Saturday, November 15, 2008

1.NHÂN VĂN SỐ 1

==


Báo văn hoá, xã hội - Chủ nhiệm: Phan Khôi - Thư ký toà soạn: Trần Duy - Trụ sở: 43 Tràng Tiền, G.N. (Giây nói 21.17) - Khổ 38 x 55, 6 trang - Số 1, ra ngày 20-9-1956. In tại nhà in Xuân Thu. Mỗi số: 300 đ.


Mục lục

* Mấy dòng ra mắt của Nhân văn
* Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ - Ý kiến của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường
* Phan Khôi - Trả lời một tờ báo ở Sài Gòn
* Nguyễn Sáng - Khi trăng lên (tranh sơn mài)
* Người quan sát - Một đợt học tập và đấu tranh của giới văn nghệ


=====
* X.Y.Z. - Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng
* Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần
* Nguyễn Sáng - Chân dung Trần Dần (ký hoạ)
* Tổ Ba Người - Đây mới là thủ phạm!
* Danh sách các bạn đã góp tiền ra báo
* Hàn Phi Tử - Tường đổ
* Lê Đạt - Nhân câu chuyện mấy người tự tử
* Hoàng Huế - Một cuốn sách chụp mũ
* Địa ngục miền Nam
* Hà Bá - Mầu sắc
* Trần Duy - Hậu trường sân khấu ‘tố cộng’ ở miền Nam (tranh châm biếm)
* Trần Công - Chống bè phái trong văn nghệ
* Trúc Lâm - Không phải truyện cười
* Quảng cáo cho Nhân văn số 2

====



Mấy dòng ra mắt của Nhân văn [1]

Vừa lúc Đảng và Chính phủ đang có kế hoạch phát triển văn hoá, cải thiện sinh hoạt xã hội, chúng tôi cho ra tờ báo Nhân văn để đóng góp một phần nhỏ mọn vào công việc đó.

Vì vậy nên phần ngôn luận chủ yếu của nó được nêu lên là: văn hoá và xã hội.

Ngoài ra, trong nước nay mai sẽ có cuộc Đại hội Văn nghệ Toàn quốc. Báo Nhân văn cũng coi trọng việc ấy, dành một phần tờ báo cho việc thảo luận các vấn đề văn nghệ để góp phần xây dựng Đại hội.

Tóm lại, báo Nhân văn đứng dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác- Lênin với tinh thần thực tiễn, để xúc tiến công cuộc củng cố miền Bắc, thống nhất nước nhà, để dọn đường đi đến thực hiện xã hội chủ nghĩa, theo như ý muốn của Đảng cũng là ý muốn của nhân dân cả nước.

Hứa nhiều mà làm ít, không bằng hứa ít mà làm nhiều. Lấy lời nói để được tín nhiệm, không bằng lấy việc làm để được tín nhiệm. Bởi vậy chúng tôi, khi bắt đầu ra mắt bạn đọc, nói ít mà hứa cũng ít.

NHÂN VĂN


*



Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ
Ý kiến của luật sư Nguyễn Mạnh Tường, Giáo sư Đại học [2]


Câu hỏi

1. Theo ý ông, lúc này giới trí thức nói chung và giới văn nghệ nói riêng, cần phải làm những gì để góp phần thực hiện mở rộng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu và sáng tác?

2. Theo ý ông và trên cơ sở nhu cầu phát triển của ngành ông thì chúng ta cần phải đem ra thảo luận rộng rãi những vấn đề gì?



Trả lời

1. Các tự do tư tưởng, ngôn luận, nghiên cứu, sáng tác, toàn là những tự do dân chủ. Qua phong trào phát động dân chủ do Đảng Lao động, Chính phủ và Mặt trận chủ trương và tổ chức, ta nhận thấy sự thực hiện dân chủ trong 2 năm vừa qua còn thiếu sót nhiều. Nguyên do ở đâu? Theo ý tôi là vì:

1. Đảng viên Lao động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tinh thần dân chủ. Do đó xa lìa quần chúng, và tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình. Để sửa đổi, cần xây dựng quan điểm quần chúng cho đảng viên và cán bộ, và yêu cầu Trung ương Đảng và Chính phủ đảm bảo sự thi hành triệt để các tự do dân chủ.

2. Quần chúng chưa thấm nhuần tinh thần chủ nhân ông trên đất nước, do đó chưa tranh đấu đòi thực hiện dân chủ. Để sửa chữa, ta cần xây dựng ý thức dân chủ cho quần chúng.

Sở dĩ tinh thần dân chủ còn thiếu sót hiện thời là vì trong thời kì kháng chiến vừa qua, quyền hưởng các tự do dân chủ gặp nhiều trở ngại do cuộc chiến đấu võ trang giành độc lập tạo ra. Khi ấy, quần chúng nhận định rằng chưa phải lúc đòi hỏi các tự do dân chủ. Bây giờ ta đã chuyển sang đấu tranh chính trị trong hoà bình, nhưng có một số chưa có nhận thức rõ điều ấy và tiếp tục duy trì tác phong hạn chế dân chủ. Đó là một sai lầm nghiêm trọng. Vì trên trường quốc tế, phong trào dân chủ rất mạnh, song song với phong trào hoà bình. Vì trong nước có thực hiện được đầy đủ dân chủ ở miền Bắc thì mới có lợi cho cuộc tranh đấu thống nhất đất nước.

Có người, để chối từ thực hiện dân chủ, nói rằng nếu ta làm như vậy, sẽ có người lạm dụng các tự do dân chủ. Nhận định như vậy không đúng. Đứng trên lập trường cách mạng, ta phải tín nhiệm quần chúng, đặc biệt quần chúng trí thức hết sức thiết tha với các tự do dân chủ và sẵn sàng mang hết khả năng ra phục vụ nhân dân, nếu được sống trong một bầu không khí thực sự dân chủ.

2. Đối với ngành Đại học, vấn đề chủ yếu là xây dựng một nền đại học xứng đáng với chính thể của chúng ta, với sự đòi hỏi của quần chúng trong Nam cũng như ngoài Bắc, với dư luận trên trường quốc tế. Do đó, theo ý tôi và ý các giáo sư đại học Trung Quốc, Liên Xô, Ba Lan, Lỗ, Tiệp mà tôi vừa được tiếp xúc trên trường quốc tế, thi Đại học của ta phải xây dựng trên cơ sở 2 nguyên tắc:

1. Tác phong của cấp lãnh đạo phải thật sự dân chủ. Quyền quyết định là do cấp lãnh đạo sử dụng, nhưng nếu tranh thủ được ý kiến của quần chúng cơ sở có đủ điều kiện để nhận định tình hình và để đề đạt nguyện vọng, thì quyết nghị của cấp lãnh đạo mới có hy vọng đảm bảo được tổ chức và đưa công tác đến chỗ thành công.

2. Lựa chọn cán bộ thì phải dựa vào tiêu chuẩn chuyên môn là chính. Dĩ nhiên cán bộ thì phải có lập trường chính trị, điều ấy không ai chối cãi. Nhưng nếu chỉ có lập trường chính trị mà thôi thì chưa đủ vì thực hiện công tác phải đủ khả năng chuyên môn. Đảm bảo được một giáo trình đại học không phải là một việc chỉ đòi hỏi ở cán bộ một hay hai năm nghiên cứu. Đặt một người vào một cương vị đại học không khó: chỉ cần một chữ ký. Nhưng người được đặt vào cương vị ấy, muốn chứng minh rằng mình xứng đáng, sẽ gặp rất nhiều trở ngại nếu mình thiếu khả năng chuyên môn. Điều động cán bộ vào đại học không thế giải quyết theo cảm tình, trái lại phải giải quyết trên nguyên tắc của nền giáo dục mới và chính sách đối với trí thức. Không thể chú trọng đến cá nhân mà phải chú trọng đến tổ chức. Dư luận của quảng đại quần chúng trong nước từ Nam chí Bắc, và trên trường quốc tế, rất sáng suốt và theo rõi tình hình Đại học của nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà. Nếu quả thực ta quý trọng chính thể của ta, nhất định ta không để một ai có thể dị nghị về chính sách đối với trí thức nói chung, đối với đại học nói riêng.


Sẽ đăng: Ý kiến bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nhà sử học Đào Duy Anh, nhà văn Nguyễn Đình Thi v.v…


=======


Phan Khôi
Trả lời một tờ báo ở Sài Gòn [3]

* Vâng, tôi chỉ là một tên đầy tớ nhưng mà là đầy tớ của nhân dân chứ không phải đầy tớ của đế quốc và địa chủ.

* Còn những người cộng sản Việt Nam, họ cũng chỉ là đầy tớ của nhân dân như tôi.


Tờ báo Cách mạng quốc gia ra ở Sài Gòn, trong số ngày 1-9 mới rồi, có một bài nói đến tôi, đề là "Phan Khôi bị chỉnh".

Trong bài, dựa vào hai mẩu vụn ở mục "Sổ tay" của hai số báo Cứu quốc 2.772 và 2.774 vừa rồi mà kết luận rằng tôi "làm đầy tớ Việt cọng". Người viết như lấy làm lạ lắm mà bài hãi than rằng: "Tài ba ấy đáng làm thầy thế mà lại chọn đi làm đầy tớ nhỉ!".

Các anh viết báo ở Sài Gòn có lạ gì với tôi đâu? Thuở nay tôi có hề chịu làm đầy tớ ai, các anh vẫn biết: nhưng bây giờ các anh có nói tôi “chịu làm đầy tớ", ấy là tự các anh muốn nói thế thì cứ nói.

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chưa phải là chính phủ cọng sản, còn lâu lắm mới đi lên chủ nghĩa cọng sản, nhưng các anh nói là "Việt cọng", thì riêng phần tôi, tôi lại sợ gì mà không nhận là "Việt cọng"?



Các anh nói hơi sai một chút: Tôi theo "Việt cọng", đồng ý và hợp tác với "Việt cọng" chứ không "làm đầy tớ cho Việt cọng" như các anh nói.



Tôi viết báo ở Sài Gòn tám chín năm, các anh há lại không biết tôi luôn luôn phản đối phong kiến triều Nguyễn vì thực dân Pháp sao? Trong thời kỳ từ 1939 đến 1945, là lúc dân tộc Việt Nam có cơ phục hưng, trông thấy nước Việt Nam Dân chủ Cọng hoà thành lập, tôi được làm một công dân, tôi lấy làm hân hạnh lắm. Đến khi thực dân Pháp toan xâm chiếm lần nữa, tôi chạy lên Việt Bắc theo chính phủ chống Pháp để lấy nước lại, sao các anh lại gọi tôi là "làm đầy tớ"?



Các anh dù thế nào cũng có lòng yêu nước nhưng vì lẽ gì đó mà các anh không theo kháng chiến được, mà bây giờ đành phải viết mà sống dưới chính quyền Ngô Đình Diệm, tôi không nỡ trách. Đã thế thì các anh nên biết điều một chút mới phải, chứ sao lại đi nói xấu tôi là một người theo chính nghĩa, chống ngoại xâm để mưu độc lập cho nước nhà?

Các anh đều là người có học thức như tôi, hoặc giả lại còn thấy biết rộng hơn tôi, một nhà nho cổ lỗ đã quá thời. Chúng ta đã biết lịch sử thế giới từ dùng đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, tiến đến hơi nước, sức điện và bây giờ đến nguyên tử, xã hội loài người từ chế độ thị tộc, nô lệ đến phong kiến, tư bản, đế quốc, và ngày nay đế quốc sắp suy sụp rồi thì còn tiến đến cái gì? Các anh nếu không che giấu cái học thức của mình, thành thật mà nói, thì các anh phải nói như tôi rằng: Tiến đến chủ nghĩa cọng sản.

Sau đại chiến thứ hai, cả thế giới có nhiều nước đã trở nên nước dân chủ nhân dân và tiến lên xã hội chủ nghĩa, đó là cái cơ tiến lên cọng sản đó. Các anh là người viết báo, nếu các anh phủ nhận điều đó là các anh phản lại trí thức của mình, dối với lòng mình.

Chẳng sớm thì chầy, nước Mỹ là thầy của Ngô Đình Diệm rồi cũng phải đi đến cọng sản. Cứ xem cuộc bãi công của 65 vạn thợ gang thép vừa rồi thì đủ biết. Đó là nhân dân Mỹ bắt đầu làm cách mạng vô sản, từ bãi công, rồi đến cuối cùng là cầm võ khí: Công nghiệp nước Mỹ tiến bộ lắm, khi nó đã cách mạng, nó còn đi tới cọng sản nhanh hơn nước Nga.

Chưa biết ngày nào, chứ nước Việt Nam chúng ta cũng sẽ là một nước cọng sản. Không chừng, tôi chỉ sợ nước Việt Nam trở thành cọng sản sau nước Mỹ thì bẽ lắm.

Các anh cũng biết như tôi, mà các anh lại cứ đi nói “Việt cọng”, “Việt cọng”, làm như cọng sản là cái gì ấy, là thế nào ấy: Có kẻ còn hùa với Ngô Đình Diệm mà “tố cọng”, làm cho tôi buồn cười.

Tôi khuyên các anh viết báo dưới chính quyền Ngô Đình Diệm thì cứ viết, nhưng cốt nhớ một điều là phải để cái mặt mà nhìn nhau, cái ngày gặp nhau không xa đâu.


*



Hình chụp bức tranh “Khi trăng lên” của Nguyễn Sáng (ảnh: Lúa Vàng, bản kẽm: Tham) với lời ghi: “Khi trăng lên là một bức tranh sơn mài đẹp, một tác phẩm có giá trị trong Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc 1955, nhưng vì sự sai lầm của lãnh đạo nên đã chìm đi cùng với một số tác phẩm khác. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ nói rõ trong số báo tới.”


*


Người quan sát
Chuẩn bị Đại hội Văn nghệ Toàn quốc - Một đợt học tập và đấu tranh của giới văn nghệ [4]

Trong tháng Tám vừa qua, Hội Văn nghệ đã tổ chức tại Thủ đô một đợt học tập mười tám ngày nhằm mục đích nâng cao trình độ lý luận văn nghệ của anh chị em công tác trong ngành.

Sáu tập tài liệu đưa ra làm cở sở cho việc bàn cãi đã gợi những quan điểm về hiện thực, điển hình, đảng tính… Và chương trình đã được sắp xếp để đón một cuộc “cao đàm khoát luận” chưa từng có và chưa thể kết luận.

Ý định của Thường vụ Hội là như vậy, nhưng trên ba trăm người tham gia học tập đã dần dần từ thảo luận nguyên tắc sáng tác chuyển sang kiểm điểm phong trào, đem lý luận đối chiếu với thực tế, liên hệ bản thân cũng có, nhưng chủ yếu là liên hệ lãnh đạo.

Mà phê bình lãnh đạo ngày nay, nhờ có ảnh hưởng của Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, thường là rất mạnh bạo chứ không còn e dè, quanh co như cái thời phục tùng mù quáng hoặc có thắc mắc thì trước mặt cả nể, kể lể sau lưng nữa. Anh chị em đã phát huy tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, đem hết nhiệt tình cách mạng ra mà nói thẳng, nói thật, nói hết. Thế là việc học tập trở nên sôi nổi, nhất là ở bước cuối thì người ta có thể nói đến một không khí bừng bừng đấu tranh, làm cho chẳng những giới văn nghệ như cựa mình một cái thực mạnh mà nhiều ngành khác ở thủ đô cũng như thấy rung động lây.

Qua những sự việc mà anh chị em phát hiện cũng như qua những ý nghĩ, tình cảm mà anh chị em bộc lộ, chúng ta đã thấy phong trào văn nghệ trong sáu bảy năm nay đã có những sai lầm nghiêm trọng về mặt lãnh đạo. Quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác đã bị vi phạm một cách có hệ thống.

Nói chung, ở hầu hết các Tổ, anh chị em đã chú ý phân tích hai hiện tượng song song: Trong quá trình phát triển, văn nghệ mới Việt Nam có bị kìm hãm. Rồi anh chị em đặt câu hỏi: Cái gì kìm hãm nó? Ai kìm hãm nó? Và nó đã bị kìm hãm như thế nào?

Những câu trả lời rất nhiều và bao gồm đủ mọi khía cạnh, song có điều rõ rệt nhất là không có một ai coi đó là do những khó khăn tất yếu của lịch sử. Hai nhận định “Đảng đúng nhưng cán bộ sai” và “chính sách đúng nhưng thi hành sai” vừa mới được đưa ra đã bị phản đối kịch liệt.

Nhờ có sự sáng suốt ấy, anh chị em đã không bị lạc vào con đường vòng quanh vô bổ là kiểm điểm tác phong của người này, cấp nọ nó chỉ cành lá của vấn đề mà quên cái then chốt là kiểm điểm đường lối và chính sách nó mới là cái gốc của vấn đề. Nói khác ra, anh chị em đã thẳng thắn xây dựng Trung ương Đảng về quan niệm, tư tưởng và chủ trương lớn trong văn nghệ chứ không làm cái việc vụn vặt, hời hợt là đưa ra một số sự việc xấu, một số người làm bậy để “tố khổ”.

Ngay ở phần chỉ trích những sai lầm của bản thân cán bộ phụ trách, anh chị em cũng tìm ra được nhân tố quyết định là bè phái chứ chẳng mất thì giờ đánh vào hai bung xung là “quan liêu” và “mệnh lệnh”.

Cuối cùng, một bản tham luận của Tổ văn 2 do anh Nguyễn Hữu Đang đọc vào buổi tổng kết 26-08-56 đã thâu tóm được những ý kiến chính của anh chị em trong ba điểm dưới đây:

1. Đường lối lãnh đạo văn nghệ của Trung ương Đảng hẹp hòi, gò bó do nhận thức không đúng về mối quan hệ giữa chính trị và văn nghệ;

2. Trung ương Đảng chưa có một chính sách cụ thể hẳn hoi về văn nghệ;

3. Tổ chức (bộ phận trực tiếp lãnh đạo văn nghệ) không hợp lý và không trong sạch, nguy hiểm nhất là có tính chất bè phái.

Bản tham luận này ngay trước khi đem đọc đã được bàn tán và chờ đợi nhiều, khi đem đọc nó được hoan hô nhiệt liệt (17 lần vỗ tay dài) và sau khi đọc đã có vang dội rất lớn.

Buổi tổng kết phản ánh cuộc đấu tranh nội bộ trong ngành văn nghệ đã lên tới độ cao. Cho nên qua lời tổng kết của anh Nguyễn Đình Thi và lời tự kiểm thảo sơ bộ của anh Tố Hữu, mặc dầu chưa đúng mức, chúng ta thấy bộ phận lãnh đạo cũng đã phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sửa chữa.

Đề đẩy mạnh đấu tranh, Tổ 2 đưa ra bốn đề nghị:

1. Thường vụ Hội sẽ bố trí cho anh chị em học tập nữa, hướng vào yêu cầu của Đại hội sắp tới là sửa đổi đường lối và chấn chính tổ chức;

2. Bổ sung vào Thường trực Ban trù bị Đại hội một số đại biểu do anh chị em bầu ra. Số đại biểu này sẽ đông hơn số người chỉ định trước. Đồng thời nếu trong Ban Trù bị có những người bị anh em chỉ trích nhiều thì cũng nên rút lui;

3. Giới văn nghệ được gặp đại diện Trung ương Đảng để trực tiếp phản ánh tình hình phong trào và đề nghị một số chủ trương đặng đổi mới văn nghệ. Đồng thời anh chị em sẽ được Trung ương Đảng cho biết rõ chủ trương của Trung ương từ trước đến nay về văn nghệ để anh chị em căn cứ vào đó mà tiếp tục tiến hành việc kiểm điểm lãnh đạo cho được sát đúng;

4. Mở rộng tự do ngôn luận bằng cách Thường trực Ban trù bị Đại hội (đã được bổ sung) sẽ cùng với Thường vụ Hội giúp đỡ cho việc ra thêm báo của anh chị em được dễ dàng. Nhà xuất bản Văn nghệ từ nay đến Đại hội phải dành ưu tiên cho những tài liệu của anh chị em bàn về lý luận hay tổ chức văn nghệ.

Dư luận đại đa số anh chị em tán thành bốn đề nghị trên và đang nóng lòng chờ đợi sự thi hành.


*


X.Y.Z.
Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng [5]

Các bạn đã đọc các sách Sửa đổi lối làm việc, Thuốc đắng giã tật v.v… chắc các bạn cũng biết cụ X.Y.Z. là người chí công vô tư bao giờ cũng nói thật, nói thẳng, nói hết. Chúng tôi xin giới thiệu một đoạn văn dưới đây của cụ nói về phê bình:

Thuốc đắng dã tật
Nói thật mất lòng

Có những cán bộ tưởng rằng: nếu công khai phê bình những khuyết điểm của mình, thì sẽ có hại vì:

* Kẻ địch lợi dụng để phản tuyên truyền;

* Giảm bớt uy tín của đoàn thể và chính quyền;

* Làm mất thể diện của cán bộ đã phạm khuyết điểm ấy;

* Chỉ phê bình qua loa ở nội bộ là đủ rồi.

Thế là tưởng lầm. Thế là ốm mà sợ thuốc. Thế là không hiểu ý nghĩa và lực lượng phê bình.

Nếu không muốn để kẻ địch phản tuyên truyền thì không gì hơn là tránh các khuyết điểm, sửa chữa khuyết điểm.

Một khi đã phạm đến khuyết điểm, thì dù mình muốn bưng bít, người ta cũng biết. Phải nhớ câu tục ngữ “sừng có vạch, vách có tai”.

Một đoàn thể hoặc chính quyền mà che giấu khuyết điểm của cán bộ mình, là một đoàn thể hoặc chính quyền yếu ớt, thoái bộ. Đoàn thể và chính quyền có can đảm vạch rõ khuyết điểm của cán bộ mình, có phương pháp sửa chữa cho cán bộ, thì chẳng những uy tín không giảm mà lại thêm cao.

Cán bộ nào không dám công khai thừa nhận khuyết điểm của mình, e sợ lời phê bình của đồng sự và của nhân dân, không có can đảm sửa chữa khuyết điểm thì những người đó không xứng đáng là cán bộ.

Việc phê bình phải từ trên xuống và từ dưới lên. Cấp trên phê bình, chưa đủ. Đồng chí, đồng sự, phê bình chưa đủ. Phải hoan nghênh quần chúng phê bình nữa thì sự phê bình mới hoàn toàn…


*


Hồi ký của Hoàng Cầm
Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần [6]

Lời toà soạn

Ít lâu nay, nhất là trong giới văn nghệ, vấn đề Trần Dần được nhiều người nhắc tới. Đó không phải là chuyện ngẫu nhiên, mà chính là vì vấn đề Trần Dần không còn là một vấn đề riêng của anh hay của một số người nào, mà là vấn đề của chung, có liên quan tới quyền chính đáng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác của tất cả mọi người.

Theo tinh thần đó, chúng tôi đăng bài này.


Lần đầu tiên tôi biết Trần Dần là trong một trại hè của các đoàn văn công quân đội năm (19…) Dáng người thấp, hơi thô, tay chân chắc nịnh, lúc nói chuyện thường ồn ào, giọng cười thẳng thắn, ròn rã. Đôi mắt xếch với cặp mày rậm làm cho khuôn mặt anh dữ tợn, nhưng đến khi anh há mồm ra cười thì trông lại như một đứa trẻ con.

Tôi biết tiếng anh từ lâu - Ở bộ đội Sơn La, từ đầu năm 1947, nổi tiếng có một anh Trần Dần nào đó thường vẽ và làm thơ có nhiều cái rất lạ, anh em văn nghệ xung quanh thì rất thích nhưng đồn rằng bộ đội thì không hiểu và một số cán bộ chính trị ở đơn vị thì lấy làm bực mình.

Tới trại hè năm 1951, các đoàn văn công nỗ lực tập luyện để phục vụ một chiến dịch lớn. Trần Dần phụ trách huấn luyện cho mấy trăm anh chị em: sáng tác đạo diễn và diễn viên. Trong bóng rợp của một rừng nứa, giọng anh rủ rỉ như lời tâm sự, giảng về văn nghệ nhân dân. Văn nghệ do dân, vì dân, có Đảng lãnh đạo. Giọng anh thấm thía từng ngày lên lớp. Mấy trăm anh chị em lần đầu tiên được học một tài liệu dài đến gần hai tháng, đều vui trong lòng như một người đi trong đêm rét, chợt nhìn thấy lửa ấm của một túp nhà. Học xong tài liệu Văn nghệ nhân dân, anh chị em say sưa công tác hơn vì người giảng viên Trần Dần đã thổi vào tâm sự mọi người một cái tự hào. Đến bây giờ tôi còn nhớ hai câu thơ của Lỗ Tấn mà Trần Dần đọc ra để dẫn chứng cho tài liệu:

Hoành mi lễnh dối thiên phu chỉ
Phủ thủ cam nhi nhụ tử ngưu

Học xong phần lý luận có thể nói hầu hết anh chị em văn công đều yêu mến Trần Dần như một người bạn từ lâu lắm. Những người có chuyện riêng gỡ mãi không ra, đều tìm đến hỏi Trần Dần. Một anh sắp lấy vợ, một chị bị ép chồng, một diễn viên già có vợ ở vùng tạm chiến, đều đến tìm Trần Dần – không phải là một câu trả lời thoả đáng – nhưng chính là một sự an ủi, một câu nói chí tình, và để nghe ở anh cái giọng cười quen thuộc, giọng cười vô tư, rất yêu đời.

Dần dần anh chị em gọi Trần Dần là “thày tướng” và lắm khi tin anh như một người đau khổ ngày trước tin số mệnh, đã đặt cho anh một cái tên “Trần Dần cốc tử”.

Hồi ấy Trần Dần yêu một nữ diễn viên văn công. Vốn tính cương trực, lỗ mãng, anh không biết cách nào khéo léo để lấy lòng yêu của người đàn bà. Anh không biết nói đẹp, nói hay, chỉ non thề bể, xem lá rụng, hoa tàn để vừa ý một cô gái rất đỏng đảnh. Gặp cô, anh “tấn công” luôn, rất thô kệch. Cô ấy sợ, và chạy trốn. Anh đuổi không kịp.

Rồi anh thất vọng to, và cũng biết khóc. Một lần bắt chợt anh ôm đầu khóc, tôi kéo mấy anh bạn vào xem: “Vào đây xem voi chảy nước mắt các cậu ơi!” Mãi về sau hình ảnh cô gái đó đột hiện lên, tươi roi rói, đẹp và anh dũng trong những trang đầy nhiệt huyết của cuốn truyện Người người lớp lớp [7] .

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Trần Dần thức thâu đêm suốt sáng để viết bản thảo lần thứ ba cuốn truyện về những người đã tạo ra chiến thắng lịch sử lớn lao đó. Dạo ấy tôi thấy anh gầy rộc đi, mắt trũng trong một quầng thâm rộng. Nhưng mắt anh có những tia sáng mới. Anh biết anh đang luyện ngòi bút cho thật sắc sảo, “có sác sảo mới diễn tả hết con người và cuộc đời”. Anh rất ghét lối viết dễ dãi, tạm bợ, tả bộ đội chỉ thấy súng nổ, lửa bốc, chỉ thấy uỳnh oàng mà chẳng thấy người. Anh gọi những loại văn đó là: văn chương khói lửa mịt mù. Nhìn vào những trang sách, độc giả tìm kiếm mãi mà chưa thấy một người, chưa thấy việc đời, chỉ thấy lổn nhổn những bộ máy lắp đi lắp lại và một lô danh từ, hình ảnh trống rỗng, thùng rỗng kêu to.

“Nhưng cái hướng chính của tôi không phải là tiểu thuyết. Hướng đi của tôi là thơ. Tôi sẽ tìm tòi trong thơ và cố gắng tạo ra một lỗi diễn tả riêng biệt – không phải lập dị- nhưng độc đáo.”

Trần Dần đã nói với tôi như vậy sau khi anh viết xong Người người lớp lớp. Hồi đó, anh có đưa tôi xem tập thơ làm đã lâu: Tiếng trống tương lai [8] .

Đọc lần đầu tiên, tôi không thích. Tôi cho Trần Dần là lập dị. Đọc lần thứ hai, thứ ba, tôi vẫn không thấy thích, nhưng dần dần tìm ra được nhiều cái mới lạ, khác với nếp cũ thông thường. Tuy nhiên, tôi vẫn không thấy thích cái lối thơ ấy. Dần dà đọc nhều bài thơ anh làm về sau, tôi càng thấy “cái anh chàng này khác thường”. Khác thường theo ý tôi chưa chắc là đã hay. Dù sao do thơ Trần Dần, tôi suy nghĩ nhiều về trách nhiệm người làm thơ trước cuộc đời: đi sâu vào đời sống có suy nghĩ của con người, tìm cách diễn tả riêng, tạo ra một thế giới riêng cho mình. Tôi thấy thơ Trần Dần có phần đau xót, u ám, nhiều khi rất buồn, vừa cộc cằn lại vừa có cái tự hào sôi nổi, nhiệt tình thẳng thắn, táo bạo.

Nhưng giọng thơ của anh, vẫn không lọt được vào tâm hồn tôi - một người làm thơ theo một dòng khác. Dù sao tôi vẫn trân trọng và quý mến những cái tìm tòi của Trần Dần trong thơ. Tôi cũng nghĩ như anh thường nói: Mỗi người làm một kiểu. Có thơ như tiếng sáo, có thơ như tiếng kèn, có thơ như tiếng trống. Đừng bắt thơ ai phải giống ai. Có thế mới thành một cuộc “hoà âm” lớn của thi ca. Độc giả thơ cũng ví như người xem xiếc. Có người thích kiểu tung cầu, kiểu đứng trên lưng ngựa. Lại có người thích xem dạy hổ, leo dây. Nhiều khi sợ đến rùng mình, nhắm mắt. Mỗi dòng thơ thích hợp cho một loại độc giả. Có thế mới trăm hoa đua nở được. Gò bó theo ý thích chủ quan của một vài người, thơ sẽ thành hoa giấy đóng hộp bày trong tủ kính.

Hồi đó, tôi chưa biết Mai-a-cốp-sky. Khi hoà bình lập lại, về Hà Nội, đọc Mai-a, tôi thấy hơi thơ và cách diễn tả của Trần Dần có nhiều chỗ giống Mai-a. Tôi trách anh:

"Sao cậu lại bắt chước Mai-a? Bắt chước thì không thể nào độc đáo được.”

Trần Dần nói:

“Tâm hồn có giống nhau thì mới ảnh hưởng sâu sắc được chứ! Mình bị ảnh hưởng Mai-a thực, nhưng cái chính là mình chịu ảnh hưởng thực tế cách mạng Việt Nam. Do đó mình sẽ dần trở thành mình.”

Viết xong Người người lớp lớp, Trần Dần được phân công viết thuyết minh cho cuốn phim Chiến thắng Điện Biên Phủ và anh được cử sang Trung Quốc làm nhiệm vụ đó. Nhưng đi kèm bên cạnh anh là một cán bộ chính trị có quyền tối hậu quyết định [9] . Anh cán bộ này, đáng lẽ phạm vi công tác là góp ý kiến vào nội dung bản thuyết minh và bảo đảm cho nó không phạm những sai lầm về đường lối chính sách của Đảng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, thì đã lợi dụng uy quyền của mình đi quá xa vào phạm vi văn học, bắt Trần Dần phải viết như ý mình, từng câu từng chữ, lạm dụng danh từ chính trị khô khan rỗng tuếch để nhét cho kỳ được vào bản thuyết minh.




Đầu tiên, Trần Dần rất phục tùng người cán bộ chính trị khi dự thảo thuyết minh, và hoàn toàn theo sát những vấn đề chính trị sẽ đặt ra khi thuyết minh. Đến khi thấy anh cán ấy “lên gân” và thọc bàn tay cứng lạnh vào phạm vi viết văn thì Trần Dần bắt đầu có phản ứng. Nhưng anh vẫn bình tĩnh, đề nghị cấp trên xét lại vấn đề. Đến khi “anh cán bộ vẫn là tối hậu quyết định cả từng câu chữ” thì Trần Dần thôi không làm công việc đó nữa, nhường cả phần “văn chương” cho đồng chí cán bộ.

Sau việc này sự mâu thuẫn giữa văn nghệ sĩ và cán bộ chính trị bắt đầu phát triển khá mạnh trong con người Trần Dần. Anh vẫn cố dẹp đi, nhiều lúc anh thẫn thờ ít cười ít nói nhưng vốn là con người chân thực – cái chân thực nhiều khi đến thô lỗ - lắm khi anh đã cục cằn, thốt ra những lời gay gắt thiếu lịch sự. Anh thường bàn với anh em, khi thấy nhiều thắc mắc quanh việc này: “Ôi già! Cái con số cán bộ chính trị bóp chết nghệ thuật thì không ít đâu. Làm thế nào để Trung ương Đảng biết rõ tình hình và đề ra những chính sách cụ thể cho văn nghệ sĩ, đó là nhiệm vụ của mỗi đứa chúng mình. Tin Đảng, yêu Đảng, đi theo Đảng đến cùng thì phải có phần góp ý kiến cho Đảng. Đảng cần nhiều khối óc, cần nhiều bàn tay, cần nhiều trái tim, chứ Đảng không cần đến những con người máy, giật thế nào làm thế ấy”.

Đó là động lực thúc đẩy Trần Dần, rồi đến Tử Phác, Đỗ Nhuận, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh, và rất đông anh em công tác văn nghệ trong bộ đội dự thảo ra bản “Đề nghị Chính sách Văn nghệ” trình bày với cấp trên hồi đầu năm 1955, tại Hà Nội.

Bản dự thảo sắp được thông qua. Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội tỏ ý tán thành những điểm chính trong bản đề nghị đó, và nhất là hoan nghênh tinh thần xây dựng của bản đề nghị.

Trong thời gian bản dự thảo còn bàn đi bàn lại, thì bỗng có một người đàn bà đến rất nhanh chóng trong đời sống của Trần Dần. Một chị ngoài 20 tuổi, đi đạo, ở Hà Nội mới giải phóng. Trần Dần gặp người đó và hai người yêu nhau. Lúc mới yêu người ta dễ say. Trần Dần lại là người chưa từng được yêu bao giờ, dù anh đã gần 30 tuổi. Anh mê man với mối tình đó buổi đầu và đã đôi ba lần làm trái với nội quy sinh hoạt của bộ đội. Cái tật xấu nhất của Trần Dần là bừa bãi trong sinh hoạt: quần áo, sách vở, vứt lung tung, bạ đâu ngủ đấy. Trong sự giao thiệp với người đàn bà này, anh cũng rất bừa bãi. Mới quen lần đầu đã nghiễm nhiên vác ba lô đến ở chơi nhà người ta vài ngày, rồi cười đùa ầm ỹ. Anh đã sấn sổ đòi tình yêu. Người thiếu nữ có lẽ vì sợ đôi mắt xếch đã đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác, và đến lúc nhượng bộ cuối cùng: chị đã trao cả cuộc đời mình cho anh. Nhân lúc đang ốm yếu, được phép nghỉ, anh đã đến nhà người yêu ở hàng nửa tháng liền. Và anh đề nghị cấp trên cho anh được cưới.

Một người con gái mới lớn, đã sống trong không khí tôn giáo, sống trong vùng tạm chiếm lâu năm, lại có được uỷ quyền cho thuê mấy cái nhà, bây giờ bỗng dưng yêu một anh cán bộ quân đội. Vấn đề gì đặt ra đây?

Trần Dần vẫn yêu đắm đuối và ngang ngạnh. Anh đề nghị đơn vị đi sát giúp đỡ anh. Lý lịch người thiếu nữ, theo anh, không có gì là mờ ám. Một công dân còn trẻ, chưa hiểu việc đời nhiều lắm, trình độ chính trị rất thấp, nhưng biết yêu lá cờ vinh quang của Tổ quốc, ngày giải phóng thủ đô, cũng chạy ra đường vẫy quân đội, miệng hoan hô không biết mỏi.

Trần Dần ngày càng không thể dứt ra được tình yêu dù anh biết mối tình đó sẽ gặp nhiều trắc trở. Quả nhiên, không ai “tán thành” tình yêu của anh, trừ một vài người bạn thân. Có người lên giọng đạo đức: Thằng Dần sa ngã rồi. Mới về Hà Nội đã hư hỏng, hoà bình chủ nghĩa thật.

Có người nghiêm nét mặt, đề cao cảnh giác: Cẩn thận! Kẻo sa lưới địch! Nó đang âm mưu tấn công vào hàng ngũ ta.

Tình yêu của Dần với cô gái Hà Nội đã làm cho anh em chung quanh bàn tán sôi nổi. Nhưng không ai chịu khó đi tìm chân lý. Những câu chuyện nói cho vui mồm, những lời dèm pha, chế giễu, những “nhận định” cao siêu, những “lập trường” “quan điểm” giai cấp tính, tư tưởng tính, “tư sản” và “vô sản” v.v… Người ta rút những câu to lớn nhất trong hàng chục pho sách chính trị để quy kết cho một mối tình.

Trần Dần đã gục mặt vào tay đau đớn. Tôi đã gặp anh ngồi lặng hàng giờ trong một căn phòng quần áo bàn ghế bừa bãi ở nhà người thiếu nữ đó. Giữa anh và chị, có một niềm tủi cực, cay đắng, xót xa. Chị đã thôi không trang điểm, xếp áo màu vào tủ, có cái thì đem cắt ngắn, nhuộm nâu. Đã tan đi từ lâu lắm tiếng cười ròn rã. Trong giọng nói đã thấy ngấn nước mắt. Có vài căn nhà được uỷ quyền cho thuê, chị đã nghe lời anh đem giao lại cho Ủy ban nhà cửa. Đầu tiên, khi nghe người yêu bàn việc đó, chị K. ngạc nhiên mắt đen tròn mở to:

“Thế rồi sống bằng gì hả anh? Sao lại giả nhà cho Chính phủ hở anh? Chính phủ có kết tội những người có nhà cho thuê không hở anh?”

Rất nhiều câu hỏi. Anh đã bàn:

“Không! Chính phủ vẫn bảo đảm cho người có nhà cho thuê. Nhưng chúng mình phải làm lấy mà sống. Không nhờ vào đâu cả, ngoài bốn cánh tay mình, đủ sống thì thôi.”

Trần Dần hết sức giải thích cho người yêu và hướng người yêu vào cong đường “làm lấy mà sống” “đừng nhờ vả ai”. Hình ảnh người con gái đi tìm việc làm trong mưa, về sau tôi lại gặp rất đau xót, trong bài thơ “Nhất định thắng” in trong tập Giai phẩm mùa Xuân 1956.

Mối tình đó kéo lê những ngày lo sợ, buồn phiền. Trần Dần không ngờ yêu lại khổ đến thế này. Cùng một thời gian đó, bản “Đề nghị Chính sách Văn nghệ” thảo luận chưa xong. Giời sang hè, mùa mưa tầm tã. Trần Dần và người yêu vẫn sống trong một góc nhà tối thiếu ánh sáng. Bữa cơm không vui. Bụi phố Sinh Từ rắc vào nhà như sương, bụi phủ trắng mặt bàn ghế. Ăn vội vàng, Trần Dần lại về đơn vị để rồi lại được nghe những lời phê phán, những tiếng xì xào. Và người thiếu nữ lại chân đất, áo ngắn, đi tìm việc làm, có hôm từ sáng đến tôi mới về:

Em đi trong mưa… cúi đầu… nghiêng vai

Đến ngày họp bàn về dự thảo chính sách, Trần Dần được anh em cử ra trình bày. Nguyện vọng của bao nhiêu văn nghệ sĩ trong quân đội. Làm thế nào để sáng tác hay, phục vụ được sâu sắc. Anh nói say mê, nhiệt tình. Trong cách nói nhiều khi bốc. Mặt anh khi đỏ gay, khi tái lại:

“Giả văn nghệ cho anh em văn nghệ sĩ! Phân rõ ranh giới giữa cán bộ chính trị và văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ phải có sự lãnh đạo của Đảng, nhưng không thể biến thành cái máy v.v…”

Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại:

“Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí!”

Giá câu nói ấy ở mồm một người thường thì cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, thì bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án thì bắt đầu trở nên hoang mang.

Thêm vào đó, câu chuyện tình chưa được công nhận. Bóng người con gái hiền lành, hay khóc, người yêu của Trần Dần bỗng trở thành một thứ gì ám ảnh: Một bóng ma đáng sợ. Người nào muốn tỏ ra “lập trường tư tưởng vững chắc” không bị “tư tưởng tư sản tấn công” đều phải ghét người con gái ấy đi. Tình cảm day dứt đến cực độ, như một cành cây non bị quật lên quật xuống trong trận bão khổng lồ, Trần Dần không còn biết bộc bạch cùng ai. Nói gì bây giờ cũng khó lọt qua tai những người “vững lập trường lòng lim dạ sắt”. Trần Dần gần như phát điên. Hết đứng lại ngồi, lại chạy ra phố, lại về đơn vị, ở đâu anh cũng thấy như có những dây trói vô hình mỗi ngày một thít chặt vào trái tim anh.

Cùng một thời gian ấy, những sự kiện lớn trong phong trào văn nghệ dồn dập tới: Phê bình tập thơ Việt Bắc, Trần Dần nhận định tập thơ Tố Hữu nhỏ bé nhạt nhẽo trước cuộc sống vĩ đại và mắc một sai lầm nghiêm trọng là sùng bái cá nhân, thần thánh hoá lãnh tụ.

Và truyện Người người lớp lớp phát hành hàng vạn cuốn, được hoan nghênh. Và cuộc phê bình Vượt Côn Đảo [10] cũng sôi nổi không kém cuộc phê bình Việt Bắc. Trần Dần viết một bài phê bình Vượt Côn Đảo giọng châm biếm cục cằn, khiến nhiều người phản đối. Trong một không khí hết sức căng thẳng của văn nghệ bấy giờ, lại bị quy kết là thoát ly chính trị, tư sản tấn công, hoà bình chủ nghĩa v.v… rất nhiều anh em bị cuốn vào một chỗ mịt mù, chân lý gần như bị ngập bởi các thứ thành kiến, chụp mũ hung hăng.

Con giun bị xéo mãi cũng quằn lên. Trần Dần có lúc oang oang ăn to nói lớn, có lúc tranh luận sôi nổi, có lúc nóng nảy văng tục, có lúc lầm lì ngồi một xó, khi thì ngâm thơ giọng buồn thấm thía, khi thì cao đàm hùng biện, khi thì lại vò đầu bứt tóc, nhiều lúc ứa nước mắt, ôm mặt nằm cò queo một mình, có lúc nấc lên, đầu bù tóc rối.

Tấn thảm kịch đã đi đến một chỗ thắt nút quằn quại. Người yêu của anh bắt đầu có mang. Và đột nhiên anh bị giữ ở đơn vị để kiểm thảo cùng với Tử Phác, quanh quẩn trong một gian phòng. Một tháng, rồi hai tháng, ba tháng. Những ngày đầu tiên, như cơn sốt rét đột ngột, anh kêu lên:

“Tôi có tội gì? Tôi có tội gì mà giữ tôi ở lại?” Người yêu anh bỗng thấy anh không về nhà nữa. Nhưng trận ốm nghén đầu tiên đã quật chị xuống như một con bệnh nặng. Mặt choắt lại, người chỉ còn da với xương. Một mình ở một căn nhà bừa bộn với một con chó gầy còm, không cha mẹ, không anh em [11] , không bạn bè, chỉ có bà hàng xóm bán guốc thỉnh thoảng chạy đi chạy lại nấu cho bát cháo. Tôi đến gặp chị mếu máo, trông già đi hàng chục tuổi. Chị hỏi:

“Sao anh Dần không về với tôi nữa hở anh?”

Tôi giải thích: “Anh ấy bận công tác ít lâu thôi. Chị đang ốm, có cần gì, chúng tôi sẽ giúp chị.”

Chị oà lên khóc:

“Bộ đội có cho tôi lấy anh ấy không?”

Tôi lại khuyên nhủ:

“Có chứ! Ai cấm đâu!”

Chị bỗng khóc to hơn:

“Phải rồi, không ai cấm tôi và anh ấy lấy nhau. Bộ đội người ta không cấm nhưng anh Dần bỏ tôi rồi! Tôi bụng mang dạ chửa thế này, anh ấy bỏ tôi trốn rồi!”

Rồi chị gào lên:

“Bạc như vôi ấy giời ơi! Anh ấy không muốn ăn ở với tôi nữa thì cứ bảo tôi biết, việc gì phải lấy cớ công tác này công tác nọ.”

Tôi thấy chua chát lạ lùng, nhưng chỉ nói tránh đi:

“Anh ấy bận công tác thật đấy mà!”

Chị vẫn một mực:

“Anh ấy nói dối! Cả anh nữa cũng nói dối. Thôi tôi chết đi! Tôi chết đi cho anh ấy đỡ bận! Mà đỡ phiền cả các anh…”

Một số bạn thân của Trần Dần phải cắt nhau đến canh ở đấy, giải thích an ủi, giúp đỡ một người con gái mới yêu lần đầu mà đã bị dao cắt ruột gan.

Trong những ngày u uất đó, anh không được biết tin người yêu, ngồi vò võ trong phòng kiểm thảo. Qua lúc đầu tiên đột ngột, tâm trí anh dần dần bình tĩnh lại. [12]

Ba tháng hết nằm lại ngồi, anh đã trải qua một đoạn đời đau khổ. Nhưng ở Trần Dần luôn luôn có tình yêu sự sống rất mãnh liệt nó đã ngăn không cho anh đến chỗ huỷ hoại cuộc đời còn rất trẻ của mình. Anh viết bài thơ “Nhất định thắng” (vào khoảng tháng Tư 1955).

Lần đầu tiên tôi vào thăm anh, với một món quà nhỏ: Một túm nhãn tôi mua ngoài phố. Anh vồ lấy ăn ngấu nghiến rồi cười oang oang: “Thi đua với các cậu làm thơ nhé!”.

Thấy tôi rơm rớm nước mắt, anh bỗng hạ thấp giọng:

“Đừng buồn cho mình. Mình cũng nhiều khuyết điểm lắm: có tự kiêu, có nóng nảy, có tự do vô kỷ luật thật. Nhưng không bao giờ không trung thành với Đảng, dù bị mắc tiếng oan, dù bị kỷ luật. Và mình tin những cái độc đoán của một vài cá nhân rồi đây sẽ không còn nữa. Đảng là một khối sáng suốt. Tương lai chúng mình, Đảng sẽ đảm bảo, dù bây giờ Đảng có thể chưa hiểu mình.”

Anh lại đọc Mai-a, đọc Sê-cốp, Goóc-ki. Anh lại nằm nghiền ngẫm Đất vỡ hoang và Trên sông Đông êm đềm của Sô-lô-cốp.

Cánh cửa có chấn song sắt khép lại, tôi lùi ra và cảm thấy gian phòng kia không còn chật hẹp, tù hãm nữa đối với một con người đầy lòng tin như Trần Dần.

Hết 3 tháng kiểm thảo, anh lại được về với người yêu. Chị ấy lúc đầu còn giận dỗi:

“Thôi anh đi đâu thì đi, mặc xác tôi.” Nhưng chẳng bao lâu, mắt lại sáng, tiếng cười lại trở về trong căn nhà bề bộn những bàn ghế quần áo và ống chỉ, dao kéo. Chị đã bắt đầu may sẵn áo cho đứa con đang cựa trong bụng. Chị đã xin được việc làm:

Trời đã thôi mưa… thôi gió
Đã thấy nắng lên trên màu cờ đỏ

Rồi Trần Dần đi tham quan Cải cách Ruộng đất [135] . Bài thơ “Nhất định thắng” gửi Lê Đạt giữ từ lâu, anh cũng gần như quên đi, óc còn mải nghĩ về những mặt khác của cuộc sống để chuẩn bị cho những bài thơ khác sẽ ra đời.

Đã gần đến Tết ta. Một số anh em đã thấy say sưa sáng tác. Tôi chạy đi chạy lại gom góp sáng tác của dăm ba người bạn và nghĩ rằng phải xuất bản một tập văn thơ mùa Xuân để đóng góp với mùa xuân mới của văn nghệ đang sắp nở.

Và nhận thấy cái kỷ luật “cấm sáng tác” do một vài người công bố đối với Trần Dần là một điều vô lý, sai chính sách của Đảng, và đang lúc Trần Dần đi công tác xa xôi không biết anh có sáng tác gì mới không, tôi bèn tìm lại bài thơ "Nhất định thắng" và cho đăng vào cái Giai phẩm mùa Xuân mà tôi là người soạn bài.

Cứ để bông hoa đó nở thì đã hại gì ai mà có thể có lợi. Nhưng hoa chưa kịp nở, thì đã bị dập vùi. Giai phẩm mùa Xuân bị kết tội, bài thơ "Nhất định thắng" bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích (bắt đầu từ cuộc phê bình thơ Việt Bắc) đã tìm cách trả thù:

Trần Dần, Tử Phác đều bị tống giam [14] .

Cái nút thứ hai khốc liệt hơn, của tấn thảm kịch Trần Dần.

Những ngày mùa xuân 1956, tôi đau đớn như có búa nện vào óc, có đinh đóng vào tim, và có dây trói chặt vào chân tay.

Mùng hai Tết, tôi ăn bữa cơm cuối cùng với Trần Dần. Giữa hai tợp rượu, đã thấy những cơn bão đe doạ, mà lần này chắc ghê hơn lần trước. Chị K. không biết gì vẫn vui vẻ ngồi bóc bánh, rồi xếp dọn ba lô cho chồng để anh ăn xong thì lại đi công tác.

Không khí văn nghệ như sắp sửa có trận bão. Không biết từ đâu cái tin “Trần Dần phản động” “Trong Giai phẩm có mấy tên phản động” bỗng truyền ra rất nhanh. Những tin không hay dồn đến, bổ vây tôi và anh Trần Dần còn đang ăn dở miếng bánh chưng Tết. Chị K. tái mặt, để rơi đôi đũa, nước mắt đã vòng quanh:

"Thế là thế nào hả các anh? Phen này lại bị bắt nữa thì tôi sống thế nào được? Các anh rủ nhau làm những chuyện gì mà khổ sở thế không biết!"

Trần Dần cũng tái mặt, anh cắn chặt môi, xốc ba lô lên vai, an ủi vợ:

"Em đừng lo. Tin đồn bậy bạ đấy thôi. Anh đi công tác đây, gần đến tháng đẻ, em đừng lo nghĩ gì cả.”

Nhưng chị K. không thể bình tĩnh được. Chị tiễn chồng ra cửa khóc oà lên:

“Anh ơi… Anh có về nữa không, anh ơi!”

Cổ tôi bỗng nghẹn nước mắt. Tôi cố cười:

“Ồ cái chị này lẩn thẩn. Thôi để anh ấy đi nào…”

Trần Dần ngửng mặt bước đi, ruột tôi bỗng thắt lại: Chuyến này mà nó có làm sao thì chỉ tại mình. Đang tự dưng bày ra cái Giai phẩm. Tuy chưa phải là những sáng tác xuất sắc, nhưng ít ra nó cũng nêu được vấn đề gì. Có vấn đề xã hội trong thơ Văn Cao, có vấn đề chống công thức trong thơ Lê Đạt. Và tuy tôi không hoàn toàn thích bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần, tôi cũng đưa in, vì tôi thấy ít ra nó cũng khác với lối làm thơ một chiều. Dù sao thì cũng có ít ra vài ba con cá quẫy mạnh trên mặt ao tù bấy lâu phẳng lặng.

Từ những ngày Tết mưa lã chã, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để tìm cách đối phó với cái Giai phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ “Nhất định thắng” bị đem ra luận tội.

Y như một xóm đang đêm tối bỗng có tiếng kêu “Cướp! Cướp! Cướp đã đến”. Lập tức mọi người mắt nhắm mắt mở, vớ lấy giáo mác, gậy gộc, chạy xô ra ngõ, gặp một cái bóng đen. Cả làng hầm hè đánh. Roi gậy, giáo mác, gạch củ đậu thi nhau nện xuống cái bóng người. Một trận đòn nhử tử. Cái tâm lý đánh cướp này là tâm lý chung của nhưng người muốn bảo vệ nhà cửa, xóm làng của mình. Cái bóng đen gục xuống. Mọi người lại về nhà đi ngủ. Sáng hôm sau, mặt trời mọc, đi ra ngõ, thì ra cái “bọn cướp” đó chỉ là một anh đang đêm nực nội mò đi hóng mây gió.

Những người đã cầm gậy đánh, đều rất có lý:

“Hô lên là cướp thì ông đừng giã bỏ mẹ đi à?”

Họ là những người yêu làng yêu nước, họ không có lỗi gì. Nhưng lỗi ở những ai hô cướp?

Kẻ nào hô ra hai tiếng “phản động” đầu tiên để gọi cả làng ra đánh chết Trần Dần?

Tôi cố suy mãi, lòng như dao chém. Thôi thế là đêm luận tội đã đóng án tử hình xuống một bài thơ; xuống một con người, đồng thời là một sự đe doạ nặng nề chung cho anh em văn nghệ sĩ đang muốn tìm những lối sáng tác khác với bè phái bên kia.

Sau cuộc lên án đó, tôi không được biết tin gì về anh. Tôi đoán biết được lần này thì anh sẽ thực sự ngồi tù. Vợ anh gần đến tháng ở cữ, vật vã khó suốt ngày suốt đêm vì quả nhiên, sau cái ngày mùng 2 Tết ấy, anh đi không về nữa.

Tôi cũng ân hận hết ngày ấy qua ngày khác, luôn thấy mình là thằng làm hại bạn: “Dần ơi, bây giờ mày nằm trong nhà tù nào, mày có trách tao không?”

Lần này tôi lo sợ hơn lần trước anh bị giam lỏng hơn 3 tháng. Lần này cái bè phái độc quyền văn nghệ kia nó quyết liệt hơn trước, trong không khí văn nghệ đã nghe thấy máu lửa. Tôi lo ngày lo đêm đến con người anh. Lần trước, anh còn chịu được và còn có thể bình tĩnh. Đến lần này, liệu anh còn có đủ can đảm chịu đựng hay không? Tôi đã nghĩ đến cái phút đau đớn cực độ, anh không thiết sống nữa thì một lưỡi dao, một cái đập đầu vào tường… tôi sẽ mất một người bạn, và chúng ta mất tác giả Người người lớp lớp, tương lai mất một nhà thơ.

Khi chị K. ốm nghén, bơ vơ trong một căn nhà, chống gậy sang hàng xóm xin từng ngụm nước, là lúc người yêu của chị đi ba tháng không về.

Khi chị K. đau quằn quại, cho ra đời đứa đầu tiên của một mối tình cay đắng, là lúc người yêu của chị lại đi… không biết bao giờ về.

Đứa bé ra đời, còm rom như một con mèo ốm. Nó quặt quẹo, sài đẹn mấy lần tưởng chết. Chị K. nuôi con bằng nước mắt nhiều hơn bằng sữa.

Tin anh vẫn mịt mù. Lần này chị không còn hiểu lầm anh là “phụ bạc” mà chị đã biết thực sự. Chị không oán thán nữa, chỉ ôm con mà khóc. Có lần tôi đến thăm, chị kể lể:

"Giá đừng biết nhau, đừng yêu nhau thì anh ấy đỡ khổ, tôi cũng đỡ khổ và không đến nỗi phải cho ra đời một đứa bé khổ sở thế này. Liệu nó có mất bố không hở anh? Liệu tôi có goá chồng sớm không hở anh?"

Tôi như bị chích vào vào gan. Bế đứa bé thấy nhẹ bỗng, mặt mũi nó nhăn nhúm, méo mó, tôi đã khóc và suy nghĩ rất lâu về giá trị con người. Đặt tên cháu bé là gì để kỷ niệm những ngày bố cháu và nhân phẩm văn nghệ sĩ bị trà đạp xuống bùn đen? [15]

Hôm nay
Trời đã thôi mưa thôi gió
Nắng lên đỏ phố đỏ nhà
Đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi! Đếm thử bao nhiêu ngày mưa…

Sau khi học tập nghị quyết của Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, cái tin vui từ lòng tôi tự dưng toả ra: Trần Dần chắc sẽ được về!

Quả nhiên, một buổi chiều sang hè anh đã về. Tin đó đến với tôi không đột ngột lắm, vì tôi tin chắc ở ánh sáng Đảng Cộng sản Liên Xô, tin ở chân lý mà Đảng ta nắm rất vững.

Anh đã về. Gặp anh, tôi không nói gì được. Vẻ mặt anh vẫn vui, nhưng có hằn thêm những nét khắc khổ. Da mặt xanh, người gầy gộc. Nói chưa được một câu, anh đã cười, vẫn giọng cười hồn nhiên, khoe với tôi bốn bài thơ anh làm trong lúc bị giam, và khoe rằng sở dĩ anh được về là nhờ có sự sáng suốt của Trung ương Đảng.

Tôi đọc kỹ bốn bài thơ đó, và nhìn anh, kinh ngạc. Tôi không thể nghĩ được rằng trong hoàn cảnh bị giam đau đớn thế, anh lại có đủ bình tĩnh làm những bài thơ sáng sủa chan chứa lòng yêu đời, yêu Đảng như thế này. Tôi thấy quí và kính phục người bạn mà tôi cho là rất anh dũng. Tôi khoan khoái đọc to mấy đoạn thơ của anh, anh ngửa mặt lên, tôi chợt nhìn thấy ở cổ anh có một vết sẹo dài nằm ngang cuống họng, thịt mới liền, còn đỏ tươi.

Tôi hiểu cả, không hỏi thêm anh điều gì… Trước mắt tôi, là một người có sức mạnh chống chọi với tủi nhục, với thành kiến, cả đến những lời vu cáo đanh thép nhất cũng rụng dưới chân anh như cỏ héo.

Trước mắt tôi là một người chí tình, tha thiết, đã có những giây phút bốc lên quá nóng nảy cục cằn, đã tự do bừa bãi nhưng không lúc nào ngừng hoạt động vì tiền đồ rực rỡ của văn nghệ.

Trước mắt tôi là một con người dũng cảm của Đảng, có thủy có chung, biết tin yêu Đảng vô bờ bến, biết căm ghét những cái thối nát đang làm hại đến uy tín của Đảng, của quân đội…

Trước mắt tôi là Trần Dần.

Trước mắt tôi lúc viết bài này là một chuyện kéo bè để vu cáo trắng trợn, một vụ án văn chương vô cùng oan ức, một tài năng và một tâm hồn trong sạch bị giày xéo.

Trước mắt tôi là lòng tin vào ánh sáng của Đảng. Ánh sáng đó sẽ soi rọi vào bất cứ chỗ nào đang cần bảo vệ giá trị con người.

(Những đoạn thơ trong bài trích từ bài thơ “Nhất định thắng”)


[1]Trang 1, đóng khung, vị trí xã luận trên cùng, bên trái, toàn bài in nghiêng. Các chú thích đều của talawas.
[2]Trang 1, vị trí bài cái, xem tiếp ở trang 5
[3]Trang 1, kèm hình minh hoạ: Một góc tờ báo Cách mạng quốc gia, Sài Gòn ngày 01.09.1956 với tiêu đề “Ông Tú Phan Khôi sống với V. C. ra sao? Phan Khôi bị ‘chỉnh’” và mấy dòng đầu của bài viết: “Từ đã lâu, trên văn đoàn Việt Nam, cái tên Phan Khôi đã được nhiều người chú ý, mà đáng chú ý hơn nữa là Phan Khôi lại ở lại hầu “Vẹm”! Anh em văn nghệ bảo nhau: “Tú Khôi ở lại với chúng nó! Tài ba ấy đáng làm thầy lũ Vẹm mới đáng, thế mà chịu đi làm đầy tớ nhỉ.”
[4]Chỉ có tiêu đề ở trang 1, xem tiếp ở trang 6, từ trang 6 xem tiếp ở trang 5
[5]Trang 1, đóng khung, phía dưới, bên phải
[6]Bài chiếm 2/3 trang 2 và toàn bộ trang 4. Chính giữa trang 4 có ký hoạ "Trần Dần qua cái nhìn của Nguyễn Sáng": chân dung Trần Dần với vết sẹo ở cổ.
[7]Trần Dần viết xong tiểu thuyết Người người lớp lớp cuối tháng 9.1954, trước khi lên đường đi Trung Quốc.
[8]Bài thơ dài “Tiếng trống tương lai” hoàn thành tại Bắc Kinh tháng 10.1954
[9]Chuyến đi Trung Quốc kéo dài 2 tháng, từ 10.10 đến khoảng 10.12.1954. Trong đoàn công tác của Trần Dần còn có nhạc sĩ Đỗ Nhuận.
[10]Tác phẩm của Phùng Quán
[11]Gia đình bà Bùi Thị Ngọc Khuê, vợ Trần Dần, đã di cư vào Nam năm 1954.
[12]Trần Dần bị giam kiểm thảo theo kỉ luật quân đội từ 13.6 đến 14.9.1955
[13]Đó là chuyến đi tham quan Cải cách Ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh, từ 02.11.1955 đến tháng 2.1956.
[14]Trần Dần bị giam 3 tháng tại nhà tù Hoả Lò, Hà Nội năm 1956. Trong tù, ông đã dùng dao cứa cổ toan tự tử.
[15]Con gái đầu của Trần Dần là Trần Thị Băng Kha.

Nguồn: Nhân văn số 1, ngày 20.9.1956. Bản điện tử do talawas thực hiện.

===

Tổ Ba Người
Đây mới là thủ phạm! [1]

Báo Nhân dân ra ngày 8-9, trong câu Chuyện vô lý có đăng tin Đội kịch Trung ương mất toi ba triệu đồng về việc diễn Nọc rắn mà không tìm ra thủ phạm. Nhưng cuối cùng Báo Nhân dân lại gọi hai tên “Quan liêu” và “Mệnh lệnh” cho rằng đấy là thủ phạm. Nghe đâu Hoài Thanh nhân danh Vụ Nghệ thuật đã có lời minh oan cho hai tên “Quan liêu” và “Mệnh lệnh”, chúng tôi cũng xin góp phần minh oan cho hai tên ấy.

Câu chuyện chúng tôi biết như thế này:

Khi Bửu Tiến đưa ra Nọc rắn thì một số anh em trong nghề nhận xét một cách khiêm tốn là chưa dùng được. Tuy tờ báo Văn nghệ có cố gắng đăng hai kỳ với chữ “tít” đỏ nhưng Nhà xuất bản Văn nghệ đã từ chối không nhận in.

Bửu Tiến đi Trung Quốc gới gắm Nọc rắn lại cho Thế Lữ. Thế Lữ, sau chuyến đi Liên Xô, Trung Quốc về rất phấn khởi và độ lượng. Thế Lữ thường nói một cách chí thành là: “Moa phải rơ-lơ-vê tất cả những vở kém! (Thế Lữ cũng đã thực hiện trong việc chấm giải dịch)”. Tuy thế, Thế Lữ cũng nhận thấy Nọc rắn còn yếu nên giao cho Nguyễn Khắc Dực chữa Nọc rắn (mặc dầu Nguyễn Khắc Dực rất sợ Nọc rắn).

Hôm đem đọc Nọc rắn thì có cả Huy Cận và Hoài Thanh. Tất cả đều ngồi nghe một cách chăm chú, cẩn thận. Đọc xong, Thế Lữ gật đầu một cách chí thành “Thật là hấp dẫn!!” Hoài Thanh cũng gật đầu: “Căn bản là phục vụ được cải cách ruộng đất”, Huy Cận có vẻ hể hả. Anh em thì có nhiều tiếng xì xào: “Nghe nó thế nào ấy! Nhạt lắm! Giống một vở kịch Pháp”… Nhưng cuối cùng, sau những lời chỉ giáo của các cấp thì anh em cũng đi vào diễn tập.

Báo cáo về diễn tập của Song Kim, lúc bấy giờ là đội trưởng - rất khả quan.

Lời giải thích của Thế Lữ hôm biểu diễn ở Nhà hát lớn cũng rất hấp dẫn.

Khán giả chờ đợi. Màn mở; tên địa chủ Lung ra dạo qua dạo lại… (Chế Lan Viên lại tưởng người trong Ban tổ chức!) một con điên khóc lóc và ca hát v.v…

Khán giả kiên nhẫn chịu đựng hơn một tiếng đồng hồ.

Màn buông xuống: Lưu Trọng Lư vỗ tay một cách vô tội vạ. Hoài Thanh ra về ưu tư. Huy Cận kém phần hể hả. Thế Lữ vẫn nói say sưa về thế hệ diễn viên Sta-ni-láp-sky và kết luận diễn viên của Đội kịch Trung ương là tồi. Mặc dầu, toàn thể người xem vẫn lắc đầu: Hỏng về căn bản!

Riêng Bửu Tiến đang lặng lẽ nghe tiếng chân của mình lê trên đường vắng, bỗng chửi đổng bọn phong kiến.

Nọc rắn gác lại đấy.

Câu chuyện rơi vào im lặng.

(Im lặng sân khấu)

Báo Nhân dân đã đánh cồng kéo một màn kịch mới.

Ai là thủ phạm?

Người ta đẩy hai tên Quan liêu và Mệnh lệnh ló đầu ra.

Đội kịch bảo rằng: Không phải! Không phải!

Hoài Thanh cũng bảo: Không phải! Không phải!

Chúng tôi đồng ý.

Sự thật thì Nọc rắn đã được nghiên cứu cẩn thận, chứ không phải chỉ “liếc qua” như báo Nhân dân đã đăng. Đấy là công việc thận trọng của những người trịnh trọng.

Ai là thủ phạm?

Hãy tạm gác lại việc truy tầm thủ phạm một vài phút để tiếp túc câu chuyện lúc nãy đã:

Sau buổi diễn Thế Lữ vẫn bảo rằng “Bửu Tiến có những ngón cao tay”.

Sau một phút trầm ngâm Thế Lữ nói tiếp: "Sự thành công của một tác phẩm không phải là chỉ ở ngón cao tay mà lại là ở cuộc sống, con người."

Thế Lữ lại tiếp tục trầm ngâm, bỗng sực nhớ ra việc gì, anh trố mắt hỏi một người đứng bên cạnh: "Này, thế ra Cải cách Ruộng đất đợt 5 lại có những chuyện thế cơ à?"

Rồi anh gật gù: "Ghê thật! ghê thật! Mình cứ ngồi đây thì chẳng biết gì cả."

Thế Lữ lại tiếp tục trầm ngâm, nhìn ra ngoài cửa sổ. Dưới đường, người đi, xe chạy. Cuộc sống qua vụt vụt. Thế Lữ “bàng bạc” như vừa đánh rơi một vật gì. Trong lòng anh chỉ còn sót lại ngón cao tay!

Huy Cận, Hoài Thanh thì có vẻ băn khoăn nhiều lắm.

"Quái thật! Ngón cao tay của Thế Lữ thế mà ít công hiệu?"

Lưu Trọng Lư gặp ai cũng nói:

"Mình dạo này phụ trách về Ca vũ… chả biết đội kịch nó ra thế nào!"

Ai là thủ phạm?

Thưa các ngài,

Chúng tôi xin bào chữa cho hai tên “Quan liêu” và “Mệnh lệnh” và xin vạch mặt thủ phạm vụ mất 3 triệu đồng ấy. Chính là tên “Không biết gì”. Không biết gì về nghệ thuật, không biết gì về cuộc sống.

Nhưng nếu chỉ có một mình tên “Không biết gì” thì nó cũng chẳng có cách nào làm mất toi được 3 triệu đồng của công quỹ. Nó đã nhờ có một tay trong nữa trong vụ này: Đó là tên “Ăn cánh”, thủ phạm thứ hai.

Tất cả câu chuyện là ở chỗ ấy.

Và nếu nhân dân và báo Nhân dân đồng ý thì chúng tôi đề nghị tha bổng cho hai tên “Quan liêu” và “Mệnh lệnh” để truy tố hai tên “KHÔNG BIẾT GÌ” và “ĂN CÁNH” .


*

Danh sách các bạn đã góp tiền ra báo [2]

Phan Khôi (Hội V.N.)
50.000 đ
Lê Đại Thanh (Báo V.N.)
20.000 đ
Hồng Lực (Hội V.N.)
5.000 đ
Nguyễn Thịnh (Điện ảnh)
200.000 đ
Tử Phác (Văn nghệ Q. Đ.)
20.000 đ
Hoàng Cầm (Hội V.N.)
100.000 đ
Trần Duy (Xưởng hoạ)
100.000 đ
Nguyễn Hữu Đang (Báo V.N.)
100.000 đ
Hoàng Tích Linh (Văn nghệ Q. Đ.)
5.000 đ


*


Hàn Phi Tử
Tường đổ [3]

Nước Tống có người nhà giầu. Một hôm trời mưa, tường nhà anh ta đổ.

Đứa con nói: “Thưa cha, không đắp ngay tường lại, e có trộm vào”.

Người láng giềng thấy tường đổ cũng nói: “Này bác, không đắp ngay tường lại, e có trộm vào”.

Tường chưa kịp đắp, tối hôm ấy, nhà anh ta quả nhiên mất trộm thật.

Anh ta khen đưa con khôn ngoan biết trước, mà ngờ người láng giềng là gian giảo làm xằng.

Cùng một câu nói, con nói thì khen là tinh khôn; láng giềng nói, thì ngờ là trộm cắp, bởi cớ làm sao? Tại con thì thân, cho nên không có bụng ngờ; láng giềng là tình sơ, cho nên sinh ngờ vực.

Thế cho nên phận sơ mà câu nói thân thì thế nào cũng làm cho người nghe mình đem lòng nghi hoặc.

(Cổ học tinh hoa)


*


Một bài thơ của Lê Đạt - Nhân câu chuyện mấy người tự tử [4]

Đọc báo Nhân dân số 822
Có đăng tin mấy người tự tử
Vì câu chuyện tình duyên trắc trở

Đêm mùa hè nóng nôi
như lửa

Tôi ngồi làm thơ
Vừa giận, vừa thương mấy người xấu số.
Chân đi chưa hết nửa đường đời
Đã vội nằm im dưới mộ

Cuộc sống cho dù lắm mưa
nhiều gió
Nhiều cay đắng xót xa
Cũng đẹp gấp vạn lần cái chết
Chết là hết
hết đau
hết khổ
Nhưng cũng hết vầng trăng soi sáng trên đầu
Hết những bàn tay e ấp tìm nhau
Len lén, bước chân hò hẹn
Bây giờ gặp gỡ nơi đâu?
Dù có chết cùng nhau
Cũng vẫn là chia tay nhau vĩnh viễn
Trời đầu xuân mây vần bão chuyển
Có lạnh không?
Tôi biết hai người khổ lắm
Còn gì buồn bằng không được yêu nhau
Nhưng sao lại chết?
Nhà đạo đức vuốt hàng râu mép
Hạ kính
lắc đầu
Chép miệng
“Hoà bình chủ nghĩa”
Tôi không nghĩ vội vàng như thế
Tôi đã từng yêu
từng đã khổ nhiều
Nhưng không thể tán thành cái chết
Tôi không thích loại cúi đầu theo số kiếp
Cắn răng vào cứ sống cứ yêu


Khi Lương Sơn Bá tương tư trên
giường bệnh
Ngày một võ vàng
Ôm bóng người yêu mà chết
Khi Chúc Anh Đài xăm xăm vào huyệt
Theo nhau cho trọn lời nguyền
Cả rạp lặng yên
Những chiếc khăn tay đầm đìa nước mắt,
Sự thật cuộc đời đắng cay hơn nghệ thuật
Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài
Sống không được yêu nhau,
Chết còn được hoá thành đôi bướm,
Nhưng mấy người tự tử
Xác bây giờ mục nát dưới mồ,
Biết ai thương họ?
Có phải vì chúng ta quá yêu người yêu cũ
Mà quên người sống bây giờ?

Có phải vì chúng ta mất nhiều trong Kháng chiến,
Nên chủ trương tiết kiệm lòng mình?

Có phải vì chúng ta muôn việc rối tinh
Đành xếp lại chuyện mấy người tự tử?

Lịch sử phải trải qua bao đau khổ
Những người chết thiêu trong lửa
Những người chết gục trong tù
Những người chết treo trên cột
Tùng xẻo lăng trì
Rỏ máu trên bàn thờ nhân loại
Cho con người được làm người
Cho con người được yêu được sống
Tôi muốn gào lên cho đến khi lạc giọng
“Không gì đau thương
bằng
mất một con người”


Sao họ lại đưa nhau đi tự tử?
Có phải vì họ không bằng lòng chế độ,
Bất mãn với cuộc đời?

Không.
Họ chưa hai mươi
Cô bé hôm nào mới lớn
Soi trộm vào gương, thấy má mình hồng
Nghĩ đến chuyện lấy chồng
đỏ mặt

Người con trai ngồi trên gò đất
Thổi sáo gọi người yêu
Làm nắng chiều
đứng lại
Lúa đương thì con gái
Cũng thấy rộn trong lòng
Xôn xao gió thổi
Đầu sát bên đầu bàn chuyện tương lai
Thôn xóm tan dần bóng đen địa chủ
Cuộc đời như ánh trăng mỗi ngày một tỏ
Sáng bừng lên
Trong những chiếc hôn đầu
Chế độ ta không cấm họ yêu nhau
Mà sao họ chết?


Người công an đứng ngã tư đường phố
Chỉ huy
bên trái
bên phải
xe chạy
xe dừng
Rất cần cho việc giao thông.
Nhưng đem bục công an
máy móc
đặt giữa tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi
Theo đúng luật đi đường nhà nước
Có thể gây rất nhiều chua xót
ngoài đời


Ngày Phật đản vừa rồi được nghỉ
Tôi đến nhà Văn Cao
Hai đứa rủ nhau
đi ăn thịt chó
Văn Cao vốn là người nể vợ
Ăn xong mua một gói về nhà
Tôi bỗng giật mình,
(nhưng không để lộ ra)
Người chủ xé thơ tôi
gói thịt
Ngay lúc đó tôi chỉ còn muốn chết
Như dại như điên tôi oán đất, oán trời
Nhưng hôm nay tôi chỉ oán mình tôi
Thơ tôi bị cuộc đời ruồng bỏ
Vì tôi đã ngủ quên trong chế độ
Vẽ phấn bôi son, tô toàn màu đỏ
La liệt đầy đường hoa nở
chim kêu
“Tốt tốt!
xà và
tốt tốt!”
Qua thơ tôi
cuộc đời như hết chuyện
Có thể khoanh tay yên trí đi nằm
Như Thượng đế bước sang ngày thứ tám
Không! Không!
bóng những ngày xưa u ám
Còn lởn vở che cuộc đời như gấu ăn giăng
Cải cách đợt năm
Tôi có qua thăm nhiều thôn xóm
Những cây lúa cúi đầu dưới ruộng
Đã ngẩng mặt lên trời
Mơ ước mấy nghìn đời
biểu tình trên dãy thẻ
Luỹ tre làng phơi phới bay xa
Mở rộng cửa đón những ông chủ mới
Ruộng đất nông dân được đội về cởi trói
Nhưng còn tim
còn óc con người?
Giữa năm Cộng hoà lớn khôn mười một tuổi
Vẫn còn lọt lưới
nhiều thói “an nam”
Dán nhãn hiệu
“Made in Cách mạng”
Ngang nhiên xúc phạm con người
Đẩy họ đi tự tử


Phải quét sạch mây đen
cho chân trời rộng mở
Chặt hết gông xiềng
cho những cánh tung lên
Ngày và đêm
mộng bay đầy cuộc sống
Khát vọng theo khát vọng
Không gì ngăn cản con người

Hà Nội, tháng 6-56
Lê Đạt

Tái bút

Bài thơ đến đây, đáng lẽ là chấm hết
Nhưng tác giả đọc cho mấy người quen biết
Thấy cần tái bút đôi lời
Một anh bạn chửi tôi:
“Hết chuyện rồi sao
Mà lại đẽo đến chuyện người tự tử
Ngậm mực phun đen chế độ”

Anh bạn ơi!
Tôi khuyên anh
Không đẹp gì cái lối vu oan giá hoạ
Ném bã rượu vào nhà người
“Trăm năm bia đá thời mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”
Lịch sử luôn luôn duyệt lại
Không ai lừa được cuộc đời
Trước toà án ngày mai

Mấy thằng bán rẻ ông cha đi làm chó
Đánh hơi gật gù
“Lại một thằng làm thơ bất mãn”
Lân la xán đến gần
Hoa chân múa tay
Rêu rao miền Bắc
Trong kia miền Nam
thế này
thế khác.
Cút ngay đi! Đừng giở trò kiếm chác
Ăn bẩn sủa càn
Đất nước trong khó khăn
Đối với chúng ta càng yêu càng quý
Con thương cha mẹ
lúc ốm
lúc đau
Chén thuốc múi chanh bảo nhau chạy chữa.

Tôi chưa quên những ngày qua đau khổ
Kiếp sống nặng trên vai
như một án tù
Cắt tóc đi tu
tu không trọn
Thuốc phiện dấm thanh không thoát nợ đời
Mười tám tuổi già hơn ông cụ:
Tôi đã biết thế nào là tự tử
Nên tôi yêu thiết tha cuộc đời
Càng yêu cuộc đời
tôi càng yêu chế độ
Chế độ của tôi
Sống để bụng
chết mang theo dưới mộ
Nhưng yêu thương
không có nghĩa là tụng kinh gõ mõ
Bán dầu cù là
Xoen xoét “vì Đảng vì Dân”
để lừa Dân lừa Đảng
Cuộc sống đòi hỏi người làm thơ can đảm
Vạch mặt những con sâu cách mạng
Ẩn núp trong nếp cờ
Đội mũ đi hia
Phè phỡn trên lưng chế độ

Tôi trở lại chuyện mấy người tự tử
Họ đúng hay sai,
thôi để họ nằm yên ngủ
Dù khen dù chê
họ cũng đã chết rồi
Nhắc nhở chúng ta nhiệm vụ những người
còn sống
Phải hiểu
Phải yêu
Phải trọng
Con người…

Hà Nội, tháng 7-56

*



Hoàng Huế
Một cuốn sách chụp mũ [5]

Tôi đọc Một chuyện tuyệt giao giữa lúc Hà Nội đang sống yêu đương trong đêm thứ bẩy. Trời đầy sao. Những đôi vợ chồng, những cặp tình nhân và những đôi bạn trẻ đang đi thảnh thơi trên hè phố, hay ngồi trên những ghế đá vườn hoa, thì thầm to nhỏ. Cuộc sống đáng yêu quá. Giữa lúc đó, một cuốn sách Liên Xô dịch ra tiếng Việt nói về tình bạn và tình yêu, đã làm tôi thất vọng. Nội dung cuốn sách như thế nào?

Đó là một tác phẩm nửa phê bình nửa lý luận chia ra làm 6 phần.

Phần đầu kể: Một hôm bộ biên tập báo Sự thật của Đoàn Thanh niên Cộng sản nhận được thư của giáo sư A-mô-xốp yêu cầu báo đăng lên một lá thư của một nữ nhân viên dưới quyền tên là Ga-li-na, gửi cho bạn gái, kể câu chuyện riêng của chị. Trong thư, Ga-li-na kể:

Chị gặp anh Sê-pô-kin trong một buổi vũ hội. Hai người quen nhau trong hai tháng, thường nói chuyện rất say mê về hội hoạ, thi ca, nghệ thuật. Qua câu chuyện, Ga-li-na cứ ngỡ Sê-pô-kin là một sinh viên. Một hôm, Sê-pô-kin cho biết mình làm thợ nề. Ga-li-na vô cùng ngạc nhiên. Chị hỏi “thế ra anh là thợ nề thường thôi à?... Tôi cứ tưởng anh là sinh viên trường đại học kiến trúc cơ đấy!”.

Thế là xảy ra chuyện gì? Ga-li-na viết trong thư để phân trần với một lòng thành không ai có thể nghi ngờ:

“Chị cứ thử nghe xem, anh hỏi tôi một cách như thế này có nhục nhã (cho tôi) không chứ: ‘Làm một thợ nề thường không tốt hay sao?’ Tôi vội nói: ‘Không, tại sao không tốt?’ và tôi bắt đầu giải thích nhưng cũng không đi đến đâu cả…

Chúng tôi trầm lặng bước đi, không nói với nhau chuyện gì được nữa. Đến cửa vào sân vận động, bỗng nhiên anh quay người lại và đi thẳng về nhà không nói với tôi nửa lời và chẳng chào tôi nữa. Mặc dù sau đó tôi cố gắng tìm cách hoà hảo lại như thế nào, tình bạn của chúng tôi cũng đã chấm dứt rồi. Anh ta cũng không muốn gặp tôi nữa.”

Phần hai của cuốn sách kể: Báo Sự thật của Đoàn Thanh niên Cộng sản đã đăng thư này lên với một mục đích một chiều: “Bạn đọc hãy nói cho Ga-li-na rõ những sai lầm của mình. Thế là câu chuyện như hạt đậu trở thành to bằng con voi. Nhiều độc giả gửi bài đến suy diễn chuyện trên ra, quy thành tư tưởng và nghiêm khắc phê bình Ga-li-na. Những phần sau của cuốn sách tổng hợp lại bao nhiêu ý kiến ấy, và cho rằng những ý kiến này là văn kiện của quần chúng bình thường nên hoàn toàn đúng.

Nhưng nó có đúng thật hay không? Chúng ta, độc giả Việt Nam, cần bình tĩnh xét lại.

Đại khái bao nhiều lời phê phán quy kết nghiêm khắc ấy như sau:

Nhiều người đã dẫn chứng lời đồng chí Sta-lin “lao động là sự nghiệp vinh quang và vinh dự” và buộc tội “Ga-li-na đã coi thường và khinh miệt cái vinh quang, cái anh dũng, cái vinh dự ấy, Ga-li-na đã khinh rẻ lao động chân tay”.

Có người ghép Ga-lina vào một “loại” riêng và nói: “Những thiếu nữ loại Ga-li-na cho rằng quen biết với công nhân thì giảm bớt giá trị của họ đi.”

Có người quyết đoán rằng: “Rõ ràng khi Ga-li-na biết Sê-pô-kin chỉ là một công nhân thường, không thể không cảm thấy mình nhầm nên không vui lắm”.

Có anh phân tích như anh học trò lớp năm làm luận: “Nếu nước ta không có thợ công nhân thợ nề và thợ sơn thì Ga-li-na sẽ không có phòng thí nghiệm để ngồi làm việc”.

Và người viết sách đã đồng tình với tất cả những người đã chụp những cái mũ rộng thênh ấy cho Ga-li-na, và hoan nghênh những ai đã biết lấy câu nói “một công nhân thợ nề thường” của chị mà kết luận như đanh đóng cột rằng trong ý thức chị ta còn nhiều tàn dư của giai cấp tư sản.

Tôi, cũng như nhiều bạn đọc khác, sau khi đọc đi đọc lại cuốn sách nhiều lần, và suy nghĩ thêm nhiều lần, thấy rằng đó là những lời suy diễn vội vàng, hấp tấp, kém suy nghĩ.

Chúng tôi cho rằng câu chuyện của Ga-li-na chỉ là một chuyện hiểu nhầm nhỏ thường vẫn xẩy ra hàng ngày trong sinh hoạt của những đôi bạn trẻ, chứ tuyệt đối không mang một nội dung tư tưởng nào cả.

Ga-li-na không tỏ ra thái độ gì để có thể bị buộc tội là khinh miệt lao động. Chị vẫn yên trí là Sê-pô-kin là sinh viên, vì anh nói giỏi chuyện nghệ thuật; thi ca, nên khi anh bảo anh là thợ nề thì chị ngạc nhiên, một sự ngạc nhiên rất “người” do cái thực tế đột nhiên cải chính óc tưởng tưởng. Trong sự ngạc nhiên đó khống có ý gì xấu xa.

Nếu Ga-li-na có nói câu: “Thế ra anh chỉ là người thợ nề thường thôi à?” và “Tôi cứ tưởng anh là một sinh viên cơ đấy!” thì câu nói đó là một câu kính phục chứ không phải là một câu thất vọng. Nếu bây giờ tình cờ tôi quen một chị bạn mới nào đó, chị nói rất giỏi về vôi vữa, gạch ngói, nhưng sau cùng chị cho tôi biết chị là sinh viên đại học văn khoa, tất tôi cũng ngạc nhiên hỏi chị: “Thế ra chị là sinh viên đại học văn khoa à? Tôi cứ ngỡ chị là một thợ nề bình thường”.

Chúng ta có thể quy kết chuyện sinh hoạt nhỏ trên thành tư tưởng khinh lao động, trong trường hợp Ga-li-na khi nghe nói Sê-pô-kin chỉ là thợ nề, liền trở mặt, lặng lặng bỏ đi, và tự ý tuyệt giao. Nhưng ở đây không thể!

Bởi vậy tôi cho rằng người chịu trách nhiệm nhiều hơn trong chuyện tuyệt giao này, không phải là Ga-li-na, mà chính là Sê-pô-kin. Anh đã tỏ ra nóng nảy, hấp tấp, kém suy nghĩ, và có một lòng tự ái không đẹp lắm. Như lá thư đã trình bày, mặc dù Ga-li-na biết mình bị hiểu nhầm, đã hốt hoảng kêu lên: “Không! Tại sao không tốt?”, và những hôm sau đó cố tìm mọi cách hoà hảo để nối lại tình bạn, Sê-pô-kin vẫn cố tình “tuyệt giao”.

Rõ ràng anh ta là người tự ti, hay dỗi, nhiều thành kiến và cố chấp.

Phải công bằng mà nhận rằng trong cuốn sách có vài ý kiến phê bình Sê-pô-kin, nhưng người ta không vạch ra khuyết điểm nặng nề của Sê-pô-kin, mà chỉ nói anh sai lầm vì đã không bình tĩnh vạch khuyết điểm khinh lao động (?) cho Ga-li-na thấy.

Riêng tôi, tôi rất công phẫn tại sao báo Sự thật của Thanh niên Cộng sản lại có thể hiểu nhầm Ga-li-na đúng như anh chàng Sê-pô-kin – mà có lẽ còn tệ hơn Sê-pö6-kin vì đã đọc bức thư của Ga-li-na trong đó chị nói rõ nỗi khổ tâm bị hiểu nhầm - rồi báo đó lại căn cứ vào sự hiểu nhầm gần như cố ý của mình mà đặt vấn đề xuyên tạc như là Ga-li-na đã thú tội? Ngay cả giáo sư A-mô-xốp, bắt được thư riêng của Ga-li-na mà không trao trả, lại tự tiện đem công bố trên mặt báo, tại sao cũng không có một người nào vạch rõ thái độ bất lịch sự - và có lẽ còn phi pháp nữa - của ông ta?

Đến đây, tưởng phải ngoặc lại một chút. Tôi không hoàn toàn phủ nhận cuốn Tuyệt giao. Có nhiều vấn đề đã nêu ra và giải quyết một cách đúng đắn. Tôi rất tán thành những ý kiến tốt này: Phải tôn trọng giá trị lao động và người lao động, “lao động đang tạo ra trí thức” v.v…

Đúng thế. Hôm nay ở Liên–Xô, cũng như mai đây trên đất nước chúng ta, con em những người lao động sẽ là lực lượng thống trị trong các trường đại học. Giai cấp công nhân sẽ tự mình đào tạo ra những nhà bác học, kỹ sư, bác sĩ và những nhà văn của giai cấp mình. Điều đó không ai có thể chối cãi cũng như nhiều vấn đề đã được nêu ra trong sách: Lao động là cơ sở tất yếu của tình bạn chân thành; trong tình yêu nhất định phải tôn trọng nghề nghiệp và lao động của người yêu; tình yêu là cơ sở của gia đình v.v…

Tôi chỉ muốn nêu ra ở đây cái sai lầm cơ bản của cuốn sách: một lối chụp mũ trắng trợn.

Cuốn sách đã xuất phát từ quần chúng chủ nghĩa và công nông chủ nghĩa máy móc. Tôi dám nói thẳng rằng: có thể một số cán bộ phụ trách Đoàn Thanh niên Cộng sản Liên–Xô, trong hoàn cảnh lãnh đạo sai lầm của Sta-lin, đã phạm những khuyết điểm nghiêm trọng này. Họ cho rằng bao nhiêu ý kiến chụp mũ trên là ý kiến của những người dân bình thường nên hoàn toàn đúng. Họ chĩa mũi dùi của cuộc thảo luận về phía Ga-li-na là một tiểu trí thức chứ tuyệt không đả động đến Se-pô-kin, vì quan điểm người công nhân là thần thánh, trong việc này không thể có sai lầm.

Người đọc dù cố vô tình đến đâu cũng phải chú ý đến điểm cuốn sách mang trong mình nó cái dòng máu sùng bái cá nhân Sta-lin mà ngày nay chúng ta đã biết là một hiện tượng xã hội nguy hiểm ở Liên–Xô cho đến mãi Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên–Xô. Khá nhiều đoạn nhắc đi nhắc lại: nào là thời đại Sta-lin, nào là đồng chí Sta-lin, lãnh tụ của lao động toàn thế giới, đã dạy chúng ta thế này, đã dạy chúng ta thế nọ…

Sta-lin lúc còn ngồi trong điện Kờ-rem-lanh đã tạo ra rất nhiều sai lầm cho thời đại. Quần chúng Liên Xô, và cả giai cấp công nhân Liên Xô nữa, trong hoàn cảnh ấy, tất nhiên phần đông cũng chịu ảnh hưởng xấu kia ở những phương diện nhất định nào đó.

Bởi vậy cách giáo dục con người Liên Xô về thời ấy cũng có nhiều sai lầm. Tôi lấy ví dụ cuốn phim Con đường vinh quang. Ai đã xem phim ấy đều cảm thấy khó chịu. Một chị vợ muốn đi công tác, chồng không thích cho đi, chị đã “chỉnh” người chồng bằng những công thức chính trị cứng nhắc, rồi dứt áo ra đi. Tất nhiến trước thái độ phũ phàng và coi thường chồng ấy, người chồng phải bỏ chị. Cuốn phim hoan nghênh người vợ và đả đảo người chồng.

Cách đây ít lâu chúng ta lại được xem cuốn phim khác của Ba Lan, cũng đề cập tới vấn đề ấy. Một người vợ khi biết chồng có ý gò mình ở nhà nấu ăn và giữ con, mỗi buổi chồng đến xưởng thì chị lại lén đi học lái ô-tô. Mãi đến khi chị đậu giải nhất trong kỳ thi lấy bằng lái xe, tình cờ người chồng mới biết, và lúc ấy vô cùng cảm phục vợ, đã ôm vợ hôn thắm thiết.

So sánh hai cuốn phim, chúng ta mến phục lối giáo dục của những tác giả cuốn phim Ba Lan đã hiểu biết con người và quí trọng cái tình nghĩa vợ chồng mà người ta chỉ có thể dằn lòng gạt bỏ trong mâu thuẫn cao độ giữa cách mạng và phản cách mạng chứ không thể vì chưa đồng ý về chuyện ở nhà hay đi công tác mà dí xuống dưới chân.


Người dịch cũng như người viết, cùng làm một nhiệm vụ lớn: Kỹ sư tâm hồn. Anh có nhiệm vụ bắc cầu giữa nghệ thuật nước ngoài và quần chúng trong nước. Anh phải tìm tòi những cái tinh hoa của học thuật văn nghệ nước ngoài để giúp ích quần chúng nước ta.

Tiếc thay! Đáng lẽ phải đặt vấn đề chọn lọc thì người dịch và nhà xuất bản đã tin một cách ngây thơ rằng bất cứ sách nào của Liên Xô cũng hay cả.

Thái độ đó, trước Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô còn tha thứ được phần nào. Nhưng bây giờ, sau Đại hội, cả thế giới đều biết đến nhiều “chân lý” cần phải đem duyệt lại thì cái lòng tin ngây thơ kia thật đáng trách.

Cuốn Tuyệt giao, điển hình về sự phê phán độc đoán và chụp mũ, sản phẩm của những sai lầm độc đoán của thời đại Sta-lin, tôi chắc chắn rằng hiện nay quần chúng Liên Xô đã vứt bỏ, cũng như đã vứt bỏ cuốn phim Công phá Bá Linh, điển hình về sùng bái cá nhân. Vậy mà một cơ quan nhận trách nhiệm giáo dục thế hệ thanh niên Việt Nam mới, lại không suy nghĩ điều đó, hôm nay in lên giấy trắng mực đen 1 vạn 2 nghìn 102 bản dịch!

Thanh niên Việt Nam đang khao khát những sách “tươi” nói về tình yêu, tình bạn, tất nhiên phải tìm mua cuốn đó. Và 12.102 cuốn Tuyệt giao đắt như tôm tươi kia đã thở thành 12.102 liều thuốc chẳng… lẽ lại gọi là độc.

Trước khi dừng bút, tôi muốn tâm sự với các bạn một câu chuyện nhỏ. Buổi sớm ngày quốc khánh vừa rồi, khi quần chúng mặc áo đẹp diễu hành qua quảng trường Ba Đình, thấy lứa em nhỏ hồn nhiên phơi phới như những con ong và những chùm hoa đẹp nhất, bỗng dưng nghĩ đến cuốn Tuyệt giao, tôi đã trào nước mắt. Tôi đã khóc thật, các bạn ạ. Tôi khóc vì thấy tuổi các em trong trắng quá, tương lai các em tươi đẹp quá. Nếu ngay từ hôm nay, các em bị buộc phải nhận một sự giáo dục sai lầm để mai đây lớn lên biến thành những con người thiếu trái tim, thì chúng ta, tất cả chúng ta, phải chịu bao trách nhiệm nặng nề trước chế độ, trước lịch sử.

5-9


*


Địa ngục miền Nam [6]

1. Ngô Đình Diệm muốn tỏ ra rằng Diệm cũng có thể làm những việc văn học ngoài những việc giết người và buôn lậu. Diệm phát động nhiều thứ diệt…, diệt cộng, diệt kháng chiến, v.v và gần đây là diệt giặc dốt!

Tại Thừa Thiên, ở huyện Phú Lộc nhân dân yêu cầu chính quyền Diệm mở lớp bình dân. Chính quyền Diệm bèn cho đi biên danh sách những người không biết đọc biết viết và hứa hẹn sẽ thẳng tay diệt giặc dốt. Nhân dân kỳ vọng. Diệm tổ chức một cuộc phát động diệt giặc dốt rất rầm rộ bằng hình thức một đám ma đem chôn một một quan tài đầy ắp những danh sách những người mù chữ. Nhân dân già trẻ lớn bé không hiểu gì cả nhưng vẫn cứ hy vọng.

1 tháng sau khi phát động, vẫn không có gì động cả.

2 tháng sau khi phát động, vẫn không có gì động cả. Nhân dân vẫn cứ mù chữ như thường. Một hôm nhân dân kéo đến trụ sở chất vấn. Chính quyền Diệm nghiêm chỉnh trả lời.

“Giặc dốt Chính phủ chôn rồi còn đâu nữa mà diệt”…

Thế là dân thoát nạn mù chữ!.


2. Văn hoá và xã hội là hai công tác trọng tâm của Diệm như thế là giặc dốt diệt xong rồi!

Bây giờ phải nghĩ đến nâng cao dân sinh. Diệm lo để người dân miền Nam sống trên đồng ruộng phì nhiêu của Bắc Liêu, Rạch Giá v.v… sẽ phải đói khổ, nên muốn cho họ no ấm Diệm đưa họ lên… cao nguyên Pờ-lê-cu! Ở đây có đất đỏ, đá cuội trắng và muỗi độc.

Diệm không ngớt ca ngợi Pờ-lê-cu là thiên đường, đồng bào muốn sung sướng thì nên đi Pờ-lây-cu. Đồng bào ngần ngừ, Diệm sốt ruột dỡ nhà cho họ, tích cực đẩy họ lên ô-tô.

Ai phản đối “hạnh phúc” có thể cho đi tù được! Pờ-lê-cu thiên đường!

Vũ Gia Hiếu và Vũ Đức Hải là hai chuyên viên di cư trả lời cho một tờ báo Sài Gòn về cái thiên đường ấy: “Bây giờ phải tránh hai nạn: tiếp tế chậm và ở nhà lều vải lâu ngày!”


*


Hà Bá
Mầu sắc [7]

Những hôm văn công đi tuần hành, người ta có cảm giác đang ở phố hàng Mã. Màu sắc sao mà tươi thế! Xanh lam chen đỏ chói, lá mạ chen vàng, hồng, tím, xám, đỏ cánh sen. Lại có những bộ quần áo có nẹp như dán giấy. Những mẫu thêu đẹp của các dân tộc miền núi được thay bằng những miếng kim, ngân tuyến bán sẵn – thành ra những bộ quần áo đẹp được cải biến thành những quần áo của không biết lai căng xứ sở nào. Tươi quá khiến người ta phải nhắm mắt lại kẻo chói loà, loà cả mắt. Tíu tít dải lụa ở khắp mọi điệu múa, ở khắp các thành phần dân tộc. Ai bảo không màu sắc, tươi vui phấn khởi?

Nhưng chỉ có cái là không dân tộc. Nhất là cái khăn bỏ múi bên tai. Một cuộc loạn sắc bất cần mắt người xem.


*


Tranh châm biếm: “Hậu trường sân khấu ‘tố cộng’ ở miền Nam” của Trần Duy



*


Trần Công
Chống bè phái trong văn nghệ [8]

I. Bè phái là thế nào và ai bè phái

Ít lâu nay, trong giới văn nghệ thấy nói nhiều đến danh từ bè phái. Khi Giai phẩm mùa Xuân ra đời, một số cán bộ lãnh đạo văn nghệ lớn tiếng “Đây là một tổ chức bè phái”.

Những người viết Giai phẩm mùa Xuân có phải là một bè phái không?

Trong đợt học tập lý luận vừa rồi, anh em có phê bình nhiều điểm về chính sách, về lãnh đạo, nổi bật nhất là vấn đề bè phái trong lãnh đạo. Vậy bộ phận lãnh đạo có bè phái không?

Không khí văn nghệ chưa bao giờ sóng gió như bây giờ? Anh em năm người, ba người thảo luận sôi nổi phản đối những sai lầm nghiêm trọng của lãnh đạo văn nghệ.

Một số cán bộ lãnh đạo sốt ruột lẩm bẩm: “Các anh phê bình lãnh đạo chúng tôi bè phái, thì chính các anh đang túm năm, tụm ba bè phái đấy, còn nói gì ai nữa?”.

Vậy anh em văn nghệ sĩ có bè phái không?

Những câu hỏi đó cần được trả lời minh bạch dứt khoát để chấm dứt càng sớm càng hay những suy diễn chủ quan, chụp mũ, hơi một tí là rêu rao “chia rẽ nội bộ”, làm “suy yếu tổ chức”, bới trong đời tư hoặc trong lý lịch của người ta những điểm thiếu sót thổi phồng lên biến việc đấu tranh tư tưởng, nghệ thuật thành việc đấu tranh chính trị. Thủ đoạn đó ảnh hưởng không tốt tới phong trào tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác của chúng ta.




Trước hết, phải nói ngay rằng chủ trương trăm hoa đua nở công nhận những nhóm và những trường phái văn nghệ. Không những công nhận mà còn cần nữa. Trong công tác tư tưởng và văn nghệ thế nào cũng có một số người đồng ý với nhau về một số điểm nhất định, muốn bênh vực, muốn phát triển, muốn truyền bá nó trong quần chúng. Những người bạn tư tưởng, bạn nghệ thuật ấy trong quá trình đấu tranh nghiên cứu sáng tác có họp thành nhóm thì tưởng cũng là chuyện tất nhiên chẳng có phương hại đến sự thống nhất của mặt trận tư tưởng và văn nghệ mà vội lo trời sụp. Trái lại có các nhóm, các trường phái, các dòng văn nghệ mới phát triển được mạnh mẽ, mau chóng. Không công nhận các nhóm, các trường phái nghệ thuật là không công nhận chủ trương trăm hoa đua nở, vi phạm nặng nề vào chủ nghĩa Mác, tạo một miếng đất tốt cho tất cả mọi sự độc đoán về văn nghệ sinh sôi nảy nở.

Chúng ta có thể nói dứt khoát với nhau: Các trường, các nhóm không phải là bè phái. Nhưnng cũng phải nói ngay rằng các trường, các nhóm có thể và cũng dễ dẫn đến bè phái.

Các trường các nhóm sẽ trở nên bè phái chừng nào họ quên mất lý tưởng nghệ thuật của họ, rời bỏ nguyên tắc đua nở hoà bình, đi sâu vào con đường cạnh tranh, kèn cựa.

Bè phái, nói một cách vắn tắt là nhắm mắt lại ca ngợi, đề cao những cái xấu của vây cánh mình và đả kích những cái tốt của các nhóm khác. Các nhóm đấu tranh với nhau, mâu thuẫn với nhau nhưng thống nhất với nhau trên một cơ sở chung: Vì nhân dân, vì đất nước, vì con người – nên mâu thuẫn mà thống nhất. Các nhóm đấu tranh tiêu diệt những cái xấu của nhau và kích thích những cái tốt phát triển. Quan hệ giữa các nhóm là một quan hệ bạn bè. Còn bè phái thì khác, quan hệ giữa các bè phải là một quan hệ đả kích, đàn áp hằn thù để tiến tới độc quyền. Bè phải thường dẫn đến những hành động vu khống nhiều khi độc ác.

Vì thế không nên lẫn lộn bè phái với các nhóm các trường, phái văn nghệ.

Anh em trong Giai phẩm mùa Xuân chỉ muốn đưa ra một số tìm tòi về nghệ thuật chống lại với một số quan điểm đang thống trị văn nghệ hồi đó, như thế không thể gọi là bè phái.

Anh em trong và sau đợt học tập vừa rồi có gặp người này, người khác trao đổi phê bình lãnh đạo, bàn bạc về những giải pháp cần thiết bảo đảm cho văn nghệ phát triển tự do; một số ý kiến quá khích hay động cơ không tốt với lãnh đạo, chính anh em cũng phản đối và uốn nắn, như thế sao lại gọi là bè phái?

Bây giờ nói về lãnh đạo

Ta cũng không nên vội vàng kết luận ngay. Chúng ta hãy trình bày một số việc cụ thể của lãnh đạo.

Vụ phê bình Việt Bắc

Tập thơ Việt Bắc cũng là một tập thơ như muôn ngàn tập thơ khác, dù có hay chăng nữa cũng chỉ là một tập thơ. Nhưng nó có cái đặc biệt. Đặc biệt không phải ở thơ mà ở tác giả. Giá tập thơ Việt Bắc là của người khác thì phê bình cũng chẳng sao đâu, nhưng Việt Bắc lại là của Tố Hữu. Một loạt bài của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt làm một số cán bộ lãnh đạo văn nghệ ngạc nhiên, tức giận thậm chí có người nói “Địch nó không mong gì hơn chúng ta chê thơ Tố Hữu”! Ta có quyền không đồng ý với những bài phê bình của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt, nhưng không đồng ý đến độ nói được câu quái gở trên thì thật là một hành động ngậm máu phun người. Nhưng làm thế đã hết đâu. Sau mấy bài phê bình Việt Bắc, báo Văn nghệ liên lục cho đăng một loạt bài ca ngợi (chỉ ca ngợi) bênh Tố Hữu. Và không cần tranh luận, cố đi đến một kết thúc thật gọn. Gọn đến mức trắng trợn. Vụ phê bình Việt Bắc kết thúc để không kết thúc gì cả.

Vụ Giai phẩm mùa Xuân

Vụ này nhiều người đã nói, ở đây chỉ xin trình bày một số nét chính. Tập Giai phẩm vừa ra, một số cán bộ văn nghệ đã công kích nó kịch liệt. Công kích bằng văn chương thì cũng đã là quá rồi, đằng này lại công kích bằng cả những hành động có tính chất hành chính thô bạo. Người ta cho rằng sở dĩ lãnh đạo làm như thế vì những người chủ chốt trong Giai phẩm đều là những người phản đối sự suy tôn thơ Tố Hữu và khuynh hướng sáng tác của họ chống lại với cái đường lối sáng tác công thức, một chiều của bè phái lãnh đạo nên bị bè phái ấy tìm hết cách tiêu diệt. Ý kiến đó đúng toàn bộ hay đúng một phần, cần phải suy nghĩ thêm. Chỉ biết Giai phẩm bị thu hồi, Trần Dần bị tống giam. Lê Đạt nghe đâu cũng bị giữ lại kiểm thảo. Bài phê bình của Hoài Thanh vu cho Trần Dần là phản động. Hoàng Trung Thông đi diễn thuyết buộc tội v.v…

Nguyễn Đình Thi đi xa về, mượn cớ đấu tranh tư tưởng nghệ thuật để mạt sát khôn khéo hơn. Nhưng ba bài báo văn hoa dài dòng không có một lời cải chính những điều vu cáo nói trên cũng không sao giấu được cái dụng ý phụ họa không tốt. Một lối kết thúc để không kết thúc gì cả.

Vụ Giai phẩm mùa Xuân sang mùa thu rồi mà vẫn còn nóng hổi, chờ đợi giải quyết lại.

Rồi đến vụ Giải thưởng Văn học 54-55

Vụ này cụ Phan Khôi đã có một vài ý kiến đăng trong Giai phẩm mùa Thu. Những ý kiến đó, đáng để chúng ta suy nghĩ nhiều vì cụ Phan là một người trong ban chung khảo, và cũng là người độc nhất chống lại các bè phái lãnh đạo trong vụ này.

Bản tham luận của một tổ trong buổi tổng kết đợt học tập vừa qua của giới văn nghệ đã nêu rõ: “Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng đại diện cho Ban Chấp hành Hội, đều có trách nhiệm lớn đối với phong trào. Thế mà tác phẩm còn non kém của ba ông lại được giải. Nếu không phải là ta tự bỏ phiếu cho ta thì cũng là bè cánh ta bỏ phiếu cho tác phẩm tồi của bè cánh ta (cũng nên chú ý đến Huy Cận có chân trong ban chấm giải, mà ai cũng biết Huy Cận và Xuân Diệu chỉ là một). Thật là bất chấp cả giới văn nghệ, khinh miệt quần chúng. Khi dư luận quần chúng đã công phẫn và cuốn Ngôi sao bị chỉ trích kịch liệt thì Hoài Thanh vẫn còn cho mình là có uy tín lớn, dám ngang nhiên đứng ra lên giọng kẻ cả mà bênh che cho Xuân Diệu.

Có thể nói: Đến bước ấy thì bè phái từ bí mật đã ra công khai rồi vậy”.

Bênh vực, bao che, tán tụng, phong chức cho nhau; đàn áp, vu cáo, nói xấu những người không tán thành mình, đó không là bè phái thì nên gọi nó cái gì?

Ai bè phái? Thật rõ như ban ngày. Cho nên ta cũng không lạ gì khi thấy một số cán bộ lãnh đạo vu cho người này người khác phản đối mình là bè phái.

Đó chính là suy bụng ta ra bụng người vậy.

Bản báo cáo của đồng chí Khơ-rút-xốp có đoạn nói trong cuộc đấu tranh chống tệ sùng bái cá nhân của Sta-lin, trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã hình thành một nhóm trung kiên theo đường lối Mác – Lê-nin, để chống lại Sta-lin. Như thế có gọi là bè phái được không?

(Kỳ sau: II. Nguyên nhân và tai hại của bệnh bè phái)


*


Trúc Lâm
Không phải truyện cười [9]

Cửa hàng bán giấy

Cửa hàng mậu dịch bán giấy ở phố Tràng Tiền mỗi ngày có hàng trăm, hàng nghìn người đến giao dịch, xe giấy, giao giấy chuyển giấy, mua, bán, trong một gian buồng hẹp, dài tun hút, không khí chỉ ra vào được bằng hai khung cửa ở hai đầu không rộng đầy 3 thước vuông.

Hàng trăm con người chen nhau mồ hôi nhễ nhại. Trong buồng giao giấy tối om om. Phải chờ đợi nhau, giấy mua hàng chồng từng đống, vẻn vẹn có hai chị bán hàng, giao hàng, đếm hàng quật quật không ngớt tay, cũng mồ hôi nhễ nhại không kém người mua hàng.

“Giá chỗ này mà có lấy một cái quạt máy…” Có người phàn nàn với một nhân viên ở cửa hàng. Người này cho biết đã đề nghị xin một quạt máy từ lâu, ngót tháng nay rồi nhưng chưa được tài chính duyệt và cấp trên còn xét.

Giá những cấp trên và những người duyệt các khoản chi tiêu tài chính rời bỏ căn phòng mát mẻ có quạt máy của mình, để cũng đến cửa hàng bán giấy ở phố Tràng Tiền, sắp hàng mua bán hoặc làm những nhân viên phục vụ… chắc chắn chiếc quạt kia xin buổi sáng… buổi chiều đã được xét… là rất cần phải nên có ngay…

Trọng lẽ không nên thất lễ

Ngày lễ Quốc khánh là một ngày đại lễ rất trọng thể của lịch sử dân tộc ta.

Trên lễ đài các lãnh tụ, các đại sứ, các đại diện ngoại giao đoàn, các đại biểu nhân dân ăn mặc nghiêm trang tề chỉnh biểu lộ lòng thành kính với ngày Quốc khánh và đối với nhân dân tuần hành diễu hành qua lễ đài.

Tuy nhiên, trên lễ đài vẫn còn đại diện cơ quan đoàn thể đã mặc áo cụt tay, áo cổ bẻ như là đi xem đá bóng, đi xem chiếu bóng.

Họ không phải thiếu quần áo lễ phục đâu.

Họ chỉ thiếu cái lễ độ với các lãnh tụ, đại diện ngoại giao đoàn và với nhân dân.

Giấy mời

Một cán bộ văn nghệ hỏi đồng chí phụ trách việc phân phối giấy mời xem các đoàn văn công các nước bạn biểu diễn.

“Nghe nói văn công Triều Tiên, Trung Quốc, Liên Xô biểu diễn hay lắm phải không ạ?”

“Thật là tuyệt diệu! Không chê vào đâu được! Ma-nhi-phích!”

“Sở dĩ họ thành công là do nguyên nhân gì ạ?”

“Nhiều nguyên nhân. Nhưng theo tôi điểm chính là họ công tác với một động cơ chính xác: vì nhân dân mà phục vụ.”

“Vì nhân dân mà phục vụ chủ yếu là công nông binh có phải không ạ?”

“Họ từ quần chúng mà ra lại trở về với quần chúng.”

Anh cán bộ văn nghệ nhổ sợi râu mép nhỏ nhẻ:

“Thưa đồng chí thế tại sao những tối biểu diễn thấy ít công nông binh tham dự?”

“À, ít công nông binh là vì nghệ thuật nước bạn cao, công nông binh hiểu biết ít về văn nghệ.”

“Thế tôi là văn nghệ sĩ hiểu biết nghệ thuật mà cũng không được mời tới tham dự?”

Đồng chí cán bộ phụ trách lúng túng ngập ngừng, sau trấn tĩnh trả lời:

“Dễ hiểu lắm. Vì đồng chí không phải là công nông binh.”


*


Quảng cáo cho Nhân văn số 2 [10]

Nhân văn số 2 sẽ đăng:

Xem mặt vợ (kịch ngắn của Hoàng Tích Linh) – Pha-đê-ép (của En-xa-Tờ-ri-ô-lê, Tử Phác dịch) - Phấn đấu cho trăm hoa đua nở (của Nguyễn Hữu Đang) - Trả lời một sinh viên Việt Nam ở Bắc Kinh (của Phan Khôi) - Những sai lầm trong lãnh đạo mỹ thuật (của Nguyễn Hữu Đang) – Nhân xem triển lãm “áp phích” Ba Lan (của Trần Duy)…

Bài gửi: Thư ký Toà soạn

Thư mua báo và tiền gửi: Quản trị


[1]Trang 2, mục “Chuyện có lý” của Tổ Ba Người, toàn bài in nghiêng
[2]Đóng khung, ờ dưới cùng, bên phải, trang 2
[3]Mục “Ôn cũ biết mới”, trang 2, đóng khung, in chen vào giữa bài “Con người Trần Dần”
[4]Chiếm toàn bộ trang 3
[5]Mục "Phê bình”, trang 5
[6]Trang 5, mục "Châm biếm", dưới cùng, bên trái, không đề tên tác giả, kèm hai tranh châm biếm
[7]Trang 5, mục "Chưa đẹp mắt", kèm một tranh châm biếm
[8]Trang 6
[9]Trang 6, kèm hai tranh châm biếm
[10]Trang 6, dưới cùng, bên phải

===
Nguồn: Nhân văn số 1, ngày 20.9.1956. Bản điện tử do talawas thực hiện.

No comments: