Friday, November 21, 2008

GIOT NƯỚC TRONG BIỂN CẢ III

====

Hoàng Văn Hoan
Giọt nước trong biển cả
(Hồi ký cách mạng) 16 kì
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16

II. Hoàn cảnh công tác mới

Lúc đó ở Nam Kinh, có độ vài chục người Việt Nam, gồm mấy loại: Có người cách mạng như anh Lê Thiết Hùng, con rể chưa cưới của ông Hồ Học Lãm, anh Cao Hồng Lĩnh trong nước mới ra, ở nhà một người Hoa kiều; có người đồng tình ủng hộ Đảng như gia đình ông Hồ Học Lãm và bốn anh em Việt Quốc chống tụi Nguyễn Thế Nghiệp và Vũ Hồng Khanh, từ Vân Nam đến là Đông A, Đỗ Đăng Trình, Lê Quốc Trụ [1] và Từ Chí Kiên [2] ; có người lừng khừng như ông Trần Trọng Khắc mới ở nước Đức phát-xít về; cũng có người đã làm mật thám cho Pháp từ Xiêm trốn sang như Đặng Nguyên Hùng. Ngoài ra còn có một Biện sự xứ của Việt Quốc, đứng đầu là Vi Đăng Tường cũng gọi là Vi Chính Nam và một chàng thanh niên là Nghiêm Kế Tổ đang chuẩn bị đi học trường đặc vụ của Tưởng Giới Thạch. Đặng Nguyên Hùng và Trần Trọng Khắc cùng ở chung nhà với ông Hồ Học Lãm, còn Lê Thiết Hùng thì làm trung đội trưởng ở Giao thông binh đoàn, một vài tuần mới về nhà một hôm.

Tháng 4 năm 1935 lại đến thêm hai người nữa là anh Hải và anh Văn. Hải là người đã cùng tham gia lớp huấn luyện với tôi ở Quảng Châu từ năm 1926, sau được giới thiệu đi học ở Liên Xô. Văn là một đồng chí người Xiêm, đã chịu ảnh hưởng của Đảng và tham gia phát truyền đơn chống chính quyền độc tài ở Xiêm, mà tôi đã gặp mấy lần ở Băng-cốc nay lại gặp lại.

Sau một thời gian, trao đổi ý kiến với anh Hải, chúng tôi quyết định tổ chức một lớp huấn luyện tại nhà ông Hồ Ngọc Lãm. Tôi, anh Cao Hồng Lĩnh và mấy anh em Việt Quốc có cảm t-ình với Đảng tham gia, Hải phụ trách huấn luyện.

Lớp huấn luyện chỉ độ hơn một tháng nhưng đối với tôi là một thu hoạch lớn. Đã mười năm làm cách mạng, sau lớp Quảng Châu, được nghe lý luận cách mạng tương đối có hệ thống, như tính chất cách mạng, lực lượng chủ yếu của cách mạng, đồng minh của cách mạng, chính sách mặt trận, kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của Liên Xô, vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê-nin, duy vật biện chứng, v.v… Mỗi lần nghe xong, tôi lại tóm tắt tinh thần dùng tiếng Xiêm giảng lại cho anh Văn.

Tháng 8 năm 1935, các anh Cáp, Truật, Đại, Kỳ [3] , Trinh, Đức, Lộc, Luận bị Chính phủ Xiêm trục xuất từ Băng-cốc đến. Ông Hồ Học Lãm trước kia đã phải nuôi mấy người chúng tôi, nay lại thêm tám người nữa, phần lớn đều do ông phụ trách. Thật là một gánh quá nặng, nhưng ông vẫn vui lòng và thường khuyên anh em đừng ngại.



*


Vào khoảng tháng 9 năm 1935, anh Nhỏ [4] đến Nam Kinh, đó là đại biểu của Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng, người tôi muốn gặp đã từ lâu, nay mới được gặp.

Nguyên khi tôi xin phép Xiêm ủy đi Trung Quốc chữa bệnh, mục đích là cốt để nhờ ông Hồ Học Lãm giúp đỡ chữa cái bệnh đau đầu đã hơn mười năm. Nhưng ngoài ra còn có một mục đích trọng yếu hơn là muốn có dịp được gặp các đồng chí trong Ban chỉ huy, để xin ý kiến về công tác cách mạng Xiêm.

Sự thực, năm 1930 sau khi thành lập xong Đảng Cộng sản Xiêm thì đại biểu Quốc tế Cộng sản đã vội vàng đi Mã-lai, chưa kịp có những chỉ thị ường tận về các mặt công tác. Riêng bộ phận Đảng Việt kiều ở Xiêm, về mặt công tác viện trợ cách mạng Đông Dương thì làm rất tốt. Nhưng về mặt công tác cách mạng Xiêm, bộ phận Việt Nam nên làm thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh của kiều bào là một vấn đề còn mơ hồ. Năm 1931, sau khi anh Đình mất, tôi thay anh Đình làm Bí chư Tỉnh ủy U-đon, năm 1933 đến Băng-cốc công tác lại được bổ sung vào Xiêm ủy [5] và phụ trách bộ phận tuyên truyền. Nhưng thực ra, tôi cũng như Tăng bạc đầu, người Việt Nam đầu tiên được chỉ định vào Xiêm ủy ngay từ lúc thành lập, đều rất lúng túng, chưa mò ra đường lối nên làm thế nào?

Năm 1934, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng thành lập ở Hương Cảng, tôi bàn với Tăng bạc đầu phái một cán bộ đi gặp Ban chỉ huy báo cáo và xin ý kiến. Lúc anh này ở Hương Cảng về, hỏi công tác thì nói lờ mờ, chẳng ra đầu đuôi, mà Ban chỉ huy gởi cho chúng tôi năm trăm bạc thì hắn không báo cáo, đút túi làm của riêng để phung phí trong sinh hoạt vật chất của hắn. Sau Tăng bạc đầu lại đi gặp Ban chỉ huy, khi về Băng-cốc, tôi hỏi đến vấn đề công tác cách mạng Xiêm của bộ phận Việt kiều, anh ta chỉ nói: “Vẫn như tinh thần báo Bôn-sê-vích của Đảng, là còn một người, còn đấu tranh”.

Năm 1934, cũng chính là năm Việt kiều ta ở Xiêm đang bị khủng bố, ở các địa phương như Na-khon, U-thên, Pha-nôm, Mường-mục, v.v… cảnh sát Xiêm đã nhét truyền đơn vào nhà Việt kiều rồi bắt. Sự quan hệ giữa Xiêm với Ban chỉ huy ở ngoài, cứ như Tăng bạc đầu nói thì Ban chỉ huy được Quốc tế Cộng sản giao nhiệm vụ giúp chỉ đạo cả Đảng Mã-lai và Đảng Xiêm. Nay ý kiến của Ban chỉ huy được Tăng truyền đạt là như vậy, thì phương hướng hoạt động của kiều bào vẫn không thay đồi. Tôi nghe nói, có ý nghi ngờ là khi Tăng báo cáo công tác Đảng Xiêm với Ban chỉ huy đã thổi phồng thành tích mà không trình bày hết hoàn cảnh khó khăn chăng? Với sự suy nghĩ như thế, tôi quyết định xin phép Xiêm ủy đi Trung Quốc chữa bệnh, đồng thời để tìm dịp liên hệ với Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng.

Vì vậy khi được gặp anh Nhỏ, tôi hết sức mừng rõ, coi đây là một dịp may mắn để trực tiếp báo cáo tình hình cách mạng Xiêm với cấp trên.



*


Lúc gặp anh Nhỏ, tôi tự giới thiệu và nói việc được phép Xiêm ủy cho qua Trung Quốc chữa bệnh.

Anh Nhỏ nói: Về lý lịch và yêu cầu của anh, chúng tôi đã biết.

Tôi nói: Về lý lịch của tôi chắc các anh biết rõ; nhưng về yêu cầu của tôi chưa chắc các anh biết hết. Anh hãy cho tôi trình bày:

Tôi lần này xin phép Xiêm ủy đến Trung Quốc là có ý muốn nhờ ông Hồ Học Lãm giúp cho điều kiện chữa bệnh. Nhưng qua một thời gian xem xét, tôi thấy khả năng đó không có. Một là vì ông Hồ Học Lãm lương bổng không có mấy mà phải giúp anh em đồng chí chúng ta rất nhiều, ở đây hiện nay có hơn mười anh em không có nghề nghiệp đều do ông giúp đỡ. Hai là điều kiện chữa bệnh ở Nam Kinh rất kém: Ở Băng-cốc tôi vào bệnh viện chữa bệnh mấy lần, đều được xếp vào loại “làm phúc”, nhưng ăn uống và chữa bệnh hầu như ngang với loại mất tiền hạng thường. Còn ở đây không có chế độ “làm phúc” như vậy mà các bệnh viện có thiết bị tốt như bệnh viện Trung Ương, bệnh viện Cổ Lâu thì mỗi ngày phải mất ít nhất năm, bảy đồng bạc, lấy đâu ra số tiền lớn như vậy mà chữa. Vì thế bây giờ tôi không nghĩ đến việc chữa bệnh nữa.

Anh Nhỏ nói: Việc chữa bệnh của anh, chúng tôi cũng đã nghĩ đến, định sẽ xếp cho anh cùng đi Liên Xô với anh Văn, anh Hải, vừa được chữa bệnh, vừa được học tập, đồng thời có thể giúp cho việc học tập của anh Văn, mà Hải cũng cho tôi biết là anh có khả năng đó. Nhưng hiện nay đường đi Liên Xô khó khăn quá, chắc chắn còn phải chờ một thời gian.

Tôi nói: Anh nói thế tôi rất phấn khởi, nhưng tôi còn một yêu cầu khác nữa, anh cho tôi nói thêm, đó là yêu cầu về đường lối và chủ trương cho công tác cách mạng ở Xiêm.

Đảng Cộng sản Xiêm được thành lập năm 1930 chủ yếu là hai bộ phận Đảng Hoa kiều và Đảng Việt kiều gộp lại. Về phía Hoa kiều, các đồng chí không có cơ sở và ảnh hưởng nhiều trong quần chúng Xiêm. Về phía Việt kiều thì ảnh hưởng trong quần chúng Xiêm khá tốt. Có nhiều địa phương, quần chúng Xiêm muốn đấu tranh chống thuế, chống phu dịch, đều tìm cán bộ ta yêu cầu lãnh đạo; trong giáo giới có một số giáo viên tiến bộ rất khâm phục ta và cũng muốn được ta giúp đỡ trong việc hoạt động; một số vợ con Việt kiều là người Xiêm đều theo ta; nhưng đồng chí thực sự là người Xiêm thì không có mấy. Toàn bộ Việt kiều ta ở Xiêm có chừng trên dưới ba vạn, nhưng số người ta tổ chức được thì chỉ độ mấy nghìn, mà phần nhiều là tập trung vào các địa phương mà đương cục đã hoàn toàn biết rõ, như U-đon, Xa-côn, Na-khon Pha-nôm v.v… Nếu cách hoạt động của chúng ta như trước, cứ đến những ngày kỷ niệm quốc tế như Ngày Cách mạng Tháng Mười, Ngày 1 tháng 5, hoặc Ngày Khởi nghĩa Quảng Châu, Ngày Xô-viết Nghệ An, v.v… là phát truyền đơn; có vài chục người bán hàng ở chợ cũng bãi thị, có vài trăm người ở địa phương cũng biểu tình, và nếu Chính phủ Xiêm sẽ dùng biện pháp như nhét truyền đơn vào nhà để bắt người, hay quá hơn nữa dùng biện pháp khủng bố bắt hết cả mọi người như ở Phi-chịt thuộc tỉnh Phi-xa-nu-lốc ở miền Trung nước Xiêm hồi tháng 9 năm 1930, thì cơ sở cách mạng của chúng ta chắc chắn là không thể bảo toàn, sự cống hiến đối với cách mạng Xiêm sẽ giảm đi, mà công tác viện trợ cách mạng Đông Dương cũng sẽ bị ảnh hưởng không thể lường hết được.

Về tình hình nói trên, tôi đã trao đổi ý kiến với Tăng bạc đầu cần phải báo cáo rõ với Ban chỉ huy và xin ý kiến. Không biết Tăng bạc đầu có báo cáo với các anh như thế không?

Anh Nhỏ nói: Tăng bạc đầu có báo cáo với chúng tôi về công tác cách mạng của Đảng Xiêm, nhưng không nêu vấn đề như anh vừa nói: Hôm nay, nghe anh báo cáo rõ, tôi thấy có nhiều chỗ đáng phải suy nghĩ. Nhưng trước mắt, tôi chưa thể trả lời được, rồi đây chúng tôi sẽ thảo luận, có ý kiến gì sẽ nói với anh sau.



*


Nói xong vấn đề công tác Đảng Xiêm, anh Nhỏ hỏi ý kiến tôi về việc ông Hồ Học Lãm muốn thành lập ở Nam Kinh một tổ chức cách mạng.

Tôi nói việc này ông Hồ đã trao đổi ý kiến với Hải và tôi. Mục đích ông muốn như vậy là cốt để cho địa vị chính trị của anh em ta ở đây được hợp pháp hóa, đồng thời cũng có ý muốn xin được sự giúp đỡ của Trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc. Tôi nghĩ trong hoàn cảnh hiện nay nếu làm được như vậy thì rất tốt, nhưng tôi vẫn còn suy nghĩ, không hiểu trong việc này Hải có ý định gì không? Vì thấy Hải rất hứng thú và rất tích cực hoạt động, mà đối với Hải thì tôi có chỗ nghi ngại.

Anh Nhỏ ngắt lời tôi, tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi: Ngài ngại thế nào?

Tôi nói về việc Hải, tôi phải báo cáo dài một chút. Hải là một người đã cùng tham gia lớp huấn luyện với tôi ở Quảng Châu từ năm 1926, bí đanh là P.V… Hồi ấy tôi đã nhận thấy anh ta là người thích ăn chơi. Xa cách nhau nhiều năm, tôi chắc anh ta đã tiến bộ nhiều. Nhưng lần này qua mấy tháng gần gũi, tôi thấy ở anh ta có nhiều chỗ không ăn khớp với tư cách một người cách mạng.

Xin kể một số việc làm thí đụ:

- Thiếu nghiêm chỉnh trong quan hệ nam nữ: Anh ta thường hay nói chuyện về sinh lý có tính chất khiêu dâm trước mặt phụ nữ. Có lần, buổi tối đi chơi công viên, thấy một cô gái ngồi trên ghế đá, anh ta chạy thẳng đến ngồi bên cạnh, anh Văn và tôi phải phát ngượng. Có lần dạo phố thấy một cô nữ sinh đi từ phía trước đến, anh ta rảo bước, đu đưa tay ngoặc vào tay cô nữ sinh. Thậm chí anh ta còn nói rõ, cả chuyện người mọc sừng mà chính anh ta là tác giả của việc mọc sừng ấy. Anh ta nói như vậy cốt để khoe cái tài chim gái của mình, nhưng có khi quá mồm, anh ta cũng khoe cả cái tài của người vợ anh ta ở trong nước trước kia đã chim thằng cẩm như thế nào để thoát khỏi việc tra xét của bọn lính cẩm khi đi tàu từ Hà Nội về đến Nam Định.

- Thiếu nguyên tắc trong việc đấu tranh: Trước hết tôi muốn nói đến việc đấu tranh với ông Trần Trọng Khắc. Ông ta là một người xuất dương từ hồi Đông Du, khi bị Nhật đuổi về Trung Quốc được cụ Phan Bội Châu xếp cho qua Đức học trường thuốc đỗ bác sĩ. Lần này về Trung Quốc được Trần Nghi, Tỉnh trưởng tỉnh Phúc Kiến, nguyên là bạn học của ông ta, giúp cho mấy nghìn bạc, đang chuẩn bị mở một phòng khám bệnh ở Nam Kinh để lấy tiền. Ông ta vẫn biết anh em cách mạng ở Xiêm bị trục xuất đến đang gặp khó khăn, do một mình ông Hồ Học Lãm giúp đỡ, nhưng phớt lờ hình như không có chuyện gì. Anh Văn bị sốt cao nằm ngay trước phòng ông ta mà ông ta cũng không hỏi một câu, vì cái lý luận của ông ta mà người bệnh cần thầy thuốc, chứ thầy thuốc không cần người bệnh. Người như vậy là rất xấu, thật đáng chê trách. Một hôm, Hải bàn tính dùng bạo lực bắt ông ta phải xuất tiền cho anh em. Ý kiến này tôi không tán thành, nhưng lại được mấy anh em Vân Nam đồng ý. Hải bèn lợi dụng lúc tôi đi vắng, được sự ủng hộ của bà Hồ Học Lãm, kéo mấy anh em Vân Nam đến uy hiếp Trần Trọng Khắc. Tôi đi phố về, nghe trên gác có tiếng chân đạp mạnh, chạy lên thì thấy Hải và mấy anh em mỗi người cầm một thứ hung khí thô sơ lăm lăm nhìn vào Trần Trọng Khắc. Trần hoảng quá, xin nộp hai chục bạc. Tôi thấy đây là một hành động vô chính trị, nếu không nói thì sẽ mất uy tín của Đảng, tôi liền bước ngay vào phòng, nói thẳng:

“Cụ Trần, anh em chúng tôi ở đây gặp khó khăn, rất cần được sự giúp đỡ, nhưng Đảng chúng tôi không bao giờ chủ trương dùng biện pháp uy hiếp để được sự giúp đỡ. Cụ hãy giữ lại số tiền, sau này nếu cụ cứ tự nguyện giúp thì sẽ đưa. Còn các đồng chí làm như thế này là không đúng chủ trương của Đảng, xin mời xuống nhà, có gì chúng ta sẽ bàn với nhau”. Nghe tôi nói xong, các anh em Vân Nam đều rút. Hải cũng rút luôn.

Lại một cuộc đấu tranh khác là đấu tranh với Đặng Nguyên Hùng. Một hôm, Đặng Nguyên Hùng mời mấy anh em Vân Nam ăn cơm để ly gián Đảng với mấy anh em đó. Mấy anh em đem vấn đề báo cáo với chúng tôi và xin ý kiến. Chúng tôi chủ trương dùng lời nói thẳng, cự tuyệt không nhận. Hải lại chủ trương cứ nhận, rồi lúc đến sẽ chọn những món ăn và rượu rất đắt tiền để đánh nó một mẻ về mặt kinh tế. Mấy anh em Vân Nam là những người mới giác ngộ theo Đảng, chưa có kinh nghiệm hoạt động chính trị, cho rằng Hải là người giỏi, người lãnh đạo, nên tiếp thu ý kiến của Hải ngay. Trước hôm đi ăn, họ đến hiệu ăn điều tra tên các món ăn và rượu quý, để hôm sau lúc đến ăn sẽ gọi những món đó. Nhưng Đặng Nguyên Hùng là một tay láu cá, khi các anh em gọi thức ăn, trước mặt hắn không nói gì, nhưng hắn chạy thẳng vào bếp bảo nhà bếp làm món ăn khác rẻ tiền hơn. Còn rượu thì lúc người phục vụ đưa ra hai chai, vừa mở xong một chai, thì hắn giật lấy chai kia xem nhãn hiệu, rồi không cho mở nữa. Thế là kế hoạch đả kích nó về mặt kinh tế không thực hiện được. Mấy anh em liền đứng dậy mắng nó một hồi, rồi bỏ đi. Hành động này đối với Đặng Nguyên Hùng cố nhiên là một đòn nặng, nhưng đứng về mặt phong độ mà xét thì hành động như vậy, người chính trị đứng đắn không bao giờ làm.

- Có hành động đáng ngờ trong hoạt động chính trị: Một hôm Hải nói với tôi: Vì sao chúng nó [6] bảo sẽ đến, bây giờ đã mấy tháng rồi mà chẳng thằng nào đến. Có lẽ ở Hương Cảng có chuyện gì rồi. Chúng ta cần đưa mấy anh em Vân Nam đi Thượng Hải hoạt động, đồng thời để tìm hiểu tình hình Hương Cảng ra sao. Tôi nói việc đi này phải có chủ trương của tổ chức mới làm được, nhưng Hải không nghe, cứ bảo mấy anh em Vân Nam chuẩn bị in rô-nê-ô và hành lý lên đường.

Tôi liền đem vấn đề này bàn với anh Lê Thiết Hùng, nhất trí nhận định rằng cần phải ngăn chặn, nếu cứ để vậy mà xảy ra vấn đề gì thì chúng ta phải chịu trách nhiệm với cách mạng, với Đảng.

Bàn xong, chúng tôi mời cả Hải và mấy anh em Vân Nam đến nói chuyện: Việc các anh đi Thượng Hải lần này là một việc rất mạo hiểm, chúng tôi không tán thành vì Đảng không có chủ trương như vậy, chúng tôi khuyên các anh đừng đi; nếu các anh cứ tự tiện đi thì đó là hành động cá nhân của các anh, xảy ra chuyện gì Đảng không chịu trách nhiệm. Mấy anh em Vân Nam nghe nói như vậy đều chối, Hải cũng đành phải thôi.

Qua các sự việc nói trên, tôi nghĩ rằng Hải có thể đã là một người biến chất. Không hiểu trong thời gian công tác với các anh, các anh có thấy gì không?

Nghe xong, anh Nhỏ vỗ vai tôi và nói rằng: Đúng! Anh là một người có con mắt chính trị. Đáng lẽ về tình hình anh ta, chúng tôi không định nói với anh, nhưng bây giờ anh đã thấy rồi, thì tôi cũng nói để anh rõ:

Năm 1926, sau khi huấn luyện ở Quảng Châu một thời gian, hắn được giới thiệu đi Liên Xô học tập chính trị, rồi học tập kỹ thuật vô tuyến điện, tất cả là bảy năm. Trong thời gian học, hắn yêu một người con gái Nga con tư sản, bạn học và đồng chí khuyên hắn đừng lấy, hắn cứ lấy. Khi học được kỹ thuật vô tuyến điện rồi, hắn dùng vô tuyến điện đánh cho Đảng Pháp bức điện, phê bình Đảng Pháp không hết sức giúp cách mạng Đông Dương. Đảng Pháp không hiểu đầu đuôi ra sao, nhờ Liên Xô điều tra mãi mới biết là hắn đã làm bậy như thế. Khi hắn từ Liên Xô về nước, đi đến Hải-xâm-uy, chiếc tàu chuẩn bị cho hắn đi còn phải chờ một thời gian rồi mới lên đường, hắn tự tiện trở lại Mạc Tư Khoa để gặp vợ, rồi mua vé lại đi Hải-xâm-uy. Vì thấy hắn lung tung như vậy, nên chúng tôi không để hắn tham gia Đại hội Đảng. Hắn bất mãn, bí mật liên lạc với lãnh sự Pháp ở Hương Cảng để hòng bắt cả Đại hội. Lãnh sự Pháp mặc cả với hắn nếu bắt được thì sẽ thưởng năm vạn bạc và sẽ cho đi du lịch một vòng qua các nước châu Âu. Hắn không ngờ chúng tôi không họp Đại hội ở Hương Cảng, mà lại họp ở Ma-cao, nên hắn đã vồ hụt, không bắt được gì cả. Đã vậy, hắn còn định tiếp tục lộn sòng trong hàng ngũ cách mạng. Nhưng chúng tôi có manh mối đã theo dõi hắn và biết khá rõ việc làm của hắn. Đại hội họp xong, chúng tôi truy hắn, hắn phải thú thật và nói: Tao thấy Đảng túng tiền quá, nên định lừa thằng Pháp lấy một ít tiền cho Đảng dùng! Chúng tôi hỏi: Thế bây giờ anh định thế nào? Hắn nói: Tao sẽ viết bức thư chửi thằng Pasquier [7] một mẻ để cắt đứt quan hệ với Pháp, rồi chúng mày cho tao đi Liên Xô ở với vợ tao. Đảng bảo làm gì, tao cũng làm. Chúng tôi nghĩ ý kiến này có thể tiếp nhận được, vì đưa hắn đi nhờ Liên Xô quản thúc tốt hơn là để hắn ở với mình. Hôm sau, hắn đưa cho chúng tôi một bức thư gửi Pasquier đã viết sẵn, đại ý: Tao suốt đời trung thành với chủ nghĩa cộng sản, chỉ vì thiếu tiền, tao định lừa chúng mày lấy một số tiền, không ngờ chúng mày lại ngu ngốc đến nỗi cho đó là một cơ hội có thể phá được cách mạng. Cuối thư hắn vẽ một anh đứng trật b…ra, và đề bên cạnh một câu “Thằng Pasquier mút b... tao”. Chúng tôi lấy bức thư gởi thằng cho Pasquier, rồi cho hắn đưa anh Văn đến đây đợi ngày đi Liên Xô. Nhưng việc đi Liên Xô bây giờ rất khó khăn, chưa biết bao giờ mới có thể đi được.



*


Nói xong việc P.V., anh Nhỏ nói tiếp: Lần này tôi đến đây cốt để ổn định tư tưởng hắn; ngoài ra còn có một nhiệm vụ nữa là xem xét tình hình mấy anh em bị trục xuất đến đây như thế nào? Về việc này, anh có ý kiến gì không?

Tôi nói: Anh em ở Xiêm bị trục xuất đến có tám người, trừ anh Luân và anh Đức là hai người ở trong nước bị khủng bố chạy sang Xiêm từ năm 1931, tôi chỉ gặp một vài lần, nên không biết rõ. Còn các anh khác là những đồng chí và quần chúng rất tốt. Hiện nay ở đây về mặt chính trị đã có ông Hồ Học Lãm bảo đảm, không ngại gì, nhưng về mặt kinh tế, nếu cứ để ông Hồ phụ đảm mãi chắc không ổn. Theo ý tôi, nếu có thể thì đưa anh em đi Hoa Nam sắp xếp công tác cho họ, được cả càng tốt, nếu không được thì cũng giải quyết cho một số người đồng thời nếu có thể, anh nên đưa ông Hồ một số tiền đỡ gánh nặng cho ông ấy.

Anh Nhỏ nói: Tôi đã suy tính, ở Hoa Nam trước mắt cũng có nhiều khó khăn, có thể đưa đi một số, còn nữa vẫn phải để ở đây và vẫn phải nhờ ông Hồ. Anh ở đây cần nhờ ông Hồ giúp anh em kiếm việc làm, mà nhất là giúp đỡ anh em về mặt sinh hoạt chính trị. Đồng thời phải tìm cách ổn định tư tưởng và chú ý theo dõi hành động của Hải. Việc ông Hồ muốn thành lập một tổ chức cách mạng để đăng ký với đương cục ở đây là một sáng kiến hay, anh có thể cứ bàn với Hải cùng giúp ông Hồ làm, nhưng phải đảm bảo là một tổ chức quần chúng có tính chất phản đế dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tôi cũng đã nói với Hải như vậy, anh không ngại.

Mấy ngày sau, anh Nhỏ rời Nam Kinh mang theo các anh Truật, Đại, Kỳ, Trinh, Đông A và Đỗ Đăng Trình. Thế là số người ông Hồ phải phụ đảm đã giảm đi một nửa. Tôi và mấy anh em khác còn ở lại Nam Kinh.


III. Sinh hoạt và đấu tranh ở Nam Kinh

Mùa đông đã đến, vấn đề trước tiên đặt ra cho chúng tôi là vấn đề nhà ở của anh em. Nguyên khi anh em ở Xiêm đến phải tạm xếp ở nhờ nhà một người bần nông ở thôn Tân Dân, đối diện với ấp Giang Môn gần ga Hạ Quan, cách nhà ông Hồ độ sáu, bảy cây số. Là một cái nhà có thể nói là dưới không phên, trên không tranh, mùa hè còn ở được, mùa đông thì không tài nào chống nổi rét. Tôi và anh Cáp mất hơn một tháng chạy khắp Nam Kinh để tìm nhà, cuối cùng tìm được một gian rẻ tiền ở trung tâm thành phố, cách nhà ông Hồ không xa lắm. Mỗi tháng vừa tiền nhà, tiền điện nước phải trả sáu đồng rưỡi.

Vấn đề nhà xong, lại đến vấn đề áo rét. Anh em ở xứ nóng đến, chẳng ai có áo rét cả. Tôi nghĩ nếu ở nhà ông Hồ thì thật là bất tiện, đành phải nói với Đặng Nguyên Hùng vay nó một ít tiền. Nó trả lời rằng: Mình làm gì có tiền mà cho vay. Nhưng hôm sau nó đưa cho bà Hồ Học Lãm ba chục bạc và nói có vẻ nhắn cho chúng tôi biết: Chúng nó là cộng sản, chúng nó đã hiểu câu “không lao động thì không được ăn”. Bây giờ tôi giúp chúng nó hai tháng, mỗi tháng 15 đồng, sau hai tháng nếu chúng nó không kiếm được việc làm thì mặc kệ, tôi không giúp nữa. Bà Hồ nhận tiền và kể lại câu nói đó với chúng tôi. Chúng tôi nói: Chúng tôi hết sức cảm ơn ông bà đã tận tình giúp đỡ chúng tôi. Cường Để không phải là cách mạng, được tin anh em bị trục xuất đến đây cũng còn gửi một trăm bạc để giúp đỡ. Còn thằng Đặng Nguyên Hùng ăn cơm cách mạng, rồi lại chửi cách mạng, chúng tôi không cảm ơn nó đâu.

Được tiền rồi, tôi và anh Cáp lại đi khắp Nam Kinh để mua áo. Mùa đông, áo rét tự nhiên là đắt, tiền không đủ; gần cuối mùa đông, áo rét hạ giá, mới mua được mấy chiếc áo cho anh em. Việt Nam có câu “đông the, hè đụp” nói lên sự trái ngược trong cuộc sống của những người cùng khổ. Lần này qua việc mua áo rét cho anh em mới thấy hết ý nghĩa của câu nói ấy.



*


Một hôm sau khi ăn cơm trưa, ông Hồ Học Lãm gọi Hải và tôi đến nói chuyện: Anh em chúng mình ở đây, nhiều người chưa có việc làm, sinh hoạt khó khăn, mà chính trị lại không có danh nghĩa. Danh không chính thì ngôn không thuận. Trước tôi đã bàn với các anh nên lập một tổ chức cách mạng đăng ký với Trung ương Quốc dân Đảng Trung Quốc ở đây, như vậy về danh nghĩa sẽ được hợp pháp, đồng thời chúng ta yêu cầu họ giúp đỡ, nếu họ giúp cho được như giúp bọn Vi Đăng Tường thành lập một biện sự xứ ở đây thì càng tốt. Vậy các anh đã bàn tính thế nào chưa?

Tôi và Hải trả lời: Việc này chúng tôi đã bàn với các anh em, thấy nếu làm được như vậy thì rất tốt. Chúng tôi dự định thảo một bản điều lệ đưa cụ xem, nếu cụ thấy được thì chúng ta có thể bắt tay vào hoạt động. Ông Hồ tươi hẳn nét mặt lên bảo: Thế thì các anh thảo ngay đi, thảo xong đưa mình xem, rồi chúng ta cùng làm.

Mấy ngày sau, Hải thảo xong bản điều lệ bằng tiếng Việt, tôi dịch ra tiếng Trung Quốc, nội dung gần giống như điều lệ của Phản đế đồng minh, nhưng lấy tên hội là Việt Nam độc lập đồng minh hội.

Ông Hồ xem xong khen tốt, nhưng quen theo kinh nghiệm Trung Quốc thì những tổ chức có tên dài thường hay ghi rõ cả cái tên gọi tắt, nên ông đề nghị sau chữ Việt Nam độc lập đồng minh hội nên viết thêm mấy chữ “gọi tắt là Việt Minh”.

Chúng tôi đồng ý và đưa ra ngay một kế hoạch hoạt động cụ thể mà chúng tôi đã trao đổi trước:

- Ông Hồ sẽ viết thư mời Nguyễn Hải Thần và một vài người ở Quảng Châu lên đại biểu cho Việt kiều ở Quảng Đông. Còn ở Nam Kinh thì:

- Hồ Học Lãm, Lê Thiết Hùng: Đại biểu Việt kiều ở Nam Kinh. Đặng Nguyên Hùng nếu tham gia thì vào nhóm Nam Kinh, không tham gia thì thôi;

- Lê Quốc Trụ, Từ Chí Kiên: Đại biểu Việt kiều ở Vân Nam;

- Đặng Văn Cáp và tôi: Đại biểu Việt kiều ở Xiêm;

- Hải: Đại biểu Việt kiều ở Pháp;

- Cao Hồng Lĩnh: Đại biểu đoàn thể trong nước.

Không bao lâu, điều lệ được sửa chữa hẳn hoi cả chữ Việt cũng như chữ Trung Quốc.

Nguyễn Hải Thần cũng đã mang một người Việt kiều họ Vi từ Quảng Châu lên. Chúng tôi đưa điều lệ cho Nguyễn Hải Thần xem và nói rõ mục đích yêu cầu như chúng tôi đã bàn. Nguyễn Hải Thần tán thành ngay và rất vui mừng, buột mồm nói một câu: Chúng ta làm thế này nhất định Trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc sẽ phải giúp. Lập được Biện sự xứ, tôi sẽ ở đây hoạt động, không trở về Quảng Châu làm cái nghề xem số như trước nữa.



*


Đầu năm 1936, ông Hồ Học Lãm viết thư xin Trung ương Quốc dân đảng tiếp kiến. Ông Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, Hải, Lê Quốc Trụ và tôi cùng đi. Đến trụ sở Trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc, một đại biểu của Trần Lập Phu, Bộ trưởng Bộ tuyên truyền của Quốc dân đảng Trung Quốc lúc đó ra tiếp. Nghe trình bày xong, ông ta nhận văn kiện, hứa sẽ đăng ký và báo cáo với Bộ trưởng. Thế là việc thành lập Việt Nam độc lập đồng minh hội đã gặp thuận lợi bước đầu.

Cuộc hội nghị để tuyên bố thành lập Việt Minh được chuẩn bị gấp.

Qua việc giao thiệp, hội nghị được tổ chức tại phòng họp của Đảng bộ khu phố của Quốc dân đảng Trung Quốc. Tham dự cuộc họp về phía ta có ông Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần và những anh em khác độ 20 người. Về phía Trung Quốc có hai người đại biểu của Trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc. Vi Đăng Tường đại biểu Biện sự xứ Việt Nam Quốc dân đảng ở Nam Kinh cũng được mời đến dự. Đặng Nguyên Hùng từ chối không tham gia.

Hội nghị bắt đầu bằng lời chào mừng của ông Hồ Học Lãm, rồi giới thiệu quá trình hoạt động của việc lập hội, việc Trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc đã đăng ký điều lệ, rồi đọc điều lệ và tuyên ngôn thành lập. Đại biểu Trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc [8] phát biểu ý kiến, đại ý tỏ vẻ hoan nghênh và có nhắc đến di chúc Tôn Trung Sơn là giúp đỡ các dân tộc nhỏ yếu, nhưng trong cách trình bày vẫn lộ ra cái ý muốn nói Việt Nam trước kia là thuộc Trung Quốc. Vi Đăng Tường cũng phát biểu ý kiến. Hội nghị giới thiệu mấy người phụ trách [9] , đứng đầu là ông Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần và mấy người trong anh em chúng tôi. Cách tổ chức giản đơn như vậy, mục đích là cốt hợp pháp hóa thêm một bước về mặt chính trị của Việt Minh, mà thực chất là để hợp pháp hóa địa vị chính trị của anh em ta ở Nam Kinh trong lúc đó.

Để biểu thị sự hoạt động tích cực của Việt Minh, ông Hồ Học Lãm tự xuất tiền, ra một tờ tạp chí nhỏ bằng chữ Trung Quốc lấy tên là Việt Thanh, số lượng phát hành chỉ độ một trăm cuốn, cốt để gửi cho các cơ quan Quốc dân đảng Trung Quốc ở Nam Kinh, cũng có gửi cho Việt kiều ở Quảng Châu và Côn Minh độ vài chục cuốn.



*


Việc ông Hồ Học Lãm đứng ra lập Việt Minh là một việc có tác dụng rất quan trọng. Trên kia tôi đã nói về lai lịch của ông, nay nói thêm một vài điểm để thấy rõ cái tác dụng đó:

Sau khi phong trào Đông Du thất bại, ông Hồ Học Lãm ở Nhật về Trung Quốc, lặn lội nhiều nơi nhưng phần nhiều là ở gần cụ Phan Bội Châu cho đến lúc cụ bị bắt. Năm 1927, Tưởng Giới Thạch ra mặt phản cách mạng, các đồng chí chúng ta ở Trung Quốc gặp rất nhiều khó khăn. Lúc này ông ở Nam Kinh, sau xin được làm tham mưu ở Bộ Thanh mưu Tưởng Giới Thạch với cấp trung tá. Ông không tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí hội, mà cũng không tham gia Đảng cộng sản, nhưng các đồng chí ta mỗi khi gặp khó khăn nguy hiểm chạy đến tìm ông, ông biết là cộng sản nhưng vẫn che chở và giúp đỡ một cách tích cực.

Thí dụ năm 1930, đồng chí Tản Anh [10] lấy tên là Lê Bạt Quần đến Vân Nam hoạt động, bị bọn Vũ Hồng Khanh báo cho đương cục Vân Nam bắt. Ông biết tin, liền xin gặp Tổng tham mưu trưởng là Chu Bối Đức xin đánh điện cho Long Vân bảo tha. Chu Bối Đức nói: Thanh niên Việt Nam ở Trung Quốc hiện nay đều là cộng sản cả. Ông trả lời một cách thẳng thắn: Người Việt Nam chúng tôi đến Trung Quốc cốt là nhờ Trung Quốc giúp đánh Tây. Quốc dân đảng giúp thì họ theo Quốc dân đảng, Cộng sản đảng giúp thì họ theo Cộng sản đảng. Tôi không biết Lê Bạt Quần có phải là cộng sản không, nhưng tôi biết rõ anh ta là ở Nhật về, được ông Cường Để, một ông vua Việt Nam lưu vong ở Nhật giao phó nhiệm vụ, như vậy chắc chắn anh ta là một người yêu nước. Tôi xin Tổng tham mưu trưởng đánh điện cho Chủ tịch Long Vân yêu cầu tha cho anh ta. Chu Bối Đức ngẫm nghĩ một hồi rồi nói: Ông nói cũng có lý. Vậy ông thảo bức điện, tôi sẽ cho gửi đi cho Long Vân. Ông Hồ thảo ngay bức điện, được Chu Bối Đức phê chuẩn rồi gửi đi. Đồng chí Tản Anh khỏi bị cầm tù và được trục xuất qua Miến Điện theo sự yêu cầu của đồng chí, sau một thời gian đồng chí đã tìm cách về Xiêm tiếp tục hoạt động cách mạng.

Lại thí dụ như năm 1933, đồng chí Đông A bị hiến binh bắt ở Nam Kinh, đồng chí khai là đến đây để tìm ông Hồ Học Lãm. Bọn hiến binh hỏi ông, ông nói: Người Việt Nam ở Trung Quốc biết tôi rất nhiều, nhưng tôi không biết họ, vậy phải cho tôi gặp mặt đã tôi mới trả lời được. Khi gặp đồng chí Đông A, ông không quen nhưng biết thật là người Việt Nam từ Vân Nam đến, ông cứ đảm bảo cho được tha và sau còn giúp cho vào học trường kỵ binh của Quốc dân đảng Trung Quốc.

Ông làm tham mưu cho Quốc dân đảng ở Nam Kinh đã tám năm, nhưng không được thăng chức, cứ vẫn là cấp trung tá. Có người bảo ông nên nhờ bạn đồng học đã làm quan to giới thiệu để được đề bạt. Ông trả lời: Tôi làm việc ở đây chẳng qua chỉ cốt kiếm cơm ăn để sống mà thôi. Có cơm ăn là được, “kẻ sĩ chẳng thà chịu chỗ ở nơi ngòi rãnh” [11] , chứ tôi không muốn nhờ ai đề bạt.

Lại như năm 1940, ông bị bệnh nặng nằm chữa ở bệnh viện Quế Lâm (Quảng Tây), bạn học của ông là Bạch Sùng Hy đến thăm, gọi Viện trưởng bệnh viện ra bảo phải hết sức cứu chữa cho ông, dù phải dùng thứ thuốc quý mấy cũng cứ dùng, hết bao nhiêu tiền do tôi (Bạch Sùng Hy) phụ trách. Ông cảm ơn Bạch và nói: Cách mạng Việt Nam lúc này đang cần được giúp đỡ, ông là một nhân vật lớn, tôi mong ông giúp cách mạng Việt Nam, còn cá nhân tôi thì những đồng học khác giúp cũng đủ.

Ông không phải là cộng sản. Ông là một người nho học, nhưng đã thực hành đúng mặt tích cực của một số giáo điều của đạo Nho như “ôn, lương, cung, kiệm, nhượng”, “lễ, nghĩa, liêm, sỉ, nhân, ái” v.v … và ông đã giúp Đảng ta và các đồng chí chúng ta rất nhiều.

Ông không phải là cộng sản, điều này Quốc dân đảng Trung Quốc biết rõ trăm phần trăm. Ông đứng ra lập Việt Minh trong lúc này đối với chúng ta mà nói là một sự che chở rất có hiệu lực.

Nhưng thời gian chúng tôi vận động thành lập Việt Minh, cũng là thời gian Tưởng Giới Thạch đang chống Cộng một cách ác liệt; mặc dầu phong trào đòi chống Nhật đang lan tràn khắp Trung Quốc, nhưng khẩu hiệu phản dộng của chúng là “Tiên yên nội, hậu nhương ngoại”, hành động của chúng là thà giết oan một trăm người còn hơn bỏ sót một tên cộng sản. Riêng ở Nam Kinh, thì Vũ Hoa Đài, nơi thường xử bắn những người cộng sản, luôn luôn có tiếng súng nổ. Đã vậy, mà trong đám Việt Nam với nhau, những người tố cáo chúng tôi là cộng sản không phải là không có. Vi Đăng Tường căm thù chúng ta đã lôi kéo mấy người “đồng chí” của hắn; Đặng Nguyên Hùng đã mưu toan chia rẽ chúng ta mấy lần đều thất bại nên cũng hết sức căm thù. Bọn này chính là bọn cung cấp tình báo cho Quốc dân đảng Trung Quốc để phá hoại Việt Minh. Vì vậy, tờ Việt thanh chỉ ra được ba bốn số, ông Hồ Học Lãm hết tiền phải đình bản; Nguyễn Hải Thần tuy tích cực chạy vạy hết chỗ này đến chỗ khác đều không có kết quả, cuối cùng phải đưa người Việt kiều họ Vi cùng về Quảng Đông. Thế là mọi hoạt động đình chỉ. Cái tên Việt Nam độc lập đồng minh hội chỉ nằm trong sổ đăng ký của Văn phòng Trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc mà thôi.

Nhưng sau đó bốn năm, cuối năm 1940, tình hình cách mạng đã thay đổi, được sự lãnh đạo trực tiếp của Bác Hồ, Biện sự xứ hải ngoại của Việt Minh được thành lập ở Quế Lâm, ông Hồ Học Lãm là Chủ nhiệm, anh Phạm Văn Đồng là Phó chủ nhiệm. Hội Trung–Việt văn hóa cách mạng đồng chí được thành lập, ông Hồ Học Lãm và anh Đồng đều tham gia Ban lý sự với tư cách là chánh, phó Chủ nhiệm Việt Minh, thì cái tên Việt Minh mới nổi bật lên và cái tác dụng tích cực của nó mới được phát huy một cách thích đáng.

Việc Quốc dân đảng Trung Quốc không giúp đỡ cách mạng Việt Nam là việc mà chúng tôi đã lường trước. Vì vậy trong khi hoạt động, chúng tôi vẫn luôn luôn nghĩ đến việc tìm kiếm việc làm cho anh em.

Một hôm, chúng tôi bảo anh Đức nói chuyện riêng với Đặng Nguyên Hùng, yêu cầu hắn giúp tìm việc làm. Thấy anh Đức khù khờ, tưởng có thể lôi kéo được, hắn nhận sẽ giúp, nhưng đề ra mấy điều kiện rất đểu cáng. Anh Đức báo cáo lại với chúng tôi, mọi người nghe đều căm tức, nhất trí quyết định phải vạch mặt hắn cho mọi người thấy rõ.

Một buổi tối sau Tết âm lịch, ở tầng dưới nhà ông Hồ Học Lãm anh em đã đến đông đủ. Nguyễn Hải Thần lúc đó chưa về Quảng Đông cũng có mặt. Kế hoạch đã định. Chúng tôi phái một người lên tầng trên mời ông Hồ và nhờ ông gọi Đặng Nguyên Hùng cùng xuống, anh em có việc muốn nói. Ông Hồ xuống thấy anh em đông đủ tỏ vẻ vui mừng, Đặng Nguyên Hùng thấy anh em đông đủ có vẻ lấm lét, nhưng làm ra vẻ bình tĩnh, hắn cũng ngồi xuống.

Anh Đức phát ngôn trước:

Thưa cụ Hồ, cụ Nguyễn và tất cả mọi người! Anh em chúng tôi ở đây đã lâu, không kiếm được việc làm, cứ phải nhờ vào cụ Hồ mãi, chúng tôi rất lấy làm khó coi. Mới rồi, tôi có nhờ ông Đặng Nguyên Hùng giúp tìm việc làm. Ông ấy nhận sẽ giúp, nhưng đề ra mấy điều kiện như sau:


Nếu bằng lòng thì ở với ông ấy, phụ trách làm cơm nước, giặt quần áo và quét dọn nhà cửa. Sẽ ăn cơm của ông ấy, nhưng phải ăn riêng.


Mỗi tháng ông ấy sẽ trả hai đồng bạc công, nhưng không lấy ngay từng tháng, mà cứ để ông ấy giữ, lúc nào đi đâu, ông ấy sẽ tính đưa cả cho một lúc.


Ở với ông ấy thì không được xem sách báo và đi lại với anh em.


Ông ấy còn nói rằng, trước mặt chưa đến ở với ông ấy ngay, mà phải chờ đến khi nào anh em rời Nam Kinh thì tôi sẽ lấy cớ gì đó xin ở lại, sau mới đến ở với ông ấy, để cho ông ấy khỏi mang tiếng chia rẽ. Thật là những điều kiện sỉ nhục. Không ở với ông ấy thì cứ phải nhờ vả cụ Hồ mãi, mà ở với ông ấy thì phải bỏ anh em, bỏ cách mạng. Xin hai cụ và anh em cho ý kiến nên xử trí như thế nào?

Đặng Nguyên Hùng đứng phắt dậy nói ngay: Mày đã mửa hết chưa? Những điều tao nói với mày, tao có thể nói với cả thiên hạ.

Nói xong, hắn định chuồn, nhưng anh Cáp, anh Lộc, anh Văn đã đứng ngáng trước cánh cửa đã khép và nhìn chằm chằm vào mặt hắn. Hắn ngồi im không dám động.

Theo sự phân phối trước của anh em, một người đứng dậy nói:

Anh Đặng Nguyên Hùng! Những điều anh nói với cách mạng anh dám nói với cả thiên hạ, còn những điều anh nói với mật thám, với đế quốc, không biết anh có dám nói với thiên hạ không? Chắc anh phải giấu kín. Hôm nay nhân có hai cụ và anh em đông đủ ở đây, tôi phải nói rõ để mọi người khỏi nhầm.

Anh cùng xuất dương qua Xiêm với nhiều người [12] , người ta đều làm cách mạng, còn anh thì trốn tránh, luồn lọt để được đi học với lý do học được nhiều kiến thức sẽ giúp dân giúp nước được nhiều hơn. Nhưng anh đã đi học ở một trường đạo Cơ đốc của Mỹ, rồi về tuyên truyền đạo Cơ đốc, và anh đã viết thư cho toàn quyền Đông Dương xin về đầu hàng. Toàn quyền Đông Dương trả lời bắt anh phải lập công chuộc tội, thế là anh nhận làm mật thám cho thằng Đỗ Hùng, lãnh sự của Pháp ở Băng-cốc, mỗi tháng lĩnh năm mươi đồng bạc Xiêm. Khi anh tốt nghiệp trường lục quân của Xiêm được làm chuẩn úy đóng ở Khôn-quảng thuộc tỉnh U-đon, anh đã bí mật đưa tin về tình hình cách mạng Việt Nam cho Pháp. Việc bại lộ, anh thấy ở Xiêm không làm ăn được nữa, phải chạy qua Trung Quốc, lại lừa cụ Hồ xin việc cho anh.

Việc làm của anh, chúng tôi thấy rõ như nhìn vào bàn tay của mình, nhưng chúng tôi tưởng anh đã xa rời địch và yên phận làm ăn thì thôi, không nói làm gì nữa. Ai ngờ anh cứ tiếp tục hoạt động chống cách mạng: Lúc anh em ở Xiêm mới bị trục xuất đến, anh chắc rằng họ sẽ oán trách cách mạng, nên đã nói xấu cách mạng và bị anh em phản kích lại. Lúc anh gặp mấy anh em Vân Nam, anh chắc rằng họ không ủng hộ cách mạng, nên đã tìm cách lôi kéo và bị các anh ấy vạch mặt. Anh giúp cụ Hồ ba chục bạc để mua áo rét cho anh em, anh đã nói những câu rất lếu láo, mà chúng tôi không thèm trả lời lại. Đến lần này, anh Đức nhờ anh kiếm việc, anh lại đưa ra mấy điều kiện rất đểu cáng. Anh tưởng như vậy có thể làm nhục được người cách mạng chăng? Không đâu! Như vậy anh chỉ tự làm nhục anh mà thôi. Tôi khuyên anh từ nay cứ yên phận làm ăn, đừng giở những trò dơ bẩn ấy ra nữa.

Người nói vừa dứt lời, Đặng Nguyên Hùng thấy cánh cửa đã mở, có thể thoát thân được, liền nói gượng một câu: “Tôi không thèm nghe chuyện các anh”, rồi lách cánh cửa, cút thẳng lên gác.

Nguyễn Hải Thần cúi mặt không nói một câu.

Ông Hồ Học Lãm lắc đầu, nhìn hút theo cái bóng đen của hắn tỏ vẻ khinh bỉ.

Kế hoạch xin việc làm không có kết quả, anh em vẫn phải dựa vào sự giúp đỡ của ông Hồ Học Lãm trong điều kiện rất túng bấn, vậy cần phải sắp xếp thế nào cho thật hợp lý để giảm nhẹ phần phụ đảm cho ông Hồ được chừng nào hay chừng ấy. Chúng tôi đi tìm một gian nhà nhỏ cho ông Hồ ở Nhị Lang Miếu, đồng thời xếp anh Văn đến nấu cơm ở đó. Như vậy, ông Hồ sẽ bớt được một số tiền thuê nhà và người phục vụ. Hai anh em Vân Nam còn ở lại đã đi làm thợ giặt ở một hiệu giặt quần áo của người Hoa kiều từ trước rồi. Còn sáu người nữa là Hải, Cáp, Đức, Lộc, Luận và tôi thì tập trung ở gian nhà nhỏ mới thuê được trong mùa rét vừa qua. Thế là gánh nặng của ông Hồ bớt đi được thêm một phần và cách ăn ở của anh em được xếp đặt hợp lý hơn trước. Về việc này, đối với chúng tôi thì nghĩ như thế, nhưng đối với Hải thì lại khác. Số tiền được ông Hồ và Lê Thiết Hùng giúp lúc này mỗi tháng là hai mươi đồng, nhưng đã phải trả mất sáu đồng rưỡi tiền nhà và tiền điện nước, còn mười ba đồng rưỡi là tiền ăn của sáu người, thì mức sống nhất định là thấp. Hải là người thích ăn chơi, lại ở trong hoàn cảnh như thế, anh ta cũng phải tự kiềm chế một phần nào, nhưng vẫn thường thường tránh anh em đi ăn riêng ở ngoài, và thường thường tỏ vẻ bất mãn.

Vào khoảng tháng tám là tháng nóng nhất ở Nam Kinh, vừa nóng nực, vừa kham khổ, Hải không thể chịu được nữa, phải nói thật với chúng tôi là hắn muốn đi Thượng Hải và xin được giúp đỡ. Chúng tôi đồng ý và nói riêng với ông Hồ giúp cho hắn 15 đồng để đi.

Sau này được biết, hắn đến Thượng Hải dạy nhảy cho các cô gái nhảy ở hộp đêm. Năm 1937, xem báo trong nước thấy hắn bị bắt và bị kết án mười năm khổ sai, mười năm cầm cố. Tội nặng như thế, chắc là vì bức thư viết cho Pasquier ở Hương Cảng từ hồi năm 1935.




--------------------------------------------------------------------------------
[1]tức Trụ đen
[2]tức Long Cong
[3]Hoàng Sâm
[4]tức Hà Huy Tập
[5]Ban Chấp hành Trung ương Đảng Xiêm lúc đó gọi tắt là Xiêm ủy
[6]ý muốn chỉ các đồng chí trong Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng
[7]quan toàn quyền Đông Dương lúc đó
[8]thực sự là người phụ trách của Đảng bộ khu phố
[9]giới thiệu chứ không bầu cử, xem như việc đã rồi
[10]quê ở huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An, tên thật là Lê Hồng Sơn
[11]dịch nghĩa câu chữ Hán trong sách Mạnh Tử: “Sĩ ninh tử ư câu hác”
[12]hắn xuất dương cùng một thời gian với các đồng chí Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu

====

Hoàng Văn Hoan
Giọt nước trong biển cả
(Hồi ký cách mạng) 16 kì
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16

IV. Mất mối liên lạc với Xiêm ủy, ở lại Trung Quốc

Vào khoảng cuối tháng chín năm 1936, anh Phùng Chí Kiên, người phụ trách việc liên lạc của Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng, gửi tiền và viết thư cho tôi gọi đi Hương Cảng.

Đến đó, anh chuẩn bị cho một chỗ ở chung với một gia đình công nhân, phải góp tiền nhà mỗi tháng bốn đồng. Dẫn đến giới thiệu với chủ nhà xong, anh dắt tôi đi ăn cơm và nói chuyện:

Mới rồi, Xiêm ủy thông tri cho biết ở đó đang bị khủng bố nặng, phần nhiều cơ sở Việt kiều ở Đông Bắc bị phá vỡ, cán bộ chủ chốt bị bắt hầu hết, đề nghị chúng tôi xếp cho anh về Xiêm ngay. Bây giờ chỉ chờ giao thông ở Xiêm đến là anh có thể đi. Chỗ anh ở hiện nay là nhà một người công nhân tốt, nhưng anh phải ra vẻ là một người thất nghiệp đang chờ xin việc làm, vì chúng tôi đã nói với họ như thế.

Để ra vẻ là người đi xin việc, cứ mỗi ngày sáng dậy là tôi phải đi, trưa mới về, nghỉ độ vài ba giờ, rồi chiều lại đi, có bữa đến chín mười giờ tối mới về. Thỉnh thoảng gặp anh Phùng Chí Kiên một lần, đều nói chưa có tin tức. Cứ chờ như thế độ khoảng hơn một tháng, vẫn không có tin tức gì cả, anh Phùng Chí Kiên nói ở đây chờ lâu quá không nên, anh hãy về Nam Kinh đã. Tôi nói nếu còn chờ đợi tin tức bên Xiêm, thì tốt hơn là cho tôi về Quảng Châu để hễ có tin tức của Xiêm ủy là thu xếp việc đi Xiêm được nhanh chóng. Anh Phùng nói mới rồi chúng tôi đã gọi đám anh Cáp ở Nam Kinh về Quảng Châu mấy người chưa biết sắp xếp công việc đã ổn chưa, nếu anh về nữa chắc sẽ thêm khó khăn. Hiện nay ở Nam Kinh còn anh Văn, anh nên về Nam Kinh giúp đỡ anh ấy.

Thế là tôi lại về Nam Kinh.


*


Đến Nam Kinh, vừa khéo gặp dịp Giao thông binh đoàn đang có kỳ thi để tuyển thêm học binh, tôi liền nhờ anh Lê Thiết Hùng giới thiệu cho vào Giao thông binh đoàn để học nghề lái xe. Vào Giao thông binh đoàn rồi phải theo đơn vị đi tập kết và huấn luyện ở Vu Hồ, tỉnh An Huy. Được độ hai tháng, thì nhận được điện của ông Hồ Học Lãm gọi về Nam Kinh, bụng bảo dạ rằng có lẽ có tin tức gì từ Hương Cảng. Nhưng khi về Nam Kinh gặp ông, thì ra ông đã xin cho được việc làm “tư thư” ở Bộ Tham Mưu nơi mà ông đang làm tham mưu ở đó. Tư thư là một chức vụ chuyên làm việc sao chép; lúc mới vào, đóng cấp chuẩn úy, sau vài tháng được lên cấp thiếu úy, lương mỗi tháng hơn ba mươi đồng. Thế là về mặt sinh hoạt đã có thể tự túc.

Ở Trung Quốc từ năm 1931, Nhật chiếm Đông Bắc lập ra Mãn Châu quốc, phong trào chống Nhật ngày càng lên cao. Nhất là từ cuối năm 1935, Hồng quân hoàn thành thắng lợi cuộc Vạn lý trường chinh. Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra khẩu hiệu “Đình chỉ nội chiến, đoàn kết chống Nhật” lại càng được nhân dân ủng hộ mạnh. Ở Thượng Hải, các ông Thẩm Quân Nho, Trâu Thao Phấn, Sa Thiên Lý, Vương Tạo Thời, Chương Nại Khí, Lý Công Phác và bà Sử Lương công khai tuyên truyền liên Cộng chống Nhật, bọn Tưởng bắt giam, buộc tội là thân Cộng, về đưa ra xử án tại Tô Châu. Vụ án này, nhân dân gọi là vụ án “bảy quân tử”. Trong phiên tòa xứ án, một người quân tử đã nói: Người cộng sản ăn cơm, chúng ta cũng ăn cơm, sao người cộng sản biết chống Nhật, mà chúng ta lại không biết chống Nhật. Trong hàng ngũ của Tưởng Giới Thạch cũng có sự phân hóa sâu sắc. Tháng 12 năm 1936, Trương Học Lương bắt Tưởng Giới Thạch ở Tây An, đòi phải cam kết chống Nhật, và Tưởng cũng đã cam kết rồi mới được tha.

Tuy vậy, Nam Kinh vẫn là một chỗ rất đen tối, sách báo tiến bộ hầu như không lọt vào được, ngay ở đó có cuộc biểu tình của hàng vạn học sinh và sinh viên, mắt mình trông thấy rõ ràng, nhưng các báo Nam Kinh không đăng lấy một chữ! Chỉ thỉnh thoảng được đọc tờ Thế giới tri thức và một vài tờ báo tiến bộ xuất bản ở Thượng Hải thì mới biết rõ tình hình thế giới và sự phát triển về văn hóa và tư tưởng tiến bộ ở Trung Quốc trong lúc đó.

Tháng 7-1937, quân Nhật bịa chuyện một người lính Nhật mất tích, kéo quân đến Lư Câu Kiều, uy hiếp thành phố Bắc Kinh. Dưới sức ép của nhân dân, Tưởng Giới Thạch phải tuyên bố kháng chiến. Nhưng tháng 8 năm 1937, quân Nhật chiếm Thượng Hải, rồi phá vỡ pháo đài Giang Âm, Tưởng Giới Thạch liền quyết định bỏ Nam Kinh. Chính phủ và các cơ quan khác đều dời đi Trùng Khánh, riêng Bộ Tham mưu bấy giờ đổi tên là Bộ Quân lệnh, thì dời đi Vũ Hán. Tôi là tư thư trong Bộ Quân lệnh, tự nhiên là phải đi theo cơ quan đến Vũ Hán.



*


Ở Vũ Hán, công việc sao chép tăng lên rất nhiều, viết giấy bản bằng bút lông, viết giấy than bằng bút chì, viết giấy sáp bằng bút sắt, văn kiện hàng đống, có khi viết không kịp. Phải làm việc cả ban đêm, rất mệt nhọc. Nhưng có một điều thú vị là sau khi Thượng Hải mất, Vũ Hán đã trở thành nơi trung tâm văn hóa của Trung Quốc. Nhiều nhân sĩ và người làm công tác văn hóa tiến bộ đều tập trung ở đây. Dưới hình thức “Quốc - Cộng liên hợp”, bọn Quốc dân đảng không thể không cho các báo và các hiệu sách của Đảng cộng sản và của những người có xu hướng chính trị tiến bộ ra mắt quần chúng. Vi vậy, mỗi ngày, ăn cơm trưa xong, tôi đều đến tiệm nước chè, mua một tờ Tân hoa nhật báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, vừa uống nước vừa đọc báo, đọc cho kỳ hết; ăn cơm tối xong lại đến Tân Hoa thư điếm hoặc Sinh Hoạt thư điếm tìm sách xem, xem xong thấy quyển nào cần đọc kỹ lại thì mua một quyển. Thời kỳ này, tôi đọc được khá nhiều sách, nên đối với tình hình thế giới, đối với tiền đồ của cuộc kháng Nhật của nhân dân Trung Quốc đã hiểu được rõ hơn, đối với chính trị kinh tế học, triết học và các thường thức về khoa học xã hội, đối với chủ nghĩa Mác –Lê-nin đều có những thu hoạch nhất định.

Mùa hè năm 1938, vào khoảng tháng sáu, anh Phùng Chí Kiên đến Vũ Hán, cho biết sự liên lạc với Đảng Xiêm đã hoàn toàn dứt hẳn. Anh bàn với tôi sẽ đi gặp đồng chí Diệp Kiếm Anh để thông báo về việc Trần Báo và giới thiệu anh Văn và tôi đi học ở Diên An.

Trần Báo khi ở Xiêm tên gọi là Choắt, chuyên làm việc phiên dịch cho các đồng chí ta ở trong Xiêm ủy. Năm 1934, được phái đi gặp các đồng chí trong Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng để báo cáo công tác, nhưng đã không làm tròn nhiệm vụ mà lại còn tham ô tiền Đảng. Năm 1937, các đồng chí cán bộ ta ở Xiêm đều bị bắt, hắn ở Băng-cốc càng lăng nhăng, Xiêm ủy phái hắn đưa bốn chục thanh niên Hoa kiều về nước tham gia Tân tứ quân. Nhưng hắn đã bỏ anh em ở Hương Cảng rồi đi lung tung, anh em chờ mãi, hết tiền ăn, phải kéo nhau về Quảng Châu, có người bất đắc dĩ phải xin gia nhập quân đội Dư Hán Mưu, đã không được kháng chiến mà còn bị đối xử theo kiểu phát xít. Năm 1938, hắn đến Hán Khẩu gặp đồng chí Diệp Kiếm Anh, khoe là Hoa kiều ở Xiêm về nước kháng chiến, được đồng chí Diệp Kiếm Anh tiếp đãi tử tế, và có đưa cho hắn một cái danh thiếp, nên sau đó hễ gặp các đồng chí là hắn đưa danh thiếp của đồng chí Diệp Kiếm Anh ra khoe khoang.

Anh Phùng Chí Kiên kể tất cả lai lịch và hành động của Trần Báo cho đồng chí Diệp Kiếm Anh nghe, và đề nghị chú ý hắn. Tiếp đó, nói đến chuyện giới thiệu anh Văn và tôi đi học ở Diên An. Đồng chí Diệp Kiếm Anh tỏ lời hoan nghênh và nói sẽ giao cho đồng chí Trần Gia Khang gặp chúng tôi để bàn cụ thể.

Sau mấy lần bàn bạc với đồng Trần Gia Khang, tôi xin thôi việc tư thư ở Bộ Quân lệnh và đưa anh Văn đến cùng nằm chờ ở Biện sự xử Bát lộ quân, đóng ở Đại Thạch Dương Hàng. Nằm chờ độ hơn hai tuần, các đồng chí Bát lộ quân cho biết hiện nay đường đi có trắc trở, không thể đi được. Thế là chúng tôi phải tìm cách ra khỏi Biện sự xứ, anh Văn lại về Giao thông binh đoàn với anh Lê Thiết Hùng, tôi đi Trường Sa, thủ phủ tỉnh Hồ Nam, ở với ông Hồ Học Lãm.



*


Nguyên khi Bộ tham mưu của Tưởng bỏ Thủ đô Nam Kinh thì chúng cũng bỏ cả ông Hồ Học Lãm bằng cách phong cho ông cái chức gọi là “Lưu thủ chủ nhiệm”. Lưu thủ chủ nhiệm nghĩa là ông chủ nhiệm phải ở lại để giữ cơ quan! Ông Hồ thấy rõ cách đối xử hèn mạt của chúng, nên trước khi Nam Kinh bị Nhật chiếm, ông đã đưa cả gia đình với anh Văn đi Vu Hồ, thuộc tỉnh An Huy, gửi lại ở chỗ anh Lê Thiết Hùng, còn ông thì đi Trường Sa, xin làm tham mưu ở Quân quản khu do Tỉnh trưởng tỉnh Hồ Nam Trương Trị Trung kiêm làm tư lệnh.

Trường Sa lúc này bình yên và náo nhiệt. Một số người tiến bộ tập hợp lại ở đó, thường mở các buổi diễn giảng về thời sự và các vấn đề có liên quan đến kháng chiến. Nếu diễn giảng đúng vào buổi tối thì tôi cũng đi nghe, vì ban ngày phải ở nhà đi chợ và nấu cơm cho ông Hồ Học Lãm.

Đùng một cái, được tin Quảng Châu mất, rồi Cửu Giang, Vũ Hán cũng mất nốt. Tình hình Trường Sa trở nên căng thẳng, dân chúng nháo nhác ngoài đường phố, hàng quán phần nhiều đóng cửa, các cơ quan lại dọn chạy.

Sáng sớm ngày 12-11-1938, hai chiếc thuyền lớn do Quân quản khu trưng dụng để chở nhân viên đi tản cư, trong đó có ông Hồ Học Lãm, Trần Báo và tôi, bắt đầu rời bến, thì Trường Sa bốc cháy, khói lửa nghi ngút, máy bay Nhật bay liệng trên bầu trời.

Thuyền đến Tương Đàm, dân chúng cũng nhớn nhác chạy loạn như ở Trường Sa, trên bến không có người khuân vác. Tôi ngồi ở bến trông nom ông Hồ Học Lãm đương ốm. Trần Báo đi vào phố tìm mãi mới thuê được một chiếc kiệu để khiêng ông Hồ với một số đồ đạc cần thiết và rất nhẹ, còn bao nhiêu thì không quản nữa, vứt bỏ cả ở bãi bến.

Đi bộ độ mười ngày đến huyện Tân Hóa ở dọc đường, đọc báo mới biết Trường Sa không phải đã bị Nhật chiếm, mà vì tụi Hán gian phao tin Nhạc Dương [1] mất, nên “Ủy ban bảo vệ Trường Sa”, trong đó có vị tư lệnh Vệ Tuất và vị cảnh sát trưởng đã hạ lệnh “tiêu thổ” để chạy trốn. Lần cháy này làm chết năm vạn dân, và thiêu trụi không biết bao nhiêu là tài sản của Nhà nước và của nhân dân. Mấy tên Hán gian hạ lệnh “tiêu thổ” đã bị xử tử.

Lại đi bộ hơn mười ngày nữa mới đến huyện Nguyên Lăng, phía tây tỉnh Hồ Nam, trên đường ô-tô đi Quí Dương. Ở đây chúng tôi gặp đơn vị Giao thông binh đoàn mà anh Lê Thiết Hùng là tiểu đoàn phó, trong đó có nhiều người trước đã biết ông Hồ Học Lãm. Vì vậy mà chúng tôi có thể đi nhờ xe của họ từng chặng, từng chặng một để di chuyển dần về hậu phương xa hơn.



*


Trên các chặng đường, Hoàng Bình thuộc tỉnh Quí Châu là chỗ mà chúng tôi dừng khá lâu, vì ở đây yên tĩnh, ông Hồ có thể nghỉ để bồi dưỡng sức khỏe sau trận ốm. Thời gian ở đây, chúng tôi vẫn liên hệ thân mật với một số cán bộ trong tiểu đoàn của anh Lê Thiết Hùng, trong đó có hai anh trung đội trưởng tiến bộ, thường mang theo một số sách chính trị để đọc, nhưng có những quyển có một số chữ mà các anh không hiểu nghĩa, phải cầu cứu đến chúng tôi. Đó là những quyển sách nói về chủ nghĩa Mác-Lê-nin. Số là sau khi Tưởng Giới Thạch tuyên bố chống Nhật, việc Quốc –Cộng hợp tác đã thành hình, những nhà xuất bản cánh tả đã tìm một số chữ mới, thay thế những chữ có thể chọc mắt Quốc dân đảng, để thuận lợi cho việc phát hành. Thí dụ như lấy chữ Y-lý-kỳ (đọc âm là Y-li-xi) hoặc lấy chữ Ô-lý-ngang-nặc-phu (đọc âm là U-li-ang-nốp) thay cho chữ Lê-nin. Lấy chữ Kha-nhĩ (đọc âm là Kha-rơ) thay cho chữ Mã-khắc-tư. Lấy chữ Bố-nhĩ-kiều-á (đọc âm na ná là Buốc-gioa) thay cho chữ tư sản giai cấp. Lấy chữ Phố-la-liệt-đáp-lợi-á (đọc âm na ná là Prô-lê-ta-ri-a) thay cho chữ vô sản giai cấp, v.v…Với trình độ tốt nghiệp trung học vùng Tưởng chiếm, họ không thể hiểu được những chữ đó.

Lại có một anh trung đội trưởng khác, trình độ thấp hơn, vì yêu một cô giáo tiến bộ ở nông thôn, mỗi lần gặp nhau, cô ta đều dặn mua cho mấy quyển sách chính trị. Nếu anh mua sách cho người yêu, mà mình không hiểu gì cả, nhỡ nó hỏi thì sao? Anh ta phải cố gắng học trước, chỗ nào không hiểu phải hỏi cặn kẽ để nắm chắc. Đó cũng là một cơ hội để chúng tôi giúp đỡ anh ta về mặt lý luận và nhận thức cách mạng.

Chỉ trong thời gian vài tháng, chúng tôi đã lôi kéo được các anh ấy thành những người có cảm tình với Đảng cộng sản, trong đó có anh Xì Khuân tỏ rõ ý muốn đi Diên An. Vì vậy, trong dịp gặp Bác Hồ, chúng tôi đã báo cáo với Bác, và Bác đã giới thiệu anh ấy với Biện sự xứ Bát lộ quân ở Quí Dương. Sau ngày Trung Quốc giải phóng, anh Xì Khuân có dịp liên hệ được với chúng tôi, mới biết rằng chúng tôi là người cộng sản Việt Nam.

Sau khi sức khỏe ông Hồ Học Lãm đã được bình phục, lại nhân có chuyến xe đi nhờ được, tôi đưa ông Hồ đi Quí Dương, thủ phủ tỉnh Quí Châu. Theo sự giới thiệu của mấy anh em Vân Nam, khi đến Quí Châu chúng tôi ở nhà Vũ Hồng Khanh, một người đã từng lấy danh nghĩa Việt Nam Quốc dân đảng hoạt động ở Vân Nam, sau vì việc giết người và tống tiền, bị đương cục Vân Nam trục xuất, đã đưa gia đình và một số thanh niên Việt kiều đến định cư ở đó.

Vũ Hồng Khanh vốn đã được nghe tiếng ông Hồ từ lâu, nay được gặp, thấy là một người hiền lành, đạo mạo và khiêm tốn, y rất phục. Tôi đi theo ông Hồ, tự nhận là cháu, nên y cũng tin là một người cách mạng quốc gia. Chuyện trò khá mặn mà, hứa hẹn sau này về Côn Minh sẽ cùng nhau bàn bạc công tác vận động Việt kiều ở Vân Nam. Ở nhà Vũ Hồng Khanh không đầy một tháng, nhưng đã gây được ấn tượng tốt với mọi người trong nhà và mấy anh thanh niên Việt kiều theo Vũ Hồng Khanh từ Côn Minh đến.

Đầu năm 1939, nhân dịp có xe đi Côn Minh (Vân Nam), tôi bàn với ông Hồ Học Lãm để tôi đi về trước. Ông đồng ý. Thế là tôi đi Côn Minh, cùng với các đồng chí ta ở đó tiếp tục hoạt động cách mạng.


Giai đoạn thứ hai

Từ Côn Minh đến Pác Bó (1939-1942)

Giai đoạn này kể từ khi đến Côn Minh đầu năm 1939 cho đến khi rời Trung Quốc về Pác Bó cuối năm 1942. Những hoạt động trong thời gian này sẽ được trình bày qua các mục nhỏ sau đây:


Tình hình và công tác ở Côn Minh.


Chuyển hướng hoạt động về phía Quảng Tây


Hoạt động ở Long Châu.


Hoạt động ở Tịnh Tây.


Bị bắt ở Bình Mãnh.


Cuộc đấu tranh ở Liễu Châu.


Chuẩn bị về nước.

Bốn mục trên trước đã phát biểu ở cuốn Đầu nguồn do Nhà xuất bản Văn học Hà Nội phát hành năm 1975, nay vẫn giữ nguyên, nhưng mỗi mục có thêm một đề mục nhỏ để thống nhất cách trình bày trong toàn phần.


I. Tình hình và công tác ở Côn Minh

Đầu năm 1939, sau Tết âm lịch độ một tháng, chia tay với ông Hồ Học Lãm, tôi đi từ Quí Dương đến Côn Minh. Đến nơi các đồng chí đã xếp cho ở nhà anh Tống Minh Phương, một gia đình được giác ngộ cách mạng và theo Đảng từ năm 1936. Tập làm thợ may ở đó một thời gian, rồi đi may ở một hiệu may nhỏ để vận động đám thanh niên thợ may Việt kiều. Sau xin vào làm thợ ở Xưởng chữa ô-tô Stai để vận động công nhân, nhưng chỉ được vài tháng thì xưởng biết là cách mạng, bị đuổi ra khỏi xưởng. Từ đó, khi thì ở chỗ anh Tống Minh Phương, khi thì ở chỗ anh Đỗ Đăng Trình; sau anh Phùng Chí Kiên đến tổ chức Ban hải ngoại và xếp được chỗ ở làm cơ quan bí mật để in tài liệu tuyên truyền, thì tôi thường ở chỗ anh Phùng Chí Kiên.

Cần phác qua một vài nét chính về tình hình và công tác ở Côn Minh của các đồng chí chúng ta trong lúc đó:

Côn Minh là thủ phủ tỉnh Vân Nam, thuộc khu Tây Nam Trung Quốc. Theo điều ước bất bình đẳng Mãn Thanh ký với đế quốc Pháp năm 1885, công ty xe lửa Pháp đã xây dựng con đường xe lửa chạy suốt từ Hà Nội qua Lào Cai, Hà Khẩu, đến Côn Minh. Tất cả người Việt Nam làm việc trên xe lửa cũng như ở các ga đều là công nhân viên chức do công ty trả lương và điều khiển, đương cục Trung Quốc không được đụng chạm đến.

Ở Côn Minh, người Pháp có lãnh sự quán, có đài vô tuyến điện, có bệnh viện riêng và một xưởng sửa chữa xe ô-tô là Stai. Số người Việt Nam qua Vân Nam ở trên các thị trấn đọc đường xe lửa có độ hơn hai nghìn, làm các nghề tự do như cắt tóc, thợ may và một số nghề lặt vặt khác, đều là bà con của các công nhân viên chức của công ty xe lửa, đều thuộc quyền trị ngoại của lãnh sự Pháp.

Năm 1929, Nguyễn Thế Nghiệp tranh địa vị lãnh tụ Quốc dân đảng với Nguyễn Thái Học không được, mật thám đã bố trí cho chạy qua Vân Nam. Ở đây hắn đã câu kết với một tên Việt kiều mật thám của Quốc dân đảng Trung Quốc là Nguyễn Kim Ngữ và một tên xếp-tanh tay chân của Pháp, “bí mật hoạt động” trong giới công chức Việt kiều. Năm 1930, sau khi cuộc Khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Vũ Hồng Khanh lại từ trong nước chạy ra, nhập bọn với Nguyễn Thế Nghiệp. Được sự cho phép ngầm của đế quốc Pháp, và sự “giúp đỡ” của đương cục Trung Quốc, chúng đã tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng, đưa vào một số lưu manh làm cốt cán để uy hiếp và lừa dối quần chúng. Trụ sở Việt Nam Quốc đảng được lập ở nhiều nơi trong tỉnh Vân Nam. Tại Côn Minh, chúng còn có một cái hội quán, nói cho đúng là một cái ổ để cho cốt cán của chúng qua lại, còn các tên “lãnh tụ” như Nguyễn Thế Nghiệp, Vũ Hồng Khanh thì đều dựa vào sự quyên góp của kiều bào và sự tống tiền để tiêu xài một cách trụy lạc ở khách sạn. Một người quần chúng biết chuyện đem nói lại với bà con, chúng liền gọi đến hội quán phạt đứng nghiêm, tát vào mặt mấy cái rồi giao hẹn từ nay về sau không được nói chuyện “lãnh tụ”.

Thời gian chúng được hoạt động công khai cũng là thời gian chúng tranh giành nhau kịch liệt về hưởng thụ và địa vị, mâu thuẫn nội bộ lên đến cao độ. Nguyễn Thế Nghiệp, Vũ Hồng Khanh, bị Nguyễn Kim Ngữ đả kích ra mặt và đưa nhiều việc ra bêu xấu, chúng liền cho cho người giết Nguyễn Kim Ngữ. Việc bị lộ, chúng đều bị bắt giam ở Côn Minh. Nguyễn Thế Nghiệp liền viết thư xin lãnh sự Pháp ở Côn Minh can thiệp, đến năm 1933 thì đương cục Vân Nam trục xuất chúng qua Quảng Tây.

Qua những sự việc kể trên, uy tín của chúng đã tụt xuống như xuống dốc, tất cả cơ sở của chúng ở các nơi đều bị tan rã. Một số người còn có ý thức cách mạng đều lìa bỏ chúng để tìm đường lối khác. Các anh Trần Quốc Tuấn, Đỗ Đăng Trình, Lê Quốc Trụ, Từ Chí Kiên, bỏ chúng đi Nam Kinh, đã gặp các đồng chí ta và được sự giúp đỡ chuyển biến dần theo đường lối của Đảng.

Cuối năm 1935, các anh Vũ Anh, Đông A, Đỗ Đăng Trình được phái từ Nam Kinh về xây dựng cơ sở Đảng và tổ chức Chi bộ lấy tên là Chi bộ Vân - Quí.

Năm 1936, Vũ Hồng Khanh lại “bí mật” về Côn Minh hoạt động, nhưng quần chúng đã hết sức chán ghét. Những phần tử phản động vẫn ngấm ngầm chống cách mạng mà bây giờ Vũ Hồng Khanh còn dùng làm cốt cán, tính ra chỉ còn độ hơn mười người. Với sách lược đúng đắn, các đồng chí Chi bộ Vân - Quí vẫn hoạt động với danh nghĩa Quốc dân đảng, đồng thời tìm cách đưa đồng chí Vũ Anh cũng vào Đảng, hình thành một nhóm cánh tả trong đó để đấu tranh trực diện với Vũ Hồng Khanh. Qua một thời gian tuyên truyền vận động, nhóm cánh tả đã chiếm ưu thế tuyệt đối. Hội lao công thân ái cho công nhân và Hội thiếu niên dục tài cho thanh, thiếu niêu được thành lập, nay đã do đồng chí Đông A nắm hoàn toàn. Khi đồng chí Đông A đề nghị đổi tên tờ Thiết huyết ra tờ Đại chúng, Vũ Hồng Khanh không chịu, hắn tự viết lấy tờ Thiết huyết và tự in lấy gửi cho quần chúng nhưng đều bị quần chúng xé toạc hoặc phê chữ vào rồi gửi trả lại. Tờ Thiết huyết chết, đồng chí chúng ta ra tờ Đại chúng để tuyên truyền chủ chương của Đảng. Vũ Hồng Khanh hoạt động ở Côn Minh không lâu, thì bị quần chúng tố cáo với đương cục Trung Quốc, lại bị trục xuất một lần nữa qua Quí Dương. Tuy vậy Vũ Hồng Khanh vẫn không ngừng hoạt động, và ở Côn Minh vẫn còn một số tay sai công khai hoặc bí mật liên hệ với hắn để tiếp tục chống cách mạng.



*


Năm 1939, sau khi tôi đến Côn Minh không bao lâu, thì Vũ Hồng Khanh lại về Côn Minh, lần này hắn được Nghiêm Kế Tổ, một tên đặc vụ của Trùng Khánh về che chở, nên đương cục coi là người được hoạt động hợp pháp. Nhưng trước kia cũng như bây giờ, những lần chúng triệu tập hội nghị, chúng ta đều phái đồng chí và đông đảo quần chúng đến tham dự để vạch mặt, nên chúng rất sợ các cuộc họp công khai. Để trấn áp tinh thần quần chúng, một tên cốt cán đắc lực của chúng đã ỷ thế là sĩ quan của Quốc dân đảng Trung Quốc, trắng trợn rút khẩu súng ngắn đeo bên hông đặt lên bàn giữa nhà anh Tống Minh Phương, nói rằng: Hễ còn nghe mấy thằng cộng sản thì coi chừng đây! Một lần, chúng triệu tập một cuộc họp rất kín có mời đại biểu Quốc dân đảng Trung Quốc đến dự, chúng ta vẫn biết và xếp đặt một số quần chúng của ta đến. Hội nghị vừa khai mạc thì người gác cổng của chúng la to lên rằng “bọn Trịnh Đông Hải đã đến”. Thế là quần chúng nháo nhác, lộn xộn không thành trật tự nữa. Chúng phải tuyên bố hội nghị giải tán! Anh Tùng Sơn được bố trí trước, ngồi bên cạnh người Quốc dân đảng Trung Quốc, đã nói lại đầu đuôi cho họ nghe. Uy tín của chúng lại bị đập mạnh một lần nữa ngay cả trước mặt bọn Quốc dân đảng Trung Quốc.

Tuy vậy, chỉ sau đó một thời gian, chúng lại thông qua báo chí và Thông tấn xã Trung ương của Quốc dân đảng Trung Quốc, ra một bản “tuyên ngôn đối với thời cuộc”, tuyên bố chủ trương hợp tác với Pháp. Tự nhiên đó là do Quốc dân đảng Trung Quốc bảo chúng làm, nhưng đó cũng là sự phát triển hợp lô-gích với đường lối đầu hàng, phản cách mạng của chúng từ trước đến nay. Chúng ta liền lấy danh nghĩa “Việt Nam hưởng ứng Trung Quốc kháng địch hậu viện hội”, một tổ chức được thành lập từ năm 1937, ra tuyên bố vạch mặt. Bản tuyên bố viết bằng chữ Trung Quốc, được gửi đi cho tất cả thông tấn xã các nước, cho Chính phủ Tưởng Giới Thạch, cho các báo, các đoàn thể nhân dân Trung Quốc và cho kiều bào ta ở Vân Nam. Bộ mặt phản cách mạng của chúng càng được quần chúng thấy rõ.

Ngoài Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ ra, còn có một nhóm Tờ-rốt-kit độ ba bốn tên, cầm đầu là một anh có trình độ văn hóa, biết vẽ, biết nặn tượng, chịu ảnh hưởng của Tạ Thu Thâu khá sâu, hay nói lý luận có vẻ cách mạng, có thể đánh lừa một số quần chúng. Hắn tuyên truyền vận động kiều bào xuống đường biểu tình chống Pháp và đòi đương cục Trung Quốc giảm thuế. Hắn đi vận động đến đâu cũng bị chúng ta đả thẳng cánh, âm mưu không thực hiện được và hoàn toàn bị cô lập.

Cuối năm 1939, đồng chí Phùng Chí Kiên từ Sơn Đầu về Côn Minh [2] , tổ chức Ban hải ngoại của Đảng, để lãnh đạo mọi mặt công tác tại Trung Quốc, gồm ba người: Đồng chí Phùng Chí Kiên, đồng chí Vũ Anh và tôi lúc này lấy tên là Lý Quang Hoa. Ban hải ngoại ra một tờ báo nhỏ lấy tên là Truyền tin, sau đổi tên thành Đồng thanh, tuyên truyền chủ trương đoàn kết chống Pháp, ủng hộ Trung Quốc chống Nhật, đồng thời vạch mặt những luận điệu tuyên truyền lừa bịp của bọn Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ và bọn Tờ-rốt-kít.


*


Đầu năm 1940, Bác về Côn Minh lấy tên là Hồ Quang, đóng vai một giáo quan cấp thiếu tá của Bát lộ quân, ở chỗ Tân Hoa thư điếm, nhưng thường lui tới chỗ đồng chí Phùng Chí Kiên để chỉ đạo công tác của Ban hải ngoại.

Về chính trị, Bác đánh giá việc Chi bộ Vân - Quí lôi kéo được quần chúng đánh tan ảnh hưởng của bọn Nguyễn Thế Nghiệp và Vũ Hồng Khanh là một thành tích. Đồng thời cũng phê phán một số khuyết điểm, và đề ý kiến để Ban hải ngoại sửa chữa lại. Thí dụ, Bác nhận định cuộc bãi công của công nhân xe lửa trước đây do Chi bộ lãnh đạo, mục đích chỉ đơn thuần nhằm vào việc chống Pháp không chuyên chở vũ khí cho Trung Quốc, chứ chưa biết nhân đó mà tuyên truyền ý thức chống Nhật, ý thức cách mạng rộng rãi trong quần chúng. Vì vậy Bác đề nghị lấy danh nghĩa “Việt Nam hưởng ứng Trung Quốc kháng địch hậu viện hội” phát truyền đơn suốt dọc đường xe lửa Hà Khẩu - Côn Minh, kêu gọi kiều bào chống Pháp và giúp Trung Quốc chống Nhật.

Về việc tuyên truyền, Bác đề nghị đổi tên tờ Đồng Thanh ra tờ Đ.T.. Theo Bác giải thích, thì Đ.T. có thể hiểu là “Đồng Thanh”, cũng có thể hiểu là “Đồng Tâm”, cũng có thể hiểu là “Đấu tranh”, và cũng có thể hiểu là “Đánh Tây”. Các bài viết trong báo này thường được Bác duyệt và sửa chữa, nên chất lượng nâng cao và cách viết giản dị dễ hiểu hơn, quần chúng rất thích.

Về việc liên lạc với các đồng chí cộng sản Vân Nam đã có từ trước, như liên lạc với đồng chí Trần Phương, đồng chí Mã Tử Khanh, nay dược sự xúc tiến của Bác lại càng thêm củng cố và phát triển.

Để hiểu biết tình hình Việt kiều ta ở Vân Nam, bác đã cùng đồng chí Phùng Chí Kiên đi đến mấy chỗ dọc đường xe lửa có kiều bào ở đông như Mông Tự, Nghi Lương, Khai Viễn và Chỉ Thôn để liên hệ với quần chúng đang làm chay cho những người bị bom Nhật giết chết ở Bua Chai, Bác và anh Phùng đã tham gia lễ làm chay, anh Phùng lấy bài Khóc đồng bào bị nạn ở Bua Chai trong báo Đ.T. ra đọc, quần chúng rất xúc động.

Theo chỉ thị của Bác, để phát triển cơ sở ở vùng giáp giới, Ban hải ngoại đã phái đồng chí Lộc đến làm việc ở Hà Khẩu để liên lạc với quần chúng ở đó và đã bí mật liên lạc với trong nước.

Đầu tháng 5 năm 1940, anh Bùi Đức Minh [3] đưa anh Phạm Văn Đồng và anh Võ Nguyên Giáp với thư giới thiệu của Trung ương nói vì trong nước đang có khủng bố nên gửi ra để ở ngoài tìm cách cho đi học. Ban hải ngoại đã bố trí cho hai anh bí mật gặp Bác. Bác quyết định sẽ giới thiệu cho hai anh đi học Trường đại học Quân chính Diên An. Trong thời gian chờ đợi, theo chỉ thị của Bác, chúng tôi đã tổ chức việc học lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô. Cách học là chia nhau mỗi người đọc một phần rồi báo cáo để mọi người phát biểu ý kiến. Lớp học này chỉ có anh Đồng, anh Giáp, anh Phùng Chí Kiên và tôi thường xuyên tham gia, các anh khác như anh Đặng Văn Cáp, anh Vũ Anh chỉ tham gia một đôi buổi.



*


Ngày 20-6-1940, Pháp mất Pa-ri. Bác gọi các đồng chí Ban hải ngoại đến bàn bạc tình hình, và quyết định chuyển hướng hoạt động công tác về biên giới, rồi về trong nước.

Có thể nói đây là một bước ngoặt lịch sử rất quan trọng.

Quyết định xong, Bác đi Trùng Khánh gặp Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trao đổi ý kiến về thời cục. Chuyến này Bác đi hơn một tháng mới về, vì lúc đi thì mua vé máy bay, nhưng lúc về phải đi xe công cộng và chờ đợi ở dọc đường khá lâu.

Một vấn đề đặt ra phải suy nghĩ là về biên giới thì ở vùng nào? Ở đây, ngay từ khi Bác đến đã chú ý xếp đặt người ở biên giới, nhưng chính trị Vân Nam không tốt, dù có người ở biên giới cũng khó lòng hoạt động; hơn nữa, các tỉnh giáp giới Vân Nam như Hà Giang, Lào Cai thì cơ sở quần chúng của chúng ta chưa có. Như vậy, cái hướng tính toán là phải nhằm về phía biên giới Quảng Đông hoặc Quảng Tây. Vừa khéo lúc Bác còn ở Trùng Khánh thì chúng tôi nhận được thư của ông Hồ Học Lãm nói cơ hội hoạt động cách mạng đã đến? Trương Bội Công được Quốc dân đảng Trung Quốc giúp đỡ, hiện đang liên lạc các nơi để tìm người cách mạng Việt Nam, đồng thời muốn mời ông Hồ Học Lãm ra hợp tác với ông ta trong việc này. Ông Hồ Học Lãm vốn biết Trương Bội Công không phải là người cách mạng, nên viết thư về Côn Minh đề nghị chúng tôi đi Quảng Tây gấp để nắm lấy ông ta kẻo ông ta làm bậy. Khi Bác về đến Côn Minh, chúng tôi đưa việc đó ra báo cáo, Bác liền quyết định các đồng chí Phùng Chí Kiên, Vũ Anh và tôi đi Quí Dương gặp ông Hồ Học Lãm, đồng thời điện cho các anh Đồng, Giáp đang ở Biện sự xứ Bát lộ quân Quí Dương chờ ngày đi học Diên An, và anh Cao Hồng Lĩnh, người đưa anh Đồng và anh Giáp đi từ Côn Minh đến cùng ở lại Quí Dương chờ chúng tôi đến để cùng đi Quảng Tây.


II. Chuyển hướng hoạt động về phía Quảng Tây

Trương Bội Công vốn là người Việt Nam làm sĩ quan cấp thiếu tướng trong bộ đội Quốc dân đảng Trung Quốc. Trước đó vì sợ cách mạng liên lụy đến, nên ông ta tránh không gặp một người Việt Nam nào. Lần này, được Quốc dân dảng Trung Quốc giao trách nhiệm tổ chức việc tình báo và chuẩn bị sau này làm tiền đạo cho Hoa quân nhập Việt, ông ta mới cần đến người Việt Nam, và mới cần ông Hồ Học Lãm ra cùng hoạt động.

Theo sự giới thiệu của ông Hồ Học Lãm, chúng tôi đi gặp Trương Bội Công ở Đại Kiều [4] là chỗ ông ta đặt cơ quan làm việc ở đó. Trương gặp chúng tôi thấy đều là những thanh niên tuấn tú có văn hóa, có chính trị và đặc biệt là am hiểu tình hình trong nước, khác với số người Việt Nam và Hoa kiều mà ông ta đã tập hợp được.

Tự nhiên chúng tôi gặp ông ta là bàn bạc về thời cuộc, về tình thế cách mạng, và tình hình hoạt động của nhân dân trong nước và của kiều bào ở ngoài, đồng thời cũng làm một số việc cụ thể như viết một số tài liệu về tình hình trong nước, xuất bản tập thơ ca cách mạng, thuyết phục một số người Việt Nam và Hoa kiều chung quanh ông ta. Nhưng qua sự bàn bạc với ông ta và qua một vài sự việc, như việc bảo chúng tôi làm dự toán và sổ chi tiêu về sinh hoạt, việc vận động chúng tôi tập quân sự và đứng nghiêm lúc thấy ông ta đến v.v… là những việc rất ngu xuẩn, mà chúng tôi đều cự tuyệt, thì thấy rõ ông ta chỉ là một anh quân phiệt, tay sai Quốc dân đảng Trung Quốc, chỉ muốn lợi dụng chúng tôi làm tình báo, và đem khả năng của chúng tôi ra khoe khoang với Quốc dân đảng để lấy tín nhiệm mà thôi.

Nhưng cái việc ngu xuẩn nhất là việc ông ta viết tất cả tên chúng tôi nộp cho Trương Phát Khuê và báo cáo rằng chúng tôi là nhân viên của cơ quan ông ta. Chúng tôi cực lực phản đối, bắt ông ta phải rút tên chúng tôi ra khỏi danh sách, và phải báo cho Trương Phát Khuê biết chúng tôi là những người cách mạng, không phải là nhân viên của ông. Tự nhiên làm như vậy thì ông ta không còn có chỗ đứng, nhưng chúng tôi vẫn kiên quyết đấu tranh đòi phải làm [5] .

Một hôm, Bác từ Côn Minh đến, chúng tôi bí mật gặp để báo cáo. Bác phân tích tình hình, rồi chủ trương phải bỏ Trương Bội Công và đưa ông Hồ Học Lãm lên Quế Lâm để làm một cơ sở hoạt động. Sau đó ít lâu, chúng tôi thu xếp bỏ Trương Bội Công đi Quế Lâm.



*


Vào khoảng tháng 10 năm 1940, khi chúng tôi đến Quế Lâm thì Bác đã ở đó. Ông Hồ Học Lãm cũng đã được xếp đặt đến chữa ở bệnh viện Quế Lâm rồi. Chúng tôi thường bí mật gặp Bác ở Biện sự xứ Bát lộ quân để báo cáo và xin chỉ thị về cách hoạt động.

Vấn đề đầu tiên là vấn đề lấy danh nghĩa gì để hoạt động? Bác chủ trương lấy danh nghĩa Việt Nam độc lập đồng minh hội, và mời ông Hồ Học Lãm đứng ra chủ trì để chúng ta dựa vào nó mà hoạt động. Chủ trương đó xuất phát từ chỗ Việt Minh là một tổ chức mà trước kia đã cùng với ông Hồ Học Lãm không phải là cộng sản mà lại thật lòng ủng hộ chúng ta, nếu ông đứng ra sẽ được nhiều điều thuận lợi.

Rất đồng tình với ý kiến này, ông Hồ Học Lãm nhận đứng tên là Chủ nhiệm Việt Minh, giới thiệu chúng tôi đi gặp Lâm Uất bạn học của ông, hiện đang làm Hiệu trưởng Phân hiệu quân sự trung ương tại Quế Lâm, đồng thời là Phó chủ nhiệm hành dinh khu Tây Nam của Tưởng Giới Thạch, mà Lý Tề Thâm là Chủ nhiệm. Qua sự giới thiệu của Lâm Uất, chúng tôi đi gặp Lý Tề Thâm.

Hôm gặp Lý Tề Thâm, chúng tôi đi cả sáu người: Lâm Bá Kiệt [6] , Dương Hoài Nam [7] , Trịnh Đông Hải, Phùng Chí Kiên, Cao Hồng Lĩnh và tôi lấy tên là Lý Quang Hoa. Theo kế hoạch của Bác, chúng tôi chuẩn bị sẵn một bản lý lịch tóm tắt của Việt Minh viết bằng chữ Trung Quốc đưa cho ông, và giới thiệu rằng ở Trung Quốc chúng tôi đã có “Biện sứ xứ Việt Minh ở hải ngoại” do ông Hồ Học Lãm là Chủ nhiệm, Lâm Bá Kiệt là Phó Chủ nhiệm. Lúc đưa giấy, chúng tôi nói thêm mấy điểm đại ý như sau:

Ở Việt Nam hiện nay có hai tổ chức chính trị lớn là Đảng cộng sản và Việt Minh. Lực lượng của Đảng cộng sản chủ yếu là công nhân và có sự giúp đỡ quốc tế là Đệ tam Quốc tế. Còn lực lượng Việt Minh thì chủ yếu là trong các tầng lớp trên và ở nông thôn. Chúng tôi vẫn liên hợp với Đảng cộng sản vì họ là một lực lượng chống Nhật khá mạnh. Nhưng chúng tôi cũng rất cần có sự viện trợ quốc tế, rất mong Chủ nhiệm hết sức giúp đỡ chúng tôi.

Lý Tề Thâm trả lời khá ôn tồn, đại ý như sau: Theo di chúc Tôn Tổng lý, chúng tôi phải giúp đỡ các dân tộc nhỏ yếu, nhưng trong phạm vi tôi có thể làm được thì rất nhỏ, nếu muốn có sự giúp đỡ lớn thì phải do Trung ương Đảng chúng tôi. Cuối cùng, ông ta không quên nhắc chúng tôi: Các anh hợp tác với Đảng cộng sản, cần chú ý đừng để cho họ nắm quyền lãnh đạo!

Qua cuộc nói chuyện với Lý Tề Thâm như vậy, cái danh nghĩa Việt Minh thực tế đã được thừa nhận, và cái danh nghĩa Biện sự xứ Việt Minh cũng mặc nhiên thành ra hợp pháp.

Sau đó ít hôm, Bác gợi ý: Chúng ta hoạt động cách mạng, cũng phải tỏ ra mình đã có cái gì trong tay, không đến nỗi nghèo túng lắm. Chúng ta nên thết anh bí thư của Lý Tề Thâm một bữa tiệc, để y kính nể mình và sẽ giúp mình nhiều hơn. Sau khi được Bác xuất cho một số tiền 500 đồng, chúng tôi đã làm một bữa tiệc chiêu đãi tại một hiệu ăn lớn là Quán Sinh Viên. Kết quả đúng như Bác dự kiến.

Cũng trong thời gian này, Bác đã giới thiệu qua nội bộ để anh Đồng gặp một số nhà văn tiến bộ Trung Quốc, vận động thành lập Hội văn hóa Việt-Trung. Ngày 8-12-1940, Hội được thành lập ở Câu lạc bộ Lạc Quần, lây tên chính thức là “Trung-Việt văn hóa công tác đồng chí hội”. Ông Hồ Học Lãm và anh Đồng được giới thiệu vào Ban lý sự [8] với tư cách là Chủ nhiệm và Phó chủ nhiệm Biện sự xứ Việt Minh ở hải ngoại. Việc thành lập này, các báo ở Quế Lâm hồi đó có đăng tin. Như vậy là địa vị hợp pháp của Việt Minh lại được đề cao lên một mức.

Lý Tề Thâm trước đây vốn là một người chống Cộng. Nhưng bây giờ với cái chức Chủ nhiệm hành dinh, ông ta chỉ có tiếng mà không có miếng, quyền hành thực sự đều nằm trong tay thiếu tướng Dương Kế Vinh, một tên trùm đặc vụ thân tín của Tưởng Giới Thạch được xếp đặt ở đó để bao vây và giám thị ông ta. Ông ta thấy rõ điều này, nên đối với Việt Minh mà Trung ương đã đăng ký rồi, tỏ vẻ nhã nhặn và giúp đỡ chút ít thì vẫn không thiệt gì, mà về thể diện thì đối với ông ta lại là một việc có lợi. Còn Dương Kế Vinh thì rất láo xược, mỗi lần gặp chúng tôi, hắn đều tỏ vẻ xoi mói và thường nói chuyện theo kiểu “huấn thị”, thậm chí có lần hắn cứ nằm trên cái ghế xếp mà nói chuyện. Hắn đã biết chúng tôi đối với Trương Bội Công như thế nào rồi, nên không dám trắng trợn quá, nhưng hắn luôn luôn mượn chuyện đả kích cộng sản để thăm dò thái độ chúng tôi.

Một hôm, Dương Kế Vinh đến thăm ông Hồ Học Lãm ở bệnh viện, hắn nói trắng ra rằng chúng tôi là cộng sản. Ông Hồ Học Lãm đã đập lại một vố khá mạnh. Ông nói: Đối với cách mạng Việt Nam, các ông chưa giúp được gì, nhưng về phần riêng như cá nhân ông chẳng hạn, thì đã nhờ cách mạng Việt Nam mà phát tài hàng triệu. Ông muốn đám thanh niên chúng tôi làm tình báo cho ông thì không được đâu, họ là những người cách mạng. Vì ông lôi kéo không được nên ông đã vu cho họ là cộng sản chứ gì? Nếu ông nói họ là cộng sản thì ông hãy tìm cho được chứng cớ, tôi sẽ lấy cái đầu của tôi đảm bảo cho họ. Sau đó, Dương Kế Vinh không gặp ông Hồ Học Lãm nữa, và nói ông ấy cậy nhiều tuổi, nói át cả mình đi, mình nói lại không tiện.

Luôn nói đây sơ qua một chút về việc Nguyễn Hải Thần lúc mới đến Quế Lâm đã muốn chia rẽ ông Hồ Học Lãm với chúng ta, ông Hồ Học Lãm cũng đã cho một bài học đích đáng. Ông nói: Anh [9] với tôi qua Trung Quốc đã hơn bốn mươi năm mà chưa làm được một việc gì cho dân tộc. Nay chúng ta đã già rồi, phải để cho anh em thanh niên họ làm, chính họ mới là những người có năng lực làm nên sự nghiệp. Hiện nay Trung Quốc muốn đưa chúng ta ra chẳng qua là để cho họ lợi dụng là thôi, chứ thực ra thì chúng ta cũng không thể làm được gì nếu không có lực lượng của anh em trong nước.

Tôi khuyên anh cứ ra làm việc tử tế, đừng nên kèn cựa với anh em. Nguyễn Hải Thần nghe nói, không thích thú lắm, nhưng suy tính lợi hại, thì có chân ở Việt Minh lợi hơn, nên khi ở Quế Lâm, cũng như sau này về Tịnh Tây, về danh nghĩa, ông ta vẫn tự nhận là người Việt Minh [10] .

Trong thời gian hoạt động ở Quế Lâm, nhờ có sự chỉ đạo trực tiếp của Bác, có tiếng nói và thái độ đúng đắn của ông Hồ Học Lãm, có sự ủng hộ tích cực của những người tiến bộ Trung Quốc, chúng ta đã giành được sự giúp đỡ nhất định của Lý Tề Thâm và đã có một địa vị hợp pháp rõ rệt.



*


Sau khi chúng tôi bỏ Liễu Châu đi Quế Lâm thì Trương Bội Công đưa cả đội ngũ về Tịnh Tây, một huyện của Trung Quốc gần biên giới Cao Bằng. Trương Trung Phụng, người trong đội của Trương Bội Công nhưng có cảm tình với cách mạng, gửi thư đến Quế Lâm cho chúng tôi, nói cán bộ trong nước chạy ra rất nhiều, các anh nên về gấp. Được tin ấy, Bác liền chỉ định các anh Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh và Cao Hồng Lĩnh đi về Tịnh Tây trước để bắt liên lạc với đám cán bộ đó, đồng thời vận động Trương Bội Công đánh điện lên Quế Lâm mời Biện sự xứ Việt Minh phái người về Tịnh Tây để bàn tính công việc.

Được điện mời của Trương Bội Công, Bác và chúng tôi xếp đặt về Tịnh Tây ngay. Lần này ra đi có vẻ đường hoàng vì Lý Tề Thâm đã tặng tám trăm bạc làm lộ phí và cấp giấy chứng minh thư đi đường với danh nghĩa “Hoa Nam công tác đoàn”, đóng dấu có hai chữ “Trung chính” [11] đỏ lòe và to tướng. Bác và tất cả chúng tôi kéo về Liễu Châu gặp các đồng chí Cáp, Lộc, Trình, Hiền,…từ Côn Minh đến đương chờ ở đó, rồi cùng nhau đường hoàng đi xe công cộng về Nam Ninh. Đến Nam Ninh ở độ hai ngày, rồi thuê thuyền đi Điền Đông. Trong khi đi thuyền, vì còn bí mật với một số đồng chí, nên Bác đóng vai một ký giả Trung Quốc, thường nói chuyện với chúng tôi bằng tiếng Trung Quốc, khi nói về thời sự phức tạp thì nói bằng tiếng Pháp do anh Phạm Văn Đồng dịch. Đi thuyền độ bảy ngày thì đi Điền Đông, các anh Đồng, Lộc Trình và Hiền đi xe công cộng về Tịnh Tây trước, còn Bác, anh Phùng Chí Kiên, anh Cáp và tôi thì ở lại Thiên Bảo để chờ tin tức từ phía biên giới đến. Sau một hôm, anh Vũ Anh cưỡi xe đạp đến Thiên Bảo gặp Bác, báo cáo mọi việc chuẩn bị đã xong xuôi. Ngày thứ ba, Bác và chúng tôi đi bộ, ăn cơm trưa ở Túc Vinh [12] rồi tiếp tục đi, độ tám giờ tối đến Tân Khư, một phố nhỏ ở dọc đường, cách Tịnh Tây khoảng mười cây số, thì đã thấy các anh Vũ Anh và Hoàng Sâm chờ sẵn ở đấy. Bác và chúng tôi được xếp đặt ở trong một nhà quần chúng ngay trong phố Tân Khư.



*


Bác sở dĩ đến Tân Khư là cốt để chờ sự liên lạc của các đồng chí ở Tịnh Tây và trong nước.

Thời gian này, Bác và chúng tôi thường hẹn anh Đồng, anh Giáp đến gặp ở một chỗ khoảng giữa đường Tân Khư- Tịnh Tây để nghe phản ánh tình hình: Các anh em ở Liễu Châu về đã xếp đặt ổn. Số anh em bốn mươi ba người [13] từ Cao Bằng chạy ra, Trương Bội Công đã tập hợp lại tổ chức thành một đơn vị huấn luyện do Trương Trung Phụng phụ trách, nhưng thấy cách đối xử và huấn luyện quân sự theo kiểu phát-xít, nên anh em đã có ý định bỏ Trương Bội Công, chỉ còn nấn ná chờ cơ hội.

Một buổi chiều, Bác, anh Phùng Chí Kiên, anh Cáp và tôi ăn cơm chiều xong, đang đi bách bộ ở ngoài đường, thì gặp hội anh Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm đi từ Tịnh Tây đến, nói tình hình nghiêm trọng, không thể ở chỗ Trương Bội Công nữa, đã thu xếp cho anh em ngày mai chạy về biên giới, còn chúng tôi thì đến Pà Mông sẽ đi đường vòng hội hợp với anh em ở Cột Mà. Bác chỉ hỏi qua loa mấy câu, rồi để cho hai anh cứ đi. Còn Bác và chúng tôi thì vừa đi bách bộ vừa trao đổi ý kiến, thấy như vậy là không ổn, Bác bảo tôi và anh Cáp đi ngay Pà Mông gọi các anh Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm về hỏi lại cặn kẽ để xếp đặt cho kịp thời và thỏa đáng. Chúng tôi lập tức đi ngay, khoảng mười giờ tối đến Pà Mông, nửa đêm mới trở về đến Tân Khư. Bác giải thích cho anh Lê Quảng Ba biết rằng trong lúc này Quốc dân đảng Trung Quốc và Trương Bội Công đang hết sức cần đến người Việt Nam, nên họ không bắt và làm hại anh em đâu. Cứ về Tịnh Tây tổ chức cho anh em đi đường hoàng, nói là về nước vận động quần chúng, sau khi đi trót lọt rồi sẽ viết thư cho Trương Phát Khuê phê phán Trương Bội Công và nói rõ lý do về nước của anh em. Như vậy, họ không thể cho mình là chạy trốn, và sau này Trương Bội Công cũng mất điều kiện để lợi dụng cách mạng.

Nguyên vùng Tịnh Tây, Bình Mãnh trong những năm Trung Quốc chống Nhật đã trở thành một bộ phận quan trọng của khu du kích Quảng Tây. Một số đồng chí chúng ta như Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm một mặt tham gia du kích với quần chúng Trung Quốc, một mặt phát triển lực lượng cách mạng ở các vùng gần biên giới trong tỉnh Cao Bằng. Đến khi trong nước bị Pháp khủng bố, các đồng chí phải đưa một số cán bộ chạy ra ngoài tạm thời nương náu ở chỗ Trương Bội Công. Bỗng được tin đương cục Trung Quốc có lệnh cho lùng bắt, anh em sợ ở đó không đảm bảo nên mới đột ngột bỏ chạy. Đó là một cách xử lý thiếu sự trông thấy toàn diện mà Bác đã vạch ra và uốn nắn lại.

Sau khi được ý kiến của Bác, anh Hoàng Sâm ở lại Tân Khư với chúng tôi, còn anh Lê Quảng Ba thì trở lại Tịnh Tây xếp đặt đưa anh em đi một cách công khai về Cột Mà, rồi phân tán rải rác xung quanh đó. Lúc ra đi, Trương Trung Phụng còn tỏ vẻ quyến luyến hẹn anh em sau này lại gặp nhau.

Việc 43 anh em rời Tịnh Tây đã tiến hành được trót lọt, Bác bảo tôi thảo một bức thư bằng chữ Trung Quốc để anh em gửi cho Trương Phát Khuê. Thảo xong đưa Bác xem, Bác sửa lại mấy chỗ, tôi thấy sửa như thế ý vẫn đúng nhưng văn pháp không đúng, nên có ý thắc mắc hỏi lại. Bác trả lời: Chú chỉ biết viết thư là viết thư, chứ chưa biết chính trị. Người Việt Nam ở vùng dân tộc viết chữ Trung Quốc thế nào mà đúng văn pháp được. Viết sai như vậy họ mới tin là anh em viết. Có thể nói cái thư này hay ở chỗ viết dốt, nếu như viết đúng văn pháp lại là không hay. Việc tuy nhỏ nhưng đối với tôi là một bài học sâu sắc về công tác quần chúng và công tác thực tế.

Từ đó, tôi và anh Hoàng Sâm cứ thường đi lại vùng Pà Mông để củng cố và phát triển công tác quần chúng, vì quần chúng ở đây là những người có cảm tình với du kích, với đường lối của Đảng Cộng sản Trung Quốc và có cảm tình với cách mạng Việt Nam. Chính ở đây, cuối năm 1942, khi Bác còn ở trong nước ra đã lấy một người quần chúng đi dẫn đường, rồi người đó cùng bị bắt một lúc với Bác và bị giam chết ở nhà giam Liễu Châu.

Cuối năm 1940, đầu năm 1941, anh Bùi Đức Minh đưa đồng chí Hoàng Văn Thụ từ trong nước đến Tân Khư gặp Bác để báo cáo tình hình trong nước và tình hình chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ tám.

Sau đó ít lâu, cơ sở biên giới đã được chuẩn bị xong, Bác và các anh Phùng Chí Kiên, Đặng Văn Cáp, Hoàng Sâm chuẩn bị về nước; còn tôi, theo chỉ thị của Bác, đi Long Châu để liên lạc và xây dựng cơ sở ở đấy.



--------------------------------------------------------------------------------
[1]cách Trường Sa độ một trăm cây số
[2]đồng chí bị bắt ở Hương Cảng năm 1938, bị trục xuất qua Sơn Đầu, ở đó huấn luyện dân quân du kích một thời gian rồi về Côn Minh
[3]một đồng chí trong Chi bộ Vân – Quí đã về nước công tác từ trước
[4]cách trung tâm Liễu Châu mấy cây số
[5]Về tình hình Trương Bội Công sau này còn có chỗ nói rõ thêm
[6]Phạm Văn Đồng
[7]Võ Nguyên Giáp
[8]Lý sự ủy viên hội
[9]chỉ Nguyễn Hải Thần
[10]việc này sẽ còn nói thêm ở các phần sau
[11]dấu hành chính của Tưởng Giới Thạch
[12]chỗ sau này Bác bị bắt
[13]trong đó có anh Lê Quảng B


Nguồn: Nhà xuất bản Tin Việt Nam, tháng 7.1986. Bản điện tử do talawas thực hiện.

No comments: