28].
Nhưng Lê Hồng Phong, trong gần trọn năm 1933 đang sống tại Nam Ninh và Long Châu, đã
không hề nhắc đến việc liên lạc với Hồ khi ông báo cáo cho QTCS vào tháng 1 1935. Phong đã dự
định lên mạn ngược dể gặp những cơ sở người Việt tại Xiêm khi ông đến Bangkok vào tháng 2
1932 trên đường về từ Moscow và Paris. Nhưng nhận thấy mình đang bị cảnh sát theo dõi chặt
chẽ, ông đã từ bỏ dự định này 10 ngày sau và đến tháng 4 ông đã đi đến Quảng Châu và Nam
Ninh. Nơi đây ông bắt đầu tái thiết chi uỷ đảng tại tỉnh biên giới Cao Bằng cũng như thành lập
những tổ đảng tại Lạng Sơn. Ông đã tuyên truyền những học viên tại học viên quân sự Nam
Ninh, nơi mà từ 1925 đã trở thành nguồn cung cấp thành viên cộng sản mới. Vào tháng 8 1933
ông đã gặp những người bạn học cũ là Hà Huy Tập và Nguyễn Văn Dựt tại Quảng Châu, và đến
tháng 6 1934 họ đã thành lập một Phân Bộ Hải Ngoại để quản lý những công việc của đảng cho
đến khi một Uỷ Ban Trung Ương quốc nội được thành lập [29].
Nếu Hồ Chí Minh đã lẩn trốn tại Nam Ninh, ta có thể chắc chắn rằng ông đã rời đi từ tháng 9. Vì
vào cuối tháng 9 1933 một người quen cũ của ông từ ĐCS Pháp là Paul Vaillant‐Couturier có mặt
tại Thượng Hải để tham gia Hội Nghị Phản Chiến Á Châu. Sau này Hồ đã nói rằng chính
Vaillant‐Couturier đã giúp ông quay về lại Moscow bằng cách cho ông gặp những đại diện Sô
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 165 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Viết ở Thượng Hải. [30] (Liên Bang Sô Viết đã tái lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào
cuối năm 1932; vị tân đại sứ đã đệ trình uỷ nhiệm thư tại Thượng Hải vào ngày 2 tháng 5 1933.]
Hội nghị trên đã được tổ chức bí mật tại một căn nhà riêng vào ngày 30 tháng 9. Đại diện người
Pháp này đã báo cáo rằng những người tham dự bao gồm Lord Marley, Vaillant‐Couturier, một
bác sĩ tên Marteaux, nhà báo người Mỹ Harold Isaacs, một đại diện Sô Viết và 50 người Trung
Quốc trong đó có bà Tôn Dật Tiên [31]. Một số nhân vật trên là thành viên cao cấp của Liên Đoàn
Phản Đế tại Berlin. Hồ Chí Minh có thể đã tránh xa cuộc họp này, nhưng dường như Harold
Isaacs đã nhớ đến Hồ trong giai đoạn này là ʺngười bạn rất cũ của tôi ở Thượng Hải ʺ [32]. Ta chỉ
có thể phỏng đoán việc Hồ đã có quan hệ mật thiết như thế nào với Tống Khánh Linh (Song Jing
Ling ‐ ND), goá phụ của Tôn Dật Tiên. Nhưng không có lý do gì để phản bác lại chuyện ông kể
rằng ông đã liên lạc với Vaillant‐Couturier bằng cách đến nhà của bà dưới vỏ bọc của một người
Trung Quốc giàu có để đưa cho bà một bức thư.
Đến thời gian này của năm 1933, khi Hồ Chí Minh bắt đầu thảo kế hoạch để quay lại Moscow,
những người cánh tả Việt Nam lại một lần nữa khuấy động phong trào. Những sinh viên cấp
tiến quay về từ Pháp đã biểu lộ tinh thần chống đối quyền lực liên tục của dân chúng Sài Gòn
bằng việc thắng hai ghế hội đồng thành phố trong cuộc bầu cử vào cuối tháng 4 đầu tháng 5.
Mặc dù việc đắc cử của Nguyễn Văn Tạo, một thành viên của ĐCS Đông Dương và Trần Văn
Thạch, một người Trotskyist, đã bị huỷ bỏ vào tháng 8, thắng lợi ban đầu của họ đã giúp hướng
tới việc thành lập mặt trận La Lutte giữa những người Trotskyist và ĐCS Đông Dương trong
tương lai (trong giữa năm 1934]. [33] Trần Văn Giàu, học viên từ Đại Học Stalin đã quay về lại
Nam Việt Nam vào đầu năm 1933 để thành lập lại ĐCS Đông Dương theo đường lối vạch ra bởi
Cương Lĩnh Hành Động 1932 cấp tiến mà ông đã giúp soạn thảo tại Moscow [34]. Những thành
viên ĐCS Đông Dương tại Xiêm cũng như những người Việt là đảng viên ĐCS Xiêm cũng đã
tích cực ủng hộ việc hồi sinh ĐCS Đông Dương qua Uỷ Ban Cứu Trợ Đông Dương [35]. Chủ
nghĩa chống đế quốc, theo định nghĩa của ʺGiai Đoạn Thứ Baʺ đã trở thành một biểu tượng của
tinh thần đoàn kết vô sản trên toàn thế giới, trong khi chủ nghĩa quốc gia được cho là một khái
niệm lỗi thời. Daniel Héremy (nhà sử học Pháp ‐ ND) nhận định rằng trong suốt 21 tháng xuất
bản, đến tháng 6 1936, tờ báo La Lutte (Đấu Tranh ‐ ND) chỉ đã nhắc đến chủ trương quốc gia
của Việt Nam trong vỏn vẹn 20 bài viết, và thường với nội dung chỉ trích chủ nghĩa yêu nước tư
sản. [36] Nhưng trong hội nghị ʺChống Phát Xít và Chiến Tranhʺ được tổ chức tại rạp hát Khánh
Hội, Sài Gòn vào ngày 11 tháng 8 1933 đã có trên 600 người tham dự, theo một báo cáo của Pháp,
và đã thu hút nhiều tầng lớp các nhà cách mạng khác nhau từ Dương Văn Giáo và Trịnh Hưng
Ngẫu có liên hệ với đảng Lập Hiến, đến Nguyễn Văn Tạo và Trần Văn Thạch. Vaillant‐Couturier
đã tham dự hội nghị trên trước khi đi đến Thượng Hải, và đã được nồng nhiệt hoan nghênh khi
ông tường thuật lại những hoạt động tại Paris nhằm ủng hộ những tù nhân chính trị Việt Nam
đang bị án tử hình [37]. Tạ Thu Thâu, đang là một thành viên tích cực của Liên Đoàn Phản Đế tại
châu Âu, có thể đã đóng vai trò tổ chức hội nghị này. Nhưng người Pháp lại cho rằng những
hoạt động chính trị hợp pháp của Nguyễn Văn Tạo và Trần Văn Thạch đã có liên hệ đến việc
Trần Văn Giàu quay trở lại Việt Nam [38].
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 166 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Mặc dù sự phối hợp toàn bộ của QTCS cho chính sách được tu chỉnh về mặt trận thống nhất đã
không ra đời cho đến Đại Hội Lần 7 vào năm 1935, nhưng vào năm 1933 ta có thể nhận thấy một
bước lùi trong chủ thuyết cực đoan về giai cấp chống lại giai cấp đã được đưa ra vào năm 1929.
Quyền lực của Đảng Quốc Xã tại Đức đã trở thành một nhân tố quan trọng cần phải quan tâm,
trong khi những hình thái của chủ nghĩa đế quốc tại châu Á đã trở thành một mối đe doạ ngày
càng lớn đối với Liên Bang Sô Viết và những người cộng sản Trung Quốc. Otto Braun (Cố vấn
của ĐCS Trung Quốc ‐ ND) nói rằng vào tháng 1 1933 Ban Chấp Hành Quốc tế Cộng Sản đã đưa
ra một nghị quyết thừa nhận việc cần thiết phải ʺđoàn kết đấu tranh chống Nhậtʺ cùng với bất cứ
tổ chức hoặc quân đội Trung Quốc nào có thể chấm dứt những tấn công vào những khu vực của
Liên Bang Sô Viết [39]. Một văn bản của QTCS xuất hiện vào tháng 7 1933 kêu gọi cộng sản Ấn
Độ và Đông Dương nên quay lại với chiến lược Leninist trong đó nhấn mạnh việc đấu tranh
giành độc lập dân tộc lên trên những mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa. Văn bản này trước
đây đã được đăng bằng tiếng Anh trên tờ báo Pan Pacific Worker, nằm dưới dạng một loạt câu
hỏi và trả lời của ʺOrgwaldʺ, được nhận diện trong tài liệu của QTCS là nhân vật Bolshevik kỳ
cựu Osip Piatnitsky, người đã từng đứng đầu Văn Phòng Tổ Chức đầy quan trọng trong QTCS
từ giữa Đại Hội Lần 5 và Lần 7 (1924‐35). Không có gì ngạc nhiên khi vào giữa năm 1933, sự
thăng tiến của Hitler đã khiến một số người Bolshevik phải tái thẩm định quan điểm của họ về
chủ nghĩa dân tộc và mặt trận thống nhất.ʺOrgwaldʺ đã cố vấn trong văn bản trên rằng trong
thời điểm hiện tại, sẽ không khôn ngoan lắm nếu đưa ra lời kêu gọi lật đổ giai cấp tư sản, vì nó
sẽ tạo nên sự xa cách giữa tầng lớp nông dân và giới tiểu tư sản thành thị. Một mặt trận thống
nhất với những đảng phái quốc gia có thể chấp nhận được nếu nó đi theo nguyên tắc ʺcùng nhau
chiến đấu nhưng hành quân riêng rẽʺ. [40] Tài liệu này đã không được xuất bản bằng tiếng Pháp
cho đến năm 1934 và ta không có bằng chứng gì về việc nó được xuất bản bằng tiếng Việt cả.
Điều này mâu thuẫn với đường lối chính sách được những người chủ chốt của ĐCS Đông
Dương như Trần Văn Giàu và Hà Huy Tập đem về từ Moscow. Sự chia rẽ giữa đường lối đấu
tranh giai cấp của ʺThời Kỳ Thứ Baʺ và chiến lược mới đang được thảo luận vào năm 1933 sẽ trở
thành chướng ngại vật cho việc hợp nhất ĐCS Đông Dương.
Bằng chứng của việc chia rẽ này có thể thấy được trong một bức thư dài của Uỷ Ban Trung Ương
ĐCS Trung Quốc gửi đến những người cộng sản Đông Dương vào tháng 8 1934. Nó được QTCS
phê chuẩn như là một chỉ thị chính trị. (Cho đến tháng 3 1935, Vera Vasilieva, người đang điều
hành bộ phận Đông Dương của QTCS, đã nhắc đến nó trong những thư từ với Văn Phòng Hải
Ngoại ĐCS Đông Dương như là một tài liệu chỉ ra ʺnhững công tác cơ bản mà các đồng chí phải
hoàn toàn chú ý trong thời điểm hiện tạiʺ [41]). Rất có thể bức thư này đã được soạn thảo từ
Moscow với sự hậu thuẩn của những thành viên người Trung Quốc trong Uỷ Ban Trung Ương
QTCS, dẫn đầu bởi Vương Minh (Wang Ming ‐ ND). Trong khi nó kêu gọi việc thành lập một tờ
báo hợp pháp và việc tận dụng những biện pháp tổ chức hợp pháp có thể được, nó cũng đã đưa
ra một tín hiệu cảnh báo mạnh mẽ chống lại việc hợp tác với những người dân chủ xã hội và tư
sản dân tộc. Nó đã nhắc đến thất bại của cuộc khởi nghĩa tại Áo trong năm 1934 như là một ví dụ
của những ʺảnh hưởng phản bộiʺ của thành phần dân chủ xã hội. Mặc dù bức thư đã thừa nhận
rằng có nhiều thành viên của giai cấp tư sản Đông Dương đang sẵn sàng đấu tranh chống lại đế
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 167 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

quốc Pháp, gia cấp công nhân và nông dân không được quên rằng ʺthành phần tư sản dân tộc
ích kỷ và hèn hạ đã phản bội phong trào 1930‐31ʺ. ʺTrong tình trạng bất mãn chung đang dâng
cao trong nước, thành phần dân tộc cách tân sẽ luôn tìm cách chiếm lấy quyền lãnh đạo của
phong trào quần chúng để rồi sẽ chặt đầu nó,ʺ bức thư viết. ʺĐây chính là vì sao chúng ta phải
liên tục vạch mặt tất cả những tổ chức và đảng phái dân tộc cách tân, cho dù chúng nấp sau bất
kỳ những khẩu hiệu ʺthiên tảʺ nào...ʺ[42]
Lá thư từ Trung Quốc này có thể được hiểu như một nỗ lực từ một số nhân vật lãnh đạo tại
QTCS để đối đầu với việc ĐCS Pháp quyết định hợp tác với Đảng Xã Hội Pháp, quyết định này
đã được đưa ra tại một cuộc họp của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Pháp vào ngày 14 và 15 tháng 3
1934. [43] Liên lạc cũ của Hồ Chí Minh là Jacques Doriot là một trong những người ủng hộ mạnh
mẽ nhất cho mối giao hảo với những người xã hội Pháp. Nhưng tại Sài Gòn, nơi không có đảng
xã hội, mặt trận thống nhất của những người cánh tả cũng chỉ là một nỗ lực hợp tác giữa những
người theo khuynh hướng của Moscow và thành phần cộng sản Trotskyist. Tờ báo của mặt trận
La Lutte đã được chính thức ra đời sau cuộc họp vào tháng 9 1934 do Nguyễn An Ninh tổ chức.
Đây là một liên hiệp nhằm chống lại chính quyền thuộc địa và Đảng Lập Hiến, với khuynh
hướng vô sản mạnh mẽ [44].

Về lại Moscow
Hồ Chí Minh đã không về đến Mosow, theo lời của ông là mãi cho đến tháng 7 1934 [45]. Không
có thông tin gì về việc ông đã sống như thế nào trong giai đoạn giữa mùa thu 1933 cho đến
những tháng đầu của năm 1934. Moscow mà ông quay lại thì đã khác xa nhiều với Moscow mà
ông đã biết trong giai đoạn 1923‐4 và một thời gian ngắn của năm 1927. Nó không còn là một
thành phố xoay vần một cách tự do của Chính Sách Kinh Tế Mới (New Economic Policy, hoặc
NEP ‐ ND) mà ông đã chứng kiến trong lần đầu đến đây; nó cũng không còn là một thủ đô tràn
đầy không khí chính trị, nơi những trận chiến cuối cùng nhằm giành quyền kiểm soát đảng Sô
Viết đã sắp sửa xảy ra trong năm 1927. Chủ nghĩa sùng bái cá nhân của Stalin cũng như việc ông
kiểm soát tất cả mọi cơ quan Sô Viết đang tạo ra một không khí chính trị đầy chết chóc được bao
phủ bởi tính hoang tưởng và một tâm lý cô lập đối với thế giới bên ngoài.
Đến năm 1930 những cuộc thanh lọc trong những học viện QTCS như Trường Tôn Dật Tiên, bị
đóng cửa trong năm ấy, và Đại Học Quốc Tế Lenin đã trở thành một đặc điểm trong sinh hoạt
của QTCS. Một cuộc thanh lọc đối với bộ phận tiếng Pháp trong Đại Học Lenin, nơi Hồ Chí
Minh sẽ theo học vào tháng 10 1934, đã được tổ chức vào tháng 10 1933, do André Marty thuộc
Ban Bí Thư khu vực nói tiếng Romance chủ toạ. Một bài viết của một sinh viên với bút danh
ʺBrétaneʺ đưa ra một số ý kiến về những yêu cầu của những cuộc ʺthanh lọcʺ này. Ngay cả đối
với những người chưa từng phạm phải sai lầm chính trị hoặc không bị đảng đe doạ trục xuất
cũng phải bị bắt buộc tự chỉ trích. Trong bài viết với nhan đề ʺThanh lọc như là một Yếu tố để
Bolshevik hoáʺ Bretane viết: ʺĐiều quan trọng là cần phơi bày những yếu điểm còn sót lại để loại
bỏ chúng. Chúng ta đã có thể thấy được qua những lý lịch khác nhau rằng nằm dưới đáy của
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 168 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

những yếu điểm này là gốc gác xã hội và những ảnh hưởng ngoại quốc đã in dấu trên người khi
anh ta hoạt động ở nước ngoài” [46] Yelena Bonner (nhà hoạt động nhân quyền Nga ‐ ND), có
cha kế là Gevork Alikhanov là một viên chức cao cấp trong Bộ Cơ Cấu của QTCS, đã chứng kiến
từ sau bức màn trong căn hộ nhà mình tại khách sạn Lux việc cha kế của bà và những người
khác khai báo tư tưởng và tiết lộ những bí mật riêng tư nhất của mình, thậm chí đến những quan
hệ tình cảm trong quá khứ và những đứa con rơi [47].
Khi Hồ Chí Minh xuất hiện vào mùa hè năm 1934, có lý do để tin rằng ông đã nghĩ mình đang là
đối tượng của một cuộc điều tra nào đấy. Con gái của Vera Vasilieva, lúc ấy được 10 tuổi, đã nhớ
rằng ông thường ngủ trên chiếc ghế trường kỷ trong ngôi nhà gỗ mà gia đình cô đang sống tại
trung tâm Moscow, dường như ông đang cố giữ thấp danh phận của mình [48]. Nói cho cùng Hồ
đã liên quan đến hàng loạt những vụ bắt bớ dẫn đến tổn thất nặng nề cho Phân Bộ Viễn Đông
lẫn ĐCS Trung Quốc trong năm 1931. Vasilieva, một người ngây thơ và có lẽ là một người
Bolshevik thiếu đầu óc tưởng tượng, từng được biết đến là đã bảo vệ những bạn bè bị tố cáo về
những tội danh chính trị cũng như người chồng của bà là Mark Zorky [49]. Nhưng ta không tìm
thấy những tài liệu về những khó khăn chính trị của Hồ trong hồ sơ của QTCS cho đến khi Đại
Hội Lần 7 sắp xảy ra vào năm sau. Ông nhắc lại trong bản câu hỏi tiểu sử của mình rằng ông đã
trải qua vài tháng phục hồi căn bệnh của mình tại vùng Crimea trong năm 1934, sau đó theo học
tại Đại Học Lenin vào tháng 10 [50]. Vào lúc ấy ông là người Đông Dương duy nhất ghi danh tại
trường này, mặc dù QTCS đã dự định thu nhận 12 học viên Đông Dương vào một khoá học ngắn
hạn trong học kỳ 1935‐6 [51]. Không có dấu hiệu cho thấy rằng đã có người theo học. Trường này
lúc ấy được vị giám đốc Kirsanova miêu tả là ʺlò tôi luyện duy nhất cho những thành phần chủ
chốt của QTCSʺ [52]. và được xem là học viện đào tạo những lãnh đạo cộng sản nước ngoài.
Nhưng những phần tử bị thất sủng trong thành phần lãnh đạo như Lý Lập Tam và Hồ cũng
được gửi đến đây. Thực tế là (đặc biệt là trong trường hợp của Lý Lập Tam) họ đã từng phục vụ
trong hàng ngũ cao cấp của đảng mình và có thể đã trông đợi để được làm việc trong Ban Chấp
Hành QTCS nếu danh phận của họ được vẹn toàn.
Vào ngày 1 tháng 12 1934, khi việc chuẩn bị cho Đại Hội Lần 7 bắt đầu, Sergei Kirov, bí thư Đảng
Uỷ Leningrad bị bắt chết trong văn phòng của mình tại Học Viện Smolny. Việc sát hại này đã
giúp Stalin có lý do dể bắt đầu một cuộc ruồng bố những kẻ thù của đất nước [53]. Trong thời kì
bình minh của Mặt Trận Bình Dân thì một đợt đàn áp mới đối với những kẻ thù chính trị có thật
hay tưởng tượng của Stalin cũng đang bắt đầu. Vào ngày 8 tháng 12 khi 3 đại biểu Đại Hội được
ĐCS Đông Dương gửi vừa đến Moscow, một cơn khủng hoảng nhỏ đã nổ ra tại Đại Học Stalin.
Vì Cục Thông Tin Quốc Tế đã không ra đón họ tại nhà ga, ba người này phải tự tìm đến khách
sạn mà những người Việt đang ở ‐ việc này được xem là sai sót trong kỹ thuật hoạt động ngầm.
Có ba người đã làm báo cáo về việc này là: Vera Vasilieva, Kotelnikov thuộc Ban Bí Thư Phương
Đông, và ʺKan Sinʺ (Khang Sinh ‐ ND), vị trí của người này không được ghi trong báo cáo của
ông [54].
Ba đại biểu người Việt là Lê Hồng Phong, thành viên chủ chốt của Ban Chỉ Huy Hải Ngoại; một
thành viên dân tộc Tày tên là Hoàng Văn Nọn; và Nguyễn Thị Minh Khai, được nhắc đến trong
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 169 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

bức thư của Hà Huy Tập gửi cho QTCS là ʺvợ của Quốcʺ. Hồ cũng được phân công làm đại biểu
đại hội từ hội nghị ĐCS Đông Dương họp vào tháng 3 1935. [55] Trong bản khai lý lịch mà Minh
Khai đã điền sau khi đến nơi, bà viết rằng bà đã lập gia đình và cho biết tên của chồng mình là
ʺLinʺ, bí danh mới nhất của Hồ [56]. Điều này cho thấy giữa hai người không đơn giản chỉ là một
quan hệ thoáng qua mặc dù người Pháp nghi ngờ rằng bà đang là tình nhân của Trần Ngọc
Danh[57] (dù thế Hồ Chí Minh không bao giờ nhắc đến vợ mình trong bất cứ đơn từ chính thức
nào của ông trong QTCS]. Tại Moscow, Minh Khai đã lấy tên là ʺPhan Lanʺ.
Từ giữa tháng 12 1934 đến cuối tháng 3 1935 đã có một số báo cáo về tình hình của ĐCS Đông
Dương được gửi từ Việt Nam đến Moscow. Ngoài ra Lê Hồng Phong cũng đã viết một bản
tường trình dài bằng tiếng Nga về những hoạt động của mình từ khi ông quay về Đông Nam Á
vào tháng 2 1932. [58] Hồ đã viết những phê bình riêng của mình đối với sự thất bại của ĐCS
Đông Dương trong thời kỳ ʺcao trào cách mạngʺ 1930‐1 [59]. (Chắc chắn rằng ông đã viết về
những hoạt động khác của mình trong thời gian 1930‐4, nhưng đã không được tìm thấy trong
văn khố của QTCS3). Với đường lối của QTCS hiện đang quay lại giống như trong thời kỳ 1924‐
7, rõ ràng là Hồ đã cảm thấy an toàn khi lên tiếng phê bình việc ĐCS Đông Dương nhìn chung
đã có nhận thức tư tưởng thấp, và đặc biệt là việc ʺđa số các đồng chí ‐ ngay cả những người
lãnh đạo ‐ đã không quán triệt ý nghĩa của ʺcuộc cách mạng tư sản dân tộcʺ. [...] Họ lặp đi lặp lại
những từ ngữ mà không hiểu được ý nghĩa của chúng,ʺ ông viết, ʺvà thường xuyên bị sai lầm
trong những hoạt động tuyên truyền và khích động của mình.ʺ Ông cũng đã phê phán phương
pháp cứng nhắc trong việc đào tạo công nhân để tổ chức đình công mà không được khuyến
khích để tự mình quyết định dựa trên phát xét của họ về tình hình thực tế. Ông cũng chỉ ra mối
nguy hiểm về việc những công nhân được đưa vào những bộ phận lãnh đạo của đảng thì ʺluôn
tự cho phép mình bị ảnh hưởng bởi những phần tử trí thức vì những người này đã đọc hết
những điều trong sách vở và những luận cươngʺ. ʺĐiều này đã xảy ra trong giai đoạn 1930‐1,ʺ
ông nói, ʺkhi những đồng chí của ta là những thành viên lớn tuổi và có kinh nghiệm. Hiện nay,
đa số hoặc hầu hết những đồng chí này đang ở tù hoặc bị giết chết. Những đồng chí hiện nay thì
trẻ và ít kinh nghiệm hơn và do đó sẽ phạm phải sai lầm nhiều hơn.ʺ
Phương án khắc phục mà ông đưa ra là việc xuất bản những văn kiện ngắn bằng ngôn ngữ bình
dân với những chủ đề bắt đầu từ Tuyên Ngôn Cộng Sản và lịch sử của QTCS, rồi đến ʺvấn đề
dân tộcʺ và ʺvấn đề nông dânʺ, và kết thúc với ʺphương pháp tổ chức một mặt trận thống nhấtʺ
và ʺluận cương và nghị quyết của QTCS về vấn đề thuộc địaʺ. Ông đã học cách trích dẫn lời của
Stalin đúng lúc ‐ ʺStalin thì nghìn lần đúngʺ, Hồ viết ʺkhi ông nói ʺHọc thuyết đã giúp cho các
đồng chí... sức mạnh của đường lối, sự rõ ràng trong quan điểm, lòng tin vào công việc của họ và
niềm tin tưởng vào chiến thắng của chính nghĩaʺ [60]. Ta có thể giả định rằng Hồ đã biết rằng
học thuyết toàn thắng trên đã thay đổi từ 1928‐9, nhưng đã đủ khôn ngoan để không đưa ra
trong bài viết. Phong cách vừa là giảng viên vừa là học viên của ông tại Đại Học Stalin mà chúng
ta sẽ thấy, cho thấy rằng dường như ông đã không tiếp thu đường lối giảng dạy lý thuyết của
Moscow một cách nghiêm túc.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 170 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Báo cáo của Lê Hồng Phong về những hoạt động của mình từ cuối năm 1931 đến khi ông quay
lại Moscow vào cuối năm 1934 là một báo cáo dựa trên dữ kiện, gần như là một liệt kê về những
thành công và thất bại chính trị của ông. Trong khi đó những báo cáo của Hà Huy Tập (có tên là
Sinitchkin ở Moscow) gửi về Moscow từ giữa tháng 12 1934 và tháng 4 1935 lại mang một giọng
điệu hoàn toàn khác hẳn [61]. Những báo cáo này cho thấy ông đã bắt đầu đảm nhận một vai trò
tích cực, thậm chí độc đoán hơn trong việc xây dựng ĐCS Đông Dương sau khi Lê Hồng Phong
quay lại Moscow. Là một người gầy guộc được biết với bí danh là ʺKhịtʺ ở Sài Gòn và ʺÔng Lùnʺ
ở Trung Quốc, Hà Huy Tập dường như đã quay lại châu Á với sự tin tưởng hoàn toàn của QTCS
vào giữa năm 1933. Một báo cáo của Sở Liêm Phóng đề cập đến ông như là một ʺrenifluerʺ, tức là
ʺkẻ khịt mũiʺ hoặc ʺchó sănʺ, có lẽ là lấy từ bí danh của ông [62]. Vào lúc ấy ông là người duy
nhất trong Ban Chỉ Huy Hải Ngoại đã được QTCS tin tưởng giao cho chìa khoá giải mã những
mật thư bằng điện đài đang được bắt đầu sử dụng để liên lạc trong những năm 1934‐5. [63] Nổi
ám ảnh về an ninh dấy lên trong QTCS từ vụ ám sát Kirov đã làm cho guồng máy tại Moscow
hài lòng với một người có thiên hướng như Hà Huy Tập để soạn thảo những báo cáo với đầy đủ
chi tiết. Hơn nữa, đối với Ban Bí Thư Đông Phương, an ninh đã trở thành mối quan tâm chủ yếu
sau khi Phân Bộ Thượng Hải của ĐCS Trung Quốc bị phá huỷ vào tháng 12 1934. Vào lúc ấy
QTCS đã bị mất mối liên lạc bằng điện đài duy nhất với ĐCS Trung Quốc, lúc ấy đang trong
giữa quá trình của cuộc Vạn Lý Trường Chinh. (Sau đó ĐCS Đông Dương được lệnh cắt đứt mọi
liên lại với ĐCS Trung Quốc và Lãnh Sự Quán Sô Viết tại Thượng Hải [64]). Trong mọi trường
hợp, Hà Huy Tập đã nổi bật như là người đã tố cáo Trần Văn Giàu, Hồ Chí Minh và một số
những thành viên khác của ĐCS Đông Dương bao gồm cả một trong những đại diện môi giới
của Hồ là Nguyễn Văn Tram (Cao Văn Bình) [65]. Trong giai đoạn chuẩn bị cho Đại Hội Lần 7
(ban đầu được dự định sẽ tổ chức vào năm 1934, rồi dời đến tháng 3 1935 và cuối cùng được khai
mạc vào tháng 7) có lẽ Hồ Chí Minh là người đã bị nghi ngờ nhiều nhất.
Hội Nghị ĐCS Đông Dương từ ngày 27‐31 tháng 3 tại Macao đã thông qua nghị quyết chính trị
dài 30 trang và đã bầu ra một Uỷ Ban Trung Ương mới, cho phép Hà Huy Tập nắm quyền ĐCS
Đông Dương trong thời gian Lê Hồng Phong vắng mặt. Điều mà hội nghị đã không làm là phản
ánh những trào lưu thay đổi tại Moscow mà mãi cho đến Đại Hội Lần 7 QTCS vào mùa hè mới
được giải thích rõ ràng. Vào cuối năm 1934 Tập đã báo cáo rằng đảng có khoảng 600 thành viên
bao gồm cả những người đang ở Lào và Cam Bốt [66]. Mười ba người đã có mặt để tham gia Hội
Nghị, ông nói. Hội Nghị đã bầu ra Uỷ Ban Trung Ương đứng đầu bởi Lê Hồng Phong đang vắng
mặt, trong đó có 8 công nhân, một bần nông người dân tộc Tày, ba trí thức và một thành viên từ
đảng An Nam cũ (không rõ nghề nghiệp) đang được lựa chọn [67]. Hồ Chí Minh nằm ở vị trí thứ
13 như là một thành viên dự bị. Những học viên tại Moscow trong Uỷ Ban Trung Ương gồm có
công nhân ʺDin‐Tanʺ (Trần Văn Diêm), đứng đầu xứ uỷ Bắc Kỳ; và ʺSvanʺ (Nguyễn Văn Dựt),
lúc ấy đang đứng đầu Liên Uỷ tại Nam Kỳ. Hà Huy Tập giữ cho mình một vị trí trong Ban Chỉ
Huy Hải Ngoại, lúc ấy đang có quyền ra hướng dẫn chính trị cho Uỷ Ban Trung Ương [68].
Ở cuối bản báo cáo về Hội Nghị, Tập đã đưa ra vấn đề của Hồ Chí Minh. Ông nói rằng Hội Nghị
đã phân công Đồng Chí Lin làm đại biểu của ĐCS Đông Dương tại QTCS. Nhưng trong khi đó
ông lại viết:
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 171 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Các tổ chức cộng sản tại Xiêm và Đông Dương đang thực hiện một cuộc đấu tranh công khai
chống lại những tàn dư của tư tưởng cách mạng dân tộc pha lẫn chủ nghĩa cách tân và chủ nghĩa
duy tâm của Thanh Niên Hội và của Đồng Chí Nguyễn Ái Quốc. Những tàn dư này vẫn còn rất
mạnh và trở thành một trở ngại nghiêm trọng đối với công cuộc phát triển của chủ nghĩa cộng
sản. Cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống lại những tư tưởng cơ hội của Quốc và Thanh
Niên là thật sự cần thiết. Hai đảng uỷ tại Xiêm và Đông Dương sẽ ra những văn bản chống lại
những khuynh hướng này. Chúng tôi đề nghị Đồng Chí Lin nên thảo một văn bản để tự kiểm
điểm bản thân và những thất bại của mình trong quá khứ [69]
Đến cuối tháng 4 1935 Hà Huy Tập cảm thấy có trách nhiệm phải làm việc phê bình rõ ràng hơn.
Trong điểm cuối cùng của bức thư viết tay dài 4 trang bằng tiếng Pháp trong đó đề cập đến một

số trường hợp bị nghi ngờ có sự phản bội trong ĐCS Đông Dương, ông báo cáo với Ban Bí Thư
Đông Phương rằng một số đại biểu tại Hội Nghị Macao đã thảo luận về trách nhiệm của Hồ về
trong việc bắt bớ của trên 100 cựu thành viên của Thanh Niên được đào tạo tại Quảng Châu. Tập
đã liệt kê những lý do như sau:
(a) Quốc đã biết rằng Lâm Đức Thụ là một kẻ khiêu khích, nhưng vẫn tiếp tục sử dụng ông ta; (b)
Quốc đã phạm sai lầm khi đòi hỏi mỗi học viên hai bức ảnh, tên thật, địa chỉ, tên cha mẹ, ông bà
nội ngoại và ông bà cố... (c) trong nước, tại Xiêm và trong tù, họ vẫn tiếp tục nói về trách nhiệm
của Quốc, một trách nhiệm mà ông không thể chối bỏ được; (d) những bức ảnh do Quốc và Lâm
đòi hỏi giờ đây đang nằm trong tay của cảnh sát; (e) dần dần khi đường lối của đảng đã trở nên rõ
ràng hơn đối với đảng viên và quần chúng, họ đã phê phán mạnh mẽ hơn chính sách mà Đồng Chí
Quốc theo đuổi. Tổng bí thư của ĐCS Xiêm, từng là người học trò thuần thành của Quốc, là một
trong những người nói rằng trước năm 1930, Quốc không phải là một người cộng sản!!! [70]
Khi trả lời cho đề xuất của ĐCS Đông Dương về việc Hồ trở thành đại diện của họ tại QTCS,
Vasilieva khẳng định là ʺkhôngʺ. ʺQuốc cần phải học tập nghiêm túc trong hai năm tới và sẽ
không thể nhận bất cứ công việc gì khác,ʺ bà giải thích; ʺsau khi ông học xong chúng tôi sẽ có
những dự định đặc biệt để sử dụng ông ấyʺ [71]. Ta không biết rằng bà đã nhận được lời tố giác
vào tháng 4 khi bà viết những nhận định trên. Dù sao bức thư tháng 4 rõ ràng là đã ảnh hưởng
đến vai trò của Hồ tại Đại Hội Lần 7. Trong một danh sách đại biểu Đại Hội, vì tính chất bắt
buộc của nó, ai đó đã viết ʺcần phải loại bỏʺ bên cạnh tên của Hồ [72]. Đa số những danh sách
đại biểu Đại Hội cho thấy có 3 đại biểu từ Đông Dương, một người trong họ là phụ nữ ‐ cả ba
người đều có toàn quyền bầu cử. Hai đại biểu Xiêm chỉ được quyền bầu với tư cách tham vấn
(soveshchatelniie golosy), trong qui định cộng sản điều này có nghĩa là phiếu bầu của họ không
được tính [73]. Nhưng dường như Hồ cũng không nhận được cả quyền này. Ta có thể bảo rằng
ông đã được đưa ra khỏi chương trình công khai của Đại Hội để giữ bí mật, nhưng ta cũng thắc
mắc rằng tại sao những người Việt khác, sau này sẽ quay lại hoạt động chính trị tại Đông
Dương, lại được giao cho những chức vụ công khai.
Nếu đã có một uỷ ban được lập ra để điều tra những cáo buộc mới nhất đối với Hồ, thì chắc hẳn
nó đã xảy ra trước Đại Hội 7. Vì những thiếu sót về an ninh được cảnh báo từ việc Kirov bị mưu
sát, sẽ rất là khó hiểu nếu đã không có một biện pháp nào được thực hiện. Một nguồn tin được
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 172 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

biết nhiều năm sau từ một nhân viên của Bộ Quốc Tế thuộc Uỷ Ban Trung Ương Sô viết là
Anatoly Voronin cho biết rằng Hồ đã bị điều tra bởi bộ ba Dmitry Manuilsky, Khang Sinh và
Vera Vailieva. Theo nguồn tin này, Mauilsky đã giữ vị trí trung lập trong khi Khang Sinh muốn
Hồ bị xử tử hình. Vasilieva được cho là đã bảo vệ ông trên cơ sở rằng những sai lầm của ông về
những biện pháp an ninh đã xảy ra là do thiếu kinh nghiệm [74]. Vào năm 1935 có khả năng là
Khang Sinh đề nghị Hồ bị trục xuất ra khỏi đảng hơn là tử hình, nếu ông tin rằng Hồ đã có một
phần lỗi trong những bắt bớ vào năm 1931. Nhưng vì không có những tài liệu làm bằng chứng
mà rất có thể vẫn còn được giấu kín trong tàng thư của KGB, chúng ta không thể biết được
những tố giác của Hà Huy Tập đã được xử lý nghiêm trọng đến mức độ nào. Bản thân những
người cộng sản Việt Nam đã biết rất rõ rằng đảng của họ đã bị Sở Liêm Phong thâm nhập. Vào
cuối năm 1934, Hà Huy Tập đã gửi một danh sách đến Moscow trong đó ông phân tích hồ sơ của
37 học viên người Việt đã rời Moscow đi châu Á hoặc Pháp. Trong số này có 12 người được liệt
vào dạng phản bội hoặc khiêu khích. Chỉ có 10 người được cho là ʺnhững nhà cách mạng chuyên
chínhʺ [75].
Đã có vài tia sáng hé mở trong việc QTCS xử lý những trường hợp như của Hồ qua báo cáo của
Joseph Ducroux về việc ông bị đối xử tại Moscow khi ông quay lại vào tháng 1 1934. Ducroux đã
viết vào năm 1970 rằng trưởng Cục Thông Tin Quốc Tế là Abromov đã quyết tâm qui nguyên
nhân ông bị bắt tại Singapore là do lỗi kỹ thuật của Ducroux. Ducroux đã không được đối xử
như một người hùng trở về và chỉ được phép ăn tại nhà ăn chung của khách sạn Lux chứ không
được ngồi cùng với những lãnh đạo chính trị. Ông đã bị triệu tập đến một cuộc họp tại Ban Chấp
Hành QTCS với sự có mặt của Manuilsky, Lozovsky, Piatnitsky và Bela Kun. Manuilsky đã
ʺcông kích ông dữ dộiʺ, yêu cầu khai trừ ông ra khỏi đảng. Lozovsky tỏ vẻ thông cảm hơn với
điều kiện khó khăn mà ông phải đối phó. Sau hai ngày ông được báo rằng ông có thể ở lại
Moscow để làm công việc thông dịch cho tờ tin Quốc tế Cộng Sản. Nhưng thay vì thế, Ducroux
đã yêu cầu được gửi về Pháp. Yêu cầu này được thông qua nhưng ông bị cấm không được nhận
bất cứ nhiệm vụ gì có liên quan đến Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Pháp. [76] Hồ Chí Minh cũng lâm
vào hoàn cảnh tương tự là bị tách rời khỏi những hoạt động liên quan đến những quyết định
chính trị. Hồ còn gặp phải một phức tạp khác do đã có liên hệ với những hoạt động của ĐCS
Trung Quốc, cụ thể là trong thời kỳ khó khăn của năm 1930. Có khả năng là Khang Sinh đã có
oán hận với ông vì ông từng là người biết rõ vai trò của Khang Sinh trong thời kỳ hưng thịnh của
Lý Lập Tam, hoặc đã biết về những thất bại của ông trong tổ chức an ninh đặc biệt vào năm
1933. Sau khi Kirov bị ám sát, Khang Sinh được cho là đã bắt đầu hô hào một cuộc thanh trừng
mới trong nội bộ đảng Trung Quốc tại Moscow [77]. Nhưng một lần nữa, vì không có tài liệu làm
bằng chứng nên ta không thể kết luận một cách chắc chắn về mối quan hệ giữa Hồ và Khang
Sinh.
Đại Hội Quốc tế Cộng Sản Lần 7
Đại Hội Lần 7 QTCS cuối cùng cũng đã được khai mạc vào ngày 25 tháng 7 1935. Nó đã đạt
được sự nhất trí chậm trễ về việc ủng hộ một liên minh với thành phần xã hội dân chủ cánh tả
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 173 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

trong cuộc chiến đấu chống lại chủ nghĩa phát xít tại châu Âu. Sự nhất trí này đã được chuẩn bị
tỉ mỉ từ giữa năm 1934, khi ĐCS Pháp đồng ý thực hiện ʺhành động chungʺ với Đảng Xã Hội
Pháp chống chủ nghĩa phát xít. Dường như đã có rất ít những thảo luận sôi nổi và những nghị
quyết Đại Hội đã được thông qua thanh chóng. Sự sục sôi chính trị của Đại Hội 6, khi đặc tính
của ʺGia Đoạn Thứ Baʺ và những ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân đã bị xoá bỏ, thì giờ đây
đang được giới lãnh đạo QTCS cẩn thận chuyển hướng. Trong sự chuyển hướng mà rõ ràng là
do Georgy Dimitrov chủ trương trong tháng 7 1934, QTCS đã cho phép các đảng cộng sản được
tự do hơn trong phương sách riêng của mình, nhưng cùng lúc ấy họ cũng cách tân guồng máy
của mình và ʺxây dựng một mối liên hệ mật thiết giữa thành phần lãnh đạo QTCS và Bộ Chính
Trị ĐCS Liên Xôʺ. [78] QTCS đang rời bỏ chủ nghĩa cực đoan của năm 1929 và Hội Nghị Thứ 10
Ban Chấp Hành QTCS, khi những chiến lược cực đoan được đưa ra tại Moscow mà không màng
gì đến những điều kiện tại địa phương trong phong trào cộng sản thế giới. Dimitrov nhấn mạnh
việc cần thiết phải tính đến những điều kiện đặc trưng tại những địa điểm khác nhau trên thế
giới và những phát triển không đồng đều trong phong trào cộng sản; không thể dùng một
đường hướng được tiêu chuẩn hoá để thay thế việc tìm hiểu cặn kẽ ở những quốc gia khác
nhau[79]. Nhưng cùng lúc ấy, QTCS vẫn tiếp tục trợ giúp những đảng thành viên trong việc đào
tạo những ʺlãnh đạo Bolshevik thực thụʺ [80]. Dimitrov có lẽ đã thuyết phục được Stalin chấp
thuận những gì đã xảy ra tại Pháp và Trung Quốc, nơi các đảng đang đưa ra những quyết định
phù hợp với điều kiện chính trị của mình, bằng cách đồng thuận để tăng mức kiểm soát của nhà
lãnh đạo Sô Viết này tại hàng ngũ tối cao của QTCS.
Một Ban Bí Thư nhỏ gọn, chặt chẽ của Ban Chấp Hành QTCS được chọn ra vào tháng 8 1935
trong đó những thành viên sẽ có ban bí thư riêng của mình để điều khiển những nhóm của các
đảng cộng sản. Dimitrov, Tổng Bí Thư QTCS, chịu trách nhiệm về ĐCS Trung Quốc, trong khi
đó Vương Minh (Wang Min ‐ ND) chịu trách nhiệm về các đảng tại khu vực Nam Mỹ và
Caribbe. Trách nhiệm về Đông Dương nằm trong tay của ban bí thư của Manuilsky, bao gồm
những quốc gia trước đây trực thuộc Ban Bí Thư khu vực nói tiếng Romance và những thuộc
địa. Vì thế trong hầu hết giai đoạn Mặt Trận Bình Dân, ít nhất là cho đến mùa thu năm 1937,
những người cộng sản Việt Nam đã có quan hệ gần gũi với ĐCS Pháp. Otto Kuusinen, một
chuyên viên về những vấn đế Ấn Độ, phụ trách các đảng cộng sản Nhật, Triều Tiên, Ấn Độ và
Xiêm. Philippines nằm dưới sự chỉ đạo của ban bí thư của André Marty vì ông đang đảm nhiệm
những công việc của những quốc gia thuộc ngôn ngữ Anglophone và một số thuộc địa của
chúng; Hà Lan và Nam Dương trở thành bộ phận của Ercoli (Togliatti) [81]. Những quyền lợi
của những đảng vùng Đông Nam Á vì thế bị phụ thuộc vào những nhu cầu của các đảng trong
những quốc gia mẫu quốc [82].
Vào năm 1935, như nhiều tác giả đã nhấn mạnh, QTCS đã áp đặt khái niệm của một mặt trận
thống nhất dựa trên những chính sách cấp tiến của những năm 1928 và 1929. Thời điểm để từ bỏ
những mục tiêu xã hội, dù là tạm thời, vẫn chưa đến lúc. McDermott và Agnew (Kevin
McDermott & Jeremy Agnew ‐ sử gia người Anh ‐ ND) viết: ʺSự tương quan chặt chẻ của Stalin
với những chiếc lược của ban bí thư và những tư tưởng của Giai Đoạn Thứ Ba đã ngăn chặn
những nghiên cứu cặn kẽ về những kinh nghiệm của sáu năm vừa qua. Vì thế thời kỳ Mặt Trận
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 174 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Bình Dân đã được đánh dấu bởi một căng thẳng không được giải quyết giữa truyền thống và
cách tân, giữa tư tưởng thừa hưởng và khuôn khổ tổ chức và những chủ trương của những đảng
cộng sản để giao chiến với nền tư tưởng của phong trào xã hội dân chủʺ [83]. Mong muốn của
Hồ Chí Minh, đưa ra vào tháng 1 1935 về việc phân tích những thất bại của giai đoạn 1930‐1
dưới quan điểm rằng đây là một sự hiểu lầm về ʺcuộc cách mạng dân chủ tư sảnʺ, có lẽ đã đến
trước thời gian. Dimitrov nhấn mạnh trong báo cáo Đại Hội của mình rằng mặt trận thống nhất
sẽ không đưa ra dấu hiệu của việc quay lại khái niệm của hai giai đoạn cách mạng. Ông nói sẽ
sai lầm nếu xem chính quyền liên minh chống phát xít là ʺmột giai đoạn dân chủ trung gian nằm
giữa chuyên chính tư sản và chuyên chính vô sảnʺ. [84] Vào thời điểm này tại Moscow vẫn có rất
ít thông tin về cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Vương Minh và những người lãnh đạo Trung Quốc
khác giả định rằng một huyện Sô Viết đang được thành lập tại Tứ Xuyên (Sichuan ‐ ND), trong
vùng Thành Đô (Chendu ‐ ND) [85]. Wilhelm Pieck (cựu chủ tịch Cộng Hoà Dân Chủ Đức ‐ ND)
vẫn trích dẫn việc thành lập của phong trào Sô Viết tại Trung Quốc như là một ʺsự kiện nổi bậtʺ
trong phong trào cộng sản châu Á kể từ Đại Hội Lần 6 QTCS [86]. Nhưng vì sự vắng mặt của
một hội đồng đặc biệt về những quốc gia thuộc địa và bán thuộc địa, Đại Hội Lần 7 đã không
đưa ra một tín hiệu rõ rệt cho những thuộc địa của những quốc gia phương Tây.
Lê Hồng Phong là người Đông Nam Á duy nhất trở thành thành viên của Ban Chấp Hành QTCS
trong đại hội 1935. Việc này đã đưa ông lên ngang hàng với những nhà lãnh đạo hàng đầu của
Trung Quốc như Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Trương Quốc Đảo và Vương Minh (Khang Sinh
và Bác Cổ (Bo Gu ‐ ND) trở thành uỷ viên dự khuyết) [87]. Khi ông phát biểu vào ngày thứ tư
của Đại Hội, dưới bí danh Hải An, Phong nhấn mạnh tầm quan trọng về kinh nghiệm của Trung
Quốc đối với Việt Nam. Cách mạng Tháng Mười Nga đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát
triển phong trào cách mạng tại Việt Nam, ông nói. ʺNhưng chính phong trào Sô Viết thắng lợi tại
Trung Quốc đã đóng vai trò quyết định,ʺ ông nhận định. ʺTrong suốt lịch sử của đảng chúng tôi,
ĐCS Trung Quốc đã giúp đỡ và hậu thuẫn cũng như chia sẻ kinh nghiệm của họ. [...] Tình huynh
đệ thắm thiết gắn chặt hai đảng chúng tôiʺ [88]. Dù thế, tầm quan trọng thật sự của phong trào
Sô Viết tại Trung Quốc đối với Đông Dương ra sao thì không được nêu rõ trong bài phát biểu
của Hải An. Sau giai đoạn ʺphát triển tối đaʺ của ĐCS Đông Dương vào những năm 1930‐1, ông
giải thích, đã không còn gì ngoài những tổ chức cộng sản cô lập tại Việt Nam; nhưng vào thời
điểm hiện tại ʺphong trào đang phát triển trên một cơ sở rộng lớn hơn so với trong quá khứ.
Tầng lớp dị biệt nhất trong dân chúng, những thành phần lạc hậu nhất trong tầng lớp lao động,
những dân tộc thiểu số (Mọi, Thợ, Lão v.v...), tầng lớp quần chúng rộng rãi của tiểu tư sản, trí
thức đã được lôi kéo vào cuộc đấu tranhʺ [89]. Nhưng ông tiếc rằng những đồng chí của mình đã
không nghĩ đến việc thành lập một mặt trận thống nhất dựa trên ʺmột mặt trận phản đế rộng
rãiʺ [90].
Phát biểu của Nguyễn Thị Minh Khai tại Đại Hội vào ngày 16 tháng 8 cũng cho thấy giai đoạn
trung chuyển nhắm về một mặt trận chống phát xít. Bà đã phát biểu về vấn đề chống chiến tranh
được đưa ra từ báo cáo của Ercoli tại Đại Hội. Bà đề cập rất ít đến những vấn đề phụ nữ, than
phiền về con số nhỏ nhoi của phái nữ tại Đại Hội. Chủ đề chính của bà là mối nguy hiểm ngày
một lớn của hệ thống quân sự Pháp tại vùng biển Thái Bình Dương và việc chuyển hoá Đông
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 175 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Dương thành một căn cứ quân sự của Pháp. Nhiệm vụ của ĐCS Đông Dương vì thế cần phải
ʺhuy động toàn bộ lực lượng của mình để tạo thành một mặt trận bình dân rộng rãi trong cuộc
đấu tranh vì hoà bìnhʺ. Mặc dù Liên Xô đã thoả thuận với Pháp về một hiệp ước hỗ trợ chung
vào tháng 6 1934, ĐCS Đông Dương vẫn quyết tâm ʺvạch mặt những chính sách của đế quốc
Pháp bằng ví dụ điển hình là Đông Dươngʺ [91]. Chỉ sau khi Mặt Trận Bình Dân thắng cử tại
Pháp vào mùa xuân 1936, ĐCS Đông Dương mới thay đổi sự chống đối của họ đối với nỗ lực tự
vệ của người Pháp.
ʺChứng minh thưʺ tại Đại Hội 7 Quốc tế Cộng Sản, 1935 của Nguyễn Thị Minh Khai và Lê Hồng
Phong, hai trong số ba đại biểu của Đông Dương.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 176 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Ban Chấp Hành mới của QTCS được bầu chọn vào năm 1935.
Hàng đứng: (từ trái sang) M. Moskvin, Otto Kuusinen, Klement Gottwald, Wilhelm Pieck, Dmitry
Manuilsky. Hàng ngồi: (từ trái sang) André Marty, G.Dimitrov, Palmiro Togliatti, V.Florin, Vương
Minh.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 177 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Vera Vasilieva, lãnh đạo bộ phận Đông Dương tại QTCS, người được cho là đã bảo vệ Hồ Chí Minh khi
ông bị điều tra vào năm 1935.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 178 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Hồ Chí Minh trước khi rời Moscow đi Trung Quốc vào năm 1938. Đầu ông bị cạo trọc có lẽ là do việcphải nhập viện.
Mặt Trận Thống Nhất tại Đông Dương
Trong việc phân tích những hệ quả của Đại Hội QTCS Lần 7, ta có thể lấy làm lạ là việc thay đổi
chính sách về mặt trận thống nhất đã không thay đổi thời vận của Hồ Chi Minh ngay lập tức. Ta
không biết được Vasilieva đã nghĩ gì khi bà viết về ʺdự định sử dụng ông ta sau hai năm học
tậpʺ ‐ nhưng ta biết được rằng Hồ vẫn ở lại Moscow sau khi Lê Hồng Phong quay về lại châu Á
vào năm 1936 và khi Minh Khai và Hoàng Văn Nọn quay về vào năm 1937. Một mẩu thư của
Vasilieva gửi cho ʺDmitry Zaharovichʺ (Manuilsky), chắc hẳn là đã được viết vào cuối năm 1935
hoặc đầu năm 1936, xác nhận rằng tại Moscow, Lê Hồng Phong đang nắm vai trò chủ đạo trong
việc vạch ra đường lối cho ĐCS Đông Dương vào lúc ấy. Vailieva viết rằng, ʺHải An muốn tham
khảo về những vấn đề Đông Dương vào những ngày tới, vì ông ta phải (1) viết một bức thư cho
đảng... và (2) có thể sẽ nhập viện trong vài ngàyʺ [92]. Tám thành viên của QTCS được mời tham
dự buổi hội ý: Manuilsky, Kuusinen, Khang Sinh, Vương Minh, Stepanov, Gere, Mirov và
Vasilieva. Ở cuối danh sách này Vasilieva đã ghi chú rằng hai học viên người Đông Dương đang
theo học tại Đại Học Stalin và ʺĐồng Chí Lin (Ai‐kvak)ʺ từ Đại Học Lenin cũng được yêu cầu
tham dự. [93]
Trong năm 1936 ĐCS Đông Dương đã thảo ra một số thư về vấn đề mặt trận thống nhất tại Đông
Dương. Bức thư đầu tiên có lẽ được thảo tại Moscow sau cuộc hội ý trên. Một bức thư bằng tiếng
Pháp từ Phân Bộ Đông Dương thuộc Liên Đoàn Phản Đế gửi đến ʺCác Đảng Phái và Phần Tử
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 179 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Cách Mạng Trong Nước và Hải Ngoạiʺ, đề ngày 27 tháng 2 1936 có thể tìm được tại hồ sơ của
ban bí thư của Manuilsky. Bức thư kêu gọi tất cả các đảng phái, tất cả các phần tử cách mạng
trong nước và hải ngoại tham gia bộ phận Đông Dương của Liên Đoàn Phản Đế ʺđể đoàn kết
phong trào giải phóng dân tộc tại Đông Dươngʺ [94]. Một tài liệu khác mang tên ʺThư Mở của
Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dươngʺ đã xuất hiện vào tháng 4 ‐ một bản sao của nó đã được
gửi đến Moscow và được dịch sang tiếng Nga vào ngày 6 tháng 6 1936. Lá thư nhắm vào thành
phần ʺViệt Nam Quốc Dân Đảng và tất cả những tổ chức và đảng phái cách mạng dân tộc,
những nhóm phản đế, những tổ chức cách tân, những nhóm đối lập và những phần tử cách
mạng đơn lẻ tại Đông Dươngʺ [95]. Bức thư đề xướng một cơ cấu uyển chuyển cho một mặt trận
thống nhất trong đó sẽ giao cho các tổ chức cộng sản hạ tầng quyền quyết định những hoạt động
chung tại cấp địa phương. Lá thư đề nghị rằng những đảng phái khác hoặc là nên gia nhập bộ
phận Đông Dương của Liên Đoàn Phản Đế hoặc mỗi tổ chức nên cử ra một vài đại diện để tham
gia vào một uỷ ban điều phối. Ban Chỉ Huy Hải Ngoại của ĐCS Đông Dương sẽ chịu trách
nhiệm trong việc thảo luận với những chi nhánh hải ngoại của những đảng phái khác [96].
Ta không biết được ai là tác giả chính thức của bức thư trên. Nhưng việc nó bao gồm những
ʺnhóm cách tânʺ trong lời kêu gọi cho thấy một trong những dấu hiệu của việc chuyển hướng
sang hình thái chiến lược mới của mặt trận thống nhất của ĐCS Đông Dương. Ta có thể chắc
chắn rằng bức thư không phải là sản phẩm chung của Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập. Vì khi Hà
Huy Tập gửi một báo cáo đến Moscow về công việc của ĐCS Đông Dương từ tháng 5 1935 đến
tháng 6 1936, Lê Hồng Phong vẫn chưa liên lạc với Ban Chỉ Huy Hải Ngoại, lúc đó đang đóng tại
Macao. [97] Ta có thể đoán rằng những lá thư tháng 2 và tháng 4 đã kêu gọi một mặt trận phản
đế với tổ chức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh) tại Nam Kinh. Theo lời Hoàng
Văn Hoan, việc này xảy ra với sự đồng ý của Hà Huy Tập vào khoảng đầu năm 1936. [98]
Nhưng trong báo cáo của mình gửi cho QTCS vào ngày 1 tháng 7 1936, Tập lại viết rằng ʺmột tổ
chức gọi là Liên Đoàn Việt Nam Độc Lập Cách Mạng đã được thành lập tại Nam Kinhʺ, và ʺmột
hội nghị giả tạo đã được tổ chứcʺ. ʺChúng tôi đã khai trừ khỏi đảng những thành viên cộng sản
nào đã thành lập liên đoàn này với Min [còn có tên là Phi Vân, Nguyễn Hữu Cam]; nó đã bị tan
rã khi bị chúng tôi lột mặt nạ,ʺ ông báo cáo [99]. (Nhưng Hoàng Văn Hoan lại viết rằng Liên
Đoàn lâm vào tình trạng bất động vì thái độ thù địch của một số người Việt quốc gia và khó
khăn khi gây quỹ [100]). Rõ ràng là Lê Hồng Phong đã từ Moscow đến thẳng Nam Kinh với
thông điệp về mặt trận thống nhất: ông đã có mối liên hệ lâu dài với Hồ Học Lãm và Nguyễn
Hải Thần, hai thành viên của tổ chức Việt Minh đầu tiên. Như những sự kiện sau này cho thấy,
ngay cả sau khi Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập liên lạc với nhau vào năm 1936, Tập vẫn tiếp tục
phản bác chiến lược sau Đại Hội 7 của QTCS.
Tại cuộc họp được tổ chức vào cuối tháng 7 tại Thượng Hải, được gọi là Hội Nghị Trung Ương
Đảng, hai nhà lãnh đạo cộng sản cuối cùng đã gặp nhau. Chính tại cuộc họp này những nghị
quyết lỗi thời từ Hội Nghị Macao đã được loại bỏ. Trên thực tế hội nghị này có thể là một cuộc
họp của Ban Chỉ Huy Hải Ngoại mà từ tháng 9 1935 đang hoạt động như một Uỷ Ban Trung
Ương; có thể những đảng viên trong nước đã không được tham dự. [101] Hội nghị đã đưa ra
một bức thư mở mới về việc thành lập mặt trận thống nhất mà giờ đây được gọi là ʺmột Mặt
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 180 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Trận Liên Hiệp Phản Đế Bình Dânʺ. [102] Cuộc họp tiếp theo sau việc thành lập của chính phủ
Mặt Trận Bình Dân tại Pháp vào tháng 5 đã mở đường cho Hà Huy Tập chuyển về Sài Gòn vào
tháng 8 để thành lập một Uỷ Ban Trung Ương mới. [103] Trên giả thuyết ông đã đem theo ʺBức
Thư Mởʺ viết vào tháng 7 và một loạt những nghị quyết phản ánh việc ĐCS Đông Dương chấp
nhận đường lối của Đại Hội 7 QTCS, nhưng trên thực tế, sau này ông đã bị tố cáo là không chịu
thực thi những chính sách mới của QTCS và đã không công bố những quyết định từ cuộc họp
vào tháng 7 tại Thượng Hải. Trong một báo cáo tóm lược mà ông đã viết vào cuối mùa hè 1937,
ông đã đề cập rằng ʺLitvinov (Lê Hồng Phong) đang ở nước ngoài như là một đại diện dự bị; vì
sự vắng mặt ấy, ông ta không có vai trò gì trong hoạt động của Uỷ Ban Trung Ươngʺ [104]. Một
người tại Ban Bí Thư Đông Phương đã viết một nhận định về bản báo cáo này vào tháng 1 / 1938
và đã ghi chú rằng: ʺLitvitov (Hải An) đã nhận công tác khi ông ấy rời khỏi Moscow để quay về
nước và tổ chức việc đưa Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương vào trong quốc nội. Sau khi
việc chuyển đổi của Hà Huy Tập diễn ra, Hải An được lệnh của Lozeray [một người cộng sản
Pháp đang cùng uỷ ban điều tra quốc hội thăm viếng châu Á]... tìm cách nắm lại quyền lãnh đạo
đảng ở trong nước. Rõ ràng là ông ấy đã thất bại trong việc nàyʺ [105]. Vì thế có thể Hà Huy Tập
đã tự ý nắm quyền vào năm 1936 khi ông quay lại Sài Gòn. Nhữngtiến triển của sự mâu thuẫn
này sẽ được phân tích ở chương kế tiếp.
Những ảnh hưởng của chính phủ Léon Blum tại Việt Nam đã được ghi chép đầy đủ, đặc biệt là
tại Nam Kỳ, nơi mặt trận La Lutte đã phát triển thành một tờ báo chung và một liên minh chính
trị giữa ĐCS Đông Dương và những người Trotskyist địa phương cho đến mùa hè 1937. [106]
Phong trào Hội Nghị Đông Dương, được bắt đầu bằng đề nghị của Nguyễn An Ninh đăng trên
tờ La Lutte vào ngày 29 tháng 7 1936, đã đem lại một làn sóng hoạt động chính trị mới trong
chính trường. Những uỷ ban hành động được thành lập, bắt đầu từ những thị trấn và làng xã
phía nam nhằm thu thập những yêu sách của dân chúng và chuẩn bị cho việc tổ chức một Hội
Nghị bao gồm những thành viên cộng sản và Trotskyist như một tổ chức đại diện cho phần đông
dân chúng. Một đợt ân xá cho các tù nhân chính trị từ tháng 7 1936 đến tháng 8 1937 đã trả tự do
cho hơn 2.000 nhà hoạt động trong đó có 643 tù nhân Côn Đảo (Poulo Condore ‐ ND) [107].
Những người tù cộng sản đã tận dụng tốt thời gian họ bị giam cầm: họ đã nâng cao trình độ lý
thuyết cộng sản và trau dồi kỹ năng hoạt động của mình. [108] Nhiều người trong họ trong đó có
một nhóm lãnh đạo quan trọng của ĐCS Đông Dương đã sớm hoà nhập với phong trào yêu cầu
nâng cao điều kiện làm việc và tự do dân chủ cho nhân dân Đông Dương. Nhưng việc chính
quyền thuộc địa không mặn mà lắm với phong trào Mặt Trận Bình Dân cho thấy làn sóng lạc
quan đầu tiên của những người Việt đối với chính phủ mới tại Pháp đã không tồn tại được lâu.
Đến tháng 9 1936 vị Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa, một người xã hội tên Marius Moutet đã thông báo
với Hà Nội rằng việc tổ chức một Hội Nghị rộng lớn tại Sài Gòn thì không thể chấp nhận
được[109]. Theo sau cuộc viếng thăm của đại diện Mặt Trận Bình Dân là Justin Godart (Thị
trưởng Lyon, thuộc đảng Xã hội cấp tiến ‐ ND) tại Sài Gòn và Hà Nội và đầu năm 1937 và những
cuộc biểu tình rộng lớn để đón chào ông, chính quyền thuộc địa đã bắt đầu một chiến dịch đàn
áp mới. Nhưng một báo cáo vào năm 1937 của Ban Chỉ Huy Hải Ngoại gửi đến Moscow đã đổ
những thất bại của phong trào Hội Nghị lên những người Trotskyist: bức thư này đã phê phán
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 181 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

La Lutte đã đẩy ʺthành phần tư sản dân tộcʺ ra khỏi mặt trận thống nhất bằng những phê bình
gắt gao [110]. ʺMặt trận thống nhất hạ tầngʺ giữa ĐCS Đông Dương và thành phần Trotskyist đã
không tồn tại trong sự thất vọng chung đối với chính phủ của Blum. Vào tháng 5 1937 ĐCS Đông
Dương đã gây áp lực đòi rút ra khỏi liên minh với ĐCS Pháp, hiện đang bận rộn với cuộc chiến
toàn diện chống lại chủ nghĩa Trotskyism của Stalin, nhưng chủ yếu chính là cam kết của QTCS
đối với những đồng minh chống phát xít đã dẫn đến việc mặt trận La Lutte bị giải thể vào tháng
6 1937. Đến tháng 8 ĐCS Đông Dương đã bắt đầu giai đoạn tái tổ chức, sẽ được thảo luận ở
chương tới.
Những hoạt động của Lê Hồng Phong tại Trung Quốc đã không được ghi chép đầy đủ như lịch
sử của mặt trận La Lutte tại Sài Gòn. Nhưng những báo cáo của Sở Liêm Phóng cho thấy từ mùa
thu 1936 đến đầu năm 1937 ông đã di chuyển trong khu vực miền nam Trung Quốc và tái lập
liên lạc với một số người trong đó có Nguyễn Hải Thần, nhà lãnh đạo phong trào dân tộc đã ly
khai khỏi Thanh Niên Hội vào năm 1927. Theo lời của mật vụ ʺKonstantinʺ, Lê Hồng Phong đã
viếng thăm Thần vào ngày 23 tháng 9 1936. Hai người được cho là đã dự định tổ chức một cuộc
họp mở rộng tại Thuận Đức (Shun De ‐ ND) [111]. Những chỉ điểm của Sở Liêm Phóng cũng tìm
thấy dấu vết của Phong vào tháng 3 và tháng 4 1937 ‐ ông được cho là đã di chuyển liên tục giữa
các vùng Thuận Đức, Phật Sơn (Fat San ‐ ND) và Quảng Châu [112]. Những hoạt động của Lê
Hồng Phong có lẽ đã tác động đến việc thành lập Mặt Trận Bình Dân của những người Việt tại
Vân Nam, sự kiện này đã được đề cập đến trong báo cáo của tình báo quân sự Pháp vào tháng 3‐
4 1937. Báo cáo này đã nhắc đến ba tiểu tổ quan trọng nhất của ʺQuốc Dân Đảngʺ tại Hà Khẩu
(Hekou ‐ ND), Khai Nguyên (Kai Yuan ‐ ND) và Côn Minh (Kun Ming ‐ ND) đã tham gia mặt
trận này, bản báo cáo gọi nó là ʺchi bộ của phân bộ Bắc Kỳ của Mặt Trận Bình Dân Đông
Dươngʺ[113].
Ở đây chúng ta thấy được một trong những dấu hiệu ban đầu của mặt trận thống nhất tại Bắc
Kỳ (cũng như ở miền trung Việt Nam] đã mang một hình thái khác với mặt trận thống nhất tại
Sài Gòn. Rõ ràng là đã không có những cơ hội cho những nhà hoạt động tại miền bắc. Nhưng
cũng đúng là tại Hà Nội thành phần Troskyist đã không có một tổ chức vững mạnh và dường
như đã không xâm nhập được vào trong phong trào công nhân. Hơn nữa, cũng không có thành
phần tư sản tương đương của Đảng Lập Hiến tại vùng này. Vì thế khi những người tù cộng sản
được phóng thích bắt đầu xuất hiện tại Bắc Kỳ vào cuối năm 1936, ĐCS Đông Dương đã không
gặp trở ngại gì trong việc tổ chức phong trào lao động. Cùng lúc đó họ đã cởi mở để tạo một liên
minh chính trị với những lực lượng trung lưu và dường như đã đóng vai trò chủ chốt trong việc
thành lập chi bộ Việt Nam của Đảng Dân Chủ SFIO (Section Francaise de IʹInternationale
Ouvrière ‐ Phân Bộ Pháp của Liên Đoàn Lao Động Quốc Tế ‐ ND) tại miền bắc. Vào tháng 3 1936
tờ báo lưỡng nguyệt LʹAvenir (Tương Lai ‐ ND) bắt đầu xuất hiện. Những người cộng tác bao
gồm Võ Nguyên Giáp, Phan Anh, Đặng Thai Mai, Vũ Đình Huỳnh và Bùi Ngọc Ái, đa số họ sẽ
đóng vai trò quan trọng trong tổ chức Việt Minh. [114] Vào tháng 11 1936 một nhóm hỗn hợp
gồm những thành viên của ĐCS Đông Dương và Trotsyist đã thành lập tờ Le Travail (Lao Động
‐ ND), một tờ báo hổ trợ việc phóng thích những tù nhân chính trị và tổ chức việc chuẩn bị cho
chuyến viếng thăm của Justin Godart. Trong số những nhà báo hàng đầu của tờ báo này có Đặng
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 182 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

Xuân Khu, một nhà hoạt động từ Nam Định đã từng làm việc với Nguyễn Đức Cảnh vào năm
1929 trước khi bị bắt đi tù tại Bắc Kỳ vào năm 1930. Sau này ông chính là người được biết nhiều
với cái tên ông lấy vào năm 1945 là Trường Chinh. Đến tháng 1937 nhóm Travail đã hợp tác với
SFIO và Đảng Cấp Tiến (hai tổ chức của Pháp) trong kế hoạch thành lập một chi bộ của SFIO tại
Bắc Kỳ [115]. Vào tháng 4 1937 Phạm Văn Đồng cũng đã tham gia nhóm này, ông đang bị giam
lỏng ở Huế sau khi vừa được phóng thích. Một báo cáo của Sở Liêm Phóng cho biết rằng ông là
một nhà báo tài ba và đã được cử làm biên tập viên cố định của tờ Le Travail [116]. Nhưng tờ
báo đã phải đóng cửa ngay sau khi Đồng tham gia vì nhà xuất bản bị những vụ phạt vạ và kiện
cáo. Đến mùa hè 1937, những bất đồng giữa nhóm Trotskyist và ĐCS Đông Dương đã làm thất
bại cố gắng đầu tiên để thành lập mặt trận thống nhất tại Hà Nội [117]. Nhưng ĐCS Đông
Dương vẫn tiếp tục theo đuổi việc liên minh với những trí thức quốc gia và những thành viên
khác của thành phần tư sản tại Bắc Kỳ.

Những năm cuối của Hồ Chí Minh tại Moscow
Sau Đại Hội 7 Hồ Chí Minh vẫn ở lại Đại Học Lenin cho đến cuối năm 1935, nhưng sang năm
1936 ông đã là giảng viên trong bộ phận Đông Dương tại Đại Học Stalin, nơi hai đại biểu người
Việt của Đại Hội 7 đang theo học. Một báo cáo về một cuộc họp của giảng viên và học viên của
bộ phận này vào tháng 4 1936 cho thấy ʺLinʺ và Vere Vasilieva đã làm việc chung với nhau, rõ
ràng là để thiết lập một khoá đào tạo về Đông Dương. Bà làm chức giảng viên chủ đạo trong Bộ
Phận Đông Dương. ʺThật dễ chịu khi làm việc với ông ấy vì ông ấy là một chuyên gia trong đề
tài về đất nước ông,ʺ bà nhận xét; ʺông ấy biết về tình hình đất nước nhưng không được hệ
thống mấy.ʺ Họ làm việc về những khó khăn chính trị như vấn đề nông dân. ʺÔng ấy có rất
nhiều kinh nghiệm cách mạng, nhưng cũng như những đồng chí người Đông Dương khác, ông
đã mắc phải rất nhiều sai lầm, hiện nay chúng tôi đang chú tâm rất nhiều về những vấn đề này...
ông ấy đã có nhiều tiến bộʺ [118]. Một số nguồn tài liệu của Việt Nam nói rằng Hồ đang dự định
soạn thảo một luận cương về vấn đề nông dân, nhưng tôi đã không thấy một bằng chứng nào về
việc này ngoài báo cáo của Vasilieva . Một trong những học viên của Hồ là ʺVăn Tânʺ (Hoàng
Văn Nọn] đã than phiền rằng Đồng Chí Lin đã đặt ông vào một chế độ ʺStakhanoviteʺ (lấy từ tên
của Alexey Stakhanov, người phát động phong trào thi đua lao động tăng năng suất, vượt chỉ
tiêu kế hoạch ở Nga ‐ ND) trong một khoá học ‐ trong vòng một tháng ông đã phải hoàn thành
toàn bộ lịch sử của ĐCS Liên Xô, và vì không có tài liệu, ông đã phải thuộc lòng mọi thứ. ʺĐồng
Chí Lin nói rất nhanh, cứ như một bánh xe đang xoay,ʺ ông nói; ʺđó là nguyên nhân về tình
trạng kiến thức của tôi [119]. (Ta có thể đoán được rằng Hồ đã không có hứng thú gì trong việc
giảng dạy cho người thanh niên dân tộc Tày này về phiên bản lịch sử đảng đã được Stalin hoá từ
năm 1935. Ta biết rằng khi Hồ muốn giảng điều gì, ông sẽ bỏ nhiều công sức để giải thích vấn đề
một cách rõ ràng và đơn giản).
Vào cuối năm 1936 Vasilieva thảo ra một kế hoạch đào tạo cho những học viên Đông Dương
trong đó bà đưa ra chi phí cho 10 học viên người Việt đến Moscow. Kế hoạch cũng đề xuất việc
thành lập một trường đào tạo mới tại Trung Quốc để giảng dạy những lớp chính trị dài 2 tháng
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 183 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

cho những hoạt động viên cấp thấp từ Việt Nam. Bà dự định một ngân sách 3.000 đô‐la Mỹ để
đào tạo 10 học viên cho mỗi khoá hai tháng. Điểm thứ chín trong bản đề xuất của bà có nhắc đến
rằng ʺchúng ta phải quyết định vấn đề gửi Đồng Chí Lin, người đã hoàn tất công việc nghiên
cứu tại Moscow, về để tổ chức và giảng dạy tại trường này.ʺ Nhưng ở cuối bản đề xuất của bà, ai
đó đã viết: ʺMọi đề nghị đều bị huỷ bỏ sau khi vấn đề đã được làm sáng tỏ” [120] ʺVấn đềʺ là gì
thì không được giải thích, nhưng chúng ta biết rằng Đồng Chí Lin đã phải lưu lại Moscow để
tiếp tục học tập.
Đến năm 1937, Đại Học Stalin được tái tổ chức với những học sinh không thuộc Liên Xô được
đưa vào ʺHọc Viện Khoa Học về việc Nghiên Cứu các Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địaʺ. Một tên
mới có vẻ trung lập hơn nhưng không có nghĩa là nhà trường đã thay đổi chức năng của mình.
Trong một bức thư gửi cho ʺHội Đồng Quản Trị Sô Viếtʺ vào tháng 4 1938, một quản trị viên của
nhà trường giải thích rằng chức năng của Học Viện là nhằm đào tạo những thành viên của các
đảng nước ngoài ‐ cái tên chỉ là vỏ bọc và không phản ánh tính chất thật sự về hoạt động của
trường, ông viết. [121] Hồ vẫn ghi danh là giảng viên và học viên tốt nghiệp, ông tham dự ʺlớp
đầu tiênʺ của Khoa Lịch Sử. Ông đã không tỏ vẻ phấn khởi mấy trong việc học tập của mình: ông
chỉ đạt điểm ʺtrung bìnhʺ trong các lớp ʺDuy Vật Biện Chứngʺ, ʺLịch Sử Cổ Đạiʺ và ʺLịch Sử
Trung Đạiʺ. Chỉ có môn ʺLịch Sử Cận Đạiʺ là ông nhận được điểm ʺxuất sắcʺ. Địa vị giảng viên
của ông dường như rất thấp ‐ ông giảng dạy môn ʺNghiên Cứu về Đông Dươngʺ bằng tiếng
Việt. Ngược lại, ʺMininʺ Nguyễn Khánh Toàn, người đã từng học tại Cao Đẳng Hà Nội, được
nhận chức ʺquyền giảng viênʺ trong các môn ʺKinh Tế Chính Trịʺ, ʺLịch Sử Tổng Quátʺ, và
ʺNghiên Cứu Quốc Giaʺ. [122] (Việc Nguyễn Khánh Toàn lưu lại Moscow lâu dài đã không được
giải thích. Ông quay về lại Trung Quốc vào năm 1939).
Đến giữa năm 1938, khi Hồ Chí Minh chuẩn bị rời Moscow, Học Viện đã bị đóng cửa. Pavel Mif,
Giám Đốc Học Viện và là cánh tay phải của Stalin về những vấn đề Trung Quốc từ năm 1928, đã
bị bắt vì tội danh ʺkẻ thù nhân dânʺ trong khoảng năm 1937. Ông bị tử hình vào năm 1938. Trong
suốt những năm 1937 và 1938 rất nhiều lãnh đạo ĐCS Nga và những nhà hoạt động của QTCS bị
bắt và xử bắn. Những thành viên QTCS từng giúp thực hiện đường lối cứng rắn của những năm
1928‐9 đã bị trừng phạt nặng nề. Những người này gồm thành viên người Ba Lan ʺRylskiʺ,
ʺBailisʺ (người soạn thảo cuốn Kháng Chiến Vũ Trang], Volk, Vasiliev, Safarov và cả Piatnitsky
(Orgwald]. Những chuyên viên về vấn đề nông dân từng theo dõi công tác của Hồ Chí Minh
trong giữa thập niên 1920 là Dombal và ʺVolinʺ cũng bị cuốn vào làn sóng thanh trừng. [123]
Trong khi đó ba thành viên cộng sản Nga là Trotsky, Zionev và Bukharin, những người đã từng
lãnh đạo QTCS cho đến năm 1929 đã bị đánh bật.
Thật khó mà tưởng tượng được rằng một người cộng sản kỳ cựu như Hồ Chí Minh lại có thể tiếp
tục hoạt động trong suốt thời kỳ đảo điên này. Nhưng đến tháng 1 1938 ông vẫn đang dịch
những thư từ hiếm hoi từ Đông Dương gửi đến Moscow. Việc ông sống sót trong suốt những
tháng năm tồi tệ nhất của phong trào thanh trừng được xem là dấu hiệu của việc Hồ được bảo vệ
bởi một trong những lãnh đạo cao cấp còn sót lại đó là Manuilsky, hoặc ông là một người
Stalinist thuần thành. Về giả thiết thứ hai, chúng ta biết rằng Stalin đã có rất nhiều thay đổi trong
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 184 Diễn đàn www.x‐cafevn.org

chính sách vì thế Hồ không thể nào đã không có mâu thuẫn với đường lối của Stalin trong vài
giai đoạn nào đấy. Như Hồ đã cho thấy trong năm 1924, ông sẵn sàng hợp tác với bất kỳ nhóm
nào đang nắm quyền lực tại QTCS nhằm xúc tiến cho nền độc lập của Việt Nam. Nhưng ngay cả
việc im lặng phục tùng vẫn không đủ để cứu ông nếu ông là một người Ba Lan, Baltic, Đức hoặc
Thổ Nhĩ Kỳ. Những người này đã bị Stalin tấn công với toàn bộ chủ tâm trả thù của mình trong
những năm 1937‐8. Đại diện QTCS từ những đảng hợp pháp như các ĐCS Pháp, Anh và Mỹ
nhìn chung đã được dung thứ. [124] Trong trường hợp của Hồ Chí Minh, việc ông đến từ một
đất nước xa xôi với một ưu tiên thấp trong chính sách ngoại giao của Liên Xô có thể là một phần
nguyên nhân tại sao ông đã không bị bắt. Cùng lúc ấy, ông cũng đã thực hành việc mà ông đã
làm từ lâu là giữ thấp danh phận của mình tại Moscow và không bao giờ nhận mình là một nhà
lý luận như M.N.Roy đã làm. Trong bản thẩm tra lý lịch mà ông đã điền khi ghi danh vào Đại
Học Lenin năm 1934, ông vẫn luôn giữ bí mật. Ông viết rằng ông không có người thân trưởng
thành, không vợ, không chuyên môn, không nghề nghiệp và cũng không biết mình có thể làm
được trong lĩnh vực gì. Vào cuối bài tiểu sử ngắn của mình, ông viết một cách châm biếm: ʺTôi
nghĩ rằng đấy là tất cả những gì về lý lịch của tôi hiện nayʺ [125].
Về mối quan hệ giữa ông và Dmitry Manuilsky, ta biết qua một bức thư ông gửi đến Ban Bí Thư
của Manuilsky vào ngày 6 tháng 6 1938 rằng hai người đã không gặp nhau trong một thời gian
dài. Hồ viết: ʺThưa Đồng Chí, tôi vô cùng biết ơn nếu đồng chí cho phép tôi được gặp. Lâu lắm
rồi đồng chí đã không gặp tôi.ʺ Hồ chỉ ra rằng đã 7 năm rồi kể từ ngày ông bị bắt giữ tại Hồng
Kông và cũng là bắt đầu năm thứ 8 của việc ông bị ʺbất độngʺ: ʺGửi tôi đi một nơi nào đấy. Hoặc
giữ tôi tại đây. Hãy sử dụng tôi trong việc gì mà đồng chí cho là có ích. Tôi chỉ yêu cầu đồng chí
đừng để tôi sống tại đây quá lâu mà không làm gì bên ngoài đảng” [126] Hồ sơ của Học Viện
Khoa Học về việc Nghiên Cứu các Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa cho thấy ước nguyện của ông
đã được chấp thuận và vào ngày 29 tháng 9 1938 ông chính thức được giải toả. [127] Không bao
lâu sau dường như ông đã khởi hành đi Trung Quốc. Một lần nữa, chúng ta hoàn toàn không
biết nhiệm vụ của Hồ là gì khi ông rời Moscow đi Trung Quốc. Nhưng ta biết rằng ông quay lại
với tư cách là một phái viên chính thức của QTCS đối với ĐCS Đông Dương. Vasilieva đã can
thiệp với Dimitrov để họ chịu nghe Hồ phát biểu trước khi ông khởi hành. Bà giải thích trong
một bức thư ngắn: ʺĐiều quan trọng là ai đó trong thành phần lãnh đạo nên nói chuyện với
Đồng Chí Lin trước khi ông ấy ra đi về những vấn đề liên quan đến những bất đồng bên trong
thành phần lãnh đạo Đảng [CS Đông Dương] mà hiện nay vẫn còn tồn tại. Lin là một thành viên
của Uỷ Ban Trung Ương, có nhiều quyền lực trong Đảng, và vì ông ấy từ Moscow về, họ sẽ chú ý
lắng nghe những gì ông nói. Vì thế rất quan trọng là ông ấy cần nói đúng. [128] (Dường như vào
thời điểm này ít nhất Hồ vẫn được xem là một uỷ viên dự khuyết của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS
Đông Dương).
Trên thực tế niềm tin của Vasilieva đối với uy quyền từ Moscow dường như đã không đặt đúng
chỗ. Chương kế tiếp tôi sẽ phân tích những bất đồng bên trong thành phần lãnh đạo ĐCS Đông
Dương đã làm chia rẽ đảng này từ 1936 đến 1940. Mãi cho đến tháng 5 năm 1941, hai năm sau
khi Hồ về lại Trung Quốc, ông mới chính thức chuyển giao thông điệp của mình đến Uỷ Ban
Trung Ương Đảng.
Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge
Diên Vỹ và Hoài An 185 Diễn đàn www.x‐cafevn.org



No comments: